Tuesday, April 28, 2015

Lục Bát Ba Câu - Hương Người

Hương Người
 
Càn khôn cuộc lữ phiêu bồng
Thu ngàn mây gió nắng hong góc trời
Tay – Buông hương ngát muôn nơi

Sunday, April 26, 2015

LỤC BÁT BA CÂU - LÊN NÚI


From Nguyễn Đan's facebook

LỤC BÁT BA CÂU

  Kính tặng Ôn Tuệ Sỹ và Thầy Hạnh Viên


               Lên Núi

Cùng Thầy lên núi rong chơi

Hoa đồng cỏ nội suối ngàn rêu phong

Được vui - bớt khổ - thong dong


Monday, April 20, 2015

MỞ RỘNG LÒNG TỪ - Registering for a Potential Bone Marrow Donor!


THƯ XIN MỞ RỘNG LÒNG TỪ 

     Người xưa có truyền miệng câu “Dẫu xây chín đợt phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người”
Kính thưa Quý vị Phật Tử:

           Thượng Toạ Thích Nhật Huệ, viện chủ chùa Duyên Giác San Jose California, Tổng vụ phó tổng vụ Thanh Niên GHPGVNTN, mở một cuộc vận động kêu gọi Phật tử và cộng đồng  từ 18 đến 60 tuổi giúp cho một Phật tử hiện ở Oklahoma không may mang chứng bệnh  chết người ung thư máu, eukemia,  rất cần quý vị phát tâm bồ đề hiến tuỷ để hy vọng cứu được mạng sống đang mong manh như ngàn cân treo trên sợi tóc. 

      Để tìm được tuỷ phù hợp ở người cho với bệnh nhân, bước đầu thật qúa đơn giản quý vị chỉ cần tình nguyện ghi danh điền đơn sau đó cho nhân viên y tế chuyên môn dùng bông gòn, cotton tipped applicators, lấy chút chất nhờn của nước miếng ở trong miệng mình như vậy là xong. Có thể hàng trăm hoặc hàng vạn người chưa chắc có tuỷ trùng hợp, tuỳ theo phước duyên  của người cho và người nhận nữa.  Sau khi thử nghiệm nếu  may mắn có ai đó có tuỷ trùng hợp thì Chương Trình Hiến Tủy Toàn Quốc (National Marrow Donor Program) sẽ thông báo và tiến hành thủ tục kế tiếp, được biết vi ệc hiến tuỷ không ảnh hưởng gì đến sức khỏe không đau đớn, không làm gỉam hoặc ảnh hưởng đến bạch huyết cầu hay tiểu huyết cầu và không mất thời gian,. 

     Để tiện việc cho làm hẹn nhân viên chuyên môn đến lấy mẫu DNA xin quý đơn vị ghi danh số lượng và ngày giờ địa chỉ tập trung những người tình nguyện sau đó email về cho Phật tử của Thầy là: ktdaphne@sbcglobal.netsoctrang87@yahoo.com, hoặc qu ý vị có thể đến ghi danh tại chùa Duyên Giác ở địa chỉ: 97 Foss Avenue, San Jose, CA 95116. Số điện thọai: (408) 828-5707.

      Đây là việc làm từ thiện khẩn thiết cũng như việc làm tích phước tồn đức cho mai hậu. Rất mong quý vị hưởng ứng. 
                                                              Thay Mặt Thầy Viện Chủ Duyên Giác
                                                                 Nguyên Vinh Nguyễn Ngọc Mùi

Dear Ms. Law

Thank you very much for your assistance. I'm sending my info in both Vietnamese and English for public announcements.

Em tên là Trần Thị Thuý Loan, sinh ngày 30 tháng 11 năm 1972. Trong giấy tờ tên là Loan T. Tran (DOB 11-30-1972). Em ra trường năm 1996 và làm một Social Worker cho tới giờ đã giúp đỡ rất nhiều ngưởi có lợi tức thấp. Mỗi năm Em cũng dành dụm tiền để làm từ thiện ở đây và ở VN. Em có 2 đứa con. Con gái 18 tuổi tên Sandra đang học năm Freshman đại học University of Arkansas ở Fayetteville. Ra trường Salute Dictorian. Con trai 16 tuổi tên Rick đang là Sophomore ở trường Edmond Santa Fe High School là học sinh Honor. Hai cháu rất ngoan ngoãn và lễ phép. Em bị nhức đầu 2 tuần ngày 11 tây tháng 3 vô ER, và bác sĩ nói Em bị bệnh Acute Lymphoblastic Leukemia loại B cells nếu nhập viện trễ 2 ngày là chết. Vô đợt chemo đầu Hyper CVAD chỉ tiêu diệt leukemia 25%, vẫn còn 70% leukemia trong cơ thể. Em đang vô chemo Methotrexate và Cytarabine cho tới thứ 6. Nếu thấy an toàn bác sĩ sẽ cho về nhà vài ngày rồi phải nhập viện lại để truyền chemo Hyper CVAD đợt 2. Tổng cộng 4 đợt Hyper CVAD và 4 đợt Methotrexate và Cytarabine. Em có 2 em trai cùng Cha và Mẹ, nhưng bác sĩ vừa cho biết kết quả xét nghiệm cho thấy 2 đứa em trai không hạp tủy. Em khẩn cầu người Á Đông mình đi xét nghiệm đăng ký hiến tuỷ cho Em để Em có cơ hội sống và nuôl con ăn học thành tài làm người hữu ích cho xã hội. Em chân thành cám ơn mọi người giúp đỡ Em.

Loan Tran (405) 429-9341.
Facebook LoanThanh với hình hoa sen.

My name is Loan T. Tran, born 11-30-1972. I have been working as a Social Worker since 1996 helping the low income families locate community resources for basic needs such as rent, utilities, low income or free medical and dental clinics. Since 2003 I work as Social Services Coordinator at Oklahoma Health Care Authority until I got admitted to hospital. I also saved money to donate to temple and the poor in USA and especially in Vietnam. On 03-11-15 I went to ER at Mercy Hospital in OKC, attending hemotologist/oncologist Dr. Jess Armor told me MD Anderson pathologists confirmed I have Acute Lymphoblastic Leukemia B Cells, 95% in body, but not in the brain yet. I had first round of Hyper CVAD, but body didn't respond well. Recent bone marrow biopsy shows I still have 70% leukemia in body. Started on first round of Methotrexate and Cytarabine since yesterday and will end this round of chemo on Friday night. I'm very hopeful that this round of chemo will clear all leukemia in my body. So I get to go home for a few days before being readmitted for 2nd round of Hyper CVAD. There are 4 rounds of Hyper CVAD and 4 rounds of a Methotrexate and Cytarabine. I'm inpatient for each round of chemo, expect to end chemo and be in remission by October to resume my job. 

I have a loving and caring husband and 2 children. My daughter Sandra is a Freshman at University of Arkansas in Fayetteville. She graduated Salute Dictorian from Edmond Santa Fe High School. She comes home weekend to take care of me while in hospital. My son Rick is 16 years old and an Honor Sophomore at Edmond Santa Fe High School. He takes care of me after school until my husband comes to stay overnight with me. I'm blessed to have great support from my family, relatives, friends, coworkers and medical staff.  I have 2 biological brothers, tested but Dr. Armor said results show my brothers are not marching. I have a strong desire to live longer to take care of my children and to continue my job to help others. I want to raise my kids to be helpful individuals to society. My name is not yet registered on the national transplant list because I have leukemia. But Dr. Armor said MD Anderson had a patient who didn't respond to first round of chemo but responded to second round of chemo. So I'm very hopeful that my body will respond to second round of chemo. I'm a fighter and I'll win this battle to be in remission. But in order for me to live longer I must have stem cell transplant. As soon as I have zero % leukemia I'm ready for stem cell transplant. Please please come to your local blood institute to register as donor. They provide a mouth swab kit. Make sure you tell them to fax your results with my name Loan Tran born 11-30-1972 to OU Cancer Center fax 405-271-4776

or visit website www.bethematch.org 

to request a mouth swab kit and register to be a donor. My name should be on that national list soon. I thank you for any help you can provide to me. I sincerely appreciate your assistance and kindness.

Loan Tran (405) 429-9341

image.png
http://www.aadp.org

Another Case That Needs Bone Marrow Donor and Support - An Oanh Vu at GDPT Kim Quang.

Hi! My name is Allayah Phan and I am 9 years old. I was diagnosed with Severe Aplastic Anemia in March of 2014. My immune system has attacked my bone marrow and I no longer can produce enough blood cells on my own. I have gone through two rounds of ATG treatment to see if it will reverse my immune system, but so far no luck. My final option is a bone marrow transplant and at this time we have only found an 83% match in the whole world which means it's a higher risk for rejection. Rejection can cause damages to my internal organs and negative, long term effects to the external parts of my body. Please help me find a better match by signing up and testing to be on the bone marrow registry.  If you are unable to commit to being a donor, please help support our family with a donation during this rough time.

I currently attend Matsuyama Elementary School in Sacramento, CA and am in the 4th grade. I am a very bright and lovable young girl. I enjoy reading chapter books and watching movies with my family. My hobbies are decorating and designing things with arts and crafts. I have a dog named Boo that I love to play with. My favorite colors are blue and purple and my favorite type of candy is chocolate! I love to eat fish or pasta, but not usually together. I enjoy dancing on my free time and would like to be in a jazz and hip hop dance class.  I melt everyone’s heart that I meet, and my smile can brighten up any room.


Asian American Donor Program





Wednesday, April 15, 2015

The Passing of Drexel in Sacramento


The Passing of Drexel in Sacramento

Just a matter of time
Everything will not stay the same forever.
Spring, summer, fall, and winter
Materials, thoughts, ideas, and even institutions
altering and changing as the only constant is change
With sadness, the Drexel University Sacramento is passing
but its nuances and legacy live on
in the learning, practicing,
and contributing within all of us
from our local community to the world stage
With mindfulness, wisdom and compassion for all.

Friday, April 10, 2015

CHUNG MỘT NIỀM VUI

Chung một niềm vui - Photo: Bạch S. Xoa
CHUNG MỘT NIỀM VUI

Mẹ trầm tĩnh nhẫn nại
Mắt Mẹ cõi bồng lai
Mẹ vẫn cười và thở
Con cháu có ngày mai!


A GENTLE HAPPINESS
Mother--the virtures of 
equanimity and patience
Your eyes--the realm of heaven
Whenever you are still laugh and breathe
We, your descendants and continuations, have a future!

Tuesday, April 7, 2015

Tinh Hoa và Sắc Thái Tu Viện Kim Sơn


Tinh Hoa và Sắc Thái Tu Viện Kim Sơn
THAY LỜI MỜI THAM DỰ BUỔI CƠM CHAY GÂY QUỸ TẠI CHÙA PHỔ TỪ

            Năm rồi, chúng tôi ở Chùa Kim Quang, Sacramento về đảnh lễ Thầy Viện trưởng Tu Viện Kim Sơn, Sư Ông Thích Tịnh Từ, vì có vài Phật sự.  Có lần chúng tôi đã viết bốn câu thơ ngắn, Buổi Sáng Kim Sơn:
Tỉnh giấc sương mờ giăng khắp lối
Thông già cao vút hát vi vu
Kim Quang tâm địa chung một mối
Sơn thủy hữu tình trầm cõi Tu.
            Đúng thế, Tu Viện Kim Sơn là nơi un đúc nhân sự để hoằng dương Phật pháp tại xã hội tây phương, là một ngôi Già lam thanh tịnh đào tạo nhiều vị Tăng Ni đức hạnh tại Hoa Kỳ. Sư Ông Viện trưởng cho biết Tu Viện Kim Sơn, tọa lạc trên 30 mẫu Anh trên đỉnh núi Madonna, miền Bắc California, được thành lập vào ngày 10 tháng 10 năm 1983. Ở đây phong cảnh hữu tình, thiên nhiên hùng vĩ, và thật yên tĩnh đúng như cõi Thiền trầm mặc.
            Có lần chúng tôi phỏng vấn Thầy Viện trưởng cho luận án của mình, mới biết rằng vị sáng lập Tu Viện Kim Sơn cũng như 4 cơ sở khác là Thiền sư Thích Tịnh Từ. Thầy là đệ tử của Đại sư Viên Giác, vị khai sơn tổ đình Tu Viện Giác Hải tại Nha Trang, Việt Nam. Thầy xuất gia năm 14 tuổi và đã sống ở Hoa Kỳ trên 40 năm qua. Hồi đó, lúc mới có 24 tuổi, Thầy đã làm giáo thọ và giảng sư cho các Chùa và Tự Viện trong ở trong nước rồi Thầy tốt nghiệp Cao Đẳng Phật Học vào năm 1973 và du hóa Mỹ quốc năm 1974. Qua Hoa Kỳ, Thầy trụ trì ở Chùa Từ Quang ở Cựu Kim Sơn (San Francisco), rồi thành lập Tu Viện Kim Sơn để tiếp tục con đường Hoằng dương chánh pháp, nơi đây Thầy huấn luyện và đào tạo các lớp xuất gia và mở các khóa tu thiền quán cho Phật tử mọi giới, từ tổ chức GĐPT đến những người ngoại quốc, từ tuổi trẻ đến quý vị cao niên Việt Nam. Thầy là một trong những vị Thầy lớn đang có nhiều ảnh hưởng trong vai trò giáo dục tuổi trẻ và đại chúng Phật tử tại Bắc Mỹ và hải ngoại.

            Với tôn chỉ lợi lạc chúng sanh, hoằng dương chánh pháp, nên việc tu học là hàng đầu của Tu Viện. Ban giáo thọ bao gồm những vị thiền sư và các bậc thầy lớn trong đó có Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Cố Hoà thượng Thích Mãn Giác, Ôn Thích Thắng Hoan, Cố Hoà thượng Thích Thiện Thanh, Cố Hoà thượng Thích Thiện Trì, Ôn Thích Minh Đạt, Ôn Thích Tín Nghĩa, Ôn Thích Nguyên Hạnh, v.v…
            Tuy Tu Viện Kim Sơn đã xây hoàn tất ngôi nhà Đại Bi, nơi có đầy đủ tiện nghi cho các giới về cư trú tu học, nhưng Chánh Điện thì vẫn còn đang xây dựng và cần sự đóng góp nguyện lực và tài lực để sớm được hoàn tất viên mãn. Vì thế, trong hàng đại đệ tử của Thầy có Thượng toạ Thích Từ Lực, trụ trì Chùa Phổ Từ, người luôn thương yêu và bảo bọc tổ chức GĐPT, đã phát tâm cúng dường $100,000 Mỹ kim để phụ vào ngân quỹ xây cất. Đây là lời tâm sự thiết tha của Thầy khi kêu gọi “Huynh trưởng và Đòan sinh của 3 đơn vị Chánh Tâm, Chánh Đức và Chánh Hòa gây quỹ bằng cách rửa xe, góp nhặt lon nhôm… vào mùa hè. Với chúng Xuất gia, chúng con sẽ tổ chức bán garage sale, cơm chay gây quỹ sau lễ Thượng nguyên để cùng với Phật tử xa gần góp một chút công sức của mình trong việc xây dựng ngôi tổ đường Kim Sơn.
Nhưng trên hết, chúng con xin phát nguyện tu học chuyên cần, ngồi thiền, niệm Phật, tụng kinh Đại Bảo Tích, để hồi hướng công đức cầu nguyện hổng ân Tam Bảo gia hộ trên Sư Ông pháp thể khinh an, tuệ đăng thường chiếu, và Đại chúng ở Tu viện bền lòng vững chí, an tâm tu học, vui vẻ bên nhau.”
Vì thế, Thầy Từ Lực và Chùa Phổ Từ đứng ra tổ chức Tiệc Chay vào cuối tuần này để kêu gọi Phật tử đóng góp tịnh tài vào việc xây cất Chánh Điện của Tu Viện Kim Sơn với mục đích trước là Bày tỏ lòng Biết ơn đối với Công ơn Giáo dưỡng của Sư Ông Kim Sơn đối với đạo tràng Phổ Từ. Sau là Phụ giúp chút đỉnh tịnh tài trong công tác kiến tạo ngôi Chánh Điện làm nơi tu tập cho tứ chúng.

            Nói tóm lại, ngôi tòng lâm Kim Sơn là nơi tu học cho tứ chúng Phật tử, cho nhiều thế hệ, đem lại lợi ích Tâm Linh cho nhiều người. Tu Viện Kim Sơn luôn tổ chức những khoá tu thiền, hội thảo, an cư kiết hạ, tu học cho tổ chức GĐPT v.v… Tu Viện còn có Chương Trình Phật Pháp Ứng Dụng Trong Đời Sống do Tăng Đoàn Tu Viện Kim Sơn, Tu Viện Liên Trì tại Hoa Kỳ thực hiện bằng tiếng Việt và phát đi trên hệ thống truyền hình đài VBS (Vietnamese Broadcasting Service) qua làn sóng Satellite Galaxy 19. Frequency 12022 và Symbolrate 22000.
            Cuối cùng, chúng tôi rất mong quý vị phát tâm ủng hộ hoặc bảo trợ tôn chỉ của Tu Viên Kim Sơn để tứ chúng Phật tử có nơi tu học, tiếp tục quyết tâm thực hành, ứng dụng Phật pháp vào đời sống hằng ngày để lợi lạc cho mình và cho người. Mọi ủng hộ hay bảo trợ tài chánh, xin làm ơn gởi về hộp thư:
                        Tu Viện Kim Sơn
                        PO Box 1983
                        Morgan Hill, CA 95038
                        Điện Thoại: (408) 848-1541
                        E-mail: tvkimson@yahoo.com
                        Website: www.kimson.org
            Xin thành kính tri ân và hồi hướng công đức của quý vị. Nguyện tất cả sáu thời đều an lành.

Tâm Thường Định

p.s. đính kèm là Poster Chương trình Tiệc Chay



Thursday, April 2, 2015

Giới thiệu - Én Liệng Truông Mây của Vũ Thanh by Nguyên Lương


Kính gởi đến qúi thân hữu,
      Chương trình ra mắt tập trường thiên tiểu thuyết lịch sử của tác giả Vũ Thanh sẽ được tổ chức vào ngày 11 tháng 4 tại tư gia Nguyên Lương-Vân Các. Thư này Hoài Việt xin thông báo đến qúi vị ở xa không đến dự được. Một số ca khúc nổi tiếng của nhạc sĩ Vũ Thanh sẽ được trình bày bởi anh em văn nghệ sĩ Hoài Việt trong buổi tiệc. Nhà thơ Nguyễn Hoàng Lãng Du sẽ thay mặt Hoài Việt giới thiệu về tác giả, và một phần bài viết dưới đây sẽ được chính tác giả trình bày khi giới thiệu tác phẩm. 
Kính nhờ qúi nhà báo, những vị có phương tiện phát thanh, truyền hình cho đăng và phổ biến bài viết này rộng rãi để đưa tập sách gía trị đến người đọc và những thức giả quan tâm đến lịch sử nước nhà.
Nay kính, 
Thay mặt nhóm Hoài Việt
Nguyên Lương
Hân hạnh giới thiệu đến độc giả khắp nơi bộ trường thiên tiểu thuyết dã sử:

Én Liệng Truông Mây
tác giả Vũ Thanh

            Tham khảo hơn 20 tài liệu, viết ròng rã trong 20 tháng, mùa Xuân năm 2014 nhà văn, nhạc sĩ Vũ Thanh đã cho ra mắt một tuyệt tác phẩm đồ sộ Én Liệng Truông Mây gồm 4 tập, dài gần 2000 trang sách. Bốn tập Én Liệng Truông Mây đã được xuất bản mới chỉ là phần một trong bộ trường thiên tiểu thuyết lịch sử nhan đề Tây Sơn Tam Kiệt gồm ba phần: Én Liệng Truông Mây, Nhất Thống Sơn Hà, Gia Định Tam Hùng. Viết về một thời đại nhiễu nhương của một cung Vua Lê, hai phủ Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn, thời nước Ðại Việt bị chia cắt Đàng Trong, Đàng Ngoài mà trong chính sử đã có rất nhiều thiếu sót hay cố tình che dấu, thật không dễ chút nào. Vũ Thanh đã phải vất vả, lặn lội đi tìm những chi tiết lâu nay chỉ được dân gian truyền miệng hay từ những tài liệu chưa từng được đưa ra ánh sáng để hoàn thành cốt chuyện cho thật khả tín và hấp dẫn người đọc. Những huyền thoại lịch sử của hơn 30 năm từ lúc khởi nghĩa đến thống nhất đất nước của triều đại Tây Sơn oanh liệt, đã bị vua quan nhà Nguyễn Gia Long che dấu, bôi nhọ hay cố tình bóp méo, bỏ quên, nay được nhà văn Vũ Thanh viết lại và làm sáng tỏ hơn dưới hình thức của một trường thiên tiểu thuyết. Cùng một phong cách viết của những bộ truyện tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng của Trung Hoa như Hán Sở Tranh Hùng (Mộng Bình Sơn dịch) hay Thủy Hử (tác gỉa Thị Nại Am, Kim Thánh Thán dịch), tác giả đã dựa vào một số nhân vật lịch sử có thật và những biến động của thời cuộc, hư cấu thêm vào những câu chuyện theo truyền thuyết của dân gian, để đưa người đọc trở về với lịch sử hình thành xứ Ðàng Trong của Chúa Nguyễn. Tuy nhiên, Vũ Thanh đã không chỉ tiểu thuyết hoá câu chuyện lịch sử thời đó, mà bàng bạc trong 2000 trang sách, tác giả đã vẽ lại một xã hội rất linh động của thời dân tộc ta mở nước tiến vào phía Nam. Triết lý sống, phong cách, và tinh thần khai phóng của con người Ðại Việt thời chúa Nguyễn đã được phát họa rất đầy đủ cho ta thấy nhờ đâu mà dân ta đã tóm thâu hết phần phía Nam của nước Việt ngày nay từ tay người Chiêm Thành, người Miên mà không tốn một giọt máu. Và nhờ đâu mà những người Hoa gốc Minh Hương, đã đến và khai khẩn vùng Lục tỉnh trước chúng ta, đành phải chịu thuần phục làm bầy tôi và dâng đất cho chúa Nguyễn.

            Theo chính sử thì năm 1600, tướng Nguyễn Hoàng vì lo sợ ông anh rể là Trịnh Kiểm sát hại nên đã xin Vua Lê đem quân vào đóng ở Thuận Hoá, nói là tình nguyện đi làm tướng trấn biên cương giữ an ninh mặt phía Nam chống lại quân Chiêm Thành quấy nhiễu. Rời xa Thăng Long, Nguyễn Hoàng đã âm thầm xây dựng Ðàng Trong thành một thế lực độc lập, vững mạnh, từ từ mở rộng đất nước từ sông Gianh trở vào tận miền Nam với mục đích là phò nhà Lê nhưng thực chất là đối đầu với thế lực chúa Trịnh Ðàng Ngoài. Sau 50 năm đầu chia đôi đất nước, chiến tranh huynh đệ tương tàn, khốc liệt hai bên bờ sông Gianh, cuối cùng cả hai chúa Trịnh, Nguyễn đã chấp nhận đất ai người đó ở. Hơn 120 năm sống trong hòa bình, 9 đời chúa Nguyễn đã có công mở mang bờ cõi, giao tiếp buôn bán với phương Tây, tạo dựng một Ðàng Trong thịnh vượng vững vàng. Ðến đời chúa Võ Vương do nhu nhược, ham chơi, đã bị quyền thần Trương Phúc Loan lấn áp, thao túng, lũng đoạn triều đình, vơ vét của dân làm của riêng bằng sưu cao thuế nặng làm cho dân tình lầm than, ai  oán. Thuận theo lòng người, năm 1771 anh em nhà Tây Sơn nổi lên khởi nghĩa từ Qui Nhơn và 2 năm sau chiếm được thành. Năm 1774 chúa Trịnh nhân cơ hội thấy Ðàng Trong suy yếu đem quân vượt sông Gianh đánh vào Nam và chiếm được thành Phú Xuân. Quân Tây Sơn giả vờ thuần phục chúa Trịnh, dồn hết sức lực tấn công Chúa Nguyễn. Năm 1777 hai chúa Nguyễn Phúc Thuần và Nguyễn Phúc Dương lần lượt bị Tây Sơn bắt giết. Nguyễn Ánh kế vì lên ngôi vương nhưng bị Tây Sơn đánh đuổi chạy qua trốn ở Xiêm La. Cuối cùng, năm 1786 chúa Trịnh Ðàng Ngoài cũng bị Tây Sơn tiêu diệt, chấm dức tình trạng chia đôi đất nước và thống nhất sơn hà. Tính từ khi chúa Trịnh Tráng đem quân đánh chúa Nguyễn Phúc Nguyên năm 1625, đến khi nhà Tây Sơn dẹp được cả chúa Nguyễn lẫn chúa Trịnh vừa đúng 160 năm chia cắt trong ngoài.

Tại sao Vũ Thanh phải viết Én Liệng Truông Mây

            Lịch sử loài người luôn lập lại: "nơi nào có áp bức, nơi đó có đấu tranh". Trong suốt bề dày của lịch sử Ðại Việt, bất cứ triều đại nào làm mất lòng dân là thời đó có loạn biến, khởi nghĩa. Sống trong cảnh lầm than, cơ cực lại bị hiếp đáp, bóc lột, nhũng nhiễu, nhiều sĩ phu áo vải đã tập hợp nông dân chỉ với gậy gộc, tầm vông đã dám nổi lên chống lại triều đình trung ương. Nhiều cuộc khởi nghĩa bị dẹp tan, thủ lãnh bị phanh thây, nhưng ý muốn đổi đời, cứu người, thay đổi xã hội đã hun đúc bao anh hùng lớp lớp đứng lên làm lịch sử. Thời hậu bán thế kỷ 18, ở Ðàng Trong, Quốc Phó Trương Phúc Loan và bè lũ cậy quyền áp bức phủ Chúa, hà hiếp và bóc lột dân lành là cơ hội tốt cho nông dân nổi dậy. Nhiều phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân chống triều đình Chúa Nguyễn nổ ra liên tục, trong đó tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa ở Truông Mây do Chàng Lía lãnh đạo. Cuộc khởi nghĩa chợt phát, vội tàn, nên trong chính sử, thời sử cũng như hậu sử không có ghi chép nhiều về cuộc binh biến này. Nhưng riêng với người dân Ðàng Trong, nhất là người dân xứ Qui Nhơn, Bình Ðịnh, nơi thủ lĩnh có tên là Chàng Lía đã hợp cùng anh em nổi dậy ở Truông Mây, Hoài Nhơn, thì câu chuyện về cuộc khởi nghĩa này vẫn được truyền tụng trong mãi mãi dân gian.

            Là người con được sinh ra từ vùng đất võ Bình Ðịnh, Vũ Thanh đã đem hết tâm huyết, tìm tòi, nghiên cứu viết lại những dữ kiện, làm rõ những bí ẩn, giải thích những khúc mắc của giai đoạn lịch sử hào hùng nơi quê hương mình. Sách sử của các triều đại thường được các sử gia viết với mục đích kể công, đánh bóng thành qủa của vua quan thời đại mình. Những gì thiếu tính tích cực thường bị các sử gia thời đó dấu nhẹm hay bóp méo. Hãy nhìn một triều đại Tây Sơn oai hùng, rạng rỡ, vững mạnh đã làm cho nước Xiêm La ở phía Nam bạt vía, tiêu  hồn, và nhà Thanh ở phía Bắc nể nang, kiêng dè mà vua tôi nhà Nguyễn Gia Long đã chỉ ghi lại trong sách sử như một bọn thảo khấu loạn thần, một đám "ngụy" không hơn không kém, thì với cuộc khởi nghĩa của Chàng Lía bị coi là bọn giặc cỏ, không cần nhắc tới, không có gì lạ. Nhà biên khảo Quách Tấn, người gốc Qui Nhơn, trong Non Nước Bình Ðịnh cũng chỉ nhắc đến câu chuyện Chàng Lía đã khởi nghĩa và thất bại trong vài trang sách, dựa vào hai câu ca dao truyền miệng trong dân gian:
"Chiều chiều én liệng truông mây
Cảm thương chú Lía bị vây trong thành"

            Với Vũ Thanh, câu chuyện Chàng Lía không phải đơn giản chỉ có thế. Muốn hiểu biết sâu xa về nguyên nhân cuộc khởi nghĩa đưa đến thành công vang dội của anh em nhà Tây Sơn bắt đầu từ năm 1771 chống lại Phú Xuân, trước hết phải biết rõ về cuộc khởi nghĩa và nguyên nhân thất bại của anh em Truông Mây trước đó vài năm. Theo tác giả, Chàng Lía và Nguyễn Nhạc ở đất Tây Sơn sinh ra cùng thời, chơi với nhau cùng những người bạn thơ ấu trong làng. Dù là bạn nhưng hai con người có hai nguồn gốc, tư tưởng, sở học, gia thế, hoài bão rất khác nhau nên kết cuộc thành, bại cũng khác nhau. Trong bộ  trường thiên tiểu thuyết lịch sử Tây Sơn Tam Kiệt, tác gỉa đã dành đến 4 tập sách dày viết về tình trạng xã hội, dân tình, thế thái và những điều kiện lịch sử chín mùi để sau này Tây Sơn dựng cờ khởi nghĩa được thành công. Nói cách khác, muốn biết nhờ đâu mà nhà Tây Sơn đã khởi nghĩa thành công thì phải biết đến nguyên nhân dẫn đến thất bại của cuộc khởi nghĩa Truông Mây.
            Vì mồ côi cha, phải cùng mẹ lưu lạc, sống trong nghèo đói, bị xã hội khinh rẻ, chà đạp nên Lía nuôi lòng thù ghét bọn nhà giàu, trọc phú và quan quyền. Lía nổi loạn cùng với anh em với một mục đích là cướp của nhà giàu chia cho dân nghèo, như một Robinhood của đất Ðại Việt. Tác giả đã phân tích cặn kẽ về tâm lý nhân vật, cá tính của những thủ lãnh, cũng như tất cả những chiến thuật, chiến lược mà Truông Mây đã sử dụng để chống lại triều đình, vốn đã suy yếu và mục rữa từ bên trong bởi bọn tham quan ô lại. Với thời cơ thuận lợi đó, Truông Mây đã nâng cao chí hướng, từ cướp của nhà giàu phát cho nhà nghèo, họ đã muốn đánh đổ cả triều đình mục nát để lập lại một xã hội mới, giúp người dân nghèo có được một cuộc sống ấm no. Nhưng những anh hùng, hiệp sĩ của Truông Mây đã thất bại. Vì theo tác giả thì: "anh hùng thì nhiều nhưng chơn chúa chỉ có một". Cho nên điều kiện xã hội tuy đã chín muồi để thay đổi nhưng nó vẫn phải cần một vì chơn chúa xuất hiện. Và theo cái động lực vô thức của lịch sử cùng sự phát triển xã hội, Nguyễn Nhạc, người anh cả của ba anh em Tây Sơn đã xuất hiện như một vì chơn chúa để tiếp nối tinh thần Truông Mây, dẫn đến Nhất Thống Sơn Hà.

Thông điệp của Vũ Thanh trong Én Liệng Truông Mây

            Mục đích của tác giả khi viết Én Liệng Truông Mây không đơn thuần chỉ để "mua vui cũng được một vài trống canh". Bàng bạc trong gần 2 ngàn trang sách Vũ Thanh nói đến thảm cảnh bôi mặt đá nhau của con dân nước Việt có thể sẽ đưa đất nước đến hoạ diệt vong. Trong 4 tập sách tác giả luôn nhắc nhớ đến tính đoàn kết, một yếu tố tối cần thiết để đất nước trường tồn và duy trì tinh thần bất khuất của dân tộc Ðại Việt.

            Ðể biện minh cho dũng khí của đám nghĩa binh Truông Mây nổi loạn, Vũ Thanh đã viết theo lời trần tình, biện minh của Chàng Lía cho công cuộc nổi dậy: "...Mọi người sinh ra đều có quyền được bình đẳng. Từ vật chất đến tinh thần. Sự nghèo khó của một vài cá nhân đơn lẻ còn có thể qui cho số mệnh, nhưng cả một tập thể to lớn nghèo khổ, chỉ có một số ít người quyền hành giàu có, thì đó là sự bất công chứ không còn là số mạng nữa. Sự bất công ấy được tạo ra bỡi một số ít kẻ đang nắm quyền hành trong tay..." (tr. 54, tập 4). Cái triết lý sống và dấn thân đó của sĩ phu, với thời đại nào cũng đúng, không chỉ riêng thời Trương Phúc Loan tiếm quyền chúa Nguyễn. Thượng bất chánh, hạ tất loạn, người dân chống lại hôn quân và sẵn sàng nổi loạn vì muốn đòi lại cái quyền được sống an lạc, thảnh thơi, không bị nhũng nhiễu, hà hiếp. Viết về những hiệp sĩ trong tập thể Truông Mây, tác giả nhấn mạnh: "...Cái đạo lý của giới anh em Truông Mây là trừ ác hành thiện, cứu khốn phò nguy, bênh vực người nghèo khó. Họ bất cần Vua hay Chúa, nếu Vua Chúa chỉ là bọn tàn bạo làm hại muôn dân như triều đình Phú Xuân và Thăng Long..." (tr. 35, tập 4). Một triều đại muốn cho dân thuận theo thì người đứng đầu phải là một minh quân, nói dân nghe, làm dân theo, và ngược lại.

            Trong câu chuyện Chàng Lía, tác giả không nhằm khai thác và lý giải tại sao người Việt chia rẽ chém giết nhau, mà đã dùng đó làm cái cớ kêu gọi người dân Nam phải đoàn kết, để cùng nhau chiến đấu chống ách thống trị phân quyền của hai phủ Chúa, có thể đưa đến họa diệt vong đến từ phương Bắc. Diệt vong không phải chỉ xảy ra khi mất chủ quyền, lãnh thổ mà đã xảy ra khi người dân quên mất văn hóa và cội nguồn của mình. Vì không biết mình là ai, cần phải làm gì để được trường tồn. Viết lại lịch sử trong thời buổi trong ngoài phân tranh, nêu những quan hệ mật thiết giữa vua quan Ðàng Trong với Thanh triều hơn là triều đình Vua Lê, Chúa Trịnh Ðàng Ngoài, tác giả đã nhắc nhở cho con dân nước Việt nhớ rằng: dầu ở Đàng Trong hay Đàng Ngoài vẫn là con dân một nước Ðại Việt, và chuyện chia cắt, phân tranh chỉ là giai đoạn.
            Trước hiểm họa lấn chiếm từ một nước lớn luôn rình rập, buộc nước nhỏ phải mở mang bờ cõi cho đủ lớn mạnh để gồng mình chống lại ngoại xâm. Người dân Việt thời ấy từ miền Bắc di cư vào miền Trung, rồi từ miền Trung vô miền Nam, khai phá mở đường, biến  những vùng đất bị hoang hóa do người Miên bỏ đi thành những cánh đồng lúa màu mỡ nuôi sống một Ðàng Trong từ sông Gianh trở vào. Một giai đoạn di dân vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc mà từng đoàn người, đa số là những tội nhân bị đày ải, những người hành khất không nhà, dân nghèo khổ không ruộng cày...theo thuyền buôn thuận gió bấc vào tận Giản Phố, Gia Ðịnh, Trấn Biên...rồi mở đường, mở cõi, đến tận mũi Cà Mau . Họ đã sống hòa thuận như anh em một nhà, chung lưng với người dân Miên, dân Chiêm và cả người Hoa đã đến miền Nam trước và cùng nhau biến những vùng đất mặn phù sa thành những cánh đồng bát ngát. Nơi vùng đất mới lập, thiếu phép tắc, kỷ cương, luật lệ, đã không thiếu những cuộc tranh giành quyền lợi đẫm máu của những nhóm người. Nhưng với tinh thần khai phóng, rộng mở và dĩ hoà vi qúy, dân di cư Ðại Việt đã hóa giải được hết những khác biệt về văn hóa, phong tục với các nhóm dân khác và tất cả đều quay về tuân phục triều đình trung ương Ðàng Trong.

            Nhìn lại lịch sử ta thấy trong cái rủi có cái may, sau suy vong tất đến thời hưng thịnh. Giả sử nếu đầu thế kỷ thứ 17 không có chuyện tướng Nguyễn Hoàng (Chúa Tiên) xin vào miền Trung lánh nạn, để rồi nhân cơ hội nước Chiêm Thành tự diệt và nước Cao Miên có nội loạn thì biên giới nước Ðại Việt cùng lắm cũng chỉ tới Qui Nhơn nơi vua Lê Thánh Tông đã đánh chiếm được thành Chà Bàn năm 1471 và đưa di dân từ miền Bắc vào đây khai khẩn. Nhu cầu mở cõi vào tận miền Nam để đủ mạnh chống lại vương triều Ðàng Ngoài là công trình mở rộng đất nước vĩ đại nhất của lịch sử dân Việt. Công lao mở nước của 9 đời Chúa ở Ðàng Trong, đến đời Nguyễn Phúc Thuần (Chúa Ðịnh), đã bị ô uế. Một tên Quốc Phó Trương Phúc Loan tham quyền đã làm mất lòng dân, tạo cơ hội nổi loạn của nhóm nghĩa sĩ Truông Mây Chàng Lía để mở màn cho anh em Tây Sơn khởi nghĩa liền sau đó và thống nhất sơn hà.
 
            Chàng Lía là hình ảnh của một sĩ phu phải hành động khi quốc gia suy vong. Lía là hiện thân của người nông dân thất học, nghèo hèn, nhưng làm đúng việc mà nhân dân mong đợi nên khi đứng lên đã nói dân nghe, làm dân theo. Lía không có tham vọng làm vua, Lía chỉ muốn giúp đám dân nghèo bằng một tấm lòng hiệp nghĩa, một tình thương to lớn của một người hiệp sĩ, của một kẻ đồng bệnh tương lân. Cho nên, dù sau này Truông Mây đã có một người quân sư tài ba như Trần Lâm, cuộc khởi nghĩa cuối cùng cũng đành thất bại chỉ vì lòng thương người của vị chủ tướng Lía, khi họ vừa chiến đấu chống triều đình, vừa phải chia xẻ lương thực nuôi đám dân nghèo tụ tập đến nương nhờ, những người dân mà lẽ ra triều đình phải có bổn phận nuôi nấng họ. Truông Mây không thành công, nhưng đã cho những anh hùng thời đại ấy biết nỗi khát khao muốn vùng lên của người dân, và công việc lật đổ một bạo quyền đã mục rữa, mất lòng dân, rất cần thiết và có thể thực hiện được. Thời đại nào cũng có người tài. Ðất nước càng loạn lạc, người tài xuất hiện càng nhiều. Ðất nước thái bình, người dân sống an lành, sĩ phu ra làm quan để vỗ về và chăm lo cho bá tánh. Hình ảnh những người hiệp sĩ trong Én Liệng Truông Mây là hình ảnh của những sĩ phu thời đại, ý thức được vai trò cần phải nhập thế, đi làm cách mạng. Những sĩ phu văn võ song toàn, bên những mỹ nhân sắc đẹp nghiêng thành, thế mà họ vẫn không bị sắc dục cám dỗ, coi nhẹ tình cảm gái trai, hy sinh cuộc sống riêng tư mà mưu cầu đại cuộc.
            Với một đất nước nước nhỏ bé trong tình trạng phân tranh, những anh hùng liệt nữ thời đó đã sớm ý thức: muốn cho tổ quốc trường tồn, trước hết là phải làm sạch xã hội. Bọn tham quan là cặn bã, ung nhọt cần phải bị tiêu diệt, để chấn hưng kinh tế, giúp quốc thái dân an, mới mong có được một nội lực hùng mạnh hầu giữ vững cõi bờ. Khi lòng dân đã qui về một mối, Vua của nước Ðại Việt không còn phải qùy lụy xin làm và được ban cho chức An Nam Quốc Vương từ nước lớn ban quyền, như bố thí, mà phải là một vị Hoàng Ðế toàn quyền, oai dũng, không còn phải lệ thuộc vào ai. Từ thời lập quốc, cho đến cận sử, duy nhất chỉ có thời nhà Tây Sơn, sau khi thống nhất sơn hà đã xưng Ðế (Trung Ương Hoàng Đế Nguyễn Nhạc) mà không cần sự ưng thuận hay chấp chiếu của triều đình phương Bắc. Ðó là một thời oanh liệt vẻ vang nhất của dân tộc, người dân Ðại Việt đã ngẩng cao đầu không biết sợ ngoại bang. Muốn được như thế, không phải chỉ có người cầm quyền tài giỏi mà toàn dân phải cùng chung sức, quyết tâm và đoàn kết một lòng. Rủi thay, những thời hoàng kim như thế rất hiếm, và nếu có cũng không dài, trong lịch sử hình thành nước Ðại Việt.

Một tiểu thuyết lịch sử cần phải đọc

   Người ham mê đọc sách kiếm hiệp sẽ tìm thấy trùng trùng trong Én Liệng Truông Mây những cảnh so tài, tranh phân tuyệt kỹ, giữa những cao thủ võ lâm. Những đường roi, bài quyền, khinh công, phi tiêu ... của những hiệp sĩ nước Việt khi đụng độ với những tay anh chị cát cứ trong vùng đất mới. Trên đường thiên lý từ miền Trung vào Nam, những sĩ phu thời đó phải đấu tranh liên tục và chống chọi thường xuyên với tàn dư quân Chiêm Thành còn sót, những lãnh chúa người Hoa trong nhóm phản Thanh phục Minh lánh nạn, và tham vọng lấy lại vùng đất đã mất của người Cao Miên. Những trận đấu quyền so tài cao thấp trên khán đài, những lần tập kích bọn buôn lậu, thảo khấu, quan quyền... được tác giả, với một bút pháp tài tình, diễn tả từng chi tiết như đưa ta về thời mở cõi và như người khán giả được chứng kiến tận mắt.
            Ðơn cử một cảnh "biểu diễn" võ thuật sau đây được tác gỉa mô tả giữa một bên là tráng sĩ người Việt, một bên là cao thủ người Hoa: " ...Trần Nguyên Hảo rút thanh Ô Long Ðao ra khỏi vỏ. Một tiếng ngân trầm vang lên mang theo một luồng hơi lạnh xoáy buốt màng nhĩ. Thanh đao đen tuyền một màu từ cán đến lưỡi, trông rất nặng nhưng có vẻ không sắc bén lắm, dù thế thanh đao vẫn toát lên một sự cương mãnh uy nghi. Ông rung mạnh tay đao ra chiêu tấn công tên đại ca Lãnh Diện Truy Hồn. Tên cầm đầu thấy đường đao dũng mãnh của Nguyên Hảo vội vàng thoái lui một bước né tránh rồi vung kiếm phản công..". (tr. 18, tập 1).

            Không chỉ nói chuyện đánh kiếm so tài cao thấp đời nay, tác giả đã đưa người đọc về với qúa khứ huy hoàng xa xưa với những tài sản trí tuệ bị bỏ quên, nay nhân dịp nhắc nhớ đến lịch sử của một dân tộc Bách Việt oai hùng:
"...Kỹ thuật luyện kiếm đúc gươm của dòng Bách Việt đã đạt đến trình độ rất cao như Âu Dã Tử nước Việt, Cao Lỗ nước Âu Lạc chẳng hạn. Về sau người Hán thống trị Trung Nguyên và các nước nhỏ lân bang nên đã sở hữu luôn kho tàng trí tuệ đó. Họ đã cố xóa đi hoặc bưng bít, cấm đoán các dân tộc nhỏ nhắc nhở về cội nguồn tinh hoa trí tuệ của tổ tiên mình. Cho nên lâu dần chúng ta cứ ngỡ rằng những tài năng và tài sản qúi báu kia là của người Hán..." (tr. 60, tập 2).

            Những cảnh trai tài gái sắc cùng ngắm trăng trên sông nước hữu tình cũng được thi vị hoá làm cho câu chuyện chiến tranh thù hận và chết chóc giảm bớt đi cường độ. Khi tả cảnh chia ly giữa đôi trai tài gái sắc, Vũ Thanh đã khéo léo lồng vào đó một hình ảnh dứt khoác của anh hùng Trần Lâm quyết quên mình vì thù nhà, nợ nước và một bên là tấm lòng trung trinh dâng hiến trọn vẹn cho người mình yêu một cách âm thầm của cô tiểu thư tuyệt sắc Tiểu Hồng:
"...Trăng đã nhú lên, họ ngồi im lặng ngắm trăng, không nói thêm một lời nào nữa. Cho đến lúc mặt trăng tròn vành vạnh treo cao trên đỉnh núi, họ thả ngựa chầm chậm trở về. Hôm sau, Trần Lâm gĩa từ mọi người ra đi, Tiểu Hồng bày một cuộc rượu nhỏ tiễn đưa. Ðêm đó qua màn nước mắt, dưới ánh bạch lạp nơi cô phòng, Tiểu Hồng đã gói gọn cảnh chia li ấy bằng mấy dòng thơ:
Run tay chuốc chén đăng trình
Cõi lòng nhi nữ mông mênh giọt sầu
Người đi cố bước đi mau
Người về trắng những canh thâu nhớ người
Ðường tình nay đã chia đôi
Gặp nhau chi để ngậm ngùi mất nhau..
(tr. 328, tập 3).

            Dầu đã quyết chí lên đường dấn thân trong thời đại nhiễu nhương, những hiệp sĩ thời Truông Mây khởi nghĩa không chỉ đi tìm cái sống trong cái chết, họ vẫn ung dung với bầu rượu túi thơ, đúng nghĩa với cái thú tiêu dao thi tửu, mỗi khi có dịp. Ðọc một đoạn sau đây để xem tài Vũ Thanh tả cảnh uống rượu của một dũng sĩ qua sông và ông lão lái đò trên bến My Lăng, trên dòng sông Côn thơ mộng: "Trần Lâm nâng chung rượu lên môi, một cảm giác mát lạnh truyền qua những ngón tay, một mùi hương vừa thoảng vừa nồng bốc lên mũi thật khoan khoái. Chàng nhấm môi một chút, vị nồng nàn, lăn tăn tê nơi đầu lưỡi. Uống trọn chung hơi ấm đã theo chất rượu chạy dần xuống bao tử sau đó lan tỏa khắp châu thân. Chàng "khà" lên một tiếng và đặt chung xuống bàn..." (tr. 354, tập 3).
  
            Ðể lý giải một phần sự thất bại của nghĩa sĩ Truông Mây, tác giả mượn lời của thầy giáo Hiến, thầy dạy học cho Nguyễn Huệ, một bộ não của phong trào Tây Sơn sau này, nói với Nguyễn Nhạc như để nhắc nhở: "...Làm hiệp sĩ khác với làm chiến sĩ cách mạng. Làm chiến sĩ cách mạng thì thắng lợi là trên hết, đôi khi phải đạp lên trên mọi thứ để đi tới đích. Còn hiệp sĩ thì thấy việc nghĩa dẫu chết cũng không từ. Chính cái tinh thần ấy đã đẩy Truông Mây vào thế kẹt hiện nay là phải vừa chuẩn bị đánh giặc vừa nuôi một đàn con đông, trong khi nhà lại chật và nghèo. Họ vì lòng nghĩa hiệp mà đứng ra gánh vác miếng ăn cho hàng vạn người nghèo sắp chết đói, đây là một nghĩa cử cao đẹp, nhưng chính nghĩa cử ấy sẽ đẩy họ vào chỗ chết..." (tr.. 239, tập 4).

            Về phần của thủ lãnh Truông Mây, sau khi bị quân binh triều đình đánh bại, đồng bọn bị thảm sát, chỉ còn: "Lía cõng Trần Lâm băng mình trong đêm khuya, lòng hoảng loạn tơi bời. Mới ngày nào, thành Truông Mây còn sừng sững, rực rỡ tinh kỳ, anh em đông đủ, hào khí ngất trời mà nay chỉ sau một đêm đã tan nát, vùi chôn dưới đống tro tàn. Hơn bốn ngàn nghĩa sĩ giờ chỉ còn lại một mình chàng và Trần Lâm đang im lìm trên lưng chưa biết sống chết ra sao. Bao nhiêu hình ảnh tang thương, chết chóc, cứ quay cuồng trong đầu, những cái chết thê thảm của anh em nghĩa binh, xác của người vợ mà chàng thương yêu hết mực bị giẫm nát..." (tr. 442, tập 4).

            Chàng Lía chết, Truông Mây tan rã, nhưng đó chỉ mới là sự chấm dứt của một biến cố trong trang sử Việt để chuẩn bị mở một trang sử khác mãnh liệt hơn, oai hùng hơn. Chàng Lía mất đi đã hơn 240 năm qua, nhưng âm vang và ảnh hưởng của cuộc khởi nghĩa của những anh hùng Truông Mây, trong tâm trí người dân đất Bình Ðịnh đến nay vẫn chưa phai nhạt. Vũ Thanh đã dựng lại cho ta thấy những thảm cảnh lịch sử, những sai lầm của các triều đại, những  nỗi đớn đau và chịu đựng của người dân cùng khổ thời đó để chỉ mong một điều là thời nay con dân Việt sẽ học được bài học, để vết nhơ của lịch sử không còn tái diễn.

            Với những ai có lòng thương dân, yêu nước, hãy đọc những lời chàng hiệp sĩ Trần Lâm đã khóc và thề với vong linh người thân: "... Cha mẹ và em hãy yên lòng nhắm mắt, con sẽ dùng thanh kiếm này để tiêu diệt lũ sâu dân mọt nước, đem lại thanh bình, cơm no áo ấm cho muôn dân. Con đã vĩnh viễn mất đi gia đình nhỏ thì nhất định sẽ xây dựng cho bằng được một gia đình lớn. Ðó là quốc gia, là dân tộc này..." (tr. 12, tập 4).

            Vũ Thanh đã đem tâm huyết, trí tuệ và trải lòng mình trên những con chữ, chuyên chở tâm tình, mơ ước cũng như hoài vọng, rằng: muốn luận về tương lai ta phải biết và thuộc lịch sử của qúa khứ. Những bài học lịch sử luôn đáng gía, chỉ vì không học hết để biết, hay học rồi quên, nên nhiều lãnh tụ đã thất bại chua cay. Là người đọc, bổn phận chúng ta là tiếp tay với tác giả để phổ biến tác phẩm này càng rộng, càng nhiều, càng xa, càng tốt. Ðó là một nghĩa cử không khó lắm để làm.

            Tác giả Vũ Thanh tâm sự: "Dã sử mang tính trí tuệ giống như một lối mòn, đi nhiều, đi hoài, lối mòn đó sẽ thành quan lộ dẫn tới lịch sử". Người Tàu gần đây rất thành công khi đã hoàn thành những bộ phim hấp dẫn lôi cuốn, thu hút người xem. Họ cho dựng lại những câu chuyện lịch sử, đa số là hư cấu, tuyên truyền về một nước Trung Hoa thật vĩ đại, hào hùng để quảng bá hình ảnh một nước Trung Hoa đã lớn mạnh như thế từ mấy ngàn năm trước. Phương tiện giải trí tưởng vô thưởng vô phạt này đã giúp cho người Tàu đánh bóng hình ảnh, cùng lúc biện minh cho công việc bành trướng lãnh thổ, lấn chiếm lân bang của Bắc Kinh gần đây như là việc phải làm của một nước lớn mạnh trong vùng đối với những nước nhỏ yếu kém như thời xa xưa đã làm. Qua phương tiện truyền thông, và bị ảnh hưởng bởi phim ảnh, đa số người Việt vô tình đã hiểu lịch sử Tàu còn rõ hơn lịch sử nước nhà. Đó là nỗi đau nhược tiểu! Cho nên  những đóng góp của tác giả Vũ Thanh trong tác phẩm Én Liệng Truông Mây đã thổi một luồng gió mới vào nền văn học dã sử nước nhà, giúp đẩy lùi ảnh hưởng văn hóa mang tính truyền bá ngoại lai.

 Dân Việt phải thuộc sử Việt nếu không muốn bị vong bản, mất gốc, đưa đến mất nước.

Ðó là cũng là những hành động vì đại cuộc, quốc gia, và dân tộc này vậy.

Nguyên Lương
Horsham, tháng 4, 2015

Tuesday, March 31, 2015

Sau Tết, Thở Cười Cùng Mẹ - After Lunar New Year (Tết), Breathe and Smile with Mother



Sau Tết, Thở Cười Cùng Mẹ

Nắng vàng bao khắc khoải

Hồng đỏ nhuỵ phấn rơi

Tóc xanh giờ bạc trắng 

Cam chuối vàng lẻ loi.

After Luna New Year (Tết), Breathe and Smile with Mother

Sunshine fills with anxious
Red roses' petals, stigma, pollens—falling.
Mother's once beautiful black hair
now turns completely white,

Orange and banana are ripening (goldening) its isolation.

Friday, March 27, 2015

Mindful Leadership and Vietnamese Buddhist monks' leadership practices and contributions to the Larger Society

Mindful Leadership and Vietnamese Buddhist monks' leadership practices and contributions to the Larger Society

https://www.youtube.com/watch?v=_4vREhoewU8

Monday, March 23, 2015

NEW BOOK ABOUT EDUCATING THE YOUTH - GIÁO DỤC TUỔI TRẺ PHẬT GIÁO


LỜI NGỎ: Có thể hình tượng hóa việc giáo dục như gieo hạt, ươm mầm, tưới tẩm cho cây lá hạnh phúc của đời người riêng/chung được tươi nhuận, vươn lên lớn mạnh, trổ hoa ra trái. Đời người riêng/chung đó chỉ thực sự hạnh phúc khi không còn vướng mắc với khổ đau, thân tâm thực sự thanh thoát, an lành.

Nếu giáo dục là trao truyền và thu nhận sự hiểu biết cần thiết về kiến văn và đạo lý với mục tiêu giúp cá nhân và cộng đồng con người sống yên hòa, hạnh lạc thì Phật giáo hẳn đáp ứng dễ dàng tiêu chí này. Giáo dục đời thường không chỉ đòi hỏi học và biết ròng lý thuyết, mà phải thực hành hay từ hiểu biết thụ nhận mà phát kiến, sáng tạo. Phật giáo cũng thế, thu liễm giáo pháp phải đi đôi với tinh tấn tu dưỡng hành động (thân, khẩu) và tư tưởng (ý), chế ngự tham, sân, si (tam độc), lưu tâm đến trí-hữu-sư lẫn trí-vô-sư.  

Nhưng nếu thu gọn trong một số giáo thuyết vạn năng của Phật pháp, xem đó là những giải đáp ưu việt cho giáo dục, e là phiến diện. Những bài tham luận trong tập sách này đã mở rộng vấn đề giáo dục Phật giáo đậm tính nhân văn và đức lý, theo tầm nhìn Khế lý-Khế cơ-Khế thời. Hướng vọng của giáo dục Phật giáo không chỉ là yêu cầu bức thiết cho sự tự hoàn thiện bản thân (tự giác) đến việc truyền dạy (giác tha) trong gia đình, đoàn thể, quốc gia mà còn vươn rộng tới toàn cộng đồng nhân loại (chúng sinh hữu tình) khi tham vọng, khổ đau, điêu linh vẫn còn đầy rẫy. Giáo dục Phật giáo cũng không chỉ nhắm vào hiệu quả hiện tiền, đương thời, hay cục hạn trong một hay vài thế hệ tương lai, mà còn nhắm tới hiệu quả nối dài trong vô hạn kiếp người. Cốt tủy giáo pháp của Như Lai khi nhằm giải trừ mọi lệch lạc, hư hỏng của thân tâm con người, trải qua hơn 2500 năm, đã mang tính phổ biến, đa năng, đa hiệu, thích nghi mọi thời đại, mọi quốc độ, mọi lúc và nơi Phật giáo du nhập. Và, giáo dục Phật giáo đương nhiên cũng đi theo lộ trình linh hoạt, nhu nhuyến, dung hợp, tiếp biến như thế. Độc giả sẽ được chia sẻ nhiều ý kiến về giáo dục Phật giáo cho tuổi trẻ Việt Nam trong hai môi trường quốc nội và hải ngoại, sống trong hoàn cảnh nghịch chiều về kinh tế, chính trị: một bên thì chậm tiến, bị áp đặt mọi mặt, một bên thì tiến bộ, được tự do, khai phóng. Qua những nhận định chia chẻ này, độc giả sẽ thấy nỗi mong ước, nỗ lực tìm ra khả tính tổng hòa, đồng bộ trong công cuộc giáo dưỡng người trẻ Việt Nam trong ngoài nước dưới ánh sáng Từ Bi và Trí Tuệ.

LỜI CUỐI TẬP: (Riêng với tổ chức Gia Đình Phật Tử Việt Nam tại Hải Ngoại)

Trong tập sách này, chúng tôi tuyển chọn những bài tham luận nặng tính nhân văn và đức lý của giáo dục Phật giáo, bởi đặc tính này đáp ứng mọi vấn đề căn bản và thiết yếu cho đời sống, không những cho lớp trẻ mà còn cho bất cứ ai tin tưởng vào hiệu dụng của giáo lý Như Lai. Với tổ chức Gia Đình Phật Tử, việc giáo dục nhằm trang bị hành trang vào đời cho thanh thiếu niên với tâm Từ Bi thâm thiết, Trí Tuệ sáng suốt và Dũng Lực thăng tiến, nên ngoài phần truyền dạy giáo lý, phần chuyên năng phong phú cũng được huấn luyện. Có thể, đọc xong tuyển tập này, anh chị Đoàn Sinh hải ngoại sẽ không tìm thấy ở đây các vấn đề mà anh chị đã và đang thao thức như:
  • Thiền định Phật Giáo đã trở nên phổ biến trong xã hội Tây phương, được học hỏi, thực hành, nghiên cứu và ứng dụng sâu rộng trong nhiều bộ môn y khoa (tâm lý, não học, tâm thể bệnh học,...), nay người trẻ Phật tử phải nhận thức về Thiền và hành Thiền ra sao?
  •  Để có nhận định đúng đắn và giải thích hợp lý các sự tích, truyền thuyết, truyện kể trong kinh điển Phật giáo mang tính thần thoại, siêu thực, có nên học thêm căn bản môn Huyền Thoại Học (Mythology), Biểu Tượng Học (Symbolism)?
  • Các bài học truyền thống về tâm lý đoàn sinh, lãnh đạo chỉ huy, kỹ năng tổ chức,... có cần cải cách cho thích hợp với tâm sinh lý, nhận thức, tập quán của đoàn sinh trẻ tại hải ngoại?
  • Đời sống và xã hội tại hải ngoại phát sinh nhiều vấn đề phức tạp như ly hôn, luyến ái và hôn nhân đồng tính, hôn nhân dị chủng/dị giáo, phá thai, trợ tử, ma túy, bảo vệ môi sinh,... người trẻ Phật tử cần nhận định, ý thức, ứng xử với các vấn đề đó ra sao?
  • Trước sự phát triển và sản xuất các phương tiện kỹ thuật tiên tiến như điện toán, iPad, iPhone, SmartPhone,... các môn morse, sémaphore, tìm phương hướng, dấu đi đường, mật thư có cần xét lại, sửa đổi không?
  • Môi trường sống tại hải ngoại với sự đa dạng về thiên nhiên, khí tượng, khoa học, y tế, thể dục thể thao,... các bài học truyền thống về mưu sinh thoát hiểm, cấp cứu, bảo vệ sức khỏe, kỹ thuật cắm trại, dựng lều,... có còn thích hợp không?
  • Sống trong xã hội đa văn hóa, đa tôn giáo, để tăng cường, sự kính trọng, lòng hòa ái, sự hiểu biết lẫn nhau, GĐPTVN/HN có nên tổ chức sinh hoạt giao lưu tôn giáo (học hỏi tín lý, tìm hiểu nghi lễ, thăm viếng chùa đền, thánh đường) không những với cộng đồng những tông phái Phật giáo (Nguyên Thỉ, Tịnh Độ, Mật Tông, Liên Hoa Tông... của các nước Á-châu) mà cả với cộng đồng tôn giáo khác?
  • Để tăng hiệu quả giảng huấn, có cần áp dụng các phương pháp: thính thị (audio-visual), dã ngoại (afield learning), học viên tự nghiên cứu, soạn bài trước và thuyết trình, tranh biện, thảo luận (debate, discussion), thi đua, đố vui để học,...?
  • Trước tình trạng thường xuyên phân rã, chia rời cơ cấu tổ chức do những dao động ngoại tại (địa lý, ý hệ chính trị, tông hệ phái giáo hội,...), Gia Đình Phật Tử có tìm ra một quy định trung đạo nào để tổ chức vẫn giữ được đoàn kết và sinh hoạt đồng nhất?
  • Trong tổ chức GĐPT, nhiều khi có sự chỉ đạo chuyên đoán, hoặc thiếu sót, tắc trách, phải chăng do tính dân chủ, lối phân quyền, sự thống thuộc chưa rõ ràng, thích hợp, cần được rà soát, truy xét lại?


Trên đây chỉ nêu ra một số trong nhiều ưu tư của anh chị em đang đảm trách đoàn, đội trong GĐPT. Để chuẩn bị chủ đề cho các số Hoa Đàm sắp tới, chúng tôi mong mỏi đón nhận được nhiều bài tham luận của các bậc Tăng nhân, Cư sĩ trưởng thượng, của các anh chị Trưởng dày dạn kinh nghiệm, của anh chị Đoàn sinh trẻ, tất cả là những người luôn thao thức cho sự tồn tại vững chãi và sự tiến triển tốt đẹp của tổ chức GĐPT/VN trong ngoài nước.

Mọi góp ý, xin gởi về địa chỉ email:
hoadamnews@gmail.com

HOA ĐÀM