Showing posts with label Phan Tấn Hải. Show all posts
Showing posts with label Phan Tấn Hải. Show all posts

Saturday, July 28, 2018

Nhật Bản và Tín Ngưỡng Quan Âm

Nhật Bản và Tín Ngưỡng Quan Âm
Nguyên Giác

Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, còn gọi là Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, có khi còn gọi là Đức Phật Quan Âm, được Phật tử nhiều quốc gia Châu Á thờ phượng vì hạnh nguyện hóa hiện nhiều thân tướng để cứu độ chúng sanh. Riêng đối với Nhật Bản, nơi nhiều tông phái Tịnh Độ thịnh hành, hình tượng Đức Quan Âm hiện diện trong rất nhiều chùa, trong các tuyến hành hương, và trong văn học. Bạn chỉ cần đi vào bất kỳ ngôi chùa nào tại Nhật Bản, nhiều phần là bạn sẽ gặp tượng Đức Quan Âm, hoặc là nghìn tay nghìn mắt gọi là Senju Kannon (Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm), hoặc là một hóa thân của ngài là tượng Đức Chuẩn Đề 18 tay, nhưng thường gặp nhất là tượng Quan Âm Nam Hải trong bộ áo trắng.
Chúng ta có thể đọc trong thơ của Basho (1644-1694) hình ảnh nhà thơ đứng nơi gác chuông Chùa Kannon (Quan Âm Tự) nhìn xuống núi, thấy mái ngói chùa trôi nổi trong các chùm mây hoa anh đào:
Mái ngói Chùa Quan Âm
trôi dạt xa trong mây
của các chùm hoa anh đào.
.
Hay là thơ của thi sĩ Taigu Ryokan (1758-1831):
Gió đã lặng rồi
nhưng hoa vẫn còn rơi
chim hát, tịch lặng trong mỗi lời chim.
Huyền nhiệm! Không có thể biết, không có thể học
Đức hạnh Ngài Quan Âm.
.
Tín ngưỡng Quan Âm gắn liền với văn học Nhật Bản, y hệt như tại Việt Nam hay Trung Hoa. Nhưng cũng gắn liền với khoa học kỹ thuật: chiếc máy ảnh hiệu Canon nổi tiếng thế giới, chiếc đầu tiên ra năm 1934 đặt tên là máy ảnh Kwanon (tức là: Quan Âm) – kiểu đầu tiên này là loại máy ảnh 35 mm đầu tiên của Nhật Bản. Tuy nhiên, sau khi ra thị trường Tây Phương, công ty đổi tên vì khó đọc chính xác, và khó viết cho đúng chánh tả, nên công ty Precision Optical Industry Co. Ltd. đổi tên là Precision Optical Industry Co. Ltd. năm 1934, và rồi đổi thành Canon Inc. năm 1969. Tên máy ảnh Canon là phát âm gọn của người Nhật Bản cho chữ Kannon (Quan Âm).
H1: Huy hiệu cũ của máy ảnh tiền thân của Canon (Quan Âm).

    Không chỉ văn học và khoa học kỹ thuật, hình ảnh Quan Âm in đậm trong tín ngưỡng  của dân Nhật Bản. Từ nhiều thế kỷ, Phật tử Nhật Bản có niềm tin rằng cần phải hoàn tất cuộc Hành Hương 100 Chùa Quan Âm – tiếng Nhật là Nihon Hyaku Kannon, tiếng Anh là “The  Japan 100 Kannon Pilgrimage.”

Tuyến hành hương 100 chùa đó chia làm ba tuyến đường độc lập nhau: tuyến Saigoku 33 Kannon, trong vùng Kansai, gồm 33 chùa; tuyến Bandō 33 Kannon, trong vùng Kantō, gồm 33 chùa; tuyến Chichibu 34 Kannon trong vùng Chichibu, Saitama, tuyến này ban đầu  chỉ 33 chùa, nhưng năm 1525 được xây thêm một ngôi chùa cho tròn 100 ngôi chùa để hành hương.
Tại sao con số 33 được ưa chuộng trong tín ngưỡng Quan Âm? Bởi vì trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (The Lotus Sutra), ghi rằng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giải thích cho Vô Tận Ý Bồ Tát về ý nghĩa của danh hiệu Quán Thế Âm là do vị Bồ tát này khi nghe âm thanh của chúng sanh xưng danh hiệu mình thì tức thời tầm thanh để cứu khổ. Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sanh bị các khổ não nghe đến danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, một lòng xưng danh Ngài thì ngay khi đó, Bồ Tát Quán Thế Âm tức thì quán sát âm thanh ấy, khiến cho họ đều được giải thoát. Và ngài hiện ra 33 ứng hóa thân, cũng là vô lượng thân trong sáu cõi để cứu độ.
Những gì chúng ta đọc trong sách sẽ khác với những gì chúng ta có thể thấy ở Nhật Bản. Và ngay cả chùa Nhật Bản cũng không giống gì với chùa Việt Nam. Một điểm dị biệt lớn là, trong khuôn viên Chùa Nhật Bản thường có một khu vực riêng để làm một ngôi đền Thần Đạo.
Trong chuyến đi thăm Nhật Bản trong tháng 4/2018, ngôi chùa đầu tiên tôi được dẫn tới thăm là Kiyomizu-dera Temple, tức là Thanh Thủy Tự, thời Đức Quan Thế Âm trên đồi Âm Vũ Sơn.
H2: Chùa Thanh Thủy Tự (Kiyomizu-dera) ở núi Âm Vũ Sơn, Kyoto.

H3: Ba dòng nước từ núi dẫn xuống, sau Chùa Thanh Thủy Tự.

H4: Cả thị trấn từ chân núi lên Thanh Thủy Tự nhìn đâu cũng thấy du khách chen nhau.

Người hướng dẫn đoàn du lịch từ Quận Cam (California) là anh Trần Nguyên Thắng, Giám đốc ATNT Travel & Tours (
www.atnttour.com). Cùng học với tôi từ thơ ấu, năm 1970 bạn Thắng có Tú Tài 2 xong là sang Nhật Bản du học, trở thành kỹ sư và làm việc với hãng Nhật hơn hai thập niên, sau đó mở công ty hướng dẫn du lịch trụ sở ở Quận Cam. Do có người hướng dẫn như vậy, kiến thức của bạn Thắng về lịch sử, văn hóa và xã hội Nhật Bản gần như toàn bích. Những bản văn trên các bia đá được Thắng dịch và giải thích bằng tiếng Việt rất rành mạch.
Thanh Thủy là nước trong. Kiyomizu-dera là một ngôi chùa độc lập ở phía đông Kyoto, là một phần của Di sản văn hóa cố đô Kyoto theo UNESCO. Theo lược sử trong tờ bích chương tiếng Anh của chùa, cho biết chùa này xây từ năm 778. Nguyên khởi vì nhà sư tên là Enchin có một giấc mơ về một dòng sông vàng chảy từ ngọn núi Otowa phía trên Kyoto. Khi thức giấc, nhà sư lên thăm ngọn núi đó, gặp một ông cụ đúng nơi thấy trong giấc mơ. Ông cụ Gyoei nói với nhà sư Enchin rằng ông cụ ở đó đã 200 năm, hàng ngày cầu nguyện Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Ông cụ Gyoei xin nhà sư Enchin vào thay chỗ, để ông cụ có thể ra đi hành hương và nói hy vọng sẽ quay lại. Trước khi ra đi, ông cụ chỉ vào một thân gỗ đã chặt, nói đó là gỗ tốt, nếu nhà sư muốn tạc tượng Đức Quan Âm.
Ông cụ Gyoei không bao giờ quay lại. Nhà sư Enchin mới đi tìm ông cụ, và chị thấy đôi giày ông cụ để nơi đỉnh núi. Nhà sư tin rằng ông cụ là một hóa thân của Đức Quan Thế Âm, nên cho dùng thân gỗ đã nói để tạc tượng Đức Quan Âm. Nhưng nhà sư Enchin loay hoay hoài, không tạc tượng được, suốt 20 năm. Lúc đó, có một lãnh tụ chiến binh (thời đó gọi là samurai) tên là Tamuramaro cảm ngộ ơn đức của nhà sư, nên bảo trợ việc xây chùa, cho gỡ toàn bộ căn nhà riêng của quan chức này và xây lại trên núi làm chùa cho nhà sư Enchin hoàn tất việc tạc tượng Đức Quan Âm.
Anh Trần Nguyên Thắng kể sự tích có hơi khác với sách hướng dẫn trên, nói rằng thời đó, phu nhân của lãnh tụ samurai kia bị sản nạn, sinh khó, cho nên vị tướng quân này mới chạy lên xin nhà sư Enchin cầu nguyện giúp. Nhà sư nói rằng nơi ngọn núi có 3 dòng nước nhỏ, và tướng quân nên hứng nước về cho phu nhân uống, trong khi nhà sư tụng kinh cầu nguyện. Cuối cùng mẹ tròn con vuông, tướng quân mới bảo trợ tất cả việc xây chùa thờ Đức Quan Thế Âm, và ngôi chùa này có tên là Thanh Thủy Tự, tức là nước trong tinh khiết.
Ngôi chùa bị cháy nhiều lần, và rồi được xây lại nhiều lần. Trong các quan chức giúp xây lại có Toyotomi Hideyoshi, vị tướng quân có công dẹp nạn sứ quân và thống nhất Nhật Bản vào thế kỷ thứ 16. Nhưng kiến trúc như hiện nay là xây hoàn tất năm 1633, với bảo trợ của Tokugawa Iemitsu, vị tướng quân đời thứ 3.
Có tin hay không là một chuyện, nhưng du khách tới là xếp hàng một tới 3 dòng nước được dẫn qua ống tre từ núi chảy xuống. Bạn Trần Nguyên Thắng hướng dẫn cách dùng gáo nước, sau khi múc nước từ từng dòng, đổ ra bàn tay và uống một chút, cầu nguyện hay không thì tùy, rồi đưa gáo nước vào dãy làm sạch vi trùng bằng tia sáng cực tím. Theo người Nhật tin tưởng, uống nước từ ba mạch nước này sẽ giúp thực hiện điều nguyện ước, ngoài ra còn sẽ trường thọ, khỏe mạnh và thành công trong việc học hay kinh doanh.
Đặc biệt trong khuôn viên Thanh Thủy Tự có một đền thờ của Thần đạo. Đền thờ này là đền Jishu (Jishu jinja) thờ Okuninushi - thần của tình yêu và đôi lứa. Bạn Trần Nguyên Thắng nói, dân Nhật gọi đền này là Đền Cầu Duyên, nghĩa là người cô đơn sẽ về gặp tình yêu thuận lợi. Nơi sân đền là hai tảng đá ngầm, nhô lên mặt đất một phần, cách nhau 18 mét: nếu người cầu duyên nhắm mắt, bước đi  từ tảng đá này sang đặt chân đúng lên tảng đá kia, thế nào cũng sẽ gặp mối lương duyên tốt đẹp.
Dĩ nhiên, chùa Kiyomizu-dera và đền cũng có những lá bùa khác nhau, có xin xăm. Nếu gặp xăm tốt, bạn sẽ cầm về nhà, chờ điều tốt lành tới. Nếu gặp lá xăm  xui xẻo, dân Nhật sẽ buộc lá xăm xui xẻo đó vào một nơi trước sân đền Thần Đạo, để mọi chuyện xui xẻo cho Đức Phật và chư Thần gánh chịu, hóa giải.
Ngôi chùa Thanh Thủy Tự thu hút đông du khách, do vậy cả thị trấn có đủ thứ kinh doanh trên lối đi từ chân núi lên chùa: tiệm ăn, tiệm kỷ vậy, tiệm cho thuê trang phục kimono để du khách chụp hình, tiệm bánh có đủ loại bánh đặc sản, tiệm trà, và vân vân. Nghĩa là, một ngôi chùa có thể nuôi sống cả một thị trấn.
Trong chuyến đi, đoàn du khách do ATNT hướng dẫn cũng tới thăm Công Viên Hòa Bình Heiwa-koen. Ngôi kiến trúc chính của công viên là Tứ Động Tâm, trên kiến trúc khắc 4 bức phù  điêu kể lại 4 hình ảnh thiêng liêng của Đức Phật: Khi Đức Phật đản sanh ở Lumbini (Lâm Tì Ni), khi Đức Phật thành đạo ở Bodhgaya (Bồ Ðề Ðạo Tràng), khi Đức Phật chuyển pháp luân-thuyết pháp lần đầu tiên cho năm anh em Kiều Trần Như ở vườn Sarnath (Lộc Uyển), và khi Đức Phật nhập Niết bàn ở Kusinara (Câu Thi Na).
Nơi đây đi vòng phía sau kiến trúc Tứ Động Tâm dẫn xuống một lối đi bộ hành ven rừng, dọc lối đi là 33 pho tượng Đức Phật Quan Âm, tượng trưng 33 ứng hóa thân để cứu độ chúng sinh. Mỗi pho tượng Đức Quan Thế Âm đứng hay ngồi theo những tư thế khác nhau, tùy hóa thân vào các cõi khác nhau.  Khi đứng trong công viên, có thể nhìn thấy phía xa là ánh mặt trời chiếu lên núi Phú Sĩ.
Kiến trúc tháp Tứ Động Tâm nơi Công viên Hòa Bình trên là do một chi nhánh của Nhật Liên Tông xây lên. Một trụ khổng lồ giữa sân trước, có khắc chữ Nhật đọc sang tiếng Việt là “Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh.”
H5: Nhóm du khách đi tour với ATNT chụp hình lưu niệm ở lối đi ven rừng Công Viên Hòa Bình có 33 tượng Phật Quan Âm.
H6: Ngôi chùa cổ nhất Tokyo, nổi tiếng Đức Quan Âm linh thiêng, với 30 triệu du khách/năm.


H7: Du khách chen nhau tại khu phổ tới ngôi chùa cổ nhất Tokyo mua sắm tưng bừng.







Trong khi đó, Tokyo có một ngôi chùa nổi tiếng linh thiêng khác là Chùa Quan Âm Asakusa. Nguyên cả một khu vực quanh chùa là thị tứ, bán đủ thứ, trong đó chùa chỉ là một phần nằm trong một góc Tokyo, nhưng chùa Phật Quan Âm Thiên Thủ (Senso-ji) này nổi tiếng cầu xin là được, theo niềm tin dân Nhật Bản.  Gọi như thế là cho tiện, thực ra theo Wikipedia, chùa có tên là Kinryū-zan Sensō-ji, dịch ra tiếng Việt là Thanh Long Sơn Thiên Thảo Tự. Chùa nằm trong khu phố cổ Tokyo. Đây là ngôi chùa cổ nhất tại Tokyo, mang nhiều lịch sử nhất. Kế bên chùa 5 tầng lầu là một ngôi đền Thần Đạo, trong khu chung quanh là cả một vùng phố thị buôn bán đủ thứ, trong đó du khách tới viếng Chùa Thiên Thủ trung bình mỗi năm là 30 triệu người, cả du khách trong và ngoài nước tới. Đây là một trong 10 chùa Nhật Bản đông du khách nhất.
Hãy hình dung một ngôi chùa nào ở Sài Gòn hay Hà Nội thu hút 30 triệu du khách một năm. Thí dụ, Chùa Vĩnh Nghiêm ở Quận 3, Sài Gòn nếu thu hút số lượng du khách đông như thế, nghĩa là cả một quận 3 sẽ sống thuần nhờ ngành du lịch. Niềm tin linh thiêng đã thu hút người tới để cầu xin.
Ngôi chùa đó xây riêng cho việc thờ phượng Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Theo truyền thuyết, một pho tượng Đức Quan Thế Âm được tìm thấy trên sông Sumida trong năm 628 bởi hai ngư dân, anh em Hinokuma Hamanari và Hinokuma Takenari. Trưởng làng, là ông Hajino Nakamoto, đã công nhận sự thiêng liêng của bức tượng và ông đã tu sửa ngôi nhà của mình thành một ngôi chùa nhỏ ở Asakusa, để người dân có thể thờ phượng Đức Quan Thế Âm. Ngôi chùa được xây dựng vào năm 645, và là ngôi chùa cổ nhất Tokyo. Trong những năm đầu của Mạc phủ Tokugawa, Tướng quân Tokugawa Ieyasu xem chùa này như đền thờ hộ mệnh của gia tộc Tokugawa.
Tự Điển Bách Khoa Mở ghi rằng một chiếc lồng đèn giấy lớn được treo dưới cổng Kaminari-mon ở lối đi chính dẫn vào khuôn viên của chùa. Đi qua cổng là con đường thẳng dẫn về phía bắc đến cổng Hozo-mon và điện Kannon-do (Quan Âm Đường). Con đường nằm ở hai cổng dài khoảng 250 mét, ngang qua phố Nakamise. Ở đây có các cửa hàng nhỏ san sát nhau, bán đủ mọi thứ, từ đồ lưu niệm đến những bánh bao manju và những con búp bê. Những chiếc quạt đầy màu sắc (có cả hai kiểu xếp được và không xếp được), ô dù và những chiếc lồng đèn, những chiếc áo happi, băng trò chơi điện tử…
Nếu bạn đang cư ngụ tại Nam California, và nếu bạn theo dõi băng tần truyền hình NHK của chính phủ Nhật Bản, trên làn sóng này vẫn thường chiếu hình ảnh về nhiều lễ hội  tại khu phố Asakusa của Tokyo – trong đó có nhiều lễ hội quanh năm, có lẽ là để thu hút du khách, nhưng nổi tiếng nhất là Sanja Matsuri, còn có tên là Sanja Festival vào tháng 5 hàng năm, trong đó các ngai thờ và các xe hoa được đưa tuần hành khắp trên đường phố trong ba ngày lễ hội, thường có  khoảng 1.5 triệu người tham dự lễ hội tưng bừng.
Đó là chỉ mới nói về tín ngưỡng Quan Âm trong chuyến đi Nhật Bản. Chuyến đi cũng ghé thăm nhiều ngôi chùa khác, nhưng không thờ riêng về Đức Quan Thế Âm Bồ Tát như các ngôi chùa kể trên. Mỗi ngôi chùa đều có những huyền thoại từ cả chục thế kỷ trước, có những niềm tin linh thiêng riêng. Thí dụ, như Thiên Long Tự (Tenryu-ji) ở chân núi Aashiyama, được bạn Trần Nguyên Thắng giải thích là tổ đình Thiền Phái Lâm Tế, nơi tấm tranh vẽ khổng lồ Bồ Đề Đạt Ma đặt ngay lối vào chánh điện. Hay ngôi chùa Todai-ji (Đông Đại Tự) thờ Đức Phật Tỳ Lô Giá Na của dòng Chân Ngôn Tông, nơi khuôn viên là cả trăm con nai hiền lành đi chen với người. Và một số ngôi chùa khác, không chuy6n biệt thờ Đức Quan Âm.
Nhật Bản là đất nước nhìn đâu cũng thấy hình ảnh đẹp, thơ mộng, sạch, tử tế… Cũng xin gửi lời cảm ơn người hướng dẫn Trần Nguyên Thắng, đã dịch các văn bia tiếng Nhật ra tiếng Việt rất cặn kẽ để giúp các thông tin đặc biệt cho bài viết này.


Monday, June 25, 2018

Chùa Vắng Trong Đặc Khu

Chùa Vắng Trong Đặc Khu
Nguyên Giác 

Đặc khu Xishuangbanna Dai Autonomous Prefecture gần biên giới Lào, Burma và Việt Nam của Trung Quốc. Photo: China Plus

Chùa vắng, là nói chùa không có tăng sĩ. Đặc khu là nói về Xishuangbanna Dai Autonomous Prefecture ở vùng cực nam tỉnh Vân Nam, Trung Quốc.
Có thể phiên âm Xishuangbanna là Tây Song Bản Nạp, và Dai là chỉ về sắc tộc Thái. Prefecture là đơn vị hành chánh được cai trị theo quy chế đặc biệt, nằm dưới cấp tỉnh, nhưng bao gồm nhiều huyện. Chữ Autonomous có nghĩa là tự trị, nhưng không có nghĩa tự trị theo nghĩa quốc tế, mà chỉ có nghĩa là cán bộ lãnh đạo đặc khu tự trị có toàn quyền hành động rồi báo cáo về thiên triều Bắc Kinh sau - kiểu tiền trảm hậu tấu. Bởi vì, đặc khu luôn luôn là nơi phức tạp.
Trung Quốc có một vài đặc khu để cai trị theo quy chế đặc biệt, thường là ở biên giới, nơi có hơn 50% sắc dân thiểu số. Báo chí thế giới gần đây chú ý tới một số biến động ở các đặc khu Tây Tạng – như Ganzi Tibetan Autonomous Prefecture ở tỉnh Sichuan (Tứ Xuyên), Diqing Tibetan Autonomous Prefecture ở tây bắc tỉnh Yunnan (Vân Nam) – và các đặc khu ở tỉnh Xinjiang (Tân Cương).
Tuy nhiên, Đặc khu Tây Song Bản Nạp lại rất mực bình yên, nơi phẳng lặng không gợn sóng, và là nơi đại đa số dân tu theo Phật Giáo Theravada.
Trung Quốc là nơi có nhiều tông phái Phật giáo, trước kia và cả bây giờ. Câu hỏi có thể nêu lên rằng, hệ phái Phật giáo nào tại TQ thường bị chính phủ Bắc Kinh bỏ quên nhất? Câu trả lời: Phật giáo Thượng tọa bộ, còn gọi là PG Nam Tông, còn gọi là Theravada ở Trung Quốc.
Thậm chí, đối với nhiều người quan sát tin tức trên thế giới, Phật giáo TQ thường được nhắc tới là Bắc Tông và PG Tây Tạng. Không có bao nhiêu bản tin nói về hệ phái PG Nam Tông TQ.  Một phần, vì họ là thiểu số, nhưng phần lớn vì khu vực họ tập trung rất êm ả, không có nhiều biến động để các nhà báo quốc tế chú ý. Có một lý do nữa: có thể vì đa số họ thuộc sắc tộc thiểu số ở phía nam, và tinh thần Đại Hán của các quan chức Bắc Kinh dễ dàng bỏ quên họ. Một thời, dân tộc Đại Hán đã chinh phục miền Nam tỉnh Vân Nam từ nhiều thế kỷ trước, đã trấn áp khốc liệt nhiều cuộc nổi dậy của các sắc tộc địa phương, và bây giờ các nhóm sắc tộc khu vực này không còn sức nào để đối kháng hay đòi ly khai, tuy rằng văn hóa rất mực dị biệt.
Bái viết nơi đây dựa vào nhiều nguồn, trong đó phần chính dựa vào bài “Theravada Buddhism and Dai Identity in Jinghong, Xishuangbanna” (PG Nam Tông và Căn Cước Người Thái ở thị trấn Jinghong, Xishuangbanna) của GS James Granderson trên khóa mùa Xuân 2015 của SIT Study Abroad, và bài “The Soft Power Limits of Chinese Theravada Buddhism” (Hạn Chế Quyền Lực Mềm của PG Nam Tông TQ) của học giả Zi Yang trên tạp chí The Diplomat ngày 15/8/2017.
Nói một lời ngắn gọn là: PG Nam Tông TQ không là cái gì trong mắt triều đình Bắc Kinh.
Trong nhiều thế kỷ, Vân Nam là cửa ngõ của TQ để vào Đông Nam Á. PG Nam Tông tiến vào tỉnh Vân Nam từ thế kỷ thứ 7, xuyên qua Miến Điện và ảnh hưởng sâu đậm trong các sắc dân Dai, Blang, và Palaung trong khu vực này.
Dân tộc Dai, dịch ra tiếng Việt là người Thái. Sắc tộc Thái là một trong các sắc dân chính trong Khu Tự Trị Xishuangbanna Dai (người Thái Tây Song Bản Nạp). Sắc tộc Thái cũng sống rải rác  ở Lào, Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện. Dân tộc Palaung dịch ra tiếng Việt là Đức Ngang hay Băng Long. Dân tộc Blang, dịch ra tiếng Việt là Bố Lãng. Tổ chức truyền giáo Asia Harvest USA của Tin Lành  Hoa Kỳ đưa ra cuộc nghiên cứu nói rằng người Blang và các dân tộc khu vực này phần lớn, có thể là 80%, theo PG Nam Tông, đôi khi cùng lúc thờ tổ tiên và vật tổ. Tuy nhiên, GS Granderson cho biết tỷ lệ Phật tử phải đông hơn nhiều, ít nhất là với sắc dân Thái, có lẽ đại đa số theo PG Nam Tông, vì đi đâu trong đặc khu cũng nhìn thấy người dân có xâm chữ trong Kinh Phật trên cổ, vai, lưng bàn tay, cổ tay, cánh tay.…
Phật Giáo Nam Tông tại Trung Quốc như thế chỉ ảnh hưởng khu vực biên giới gần Miến Điện và Lào. Nhiều thập niên trước, PG Nam Tông tại Trung Quốc cũng bị thiệt hại lớn trong thời kỳ đầu chủ nghĩa CS với cớ chống phong kiến, đập phá chùa chiền, bắt nhiều vị sư hoàn tục, trong khi sinh hoạt nghi lễ PG bị cấm. Khởi đầu đàn áp là cuối thập niên 1950s, nhưng cao điểm là Cách Mạng Văn Hóa, lúc đó nhiều kinh văn trên lá cũng bị đốt, chùa tháp điêu tàn trong toàn bộ khu  vực PG Nam Tông tại Hoa Lục này. Ngôi chùa có tên The Xishuangbanna General Buddhist Temple, là ngôi chùa Nam Tông lớn nhất tại TQ xây từ thế kỷ thứ 8 lúc đó bị xóa sổ hoàn toàn, sau đó xây lại theo kiến trúc Thái Lan.
Và rồi sau Cách Mạng Văn Hóa, chùa mới cho xây lại, nhưng sự hồi phục của các sinh hoạt tôn giáo rất chậm. Chính thức, nhiều ngôi chùa được phép xây lại, nhưng chính quyền địa phương từ chối trả lại một số khu đất các ngôi chùa bị tịch thu thời Mao. Việc học Phật cũng chậm rãi, phần vì các cán bộ quan sát, nghi ngờ, phần vì kinh sách khu vực này viết bằng ngôn ngữ Cổ Thái (Old Dai language), kết hợp chữ Thái cổ thời pha trộn chữ Pali – nghĩa là, những gì các cán bộ không hiểu, vì cán bộ từ thế giới rất khác của tiếng Hán.
Nhưng chữ Cổ Thái cũng chính là căn cước Phật giáo Nam Tông, là tự hào về nền văn minh cổ thời của dân trong Đặc Khu Xishuangbanna.
Trên đường phố Jinghong, thậm chí ngay trên khu vực làng mạc êm ắng ở Manzhang, dễ dàng nhìn thấy ảnh hưởng Phật Giáo Nam Tông trên làn da cư dân: nhiều người, già lẫn trẻ, nam lẫn nữ, xâm trên da từ cồ trở xuống các câu kinh Phật bằng ngôn ngữ hình tượng của họ. Người thường có khi không hiểu hết các câu kinh Phật đó trên da họ, hiểu tận tường chỉ là các vị sư trong Xishuangbanna và dọc biên giới Thái Lan và Miến Điện.
Phật giáo Nam Tông tại TQ đang gặp nan đề là thiếu tăng sĩ. Trung bình tại Vân Nam, cứ hai ngôi chùa PG Nam Tông chỉ có một nhà sư. Vì thiếu tăng sĩ, nhiều chùa phải đóng cửa, chỉ trừ trong các ngày lễ lớn của Phật giáo. Hiện nay thống kê cho thấy 18.8% các ngôi chùa trong khu vực Xishuangbanna Prefecture là “chùa trống” (nghĩa là, chùa không có tăng sĩ ở trong). Tại các thị trấn Pu’er và Lincang, tỷ lệ chùa trống là 40%. Trong khi đó, tại Dehong Prefecture, tỷ lệ chùa trống là 90.1%, và tại Mang City, 98.2%.
Hãy hình dung tới con số 90% chùa không có sư, và hãy hình dung tới 98.2% chùa không có sư.
Các vị sư ngoại quốc từ Miến Điện và Lào thường được mời sang các chùa Vân Nam để làm các nghi lễ hay thuyết giảng. Tuy nhiên, chính phủ nhìn họ bằng cặp mắt không tin tưởng, bởi vì họ không được tin cậy về chính trị, không hiểu gì và cũng không ca ngợi gì về chính sách nhà nước TQ về xã hội chủ nghĩa, về thống nhất quốc gia và về hòa hợp sắc tộc.
Bên cạnh yếu tố chính trị và thiếu tăng sĩ, nan đề với PG Nam Tông ở TQ còn là thiếu ngân sách và thiếu Phật học viện. Mỗi năm, chính phủ TQ cấp ngân sách lớn để tân trang các ngôi chùa PG Tây Tạng và giáo dục các tu sĩ PG Tây Tạng; một phần cũng vì Tây Tạng bị Bắc Kinh xem như nơi nhạy cảm chính trị. Nhưng PG Nam Tông bị Bắc Kinh bỏ quên, vì cộng đồng tôn giáo này được Bắc Kinh xem là “nhóm dân thiểu số gương mẫu.”
Bất kể quá nhiều dị biệt giữa sắc dân Thái và dân Hán tộc, sắc tộc Thái chưa bao giờ kích động ly khai. Ngay cả khi có người cùng sắc tộc bên kia các biên giới, sắc dân Thái tại TQ không hề bộc lộ ý định ly khai. Cũng vì không có vấn đề gì, cho nên Bắc Kinh không cấp nhiều ngân sách cho các ngôi chùa PG Nam Tông, trong khi cấp rất nhiều tiền cho các hoạt động của PG Tây Tạng.
Chỉ có 3 Phật học viện tại TQ dạy các môn học về PG Nam Tông. Nhưng cả 3 đều thiếu ngân sách. Thêm nữa, phẩm chất giáo dục lại kém so với các Phật học viện PG Nam Tông tại Thái Lan. Do vậy, ước mơ lớn của các học tăng trẻ là hoàn tất đại học tại một trong các đại học PG tầm cỡ thế giới ở Thái Lan, Đại học Mahachulalongkornrajavidyalaya University hay Mahamakut Buddhist University.
Cũng từng có những cuộc nói chuyện về việc xây trường dạy ngôn ngữ Pali cao cấp đầu tiên ở TQ tại Vân Nam kể từ 2012, nhưng có không gì xúc tiến chỉ trừ việc mua một khoảnh đất.
PG Nam Tông tại TQ không thể là một tác nhân quyền lực mềm tại Trung Quốc. Do vậy chính sách nhà nước Bắc Kinh cũng không đặt trọng tâm vào Phật giáo Nam Tông như một công cụ chính trị quốc tế. Cơ chế cũng không cho cộng đồng PG Nam Tông vận động được gì tại Bắc Kinh. Điều này dễ hiểu vì TQ là nơi các vị sư phải được chính phủ chấp nhận mọi thứ, dù là xin đi du lịch ra hải ngoại hay thực hiện một nghi lễ tôn giáo đơn giản trong khi đang ở hải ngoại. Và tình hình này thấy rõ sẽ còn như thế, kéo dài trong tương lai gần.
Thực ra cũng dễ hiểu. Chính phủ Bắc Kinh chú tâm vào PG Tây Tạng vì còn lo ngại sức lôi cuốn của Đức Đạt Lai Lạt Ma đối với người Tây Tạng trong và ngoài Hoa Lục. Bắc Kinh cũng chú tâm vào PG Bắc Tông vì xem như chiếc cầu để nối kết cộng đồng PG ở Đài Loan và ở các Phố Tàu khắp thế giới. Trong khi đó, PG Nam Tông không có sức mạnh mềm nào để Bắc Kinh bận tâm…
.
Xin được kết nơi đây với một bài thơ, được viết để tặng người bạn thân vừa mới xuất gia tại một ngôi chùa Nam Tông ở Florida. Một thời, bạn này hoạt động từ thiện, lập hội Vì Dân Foundation. Nhiều năm trước, trong một chuyến đi từ thiện ở Campuchia, bạn này bị người lạ đâm 3 nhát dao trọng thương. Việc từ thiện bây giờ bạn này đã bàn giao cho nhà văn Tưởng Năng Tiến. Bây giờ, bạn là Sư Minh Trí. Sau đây, xin có vài dòng thơ tặng sư.
Tiễn sư qua bờ kia
Ôm bình bát, sư đi
khắp mây trời đắp y
tiễn sư về góc núi
kiếp này mấy phân ly

Đứng ngồi đều vì dân
ngực còn đau dao đâm
nước mắt ngập ba cõi
Quan Âm hóa toàn thân

Một thuở ra đi vương lụy
chân mỏi hai bờ Sông Hằng
quay đầu mới hay Minh Trí
tóc rơi theo bụi bên đàng.

Saturday, June 16, 2018

Suy Nghĩ Mùa World Cup



Những đội tuyển của 32 quốc gia được vào Giải World Cup năm 2018.

Suy Nghĩ Mùa World Cup
Nguyên Giác
Thế giới đang sôi nổi với các trận bóng đá World Cup 2018. Những người say mê bóng đá đang nhìn về các đội tuyển đang thi tài ở nước Nga, dán mắt vào các màn hình TV hay máy điện toán, đọc các lời bình luận và quan sát xem bóng đang vào chân ai và sẽ đá về hướng nào. Người Phật tử nghĩ gì về bóng đá? Các ngôi chùa tại Việt Nam có nên tụ tập các em lại để dạy đá banh và để lập các đội bóng đá khi các em nghỉ hè, hay vào những giờ nghỉ sau lớp, hay những ngày nghỉ cuối tuần hay không? Có phải giúp các em tập luyện bóng đá cũng còn tốt hơn để các em chơi game điện tử, vừa hại sức khỏe, vừa mất thì giờ và tiền bạc?
Truyền thống vẫn thường nghĩ về Đạo Phật với hình ảnh Đức Phật ngồi dưới gốc cây Bồ Đề, hay các vị sư ngồi thiền hay đi khất thực. Họa hiếm, nghĩa là rất ít khi, chúng ta nhìn thấy Đạo Phật được mô tả qua hình ảnh thể thao.   
Theo sử liệu, khi Đức Phật còn là Thái tử Tất Đạt Đa đã được giáo dục cả văn lẫn võ. Đến năm 12 tuổi ngài đã thông thạo các môn học Ngũ Minh (năm môn học thế gian: Thanh minh, Công xảo minh, Y phương minh, Nhân minh và Nội minh). Năm 13 tuổi, Thái tử được truyền thụ võ nghệ. Trong một cuộc thi võ với 500 thanh niên trước vương triều, Thái tử thì đã thắng tất cả các môn thi (bắn cung, đánh kiếm, cưỡi ngựa, đấu vật…). Thậm chí sức khỏe phi thường, khi thi bắn cung, ngài đã nâng được chiếc cung rất nặng trước giờ chưa ai nâng nổi và bắn xuyên qua 7 lớp bia đồng trong khi người giỏi nhất cũng chỉ bắn xuyên được 3 lớp. 
Hình như vì lòng tôn kính, chúng ta chưa thấy họa sĩ nào vẽ hình Thái tử Tất Đạt Đa phi ngựa hay đấu vật, như dường đó là những chuyện rất nhỏ, không cần tập luyện. Dĩ nhiên, đó là thời chưa tầm đạo.
Câu hỏi là, Đức Phật dạy gì về các môn thể thao? Có vẻ như, nếu có cũng không nhiều. Lời dạy thường là, các sư hãy tìm nơi góc rừng vắng, ngồi tu thiền quán. 
Trong Kinh Pháp Cú, bài Kệ 204, Đức Phật dạy: Sức khỏe là món quà lớn nhất, biết đủ là tài sản lớn nhất, bạn tin cậy là người thân tốt nhất, Niết Bàn là an lạc lớn nhất (Dịch theo bản của học giả Daw Mya Tin: Health is the greatest gift, contentment is the greatest wealth, a trusted friend is the best relative, Nibbana is the greatest bliss).
Sự tích đi kèm với bài Kệ 204 là chuyện Vua Pasenadi của vương quốc Kosala.  Một hôm, Vua Pasenadi tới tu viện Jetavana sau khi dùng bữa điểm tâm. Bởi vì buổi sáng hôm đó, Vua ăn nhiều cơm với thịt nấu cà ri, nên trong khi nghe kinh, Vua ngủ gà ngủ gật hầu hết thời kinh. Thấy Vua ngủ gật như thế, Đức Phật khuyên nhà vua rằng hàng ngày hay ăn cơm ít, giảm số lượng tới mức tối thiểu một phần mười sáu (1/16) số lượng Vua đang ăn hiện nay.
Nhà vua vâng lời, và sau đó khám phá rằng khi ăn ít như thế, nhà vua gầy ốm hơn, nhưng nhẹ nhàng và nhanh nhẹn hơn, và sức khỏe tốt hơn. Khi Vua Pasenadi trình với Đức Phật như thế, Đức Phật mới đọc bài Kệ 204 trong Kinh Pháp Cú.
Đây cũng là điểm suy nghĩ về chữ “sức khỏe” trong câu đầu bài kệ: có một số bản dịch Kinh Pháp Cú dịch là “không bệnh.”
Hiển nhiên, giữa sức khỏe và không bệnh khác nhau xa lắm. Người “không bệnh” có thể sẽ không đủ “sức khỏe” để chạy và đá banh trên sân cỏ tới 90 phút đồng hồ. Như thế, muốn có sức khỏe là phải luyện tập. Có phải Đức Phật khuyên là chúng ta hãy tập thể dục, chơi thể thao? Chỗ này hẳn là phải đọc kinh điển nhiều mới dám nói, nên xin để các học giả nghiên cứu; chúng ta người đời thường chỉ nên nhìn xem xã hội chung quanh để quan sát, xem những gì thuận pháp, có lợi cho mình và cho người mà làm.
Thêm nữa, chúng ta cũng có thể xem Đức Phật như người đã khởi đầu dạy pháp kiệm ăn, giữ thân mình thon gọn, nhanh nhẹn...
Nhưng, thể thao đời nay lại có chuyện thắng với thua, hai hình ảnh dị biệt. Cứ xem World Cup trên truyền hình là thấy: phe thắng sẽ tưng bừng la hét, phất cờ phóng xe như bay; phe thua ngồi tấm tức khóc, bùi ngùi an ủi nhau.  Thường là như thế.
Bởi vậy, bài Kệ 201 trong Kinh Pháp Cú viết rằng: Chiến thắng sẽ sinh khởi oán thù căm hận, chiến bại sẽ thê thảm khổ đau; người tịch tĩnh sống hạnh phúc trong khi xa lìa cả thắng và bại.
Đó là hạnh của người con Phật. Tuy nhiên, nếu bạn đá banh cho một đội tuyển quốc gia, hễ thua là dân cả nước thê thảm. Thôi thì, tùy thuận chúng sanh, hễ ra sân đá banh là ráng chiến thắng vậy.
Thực sự, thể thao vẫn gắn bó với nhiều truyền thống Đạo Phật. Thí dụ, truyền thống đua ghe Ngo tại Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. 
Báo Giác Ngộ số ngày 19/11/2015 có bản tin nhan đề “Đồng bào Khmer lưu giữ truyền thống đua ghe Ngo”…
Bản tin nói rằng nhiều chùa có riêng đội ghe Ngo. Ngay cả Phật học viện cũng có. Bản tin viết:  “...Suốt 5 năm nay, cứ đến mùa đua ghe Ngo là tất cả thành viên trong gia đình ông Phone đều thu xếp công việc gia đình để chuyên tâm phục vụ cho đội ghe ngo của Trường Trung cấp Pali Nam Bộ.
Bản tin cũng nói, một số chùa lập riêng đội ghe Ngo để tập luyện cho mùa thi đua ghe. Mỗi đội đua ghe Ngo lại có một nhóm hỗ trợ cơm nước, trích: 
Dù không phải là vận động viên bơi ghe Ngo nhưng từ năm 1988 đến nay, bà Trần Thị Chu ở xã Mỹ Thuận, huyện Mỹ Tú luôn sát cánh cùng với đội ghe Ngo chùa Tom Pok Sok của mình để lo cơm nước cho các vận động viên.
Bà Chu chia sẻ: “Từ nhỏ tôi đã rất thích môn thể thao này nên suốt 26 năm qua, cứ tới mùa đua ghe Ngo là theo nấu cơm cho đội ghe. Vì lòng yêu thích nên khi tới mùa đua ghe Ngo là sẵn sàng đi phục vụ”.
Còn gia đình bà Liêu Thị Chênh ở ấp Bưng Lức, xã Đại Ân 2, huyện Trần Đề đã tham gia phục vụ đội ghe ngo chùa Đơm Pô từ hơn 10 năm nay. Bà Chênh cho biết: “Tới mùa đua ghe Ngo là con cháu trong gia đình đều đóng góp công sức và chi phí, cùng nhau hỗ trợ cho đội ghe của chùa Đơm Pô tập luyện. Vì yêu thích nên trong gia đình có đến 4 người tham gia thi đấu”…”(ngưng trích)
Hình như các chùa và Phật tử Miền Tây mình chỉ xem thể thao như mùa lễ hội, như niềm vui… Đơn giản như thế. Nhưng Phật Giáo Thái Lan lại được nhiều vận động viên thể thao xem như nơi nương tựa tâm linh, có sức mạnh huyền bí giúp chiến thắng.
Thí dụ, như bản tin Zing nhan đề “U22 Thái Lan nhờ nhà sư làm phép, xin bùa tại SEA Games 29” vào ngày 12/08/2017 viết, trích:
Trước khi lên đường sang Malaysia dự SEA Games 29, đội tuyển U22 Thái Lan đã tìm đến các nhà sư được cho rằng từng "làm phép" mang đến may mắn cho CLB Leicester City.
Mùa 2015-16, Leicester City qua mặt nhiều tên tuổi lớn để vô địch Premier League. Trên hành trình tới ngôi vương, nhiều người cho rằng đóng góp của nhà sư Thái Lan rất quan trọng. Năm đó, Chủ tịch Vichai của CLB thường xuyên đến xin các nhà sư làm phép mang đến may mắn cho "Bầy cáo"…”(ngưng trích)
Một bài báo trên Buddhistdoor Global trong tháng 10/2010 của nhà nghiên cứu Alastair Gornall nói rằng nhiều võ sĩ quyền thuật Thái Lan trước khi lên đấu võ đài thường tới chùa để xin các nhà sư ban phước lành, thậm chí có khi mời các nhà sư tới xem trận đấu (even have monks in the audience!) để an tâm xuất quyền ra chiêu. Gornall bày tỏ không hài lòng về phong tục đó, vì đấu võ là đi ngược  truyền thống bất bạo động của Phật pháp.
Một truyền thống thể thao được biết khắp thế giới là Chùa Thiếu Lâm, nơi xuất phát môn võ Thiếu Lâm, mẹ đẻ các môn võ thuật Trung Hoa.
Tự Điển Wikipedia ghi nhận như sau:
Có lẽ người nổi tiếng nhất có liên hệ với chùa Thiếu Lâm là Bồ đề đạt ma. Ông là một nhà sư được cho là từ Ba Tư hoặc Nam Ấn Độ sang Trung Quốc vào thế kỉ thứ 5 hay thứ 6 để truyền bá Phật giáo. Trường phái Phật giáo do Bồ-đề-đạt-ma lập ra ở Thiếu Lâm trở thành nền tảng cho Thiền tông sau này… Sau khi vào Thiếu Lâm tự, truyền thuyết kể rằng Bồ-đề-đạt-ma thấy các nhà sư không có hình thể mạnh khỏe cho thiền định và họ thường ngủ gục trong khi thiền. Chuyện kể rằng Bồ-đề-đạt-ma ngồi thiền quay mặt vào tường trong một hang đá cạnh chùa trong chín năm, sau đó ông giới thiệu một hệ thống các bài tập thể dục được cho là thập bát La-hán chưởng hay là các bài tập co giãn cơ bắp kinh điển Đạt-ma. Dần dần những động tác này phát triển thành võ thuật. Theo truyền thống, các nhà sư Thiếu Lâm phát triển kỹ năng võ thuật để phòng thủ sự tấn công của kẻ địch, như là một phương tiện giữ gìn sức khỏe, và như là một kỉ luật về tinh thần và thể chất.”(ngưng trích)
Như thế, ban đầu, trong truyền thống Trung Hoa, võ thuật là để giữ sức khỏe, để giảm bệnh, để ngồi thiền mà không ngủ gục, để tự vệ…
Nhưng xem kìa, quả banh đang lăn trên sân cỏ… Mùa này là World Cup… Môn bóng đá cũng có một số tuyển thủ nổi tiếng thế giới theo Đạo Phật.
Các Phật tử Tây phương nổi bật  trong làng bóng đá là: Mehmet Scholl, Mario Balotelli Barwuah, Roberto Baggio, Fabien Barthez.
Trong đó có Mehmet Scholl, sinh ngày 16/19/1970. Vị trí đá nổi tiếng của ông là tiền vệ cho đội Đức quốc. Bây giờ tuổi lớn, không đá nữa, nhưng về làm quản trị và huấn luyện túc cầu.
Theo Wikipedia, Mehmet Scholl (tên khai sinh là Mehmet Yüksel sinh 16-10-1970) là tiền vệ người Đức gốc Thổ Nhĩ Kỳ.Ông là cầu thủ rất nổi tiếng của Bayern Munich và là một trong những cầu thủ gốc Thổ thành công nhất và được yêu mến nhất tại Đức. Sở hữu kỹ thuật, kiến tạo và khả năng sút phạt tốt, Scholl là một trong những tượng đài của Hùm xám khi thi đấu liên tục cho Bayern từ năm 1992 đến 2007 (15 năm).
Trong khi đó, một cầu thủ Phật tử Ý nổi tiếng là: Mario Balotelli Barwuah (sinh ngày 12 tháng 8/1990) là tiền đạo người Italy gốc Ghana, anh chơi cho câu lạc bộ Nice và đội tuyển bóng đá quốc gia Ý. Anh nổi tiếng không chỉ bởi tài năng bóng đá khi tuổi đời còn rất trẻ mà còn bởi những tai tiếng do tính cách nóng nảy, quậy phá, vô kỷ luật cả trong lẫn ngoài sân cỏ. Chính vì điều này anh được mọi người đặt cho nhiều biệt danh như Super Mario vì tài năng của anh, hay biệt danh "Ngựa chứng" để nói về tính cách ngông cuồng, vô kỷ luật của Balotelli. Hãy tin rằng, với thời gian tu tập thiền quán, tính anh Barwuah sẽ đằm hơn, sẽ rời xa mọi chuyện nóng nảy quậy phá.
Một cầu thủ Phật tử Ý nổi tiếng chân đá huyền thoại có tên là Roberto Baggio. Anh Baggio sinh ngày 18 tháng 2/1967 tại Caldogno, Veneto, là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý, một trong những cầu thủ tài năng và nổi tiếng nhất thập niên 1990 cũng như những năm đầu thập niên 2000. Baggio từng cùng đội tuyển Ý tham dự 3 kỳ World Cup, và là cầu thủ Ý duy nhất ghi được bàn thắng trong cả ba kỳ. Ông là cầu thủ xuất sắc nhất của đội tuyển Ý tại World Cup 1994, người đã dẫn dắt đội bóng áo thiên thanh vào đến trận chung kết và chỉ chịu thua trước Brasil trên chấm phạt đền, đáng chú ý hơn cả chính Baggio lại là một trong 3 cầu thủ của tuyển Ý sút trượt penalty dẫn đến thất bại của đội bóng.
Theo Wikipedia, Baggio đã giành được cả hai danh hiệu cao quý nhất của bóng đá thế giới khi còn thi đấu, Quả bóng vàng châu Âu (1993) và Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA (1993).
Khi Baggio từ ACF Fiorentina chuyển sang Juventus F.C. với giá chuyển nhượng kỉ lục thế giới vào năm 1990, cổ đọng viên biểu tình 3 ngày trước trụ sở ACF Fiorentina và chỉ giải tán khi cảnh sát chống bạo động vào cuộc. Trận cuối ông chơi ở Serie A ( Brescia gặp A. C Milan tháng 3/2004), tuy Baggio không ghi bàn cho Brescia nhưng cổ động viên 2 đội đều đứng bật dậy vỗ tay chúc mừng ông. Ông được mệnh danh là "đuôi ngựa thần thánh" bởi đuôi tóc sau của ông. Ông là một Phật tử nổi tiếng.
Một cầu thủ Phật tử Pháp nổi tiếng là Fabien Barthez. Anh nói minh bạch rằng tất cả thành công của anh là nhờ tu học theo Đạo Phật. Tên đầy đủ là Fabien Alain Barthez, sinh ngày 28/6/1971, sinh ở Lavelanet, Pháp quốc. Vị trí: Thủ môn. 
Theo thông tin trên Wikipedia, tuyển thủ Fabien Alain Barthez từng đoạt một số huy chương khi chơi ở vị trí thủ môn cho Marseille, Manchester United và cùng với đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp giành chức vô địch tại World Cup 1998, Euro 2000 và lọt vào trận chung kết World Cup 2006. Ông cùng với Peter Shilton là 2 thủ môn giữ kỷ lục giữ sạch lưới nhất trong giải vô địch bóng đá thế giới, trong 10 trận. Ở câu lạc bộ, ông đã từng chiến thắng tại giải Cúp các đội vô địch bóng đá quốc gia châu Âu, một số danh hiệu tại Giải vô địch bóng đá Pháp và Giải bóng đá Ngoại hạng Anh.
Như thế, chúng ta thấy rằng thể thao với Đạo Phật vẫn hòa hợp nhau dễ dàng… Với điều kiện, không bạo động, không gây tổn thương cơ thể đối thủ. Cũng có thể sử dụng thể thao như phương tiện rèn luyện cơ thể để có sức khỏe, không bệnh, hay dùng như lễ hội, dùng như phương tiện giáo dục thiếu niên…