Tuesday, March 10, 2015

NHẬT KÝ GIÁO DƯỠNG TUỔI TRẺ - ĐI NGHE DIỄN GIẢI CỦA TIẾN SỸ NGUYỄN TƯỜNG BÁCH




Hình ảnh trong buổi chia sẻ của Tiến sỹ Nguyễn Tường Bách - Photo: BXK

NHẬT KÝ GIÁO DƯỠNG TUỔI TRẺ - ĐI NGHE DIỄN GIẢI CỦA TIẾN SỸ NGUYỄN TƯỜNG BÁCH

           Trời Sacramento nhiều nắng thiếu mưa, lại là một ngày đẹp và thanh thản. Chúng tôi lái xe về trường Đại học cộng đồng Cosumnes River College (CRC) để lắng nghe Tiến sỹ Nguyễn Tường Bách chia sẻ “Những nẻo đường nhận thức” trong Chương trình Việt Ngữ tại trường đại học CRC. Ở Sacramento, có thể nói Chương Trình Việt Ngữ tại đại học CRC là lâu đời nhất mà những người giáo sư như Cô Đỗ Thị Minh Hồng, Cô Nguyễn Thị Yến, v.v... đang tận tuỵ giữ gìn và phát huy ngôn ngữ Việt nói riêng và văn hoá thuần phong mỹ tục của Việt Nam nói chung. Vì thế, khi được mời để tham dự những việc liên quan đến giáo dưỡng tuổi trẻ, chúng tôi không thể từ chối, nhất là về nghe Tiến sỹ Nguyễn Tường Bách, người mà chúng tôi rất hâm mộ qua cuốn sách Mùi Hương Trầm.

          Ban tổ chức (Gs. Đỗ Thị Minh Hồng, Gs. Nguyễn Thị Yến, cô counselor Anna Đoàn), Cộng đồng người Việt và sinh viên CRC đã đón tiếp Tiến sỹ Bách đến từ Đức một cách nồng hậu và hoan hỷ. Trong số đó, đông nhất là các em sinh viên trong trường CRC, rồi đến Hội Thiền Học Tánh Không, và đồng hương Phật tử. Chúng tôi nhận thấy sự hiện diện của Ni Sư Thuần Tuệ, Sư Cô Thuần Tỉnh và Sa Di Ni Phương Thiền từ Thiền Viện Diệu Nhân, Rescue, CA. Các vị khách quý mà được ban tổ chức giới thiệu hoặc nhắc đến như: Ông bà Nha sĩ Đỗ Kỳ Long, Ông Trần Duy Phô và Hội Từ Bi Quán Thế Âm, Ông bà Mục sư Phan Như Ngọc, Ts Trần Kiêm Đoàn, Ts Trương Xuân Bình, Ts Nguyễn Đăng Hoàng, Ts. Phan Văn Chương, Ts. Phan Mẫn, giáo sư business ở trường CRC, giáo sư Lý Lập dạy toán ở CRC, Ông Bà Vũ Hữu Kỳ, Ông bà Hoàng Xuân Thiệu, Ông Đàm Phương, Ông bà Nguyễn Phúc Hồng Thanh, quý Huynh trưởng GĐPT như anh chị Nguyễn Sanh Tỵ, Ngô Thị Thu, Đặng Văn Cường, Nguyễn Huy Hoàng v.v…
            Giáo sư Đỗ Thị Minh Hồng, khoa trưởng ban Việt ngữ tại CRC, giới thiệu:
Ts Nguyễn Tường Bách sinh tại Thừa Thiên Việt Nam, Du học tại Đức năm 1967. Tốt nghiệp kỹ sư xây dựng năm 1975 và tốt nghiệp Tiến sĩ Kỹ thuật năm 1980.  Từ 1980-1992: ông làm việc cho công ty ABB tại Đức.  Sau đó Ông làm Giám đốc cho một công ty xuất nhập khẩu tại Cộng Hòa Liên Bang Đức và nghỉ hưu năm 2010.Ông là tác giả và dịch giả của những cuốn sách nổi tiếng đã xuất bản và tái bản nhiều lần.
(Dr. Nguyen Tuong Bach was born in Thua Thien Province, Vietnam, and began studying abroad in Germany in 1967.  He earned his Ph.D. degree in Engineering in 1980.  He worked for ABB in Germany until 1992 and was the founder/CEO of an import-export company in Germany until his retirement in 2010. 

Dr. Bach has authored a number of books and papers on the topic of Eastern Philosophy, especially on Buddhism.  A few of his most noted works are Mùi Hương Trầm (Scent of Incense), Lưới Trời Ai Dệt (The Cosmological Drag Net), Mộng Đời Bất Tuyệt (The Endless Dream of Life), Đường Xa Nắng Mới (Long Road New Day), Đêm Qua Sân Trước Một Cành Mai (Last night a spring flower bloomed).

His translated works include Dao cua Vat Ly (The Tao of Physics – Fritj of Capra), Con duong may trang (Long road white cloud - Lama Anagarika Govinda), Thien trong nghe thuat ban cung (Zen in the Art of Archery - Eugene Herrigel), Doi dien cuoc doi (Facing life - Krishnamurti).
            Mà trong phần giới thiệu, chúng tôi đắc ý nhất là lời nhắc nhủ của Tiến sĩ Bách cho các bạn sinh viên trẻ; ông đã nói như sau: 
Tôi có may mắn sống trong những nền văn hóa khác nhau. Tôi mong những người trẻ có cơ hội sống trong những nền văn hóa khác trong một khoảng thời gian hoặc dài hoặc ngắn, nói tiếng nói của người ta, tìm hiểu văn hóa của người ta, qua đó cảm nhận được tính cách của người Việt Nam rõ ràng hơn, khách quan hơn.Ra ngoài không phải là xa Việt Nam. Đi để nhìn lại, để tạo cơ hội nhìn rõ con người mình nhiều hơn. Có xa gia đình mới thấy yêu gia đình của mình thế nào, có xa đất nước mình mới thấy yêu đất nước mình như thế nào. (I have been lucky to have lived in many different cultures. I wish that young people will have the same opportunity to live in different cultures however short or long, speak other languages, try to understand other cultures, and through that they will be able to understand the characters of the Vietnamese people more clearly and objectively. To leave Vietnam is not to distance oneself from Vietnam. To go away is so that one can look back, to give oneself a chance to better reflect. To be away from one's family helps one to love it more, to be far away from one's country will help one to cherish it more.)
Trong phần diễn giải “Những nẻo đường nhận thức”, Tiễn sỹ Bách nhấn mạnh là ông “chỉ nói về những kinh nghiệm và nhận thức của riêng mình. Nó sẽ có tính chất chủ quan và có thể khác lạ, thậm chí kỳ cục so với thông thường.Tôi không có một chút ý định nào thuyết phục người nghe vì phần lớn là các trải nghiệm trong tâm. Tôi cũng thấy thật là khó khăn khi diễn bày những cảm nhận trong tâm bằng ngôn ngữ.”
Tiến sĩ Bách trình bày năm nẻo đường nhận thức như sau:
Nhận thức bằng cách nghe
Nhận thức bằng cách thấy
Nhận thức bằng cách quan sát
Nhận thức bằng suy luận tư duy
Nhận thức bằng cách buông bỏ

  1. Nhận thức bằng cách nghe
Theo Tiến sỹ Bách, nghe không chỉ qua lỗ tai bằng âm thanh mà còn nghe bằng tâm. Mà quan trọng hơn mà nhận thức quaTâm nghe tâm”, một phương pháp mà tự tâm mình lắng nghe chính mình để biết những diễn biến bên trong của mình. Chúng ta có thể thêm vào đây là sau phần lắng nghe tâm, chúng ta nên quán chiếu để biết, nhận chân và phòng hộ những suy nghĩ và lối hành xử của chính mình. Ông nhắc thêm:
 Nhưng cũng có khi ta nghe bên trong, nghe vận động bên trong tâm.
Rong chơi râu tóc bạc phơ
Còn nghe đắm đuối vần thơ yêu người
Người đi ở cuối chân trời
nghe tình mộng nửa đời dằng dai... (thơ Bùi Giáng)

Nghe của Bùi Giáng là tâm nghe tâm. Thế nên “nghe” không chỉ là lỗ tai nghe âm thanh. Tâm nghe tâm là tâm tự lắng nghe chính mình, hay chính xác hơn là nghe những diễn biến trong mình. Nói vậy chứ không phải đơn giản vì “diễn biến trong tâm” thường kéo dẫn chúng ta đi theo mà ta không hề biết. “Diễn biến trong tâm” chính là tâm chúng ta. Hình ảnh trong gương chính là tấm gương.Tâm nghe tâm là tự tách mình đừng bên dòng chảy của tâm và lắng nghe nó. Thế nên Bùi Giáng không hề điên mà rất tỉnh vì tỉnh táo mới nghe được diễn biến trong tâm.”

Có lẽ chúng tôi đồng tình cùng tiến sỹ rằng “chỉ có một cái nghe đang vận hành. Khi đó thì tính nghe đồng nghĩa với tính biết. Khi đó thì những cái được nghe, hay chính xác hơn là những cái được biết, dường như “bóc tách” khỏi tâm ta và lơ lửng trong không gian rỗng rang của tâm.”

  1. Nhận thức bằng cái thấy
            Cái thấy qua con mắt là sự nhận xét mà mọi vật chất, hay mọi Pháp (ngôn ngữ của nhà Phật) chỉ hiện qua hình tướng. Và theo tiến sỹ Bách, hiện tướng là tương đối và tùy theo trình độvà khả năng của người nhìn nó. Điều này nhắc tôi nhớ nhà bác học Enstein cũng từng nhắc nhở chúng ta một khái niệm mình bị giới hạn vì những gì mình đang là (we are limited of who we are-our thoughts, feelings and experiences). Cái thấy biết của mình tuỳ thuộc vào những tu duy, kiến thức, kinh nghiệm sống v.v… Ông lại phân tích thêm,
Đối với người điếc thì thế giới toàn màu sắc và sự lặng yên, đối với người mù thì thế giới đầy âm thanh và một màu đen, đối với người mù màu thì thế giới chỉ hai màu đen trắng, đối với loài chó, loài có khứu giác nhạy bén thì thế giới nhấp nhô toàn cả mùi…”

Ông nói tiếp, “Heisenberg, nhà vật lý lượng tử cũng nói đại ý “thiên nhiên là câu trả lời trước sự vấn hỏi của con người”. Ta thắc mắc thế nào thì thiên nhiên đáp lại theo cách hỏi của ta. Thế nên cái thấy của chúng ta có hai điều đáng nhớ, một là điều ta thấy chỉ là tướng trạng của sự vật, không phải thể tính thực của nó; hai là nó mang tính chất, mang chữ ký của người ngắm nhìn nó.”

Tuy nhiên, cái thấy viên thông trong nhà Phật là thông suốt cả lý và sự, tình và nghĩa và thấy được cả tướng lẫn tánh.

3. Nhận thức bằng cách quan sát (thân và tâm)
Ông bảo rằng “nhận thức bằng cách nghe, nhận thức bằng cách thấy chính là “mở” hai giác quan tai và mắt, cho hai cái nghe và cái thấy vận hành. Qua Nghe và Thấy hầu như toàn thể thế giới hiện ra quanh ta.” Vì thời gian giới hạn, có lẽ Tiến sỹ Bách chỉ nói về 2 giác quan, Nghe và Thấy, nhưng trên thực tế thế giới quanh ta hiện ra bởi sáu giác quan (mắt tai mũi lưởi thân ý / sắc thanh hương vị xúc pháp) qua sự biết của ý thức mà quý thầy tổ đã nhắc nhở “Khi sáu căn tiếp xúc sáu trần. Đem ý thức tinh chuyên phòng hộ”
            Có thể nói, nhận thức này chính là ở nơi thực hành của chúng ta. Tuỳ trình độ, kinh nghiệm hay pháp môn của mình, mỗi khi chúng ta tự lắng lòng quan sát chính mình (qua suy nghĩ, lời nói, hành động) và quan sát chính thân tâm mình thìcó lẽ chúng ta sẽ thấy được phép lạ của sự tỉnh thức.
            Tiến sỹ Bách chia sẻ, “nếu kiên trì, nếu tỉnh táo và chú ý, thường thì phải sau vài tháng hay vài năm, ta sẽ nhận ra một điều đơn giản trong tâm. Đó là có một dòng hoạt động tâm lý cứ trôi chảy liên tục trong ta. Ban đầu có lẫn vui buồn thương nhớ, về sau cảm xúc ít đi nhưng tâm luôn luôn có hình ảnh, có âm thanh. Đặc biệt trong âm ta luôn luôn có lời, khi thì độc thoại, khi thì đối qua đáp lại. Luôn luôn có lời nói thầm trong tâm, tôi tạm gọi là “tâm ngôn”.”
            Nói chung, tất cả nhận thức đều là “phương tiện thiện xảo”, không phải là một cứu cánh, để đưa chúng ta trại thái của tâm hồn rỗng lặng, mà diễn giả gọi là “Tâm hoàn toàn tỉnh giác sáng tỏ.”

4. Nhận thức bằng suy luận tư duy

            Tiến sỹ Bách cho rằng tư duy suy luận là một trong những hoạt động của tâm.Một phạm trù rất trừu tượng, mà chúng tôi nghĩ những sinh viên khó hiểu đó là khái niệm về “pháp hữu vi”. Ông giải thích rằng, “hiện tượng tâm vật, xác định tính chất chung nhất của chúng là những “hiện tượng được tạo thành” (hữu vi – composed things). Tất cả những gì được tạo thành, dù là do nhiều phần tử khác hợp lại, hay do các điều kiện khác sinh ra, được gọi là pháp hữu vi. Như thế thì từ mỗi hạt nhân nguyên tử đến cả các thiên hà vĩ đại, từ cực tiểu đến cực đại, đều là pháp hữu vi cả. Thân chúng ta và các cơ quan trong thân từ hơi thở cho đến các bộ phận cũng đều là pháp hữu vi. Chưa hết, cả mọi hiện tượng tâm lý cũng pháp hữu vi vì tất cả đều sinh ra từ các điều kiện khác. Về triết học đây là sự khái quát hóa cao nhất. Thế là mọi hiện tượng tâm vật trong thế gian đều là pháp hữu vi.”
            Chúng ta có thể nhắc nói với tuổi trẻ rằng, những cái lớn là sự tập hợp của những cái nhỏ hơn. Như những thành công lớn, bắt nguồn tự những thành công cỏn con. Và những niềm vui lớn cũng bắt nguồn từ những niềm an lạc của tự tâm.Tới đây, diễn giả nhắc đến bài kệ Lục Như trong kinh Kim Cang:
Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng, huyễn, bào, ảnh
Như lộ diệc như điện
Ưng tác như thị quán.
Diễn giả chia sẻ:
“Tất cả các pháp hữu vi
Như cơn mộng, như ảo ảnh, như bọt nước, như bóng
Như sương mai, như ánh chớp
Nên quán chúng như thế.
(Kinh Kim Cương, dịch bản chữ Hán của Cưu Ma La Thập)
Nhưng trong bản Phạn ngữ có đến 9 ẩn dụ như sau:
Như sao đêm, như mắt loạn, như ngọn đèn, như huyễn thuật, như sương mai, như bọt nước, như cơn mộng, như ánh chớp, như đám mây — những gì hữu vi nên được quán chiếu như vậy[1].
            Diễn giả cho rằng, suy luận từ các ẩn dụ mô hình là vô cùng quan trọng vì là bảng chỉ đường trực tiếp nhất. Nhưng vì là bảng chỉ đường nên ta nhìn xong là đi tiếp, không dừng lại. Nếu dừng lại lập tức nó trở thành chướng ngại. Như diễn giả, chúng tôi thiết nghĩ, tất cả đều là phương tiện để chúng ta nhận chân rằng mọi pháp hữu vi cũng nằm trong quy luật vô thường, vô ngã, khổ và không. Từ đó, chúng ta tích cực hơn với cuộc sống. Chúng ta hãy tư duy suy luận để rồi học từ bi và hành hỷ xả. Sáng cho người thêm niềm vui, chiều giúp người bớt khổ.

5. Nhận thức bằng cách buông bỏ
            Có lẽ đây là nẻo nhận thức khó hiểu và thực hành nhất vì sự nghịch lý của nó. Buông bỏ là một trong đặc tính của tứ vô lượng tâm—Từ Bi Hỷ Xả. Ts Bách cho rằng,
Tới nay ta thường nghĩ, nhận thức là một quá trình làm giàu thêm cho tâm. Nhận thức là thêm, thêm kiến thức, thêm kinh nghiệm, thêm phán đoán.Nhận thức chỉ có một chiều “thêm”.Thế nhưng nếu khéo quan sát, ta sẽ thấy kiến thức và kinh nghiệm là một con dao hai lưỡi. Kiến thức giúp ta hiểu thấu sự vật nhưng đến mức nào đó nó thành chướng ngại. Cái thấy sinh cái biết, đến phiên nó cái biết lại ngăn cản cái thấy.
Đóa hoa vừa xuất hiện trước mắt. Ta chưa kịp thưởng thức nó thì khái niệm về hoa và kinh nghiệm trong ta liền lên tiếng: “Đây là loại hoa hồng gai mềm hay trồng tại Đà lạt. Có nhiều màu đẹp hơn nhiều”. Ta không thấy thực tại mà chỉ nghe lời nói của chính ta. Cái biết cũ xưa về hoa đã ngăn ta thấy đóa hoa tinh khôi.”
Ông ân cần lại nhắc,
Nếu sánh kiến thức như những viên gạch nằm trong kho chứa khổng lồ của tâm thì kiến thức và kinh nghiệm rất có khuynh hướng tự mình xây nên một lâu đài và giam giữ ta trong đó. Có ai nói “Có thể xây địa ngục bằng những viên đá của thiện chí” thì ở đây ta có thể nói nhại rằng “Có thể xây lâu đài trú ẩn bằng những viên đá của kiến thức và kinh nghiệm”. Có lẽ chúng ta từng thấy rất nhiều người, phần lớn là lớn tuổi và nhiều kiến thức, tự xây cho mình một lâu đài của thành kiến, kinh nghiệm, khái niệm, thang giá trị thiện ác đúng sai... và ẩn trútrong đó. Họ bít cả cửa sổ cửa lớn, bản thân họ không ra ngoài và cũng không cho những gì mới mẻ lọt vào. Ánh sáng mặt trời cũng không vào, họ tự đốt đèn bằng chất dầu mang tên “từng biết - well known” và vui sống trong đó.”

Ông tha thiết tâm sự là chúng ta hãy,
 Mạnh dạn mở toang những cánh cửa đó, tức là hai cửa của Nghe và Nhìn. “Mở toang” là buông bỏ những gì đã biết, giữ tâm chú ý, rỗng rang, không chủ động, không dụng công, không mong chờ, chỉ chú ý trống rỗng. Ta sẽ thấy ánh sáng mặt trời luôn luôn có đó.  Nói “ra ngoài” là nói ẩn dụ.Tâm không có trong ngoài.  Tòa lâu đài nọ xây dựng bằng những viên gạch của tâm.  Buông bỏ nó, phá hủy nó cũng là hoạt động của tâm. Chỉ cần thấy xuyên suốt tự tính của nó là đã phá hủy nó rồi, rất dễ.Nhưng cũng vô cùng khó, vì như Arbert Einstein nói, phá bỏ một thành kiến còn khó hơn phá vỡ một hạt nhân nguyên tử. Rất dễ nên nhà Thiền mới nói buông dao quay đầu là thành Phật. Rất khó nên không mấy ai thành tựu,  trước khi thành tựu, Phật cũng phải tu vô lượng kiếp. Về phần tôi, tôi cũng thấy rất khó vì phải bơi ngược dòng tất cả mọi thói quen.
“Bên ngoài” ra sao? Bên ngoài những lâu đài kín cửa là một không gian vô cùng thanh tịnh.Huệ Năng đã từng thốt lên “Ai dè tự tánh vốn sẵn thanh tịnh”. Lục Tổ mà thốt lên “ai dè” thì chúng ta khó mà ngờ đến. Phía trên ta nói “giữ tâm rỗng rang” là nói cho người trong nhà đi lần ra cửa lâu đài, chứ ở bên ngoài rồi chỉ cần để tự nhiên, tâm vốn rỗng rang, tâm vốn luôn luôn chú ý, tâm vốn luôn luôn tỉnh thức. Cho nên ra ngoài thì cũng bỏ luôn sự chú ý vì lúc đó chính ta là sự chú ý.

Có thể các bạn hỏi tôi chứng nghiệm được cái gì.Lòng tôi vẫn còn đầy ngập những đám mây. Nhưng mây thỉnh thoảng vén ra cho thấy chút trời xanh. Tôi chỉ ghi nhận được rất ngắn là: Thực tại chính là toàn thể pháp hữu vi đang vận hành chớp nhoáng, vô chủ, cái này sinh ra cái kia, làm điều kiện lẫn nhau để sinh ra và diệt đi. Sinh diệt vô tận.

            Sau khi nghe xong bài thuyến giảng và những câu hỏi, chúng tôi cảm nhận những lời chia sẻ của Tiến sỹ Bách. Bài chia sẻ bàng bạc Tánh Không và kinh nghiệm thực tập của diễn giả. Chúng tôi tin chắc là quý đồng hương Phật tử đã thấy và hiểu điều đó, còn chăng là không biết trong số những sinh viên học tiếng Việt đó, bao nhiêu hiểu lời chia sẻ của Tiến sỹ Bách. Rồi tự nhìn lại mình, nhìn về đạo pháp và dân tộc, song dư âm của bốn câu thơ của Thầy Tuệ Sỹ lại về.

Ðếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn.

Khi bước nhẹ rời khỏi hội trường và trở về cùng với hơi thở và con người của chính mình, tôi lại thầm cảm ơn những ai đã được gặp—một nhân duyên và phước báu của nhau. Vui vì được gặp vợ chồng diễn giả, quý Ni Sư, thầy cô bạn hữu, các sinh viên CRC và thính giả.  Âu đó cũng là phước duyên được gặp nhau, trong đầu ẩn hiện dăm câu thơ vừa chớm để cảm ơn người anh trong đạo từ phương xa bỏ bớt thời giờ du dịch để chia sẻ trong tình đạo vị.

Nghe Thấy, Quan Sát, Tu Duy, Buông Bỏ

     Kính tặng anh Nguyễn Tường Bách

Một trưa trăng sáng trong ngần
Thiền môn vô trụ đi về tánh không
Phù sinh bao cõi long đong
Thuyền từ bến giác thong dong cõi về.

Breathe and Smile. Thở và cười bạn nhé!

Sacramento, ngày sinh nhật của Ba—March 10th, 2015.
Tâm Thường Định


[1]Bản Anh ngữ:   All composed things are like a dream, a phantom, a drop of dew, a flash of lightning.  That is how to meditate on them, that is how to observe them.

Sunday, March 8, 2015

Ăn Mứt Dừa Cùng Mẹ - Eating Coconut Treat with Mother

Anh Thảo và Mẹ 

Ăn Mứt Dừa Cùng Mẹ

Tinh mơ trong yên lặng
Giá lạnh tờ lịch xinh
Nụ cười cõi vô sinh
Mắt Mẹ tươi muôn thuở.




Eating Coconut Treat with Mother

Silence in the dawn,

a pretty chilly calendar's leaf.
Smile—the realm of unbeginning,
My Mother's eyes are forever fresh.

Thursday, March 5, 2015

NHƠN LÝ VILLAGE - MY HOMETOWN




Photo: Nhơn Lý's friends

NHƠN LÝ VILLAGE - MY HOMETOWN

           For the sons and daughters of Nhơn Lý (Phước Lý), 
     Quy Nhơn, Bình Định



My hometown is so beautiful in the summer time
The mothers' llulubies are soothing in the wind
and we are growing up in the rythms of the poetry
where beautiful white sandy beaches, just like dreams 

The soul of the village, Eo Gió, holds many wonderful memories
Where vast blue sea, clear sky and golden sunshine meet
The famous Dốc Cá, captures the endless romantic
and the peaceful place, Phước Sa temple, is mystic

My village, the radiant dawn and free floating clouds
Where Hoa Ngoc Monastery is filled with so much compassion
This is Nhơn Lý, our village, with many memories.
Oh dear! How do you ever know our love?

The love of our motherland, is everlasting
As the love of exile for his/her native birthplace
In this realm of impermanence,
once we stop to reflect
The native birthplace is the source of countless live

And we are no longer in our childhood dreams
We must build and contribute to our motherland.
Sacramento, Autumn 2007.
Để đọc tiếng Việt bài này, bấm vào đây.  
For music, click below. Để nghe nhạc bài này, bấm phía dưới.

Wednesday, March 4, 2015

NGƯỜI TÌNH CỦA TA


Thư Pháp: Võ Việt Tuấn


NGƯỜI TÌNH CỦA TA
Em yêu hỡi hãy sống cho nhân loại
Sống vị tha, thanh thản, sống bao dung
Thì em ơi, ta toại nguyện vô cùng
Tình ta mãi thung dung trong ánh đạo.

Our Lover...
Oh my dear, live your life to the fullest for mankind
Live selflessly, serenely, and tolerance
Then my dear, your wish will come true
Our love always--mindful and leisurely--on the middle path.
San Francisco Bay - Photo: BXK
Hoa dại - Ảnh Nguyễn Sanh Tỵ
 

Sunday, March 1, 2015

Anh Hùng Vô Danh - Heroes in Anonymity

Rừng Tràm - ảnh Phuot.vn

Lời dẫn:
            Khi xưa, thời còn học tiểu học, các bạn  chắc đã có học thuộc bài thơ "Anh Hùng Vô Danh" qua phần học thuộc lòng, mà tác gỉa bài thơ này thời đó có tên là Vô Danh. Qua Mỹ, những năm 80, được gặp lại tác gỉa bài thơ thuộc lòng đó, tôi còn học thuộc nhiều lời dạy của ông. Tôi vẫn thường nói với mọi người trong đời tôi có 3 người Cha: Cha sanh ra tôi cho tôi thể xác, nhà cách mạng Trần Trọng Sanh và GS Nguyễn Ngọc Huy cho tôi tinh thần. Những bài giảng chính trị về lòng yêu nước, tinh thần dấn thân và hy sinh cho đất nước được hai người dạy tôi rất kỹ và luôn  ghi nhớ nhầm lòng.

            GS Huy thì qua đời hơn 20 năm trước, khi sự nghiệp chính trị còn dở dang. Bác Trần Trọng Sanh nay đã ngoài 100 tuổi mà tinh thần vẫn còn minh mẫn, tráng kiện, sáng suốt như 40 năm trước lúc tôi mới gặp. Gặp lại Bác trong dịp đầu năm, Bác vẫn nhớ như in và nhắc lại những bài giảng dạy cho thanh niên thời đó mà cho đến  nay vẫn còn rất đúng với thời đại. Những lời Thầy Huy, Bác Sanh dạy tôi, tôi thuộc nhằm lòng. Có lần trong một bài viết về những gì người thanh niên cần phải có cho đại cuộc khi dấn thân, tôi đã viết là chúng ta phải cần phải có 3 cái Thực: Thực tâm, Thực tế và Thực tài. Thực Tâm để biết mình muốn gì, thực tế để biết đất nước mình đang ở đâu và thực tài là biết mình có gì trong tay. Thiếu một trong 3 cái thực đó, nhất là không có thực tâm thì làm việc gì lớn cũng chỉ thu vào kết qủa nhò. Những lời dạy đó tôi đã thuộc từ những bài học của GS Huy và Bác Sanh. Cảm ơn tác gỉa đã cho tôi đọc lại bài thơ tâm huyết của Thầy Huy.  

Xin mượn lời tâm sự của anh Nguyên Lương trên để thiệu bài thơ bất hủ này. Bên cạnh đó Giáo Sư Nguyễn Văn Thái đã dịch và phóng tác làm rỏ ý chí và tâm huyết của tác giá. Một bài thơ rất hay và cần thiết trong công cuộc thoát Trung hiện tại. Xin được trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.


Anh Hùng Vô Danh 
của Đằng Phương - Nguyễn Ngọc Huy
Họ là những anh hùng không tên tuổi 
Sống âm thầm trong bóng tối mênh mông, 
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh, 
Nhưng can đảm và tận tình giúp nước 
Họ là kẻ muôn nghìn năm thuở trước 
Đã phá rừng, xẻ núi, lấp đồng sâu 
Và làm cho những đất cát hoang vu 
Biến thành một giải sơn hà gấm vóc 
Họ là kẻ không nài đường hiểm hóc, 
Không ngại xa, hăng hái vượt trường sơn 
Để âm thầm chuẩn bị giữa cô đơn 
Cuộc Nam tiến mở giang sơn lớn rộng 
Họ là kẻ khi quê hương chuyển động 
Dưới gót giày của những kẻ xâm lăng 
Đã xông vào khói lửa quyết liều thân 
Để bảo vệ Tự Do cho Tổ Quốc 
Trong chiến đấu, không nài muôn khó nhọc 
Cười hiểm nguy, bất chấp nỗi gian nan, 
Người thất cơ thành thịt nát xương tan 
Nhưng kẻ sống lòng son không biến chuyển. 
Và đến lúc nước nhà vui thoát hiểm 
Quyết khước từ lợi lộc với vinh hoa. 
Họ buông gươm quay lại chốn quê nhà 
Để sống lại cuộc đời trong bóng tối. 
Họ là kẻ anh hùng không tên tuổi 
Trong loạn ly như giữa lúc thanh bình 
Bền một lòng dũng cảm, chí hy sinh 
Dâng đất nước cả cuộc đời trong sạch. 
Tuy công nghiệp không ghi trong sử sách, 
Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên, 
Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên 
Không ai đến khấn nguyền dâng lễ vật, 
Nhưng máu họ đã len vào mạch đất, 
Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông 
Và anh hồn chung với tấm tình trung 
Đã hòa hợp làm linh hồn giống VIỆT. 
  Đằng Phương- Nguyễn Ngọc Huy
Heroes in Anonymity

Those people are anonymous heroes
That lived in the immense darkness of nights
And could never see the lights of glory
But were courageous and devoted to their country.

Those are the people who thousands of years before
Had pioneered forests, flattened mountains, restored marshes
And transformed desolate sand dunes
Into the everlasting emerald stretch of today’s Motherland.
Those are the people who braved perilous journeys,
Not minding long distances and enthusiastically flouting the range of Central Mountains
In order to prepare, amidst gloomy loneliness,
For the Southward expansion of our country’s border.

 
Those are the people who, when the country tremored
Under the boots of invaders,
Had plunged headlong onto enemy fire with unwavering determination for self-sacrifice
To protect Freedom for our Nation.

 
During fights, they scorned myriad difficulties,
Sneered at dangers, flouted hardships.
The unfortunate would have their flesh pulverized, their bones crushed;
But survivors, their pristine hearts unmoved.

And when there arrived the time when the country joyfully escaped danger,
They declined all material rewards and glorious recognition.
Dropping their swords, they returned to their native countryside
To live their lives in darkness again.

They are heroes without a name:
During wartime as well as in peace,
Persistently remaining dauntless and determined to sacrifice themselves,
They offered Motherland their entire unadulterated lives.

Even though their achievements were not recorded in history books,
Their names, not engraved on gilded rolls of honor nor on stone epitaphs;
Even though their dilapidated tombs are exposed under the oblivious sky
With no one coming for prayers and offerings,

Their blood had permeated the native soil,
Their flesh and bones, mixed in Motherland;
And their spotless spirits together with their faithful hearts
Had blended in with the Soul of the Vietnamese race.

Translated by Professor Nguyễn Văn Thái