Thursday, June 28, 2018

TUỔI TRẺ DẤN THÂN - LỄ KHAI MẠC TRẠI HUẤN LUYỆN CỦA MIỀN QUẢNG ĐỨC VÀ MIỀN LIỄU QUÁN

Lễ Phát Nguyện - Ảnh Trần Quốc Tiến

TUỔI TRẺ DẤN THÂN - LỄ KHAI MẠC TRẠI HUẤN LUYỆN CỦA MIỀN QUẢNG ĐỨC VÀ MIỀN LIỄU QUÁN

Westminster (Bồ Đề Media) - Tại đất trại Bodhi Youth of American Harmony Pine Youth Camp, 23001 Big Pines Hwy, Valyermo, CA 93563. Vào lúc 11:00 giờ sáng, thứ Sáu ngày 22 tháng 6 năm 2018, hai Ban Hướng Dẫn GĐPT Miền Quảng Đức (Nam California) và Ban Hướng Dẫn GĐPT Miền Liễu Quán (Bắc California) đã tổ chức Lễ Khai Mạc liên Trại Huấn Luyện Sơ Cấp Lộc Uyển – Cấp I - A Dục. Tại huấn huyện này là để đào tạo nhân sự cho tổ chức Gia Đình Phật Tử. Chúng tôi được biết có 129 trại sinh Lộc Uyển và 41 trại sinh A Dục với hơn 50 huynh trưởng trong Ban Quản Trại.
Lễ Khai Mạc  - Ảnh Trần Quốc Tiến 

Tham dự Lễ Khai Mạc có Hoà thượng Thích Minh Hồi, Viện chủ Như Lai Thiền Viện, San Diego, CA; Thượng toạ Thích Từ Lực, Trụ Trì Chùa Phổ Từ, Hayward; Thượng toạ Thích Tịnh Mãn, Trụ trì Tu Viện Từ Vân; Đại đức Thích Đạt Tín, Cố vấn GĐPT Liên Hoa; Đại đức Thích Chân Quang, Yang Shou Temple, Sư Cô Thích Nữ Ngọc Liên và Thích Nữ Hoa Liên, Pháp viện Minh Đăng Quang và Tổ đình Giác Nhiên; Sư cô Thích Nữ Phổ Châu, Cố vấn GĐPT Chánh Hoà, và Sư cô Thích Nữ Phổ Thanh, chùa Phổ Từ.

Về phía tổ chức GĐPT, chúng tôi nhận thấy có sự hiện diện của Huynh trưởng Cấp Dũng Tâm Hoà - Lê Quang Dật, cố vấn trại; Huynh trưởng Cấp Dũng, Tâm Đăng - Nguyễn Văn Pháp; Huynh trưởng cấp Tấn Quang Ngộ - Đào Duy Hữu, Trưởng Ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPT Việt Nam tại Hoa Kỳ, và Huynh trưởng cấp Tấn Quang Dũng - Hồ Chí Cường, Trưởng Ban Hướng Dẫn GĐPT Miền Khánh Hoà, từ Dallas Texas, Huynh trưởng cấp Tấn Minh - Quang Lê Văn Thẩm, Huynh trưởng cấp Tấn Tâm Tường - Lê Đình Cát,  cũng nhưng những hàng huynh trưởng cấp Tấn, Tín, và Tập khác của tổ chức. Chúng tôi, con thấy sự có mặt của những vị khách quý, ân nhân và Phật tử trong vùng.
Buổi Lễ Khai Mạc được điều khiển bởi hai huynh trưởng Tâm Định - Nguyễn Xuân Hiệp và Tâm Thường Định - Bạch Xuân Khoẻ.  
Huynh trưởng Trại trưởng Cấp Tấn Nguyên Thuyết - Lê Minh Thi, đã nói về hiện tình đất nước, bên kia Thái Bình Dương là quê Cha đất Tổ… “đang bị điêu linh thống khổ, nơi có đồng bào ruột thịt của chúng ta đang quằn quại dưới những làn roi tàn bạo độc tài của chế độ Cộng Sản và đã kêu gọi… Trong giây phút nầy chúng con chúng tôi xin quý liệt vị dành một phút để cầu nguyện cho đồng bào tại quê hương Việt nam sớm thanh bình trong tình thương yêu đồng loại.”
Chị cũng không quên nhắc với trại sinh rằng: “Bước vào ngưỡng cửa của nghề làm Huynh Trưởng không khác nào chúng ta đang xây dựng một ngôi nhà.  Nền móng có kiên cố thì ngôi nhà mới được đứng vững. Để hoàn thành sứ mạng thiêng liêng cao cả đó, người Huynh Trưởng phải kiên cường, chịu đựng, khắc phục và hiểu rõ nhiệm vụ của mình để làm điểm tựa tiến bước trên con đường tu học, phục vụ Lý Tưởng của Tổ Chức GĐPT Việt Nam.
Sau kỳ trại này, các Anh Chị đã tự khoác lên vai mình trọng trách hướng dẫn đàn em và phục vụ Tổ Chức trọn đời.  Cuộc hành trình này đầy những khó khăn, nhọc nhằn, gian khổ nhưng không kém phần , cao quý. Các Anh Chị sẽ là những Anh Chị Trưởng hướng dẫn các em và xây dựng tiền đồ của Tổ Chức Gia Đình Phật Tử việt Nam ngày thêm vững mạnh.  Tương lai của các em, tương lai của Tổ Chức đều trông chờ các Anh Chị.
Hành trang hôm nay của các Anh Chị bước vào Nghề Trưởng là hương thơm Diệu Pháp vọng về từ vườn Lộc Uyển quyện lẫn vào dũng khí của một A Dục Vương hùng mạnh. Chúng tôi hy vọng với sự tận tâm, tận lực, và tình thương yêu của các anh chị trong Ban Quản Trại, các Anh Chị trại sinh sẽ nỗ lực hết mình để gặt hái được những thành công kết quả”
Sau đó Huynh trưởng Trưởng Ban Hướng Dẫn Trung Ương Quang Ngộ Đào Duy Hữu đã căn dặn các Lam viên hãy yêu thương, đoàn kết, đùm bọc nhau và lấy Lý tưởng Lam phụng sự cho Đời cũng như Đạo Pháp và Dân Tộc. Anh nhắc lời của bác Tâm Minh – Lê Đình Thám, “Không có thành tựu miên viễn nào lại không nhắm đến hàng ngủ thanh thiếu niên, họ sẽ là những người sẽ tiếp nối chúng ta trong mai sau…” Rồi anh nhấn mạnh tinh thần Tự giác cũng như gởi gắm, "BHD Hoa Kỳ mong các anh chị em trại sinh ghi nhớ lời dạy của Chư Tôn Đức, lắng nghe sự truyền đạt của giảng viên, biểu lộ ý thức tự giác, tự đặc mình trong những điều kiện sinh hoạt khắc khổ, tìm cách khắc phục mọi khó khăn thực tiễn đời sống trại sinh và luôn rèn luyện tư cách, tác phong để trở thành người Huynh trưởng hũu dụng sau này.
Rồi trong Đạo từ của Hoà thượng Viện chủ Như Lai Thiền Viện kêu gọi tất cả các Lam viên khắp nơi hãy đoàn kết, yêu thương nhau với tiền đồ của dân tộc và cầu nguyện cho dân tộc Việt Nam được trường tồn.
Sau phần trao còi lệnh từ huynh trưởng Trại trưởng đến huynh trưởng Trưởng khối sinh hoạt Bửu Thành Phan Thành Chinh, Huynh trưởng Diệu Ngọc - Cao Ngọc Điệp nói lời cảm tạ qúy Chư Tôn Đức quý anh chị HTr các Cấp đã không ngại đường xá xa xôi về đây để Chứng Minh, tham dự lễ khai mạc Trại.
Nhìn thấy một Ban Quản Trại hùng hậu, hiền hoà như vậy, lòng cảm thấy lâng lâng nhẹ nhõm. Chúng tôi ra về mà nghe văng vẳng bên tai ca khúc Bài Ca Tuổi Trẻ của nhạc sỹ Phan Văn Hưng:

Từ khắp những phương trời
Và muôn lối đi trong đời
Gặp nhau trong tâm hồn Việt Nam sáng ngời

Mồ hôi trên cánh đồng
Mẹ ru trên núi sông
Tình quê hương ta ôm ấm trong lòng

Chúng ta là bước người xông pha,
Chúng ta là những lớp phù sa
Chúng ta là ngọn đuốc bừng to
Chúng ta là TỰ DO!!!

Bạn hỡi… ơ… ơi!
Hành trang ta đem trong ta,
Một khối óc, một tấm lòng, một giấc mơ…

Xuân Nhị, Bồ Đề Media/Việt Báo.

Xin chia sẻ một vài hình ảnh của Trại. 
Lễ Phật Buổi sáng và Câu chuyện dưới cờ - Ảnh Trần Quốc Tiến 

Chụp hình Lưu niệm trước Cổng trại - Hình Trần Quốc Tiến
Htr. Tâm Thường Định chỉ bày cách thở 5 hơi sâu và chậm - Ảnh Trần Quốc Tiến 
Đêm Cầu Nguyện Cho Quê Hương Việt Nam 


NHỮNG CÂU NÓI BẤT HỦ CỦA CHƯ TÔN THIỀN ĐỨC VIỆT NAM CẬN ĐẠI









Tuesday, June 26, 2018

KHỞI NGUYÊN THIỀN PHẬT GIÁO - Tuệ Sỹ

KHỞI NGUYÊN THIỀN PHẬT GIÁO
Tuệ Sỹ

1. Tư duy thiền Phật giáo
Hình ảnh khắc trên con dấu phát hiện tại Mohenjo-daro cho biết hình thái tư duy trong tư thế liên hoa tọa đã xuất hiện trước Phật rất lâu. Những hiện vật phát hiện tại Mohenjo-daro được đánh giá là chứng cứ cho giai đoạn chín muồi, trong khoảng 2600-2450 năm, của một nền văn minh phát triển liên tục ghi dấu từ 7000 năm trước công nguyên. Nhưng hình khắc họa vẫn chỉ là hình khắc họa, nhân vật được khắc suy nghĩ gì, tư duy như thế nào trong trạng thái nhập định như thế nào, lại là tự do luận giải theo sở kiến cá biệt của người nghiên cứu. Nói như Trang Tử, khi được Huệ Thi hỏi, “Ông không phải là cá, sao biết cá vui?”, và trả lời: “Ông không phải là tôi, sao biết tôi không biết?” Hoặc nói như Alison Brooks, nhà khảo cổ học tại Viện Đại học George Washington: “Khó mà nói khả năng tư duy của ai đó đứng trước mặt ta là gì. Lại càng khó hơn để nói về một người đã chết cách đây nửa triệu năm…” 

Kinh Phật cũng xác nhận hình thái tư duy trong trạng thái nhập định đã có trước khi Phật xuất hiện, thời gian bao lâu thì không được rõ. Như trong Kinh Pāthika , Phật nói về nguồn gốc thuyết Brahman sáng tạo rằng, “Trường hợp này xảy ra. Có một chúng sinh chết nơi kia sinh vào đây; sau một thời gian, người ấy lìa bỏ gia đình, xuất gia học đạo, do nhiệt hành, tinh tấn… tu tập đạt đến trạng thái tâm định; với tâm định như vậy, người ấy hồi tưởng quá khứ, nhận thấy đã tồn tại một chúng sanh tối sơ, bèn nói rằng: Tôn giả ấy là Brahman, Đại Brahman, Toàn trí, Toàn năng, là vị Chúa tể, đấng Sáng tạo, là Tổ phụ của mọi sinh loại…” Kinh Phạm võng cũng nói: “Một số sa-môn, bà-la-môn do nhiệt hành… tâm nhập định. Trong khi tâm nhập định như thế, họ nhớ lại quá khứ một đời… cho đến vô số trăm nghìn đời…” Trong trạng thái nhập định với ký ức lui về quá khứ cho đến giới hạn có thể nhớ, được cảm nhận như là biên giới tận cùng của thế gian, trong giới hạn ấy họ thấy thế giới đã tồn tại, và tồn tại như vậy cho đến hiện tại. Từ đó, họ lập thuyết “thế giới tồn tại vĩnh hằng.” Và rồi Kinh kết luận về cơ cấu tâm lý của các thuyết được tuyên bố này: “Như Lai biết rõ các y xứ của những quan điểm này; chúng được kinh nghiệm như vậy, được chấp thủ như vậy… Như Lai biết rõ thọ sinh, thọ diệt, vị ngọt, sự tai hại và sự xuất ly của thọ.” Ý nghĩa muốn nói, trong khi nhập định, trạng thái hỷ lạc, mà ta có thể gọi là trạng thái xuất thần, khởi lên cùng với xúc cảm từ ảnh tượng nào đó. Không có hỷ lạc, ảnh tượng ấy không được lưu giữ để được phán đoán và lập thành lý thuyết. Trên cơ sở tâm lý học Phật giáo, do điều kiện là xúc mà có thọ. Xúc là một tổ hợp gồm ba yếu tố: đối tượng nhận thức (cảnh), quan năng nhận thức (căn) và công cụ nhận thức được hiểu như là chủ thể (thức). Nó là bộ ba trong 18 giới (6 căn, 6 cảnh và 6 thức), những yếu tố cấu thành phạm trù tồn tại và nhận thức. Chúng là kết quả (dị thục) của nghiệp cảm quá khứ được kết hợp với di truyền sinh học. Như vậy, tùy theo bản chất của các giới bởi dị thục và di truyền mà nhận thức hạn chế trong một phạm vi rộng hay hẹp nhất định: hữu thủy hay vô thủy trong thời gian, hoặc hữu hạn hay vô hạn trong không gian. Quá trình tu tập có thể làm biến chuyển và thăng hoa bản chất của dị thục và di truyền, do đó có khả năng khuếch trương giới hạn thời gian và không gian.

Trên cơ sở tâm lý luận như vậy, không thể nói tư duy nhập định chỉ có từ Phật, và chỉ được thực hành bởi những người theo Phật.
Các Veda được tôn sùng là Thánh kinh của Ấn-độ giáo. Những người Ấn giáo tin rằng các thi tụng Veda không do ai sáng tác, không do con người mà cũng không do Thần linh; đó là ngôn ngữ tự nhiên, tự hữu, ẩn tàng trong tự tính huyền vi của vạn vật, của thiên nhiên. Vì là không có tác giả, mà do tự nhiên tự hữu, ngôn ngữ của Veda được hiểu là thường trụ vĩnh hằng, vô thủy vô chung. Các thi tụng Veda được truyền tụng do bởi các Rishi, mà trong Kinh Phật Hán dịch được đồng hóa với Tiên nhân của Đạo giáo. Các Rishi cổ đại, trong trạng thái xuất thần, đã nghe được tiếng nói thần bí linh thiêng. Danh từ Rishi được ức đoán xuất hiện đầu tiên trong Bṛhad-āraṇyaka Upanishad, khoảng trên dưới 700 năm trước công nguyên. Các Rishi được nhắc nhở khá nhiều trong Kinh Phật (Pāli: Isi) với thái độ kính trọng. Chính Đức Thích Tôn cũng được tôn xưng là vị Rishi thứ bảy (Pāli: Isi-sattama) trong số 7 vị Phật đã xuất hiện. Tuy vậy, không phải vì thế mà các Veda được tin là ngôn ngữ thần linh được mặc khải cho các Rishi. Do đó cũng không dứt khoát nói rằng họ nghe được những phán truyền Veda trong trạng thái tư duy nhập định.

Nhìn từ phương diện thế tục phi thần thánh, tác giả của các Veda có thể là những thi sĩ trong cảm hứng xuất thần đã xướng tụng những vần thơ ca tụng vẻ đẹp của các hiện tượng thiên nhiên, cũng như những quyền năng siêu việt, được thần thánh hóa thành các thần linh có quyền năng ban phúc, giáng họa cho loài người. Thán phục, và kinh sợ: Tin và Sợ là hai yếu tố tâm lý khởi nguyên cho các loại tín ngưỡng tôn giáo. Đó là loại cảm hứng mang tính huyền vi, thần bí đặc trưng trong cảm hứng thi ca. Như nhà phê bình văn học cổ Trung Hoa, tác giả Văn tâm điêu long, nói về cảm hứng thi như sau: “Lắng đọng, ngưng tụ tư duy để cho tứ thi nối tiếp trên dưới nghìn năm; âm thầm rung động dung nhan mà con mắt có thể thấy suốt muôn dặm.” Đấy là ông nói về những cảm hứng tạo nên các vần thơ được Khổng Tử tập thành Thi kinh. Trong lịch sử văn học cổ đại Trung quốc, Kinh Thi và Kinh Thư được tôn sùng như người Ấn giáo đối với các Veda, hay người Do-thái đối với Tanakh (Hebrew Bible) của họ, nhưng thủy chung vẫn chỉ được tôn sùng như là sản phẩm của con người, phát xuất từ những sinh hoạt chính trị xã hội của con người. Thế thì, các thi sĩ hay các tác giả được tôn sùng như là Thánh nhân này không nhất thiết phải tư duy lắng đọng để có cảm hứng trong tư thế nhập định. Hoặc chúng ta có thể nói, tác giả soạn truyền kỳ “trăm trứng” để giải thích nguồn gốc các dân tộc anh em trong đất Việt không cần thiết phải tư duy trong tư thế nhập định.

Những điều vừa nói cũng chỉ là suy luận theo kinh nghiệm cá biệt. Các Rishi cổ đại, hay các tác giả Thi, Thư, đã cảm hứng xuất thần như thế nào; tâm tư của những người đã chết trên mấy nghìn năm không phải là điều dễ dàng cho người đời nay phán đoán; nói như Trang Tử hay như nhà khảo cổ Alison Brooks đã dẫn trên.

Niên đại xuất hiện sớm nhất của Veda, cho đến nay chưa có ý kiến thống nhất giữa các nhà nghiên cứu. Sử gia triết học Ấn-độ S. Dasgupta dẫn ba thuyết: Max Müller ước định khoảng 1200 năm, Haug 2400 năm và Bāl Gaṅgādhar Tilak 4000 năm trước công nguyên, nhưng không dứt khoát nói niên đại nào. Gần đây, một số nhà nghiên cứu như Anthony (2007) phỏng đoán 1500-1200 năm trước công nguyên, hoặc Johnston và Bauman (2014) phỏng định lùi hơn: 1700-1100 năm trước công nguyên. Các Veda được nói là Thánh điển của người Aryan, một nhánh trong chủng tộc ngôn ngữ Ấn-Âu (Indo-European). Do sự tương đồng của tiếng Sanskrit với các thứ tiếng phổ biến ở châu Âu như Hy-lạp, La-tinh, Ba-tư, Celtic, Đức, người ta phỏng đoán tộc người Aryan nguyên thủy ở đâu đó từ Caucasus, chia làm hai nhánh nhập cư, một hướng về phía tây để thành người châu Âu, và nhánh khác đi về phía đông, nhập cư thành tổ tiên người Ấn ngày nay. Đây chỉ dẫn thuyết nhập cư của Max Müller mà không nói đến các thuyết khác vì không thuộc phạm vi nghiên cứu. Điều muốn nói ở đây là niên đại mà người Aryan nhập cư từ các thảo nguyên Trung Á đi vào định cư trong khu vực Ngũ hà (Punjab) phỏng định khoảng 1500 năm trước công nguyên. Đây là thời gian phát triển cực thịnh của văn minh Happara, cũng gọi là văn minh Thung lũng Tín-độ. Khoảng thời gian đó, như phổ thông được biết, cũng là niên đại các Veda bắt đầu lưu truyền. Các thần linh trong các thi tụng Veda có thể được biết đến sớm hơn trước khi người Aryan nhập cư, vì nhiều danh hiệu các Thần được phát âm gần tương tự với ngôn ngữ Avesta trong Ba-tư giáo. Nếu theo giả thuyết này thì các Rishi tác giả của Veda ít có, hoặc hoàn toàn không có, liên hệ gì đến hình khắc trên con dấu tại Mohenjo-daro. Theo thuyết khác, nêu bởi Hall, người Sumerian với những văn bản và di tích được phát hiện trong vùng Lưỡng Hà (Mesopotamia), phía nam Iraq ngày nay, vốn là người Dravidian đã dựng nên văn minh của họ trong khu vực Thung lũng Tín-độ, rồi sau đó truyền nhập văn minh này đến các tộc người Semitic/Semite, trong đó kể cả người Do-thái. Người Aryan, cùng chủng tộc với người Hy-lạp, sau khi xâm nhập, đã chịu ảnh hưởng, được cải hóa thành văn minh của người Dravidian. Theo thuyết này, ta có thể phỏng đoán các Rishi, Tiên nhân, Đạo sỹ hay Thi sỹ, những tác giả của các thi tụng Veda, hẳn đã có học tập tư duy trong tư thế liên hoa tọa để có những cảm hứng huyền vi, thần bí. Tuy thuyết này không hoàn toàn được tán đồng, nhưng một phần của nó cũng khiến liên tưởng đến tư thế tĩnh tọa được thực hành trong Thiền định Phật giáo, cùng với việc thừa nhận sự tồn tại của lớp Đạo sĩ Rishi và các sa-môn, bà-la-môn tu định và chứng định trong trình độ nhất định. Nói thế có nghĩa rằng, Thiền định thực hành trong Phật giáo với tư thế liên hoa tọa nếu có chịu ảnh hưởng từ bên ngoài, thì ảnh hưởng này cũng không tìm thấy trong các Veda...

huongtichbooks
* Trích "Khởi nguyên Thiền Phật giáo", Tuệ Sỹ, trong A-tì-đạt-ma câu-xá tập 5, phát hành tháng 7/2018.

Monday, June 25, 2018

Chùa Vắng Trong Đặc Khu

Chùa Vắng Trong Đặc Khu
Nguyên Giác 

Đặc khu Xishuangbanna Dai Autonomous Prefecture gần biên giới Lào, Burma và Việt Nam của Trung Quốc. Photo: China Plus

Chùa vắng, là nói chùa không có tăng sĩ. Đặc khu là nói về Xishuangbanna Dai Autonomous Prefecture ở vùng cực nam tỉnh Vân Nam, Trung Quốc.
Có thể phiên âm Xishuangbanna là Tây Song Bản Nạp, và Dai là chỉ về sắc tộc Thái. Prefecture là đơn vị hành chánh được cai trị theo quy chế đặc biệt, nằm dưới cấp tỉnh, nhưng bao gồm nhiều huyện. Chữ Autonomous có nghĩa là tự trị, nhưng không có nghĩa tự trị theo nghĩa quốc tế, mà chỉ có nghĩa là cán bộ lãnh đạo đặc khu tự trị có toàn quyền hành động rồi báo cáo về thiên triều Bắc Kinh sau - kiểu tiền trảm hậu tấu. Bởi vì, đặc khu luôn luôn là nơi phức tạp.
Trung Quốc có một vài đặc khu để cai trị theo quy chế đặc biệt, thường là ở biên giới, nơi có hơn 50% sắc dân thiểu số. Báo chí thế giới gần đây chú ý tới một số biến động ở các đặc khu Tây Tạng – như Ganzi Tibetan Autonomous Prefecture ở tỉnh Sichuan (Tứ Xuyên), Diqing Tibetan Autonomous Prefecture ở tây bắc tỉnh Yunnan (Vân Nam) – và các đặc khu ở tỉnh Xinjiang (Tân Cương).
Tuy nhiên, Đặc khu Tây Song Bản Nạp lại rất mực bình yên, nơi phẳng lặng không gợn sóng, và là nơi đại đa số dân tu theo Phật Giáo Theravada.
Trung Quốc là nơi có nhiều tông phái Phật giáo, trước kia và cả bây giờ. Câu hỏi có thể nêu lên rằng, hệ phái Phật giáo nào tại TQ thường bị chính phủ Bắc Kinh bỏ quên nhất? Câu trả lời: Phật giáo Thượng tọa bộ, còn gọi là PG Nam Tông, còn gọi là Theravada ở Trung Quốc.
Thậm chí, đối với nhiều người quan sát tin tức trên thế giới, Phật giáo TQ thường được nhắc tới là Bắc Tông và PG Tây Tạng. Không có bao nhiêu bản tin nói về hệ phái PG Nam Tông TQ.  Một phần, vì họ là thiểu số, nhưng phần lớn vì khu vực họ tập trung rất êm ả, không có nhiều biến động để các nhà báo quốc tế chú ý. Có một lý do nữa: có thể vì đa số họ thuộc sắc tộc thiểu số ở phía nam, và tinh thần Đại Hán của các quan chức Bắc Kinh dễ dàng bỏ quên họ. Một thời, dân tộc Đại Hán đã chinh phục miền Nam tỉnh Vân Nam từ nhiều thế kỷ trước, đã trấn áp khốc liệt nhiều cuộc nổi dậy của các sắc tộc địa phương, và bây giờ các nhóm sắc tộc khu vực này không còn sức nào để đối kháng hay đòi ly khai, tuy rằng văn hóa rất mực dị biệt.
Bái viết nơi đây dựa vào nhiều nguồn, trong đó phần chính dựa vào bài “Theravada Buddhism and Dai Identity in Jinghong, Xishuangbanna” (PG Nam Tông và Căn Cước Người Thái ở thị trấn Jinghong, Xishuangbanna) của GS James Granderson trên khóa mùa Xuân 2015 của SIT Study Abroad, và bài “The Soft Power Limits of Chinese Theravada Buddhism” (Hạn Chế Quyền Lực Mềm của PG Nam Tông TQ) của học giả Zi Yang trên tạp chí The Diplomat ngày 15/8/2017.
Nói một lời ngắn gọn là: PG Nam Tông TQ không là cái gì trong mắt triều đình Bắc Kinh.
Trong nhiều thế kỷ, Vân Nam là cửa ngõ của TQ để vào Đông Nam Á. PG Nam Tông tiến vào tỉnh Vân Nam từ thế kỷ thứ 7, xuyên qua Miến Điện và ảnh hưởng sâu đậm trong các sắc dân Dai, Blang, và Palaung trong khu vực này.
Dân tộc Dai, dịch ra tiếng Việt là người Thái. Sắc tộc Thái là một trong các sắc dân chính trong Khu Tự Trị Xishuangbanna Dai (người Thái Tây Song Bản Nạp). Sắc tộc Thái cũng sống rải rác  ở Lào, Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện. Dân tộc Palaung dịch ra tiếng Việt là Đức Ngang hay Băng Long. Dân tộc Blang, dịch ra tiếng Việt là Bố Lãng. Tổ chức truyền giáo Asia Harvest USA của Tin Lành  Hoa Kỳ đưa ra cuộc nghiên cứu nói rằng người Blang và các dân tộc khu vực này phần lớn, có thể là 80%, theo PG Nam Tông, đôi khi cùng lúc thờ tổ tiên và vật tổ. Tuy nhiên, GS Granderson cho biết tỷ lệ Phật tử phải đông hơn nhiều, ít nhất là với sắc dân Thái, có lẽ đại đa số theo PG Nam Tông, vì đi đâu trong đặc khu cũng nhìn thấy người dân có xâm chữ trong Kinh Phật trên cổ, vai, lưng bàn tay, cổ tay, cánh tay.…
Phật Giáo Nam Tông tại Trung Quốc như thế chỉ ảnh hưởng khu vực biên giới gần Miến Điện và Lào. Nhiều thập niên trước, PG Nam Tông tại Trung Quốc cũng bị thiệt hại lớn trong thời kỳ đầu chủ nghĩa CS với cớ chống phong kiến, đập phá chùa chiền, bắt nhiều vị sư hoàn tục, trong khi sinh hoạt nghi lễ PG bị cấm. Khởi đầu đàn áp là cuối thập niên 1950s, nhưng cao điểm là Cách Mạng Văn Hóa, lúc đó nhiều kinh văn trên lá cũng bị đốt, chùa tháp điêu tàn trong toàn bộ khu  vực PG Nam Tông tại Hoa Lục này. Ngôi chùa có tên The Xishuangbanna General Buddhist Temple, là ngôi chùa Nam Tông lớn nhất tại TQ xây từ thế kỷ thứ 8 lúc đó bị xóa sổ hoàn toàn, sau đó xây lại theo kiến trúc Thái Lan.
Và rồi sau Cách Mạng Văn Hóa, chùa mới cho xây lại, nhưng sự hồi phục của các sinh hoạt tôn giáo rất chậm. Chính thức, nhiều ngôi chùa được phép xây lại, nhưng chính quyền địa phương từ chối trả lại một số khu đất các ngôi chùa bị tịch thu thời Mao. Việc học Phật cũng chậm rãi, phần vì các cán bộ quan sát, nghi ngờ, phần vì kinh sách khu vực này viết bằng ngôn ngữ Cổ Thái (Old Dai language), kết hợp chữ Thái cổ thời pha trộn chữ Pali – nghĩa là, những gì các cán bộ không hiểu, vì cán bộ từ thế giới rất khác của tiếng Hán.
Nhưng chữ Cổ Thái cũng chính là căn cước Phật giáo Nam Tông, là tự hào về nền văn minh cổ thời của dân trong Đặc Khu Xishuangbanna.
Trên đường phố Jinghong, thậm chí ngay trên khu vực làng mạc êm ắng ở Manzhang, dễ dàng nhìn thấy ảnh hưởng Phật Giáo Nam Tông trên làn da cư dân: nhiều người, già lẫn trẻ, nam lẫn nữ, xâm trên da từ cồ trở xuống các câu kinh Phật bằng ngôn ngữ hình tượng của họ. Người thường có khi không hiểu hết các câu kinh Phật đó trên da họ, hiểu tận tường chỉ là các vị sư trong Xishuangbanna và dọc biên giới Thái Lan và Miến Điện.
Phật giáo Nam Tông tại TQ đang gặp nan đề là thiếu tăng sĩ. Trung bình tại Vân Nam, cứ hai ngôi chùa PG Nam Tông chỉ có một nhà sư. Vì thiếu tăng sĩ, nhiều chùa phải đóng cửa, chỉ trừ trong các ngày lễ lớn của Phật giáo. Hiện nay thống kê cho thấy 18.8% các ngôi chùa trong khu vực Xishuangbanna Prefecture là “chùa trống” (nghĩa là, chùa không có tăng sĩ ở trong). Tại các thị trấn Pu’er và Lincang, tỷ lệ chùa trống là 40%. Trong khi đó, tại Dehong Prefecture, tỷ lệ chùa trống là 90.1%, và tại Mang City, 98.2%.
Hãy hình dung tới con số 90% chùa không có sư, và hãy hình dung tới 98.2% chùa không có sư.
Các vị sư ngoại quốc từ Miến Điện và Lào thường được mời sang các chùa Vân Nam để làm các nghi lễ hay thuyết giảng. Tuy nhiên, chính phủ nhìn họ bằng cặp mắt không tin tưởng, bởi vì họ không được tin cậy về chính trị, không hiểu gì và cũng không ca ngợi gì về chính sách nhà nước TQ về xã hội chủ nghĩa, về thống nhất quốc gia và về hòa hợp sắc tộc.
Bên cạnh yếu tố chính trị và thiếu tăng sĩ, nan đề với PG Nam Tông ở TQ còn là thiếu ngân sách và thiếu Phật học viện. Mỗi năm, chính phủ TQ cấp ngân sách lớn để tân trang các ngôi chùa PG Tây Tạng và giáo dục các tu sĩ PG Tây Tạng; một phần cũng vì Tây Tạng bị Bắc Kinh xem như nơi nhạy cảm chính trị. Nhưng PG Nam Tông bị Bắc Kinh bỏ quên, vì cộng đồng tôn giáo này được Bắc Kinh xem là “nhóm dân thiểu số gương mẫu.”
Bất kể quá nhiều dị biệt giữa sắc dân Thái và dân Hán tộc, sắc tộc Thái chưa bao giờ kích động ly khai. Ngay cả khi có người cùng sắc tộc bên kia các biên giới, sắc dân Thái tại TQ không hề bộc lộ ý định ly khai. Cũng vì không có vấn đề gì, cho nên Bắc Kinh không cấp nhiều ngân sách cho các ngôi chùa PG Nam Tông, trong khi cấp rất nhiều tiền cho các hoạt động của PG Tây Tạng.
Chỉ có 3 Phật học viện tại TQ dạy các môn học về PG Nam Tông. Nhưng cả 3 đều thiếu ngân sách. Thêm nữa, phẩm chất giáo dục lại kém so với các Phật học viện PG Nam Tông tại Thái Lan. Do vậy, ước mơ lớn của các học tăng trẻ là hoàn tất đại học tại một trong các đại học PG tầm cỡ thế giới ở Thái Lan, Đại học Mahachulalongkornrajavidyalaya University hay Mahamakut Buddhist University.
Cũng từng có những cuộc nói chuyện về việc xây trường dạy ngôn ngữ Pali cao cấp đầu tiên ở TQ tại Vân Nam kể từ 2012, nhưng có không gì xúc tiến chỉ trừ việc mua một khoảnh đất.
PG Nam Tông tại TQ không thể là một tác nhân quyền lực mềm tại Trung Quốc. Do vậy chính sách nhà nước Bắc Kinh cũng không đặt trọng tâm vào Phật giáo Nam Tông như một công cụ chính trị quốc tế. Cơ chế cũng không cho cộng đồng PG Nam Tông vận động được gì tại Bắc Kinh. Điều này dễ hiểu vì TQ là nơi các vị sư phải được chính phủ chấp nhận mọi thứ, dù là xin đi du lịch ra hải ngoại hay thực hiện một nghi lễ tôn giáo đơn giản trong khi đang ở hải ngoại. Và tình hình này thấy rõ sẽ còn như thế, kéo dài trong tương lai gần.
Thực ra cũng dễ hiểu. Chính phủ Bắc Kinh chú tâm vào PG Tây Tạng vì còn lo ngại sức lôi cuốn của Đức Đạt Lai Lạt Ma đối với người Tây Tạng trong và ngoài Hoa Lục. Bắc Kinh cũng chú tâm vào PG Bắc Tông vì xem như chiếc cầu để nối kết cộng đồng PG ở Đài Loan và ở các Phố Tàu khắp thế giới. Trong khi đó, PG Nam Tông không có sức mạnh mềm nào để Bắc Kinh bận tâm…
.
Xin được kết nơi đây với một bài thơ, được viết để tặng người bạn thân vừa mới xuất gia tại một ngôi chùa Nam Tông ở Florida. Một thời, bạn này hoạt động từ thiện, lập hội Vì Dân Foundation. Nhiều năm trước, trong một chuyến đi từ thiện ở Campuchia, bạn này bị người lạ đâm 3 nhát dao trọng thương. Việc từ thiện bây giờ bạn này đã bàn giao cho nhà văn Tưởng Năng Tiến. Bây giờ, bạn là Sư Minh Trí. Sau đây, xin có vài dòng thơ tặng sư.
Tiễn sư qua bờ kia
Ôm bình bát, sư đi
khắp mây trời đắp y
tiễn sư về góc núi
kiếp này mấy phân ly

Đứng ngồi đều vì dân
ngực còn đau dao đâm
nước mắt ngập ba cõi
Quan Âm hóa toàn thân

Một thuở ra đi vương lụy
chân mỏi hai bờ Sông Hằng
quay đầu mới hay Minh Trí
tóc rơi theo bụi bên đàng.

Sunday, June 17, 2018

NGỒI LẶNG LẼ BÊN NHAU

Relaxing at a retreat with my daddy. Happy Father's Day.

NGỒI LẶNG LẼ BÊN NHAU

Lao xao khóm trúc vàng
Phong cầm reo trong gió
Vi vu hàng thông nhỏ 
Phật vẫn cười lặng thinh!

Ba cũng ngồi thinh lặng
Cõi vắng lá vàng bay
Ráng nắng chiều ai say
Ba ngồi yên bất động

Con ngồi mà tâm động
Sống chết mây nhẹ bay
Ba cười thấy thật hay
Phật và Ba cũng thế!

Tâm Thường Định
Tu Viên Diệu Nhân, Spring 2018.

Saturday, June 16, 2018

Suy Nghĩ Mùa World Cup



Những đội tuyển của 32 quốc gia được vào Giải World Cup năm 2018.

Suy Nghĩ Mùa World Cup
Nguyên Giác
Thế giới đang sôi nổi với các trận bóng đá World Cup 2018. Những người say mê bóng đá đang nhìn về các đội tuyển đang thi tài ở nước Nga, dán mắt vào các màn hình TV hay máy điện toán, đọc các lời bình luận và quan sát xem bóng đang vào chân ai và sẽ đá về hướng nào. Người Phật tử nghĩ gì về bóng đá? Các ngôi chùa tại Việt Nam có nên tụ tập các em lại để dạy đá banh và để lập các đội bóng đá khi các em nghỉ hè, hay vào những giờ nghỉ sau lớp, hay những ngày nghỉ cuối tuần hay không? Có phải giúp các em tập luyện bóng đá cũng còn tốt hơn để các em chơi game điện tử, vừa hại sức khỏe, vừa mất thì giờ và tiền bạc?
Truyền thống vẫn thường nghĩ về Đạo Phật với hình ảnh Đức Phật ngồi dưới gốc cây Bồ Đề, hay các vị sư ngồi thiền hay đi khất thực. Họa hiếm, nghĩa là rất ít khi, chúng ta nhìn thấy Đạo Phật được mô tả qua hình ảnh thể thao.   
Theo sử liệu, khi Đức Phật còn là Thái tử Tất Đạt Đa đã được giáo dục cả văn lẫn võ. Đến năm 12 tuổi ngài đã thông thạo các môn học Ngũ Minh (năm môn học thế gian: Thanh minh, Công xảo minh, Y phương minh, Nhân minh và Nội minh). Năm 13 tuổi, Thái tử được truyền thụ võ nghệ. Trong một cuộc thi võ với 500 thanh niên trước vương triều, Thái tử thì đã thắng tất cả các môn thi (bắn cung, đánh kiếm, cưỡi ngựa, đấu vật…). Thậm chí sức khỏe phi thường, khi thi bắn cung, ngài đã nâng được chiếc cung rất nặng trước giờ chưa ai nâng nổi và bắn xuyên qua 7 lớp bia đồng trong khi người giỏi nhất cũng chỉ bắn xuyên được 3 lớp. 
Hình như vì lòng tôn kính, chúng ta chưa thấy họa sĩ nào vẽ hình Thái tử Tất Đạt Đa phi ngựa hay đấu vật, như dường đó là những chuyện rất nhỏ, không cần tập luyện. Dĩ nhiên, đó là thời chưa tầm đạo.
Câu hỏi là, Đức Phật dạy gì về các môn thể thao? Có vẻ như, nếu có cũng không nhiều. Lời dạy thường là, các sư hãy tìm nơi góc rừng vắng, ngồi tu thiền quán. 
Trong Kinh Pháp Cú, bài Kệ 204, Đức Phật dạy: Sức khỏe là món quà lớn nhất, biết đủ là tài sản lớn nhất, bạn tin cậy là người thân tốt nhất, Niết Bàn là an lạc lớn nhất (Dịch theo bản của học giả Daw Mya Tin: Health is the greatest gift, contentment is the greatest wealth, a trusted friend is the best relative, Nibbana is the greatest bliss).
Sự tích đi kèm với bài Kệ 204 là chuyện Vua Pasenadi của vương quốc Kosala.  Một hôm, Vua Pasenadi tới tu viện Jetavana sau khi dùng bữa điểm tâm. Bởi vì buổi sáng hôm đó, Vua ăn nhiều cơm với thịt nấu cà ri, nên trong khi nghe kinh, Vua ngủ gà ngủ gật hầu hết thời kinh. Thấy Vua ngủ gật như thế, Đức Phật khuyên nhà vua rằng hàng ngày hay ăn cơm ít, giảm số lượng tới mức tối thiểu một phần mười sáu (1/16) số lượng Vua đang ăn hiện nay.
Nhà vua vâng lời, và sau đó khám phá rằng khi ăn ít như thế, nhà vua gầy ốm hơn, nhưng nhẹ nhàng và nhanh nhẹn hơn, và sức khỏe tốt hơn. Khi Vua Pasenadi trình với Đức Phật như thế, Đức Phật mới đọc bài Kệ 204 trong Kinh Pháp Cú.
Đây cũng là điểm suy nghĩ về chữ “sức khỏe” trong câu đầu bài kệ: có một số bản dịch Kinh Pháp Cú dịch là “không bệnh.”
Hiển nhiên, giữa sức khỏe và không bệnh khác nhau xa lắm. Người “không bệnh” có thể sẽ không đủ “sức khỏe” để chạy và đá banh trên sân cỏ tới 90 phút đồng hồ. Như thế, muốn có sức khỏe là phải luyện tập. Có phải Đức Phật khuyên là chúng ta hãy tập thể dục, chơi thể thao? Chỗ này hẳn là phải đọc kinh điển nhiều mới dám nói, nên xin để các học giả nghiên cứu; chúng ta người đời thường chỉ nên nhìn xem xã hội chung quanh để quan sát, xem những gì thuận pháp, có lợi cho mình và cho người mà làm.
Thêm nữa, chúng ta cũng có thể xem Đức Phật như người đã khởi đầu dạy pháp kiệm ăn, giữ thân mình thon gọn, nhanh nhẹn...
Nhưng, thể thao đời nay lại có chuyện thắng với thua, hai hình ảnh dị biệt. Cứ xem World Cup trên truyền hình là thấy: phe thắng sẽ tưng bừng la hét, phất cờ phóng xe như bay; phe thua ngồi tấm tức khóc, bùi ngùi an ủi nhau.  Thường là như thế.
Bởi vậy, bài Kệ 201 trong Kinh Pháp Cú viết rằng: Chiến thắng sẽ sinh khởi oán thù căm hận, chiến bại sẽ thê thảm khổ đau; người tịch tĩnh sống hạnh phúc trong khi xa lìa cả thắng và bại.
Đó là hạnh của người con Phật. Tuy nhiên, nếu bạn đá banh cho một đội tuyển quốc gia, hễ thua là dân cả nước thê thảm. Thôi thì, tùy thuận chúng sanh, hễ ra sân đá banh là ráng chiến thắng vậy.
Thực sự, thể thao vẫn gắn bó với nhiều truyền thống Đạo Phật. Thí dụ, truyền thống đua ghe Ngo tại Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. 
Báo Giác Ngộ số ngày 19/11/2015 có bản tin nhan đề “Đồng bào Khmer lưu giữ truyền thống đua ghe Ngo”…
Bản tin nói rằng nhiều chùa có riêng đội ghe Ngo. Ngay cả Phật học viện cũng có. Bản tin viết:  “...Suốt 5 năm nay, cứ đến mùa đua ghe Ngo là tất cả thành viên trong gia đình ông Phone đều thu xếp công việc gia đình để chuyên tâm phục vụ cho đội ghe ngo của Trường Trung cấp Pali Nam Bộ.
Bản tin cũng nói, một số chùa lập riêng đội ghe Ngo để tập luyện cho mùa thi đua ghe. Mỗi đội đua ghe Ngo lại có một nhóm hỗ trợ cơm nước, trích: 
Dù không phải là vận động viên bơi ghe Ngo nhưng từ năm 1988 đến nay, bà Trần Thị Chu ở xã Mỹ Thuận, huyện Mỹ Tú luôn sát cánh cùng với đội ghe Ngo chùa Tom Pok Sok của mình để lo cơm nước cho các vận động viên.
Bà Chu chia sẻ: “Từ nhỏ tôi đã rất thích môn thể thao này nên suốt 26 năm qua, cứ tới mùa đua ghe Ngo là theo nấu cơm cho đội ghe. Vì lòng yêu thích nên khi tới mùa đua ghe Ngo là sẵn sàng đi phục vụ”.
Còn gia đình bà Liêu Thị Chênh ở ấp Bưng Lức, xã Đại Ân 2, huyện Trần Đề đã tham gia phục vụ đội ghe ngo chùa Đơm Pô từ hơn 10 năm nay. Bà Chênh cho biết: “Tới mùa đua ghe Ngo là con cháu trong gia đình đều đóng góp công sức và chi phí, cùng nhau hỗ trợ cho đội ghe của chùa Đơm Pô tập luyện. Vì yêu thích nên trong gia đình có đến 4 người tham gia thi đấu”…”(ngưng trích)
Hình như các chùa và Phật tử Miền Tây mình chỉ xem thể thao như mùa lễ hội, như niềm vui… Đơn giản như thế. Nhưng Phật Giáo Thái Lan lại được nhiều vận động viên thể thao xem như nơi nương tựa tâm linh, có sức mạnh huyền bí giúp chiến thắng.
Thí dụ, như bản tin Zing nhan đề “U22 Thái Lan nhờ nhà sư làm phép, xin bùa tại SEA Games 29” vào ngày 12/08/2017 viết, trích:
Trước khi lên đường sang Malaysia dự SEA Games 29, đội tuyển U22 Thái Lan đã tìm đến các nhà sư được cho rằng từng "làm phép" mang đến may mắn cho CLB Leicester City.
Mùa 2015-16, Leicester City qua mặt nhiều tên tuổi lớn để vô địch Premier League. Trên hành trình tới ngôi vương, nhiều người cho rằng đóng góp của nhà sư Thái Lan rất quan trọng. Năm đó, Chủ tịch Vichai của CLB thường xuyên đến xin các nhà sư làm phép mang đến may mắn cho "Bầy cáo"…”(ngưng trích)
Một bài báo trên Buddhistdoor Global trong tháng 10/2010 của nhà nghiên cứu Alastair Gornall nói rằng nhiều võ sĩ quyền thuật Thái Lan trước khi lên đấu võ đài thường tới chùa để xin các nhà sư ban phước lành, thậm chí có khi mời các nhà sư tới xem trận đấu (even have monks in the audience!) để an tâm xuất quyền ra chiêu. Gornall bày tỏ không hài lòng về phong tục đó, vì đấu võ là đi ngược  truyền thống bất bạo động của Phật pháp.
Một truyền thống thể thao được biết khắp thế giới là Chùa Thiếu Lâm, nơi xuất phát môn võ Thiếu Lâm, mẹ đẻ các môn võ thuật Trung Hoa.
Tự Điển Wikipedia ghi nhận như sau:
Có lẽ người nổi tiếng nhất có liên hệ với chùa Thiếu Lâm là Bồ đề đạt ma. Ông là một nhà sư được cho là từ Ba Tư hoặc Nam Ấn Độ sang Trung Quốc vào thế kỉ thứ 5 hay thứ 6 để truyền bá Phật giáo. Trường phái Phật giáo do Bồ-đề-đạt-ma lập ra ở Thiếu Lâm trở thành nền tảng cho Thiền tông sau này… Sau khi vào Thiếu Lâm tự, truyền thuyết kể rằng Bồ-đề-đạt-ma thấy các nhà sư không có hình thể mạnh khỏe cho thiền định và họ thường ngủ gục trong khi thiền. Chuyện kể rằng Bồ-đề-đạt-ma ngồi thiền quay mặt vào tường trong một hang đá cạnh chùa trong chín năm, sau đó ông giới thiệu một hệ thống các bài tập thể dục được cho là thập bát La-hán chưởng hay là các bài tập co giãn cơ bắp kinh điển Đạt-ma. Dần dần những động tác này phát triển thành võ thuật. Theo truyền thống, các nhà sư Thiếu Lâm phát triển kỹ năng võ thuật để phòng thủ sự tấn công của kẻ địch, như là một phương tiện giữ gìn sức khỏe, và như là một kỉ luật về tinh thần và thể chất.”(ngưng trích)
Như thế, ban đầu, trong truyền thống Trung Hoa, võ thuật là để giữ sức khỏe, để giảm bệnh, để ngồi thiền mà không ngủ gục, để tự vệ…
Nhưng xem kìa, quả banh đang lăn trên sân cỏ… Mùa này là World Cup… Môn bóng đá cũng có một số tuyển thủ nổi tiếng thế giới theo Đạo Phật.
Các Phật tử Tây phương nổi bật  trong làng bóng đá là: Mehmet Scholl, Mario Balotelli Barwuah, Roberto Baggio, Fabien Barthez.
Trong đó có Mehmet Scholl, sinh ngày 16/19/1970. Vị trí đá nổi tiếng của ông là tiền vệ cho đội Đức quốc. Bây giờ tuổi lớn, không đá nữa, nhưng về làm quản trị và huấn luyện túc cầu.
Theo Wikipedia, Mehmet Scholl (tên khai sinh là Mehmet Yüksel sinh 16-10-1970) là tiền vệ người Đức gốc Thổ Nhĩ Kỳ.Ông là cầu thủ rất nổi tiếng của Bayern Munich và là một trong những cầu thủ gốc Thổ thành công nhất và được yêu mến nhất tại Đức. Sở hữu kỹ thuật, kiến tạo và khả năng sút phạt tốt, Scholl là một trong những tượng đài của Hùm xám khi thi đấu liên tục cho Bayern từ năm 1992 đến 2007 (15 năm).
Trong khi đó, một cầu thủ Phật tử Ý nổi tiếng là: Mario Balotelli Barwuah (sinh ngày 12 tháng 8/1990) là tiền đạo người Italy gốc Ghana, anh chơi cho câu lạc bộ Nice và đội tuyển bóng đá quốc gia Ý. Anh nổi tiếng không chỉ bởi tài năng bóng đá khi tuổi đời còn rất trẻ mà còn bởi những tai tiếng do tính cách nóng nảy, quậy phá, vô kỷ luật cả trong lẫn ngoài sân cỏ. Chính vì điều này anh được mọi người đặt cho nhiều biệt danh như Super Mario vì tài năng của anh, hay biệt danh "Ngựa chứng" để nói về tính cách ngông cuồng, vô kỷ luật của Balotelli. Hãy tin rằng, với thời gian tu tập thiền quán, tính anh Barwuah sẽ đằm hơn, sẽ rời xa mọi chuyện nóng nảy quậy phá.
Một cầu thủ Phật tử Ý nổi tiếng chân đá huyền thoại có tên là Roberto Baggio. Anh Baggio sinh ngày 18 tháng 2/1967 tại Caldogno, Veneto, là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý, một trong những cầu thủ tài năng và nổi tiếng nhất thập niên 1990 cũng như những năm đầu thập niên 2000. Baggio từng cùng đội tuyển Ý tham dự 3 kỳ World Cup, và là cầu thủ Ý duy nhất ghi được bàn thắng trong cả ba kỳ. Ông là cầu thủ xuất sắc nhất của đội tuyển Ý tại World Cup 1994, người đã dẫn dắt đội bóng áo thiên thanh vào đến trận chung kết và chỉ chịu thua trước Brasil trên chấm phạt đền, đáng chú ý hơn cả chính Baggio lại là một trong 3 cầu thủ của tuyển Ý sút trượt penalty dẫn đến thất bại của đội bóng.
Theo Wikipedia, Baggio đã giành được cả hai danh hiệu cao quý nhất của bóng đá thế giới khi còn thi đấu, Quả bóng vàng châu Âu (1993) và Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA (1993).
Khi Baggio từ ACF Fiorentina chuyển sang Juventus F.C. với giá chuyển nhượng kỉ lục thế giới vào năm 1990, cổ đọng viên biểu tình 3 ngày trước trụ sở ACF Fiorentina và chỉ giải tán khi cảnh sát chống bạo động vào cuộc. Trận cuối ông chơi ở Serie A ( Brescia gặp A. C Milan tháng 3/2004), tuy Baggio không ghi bàn cho Brescia nhưng cổ động viên 2 đội đều đứng bật dậy vỗ tay chúc mừng ông. Ông được mệnh danh là "đuôi ngựa thần thánh" bởi đuôi tóc sau của ông. Ông là một Phật tử nổi tiếng.
Một cầu thủ Phật tử Pháp nổi tiếng là Fabien Barthez. Anh nói minh bạch rằng tất cả thành công của anh là nhờ tu học theo Đạo Phật. Tên đầy đủ là Fabien Alain Barthez, sinh ngày 28/6/1971, sinh ở Lavelanet, Pháp quốc. Vị trí: Thủ môn. 
Theo thông tin trên Wikipedia, tuyển thủ Fabien Alain Barthez từng đoạt một số huy chương khi chơi ở vị trí thủ môn cho Marseille, Manchester United và cùng với đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp giành chức vô địch tại World Cup 1998, Euro 2000 và lọt vào trận chung kết World Cup 2006. Ông cùng với Peter Shilton là 2 thủ môn giữ kỷ lục giữ sạch lưới nhất trong giải vô địch bóng đá thế giới, trong 10 trận. Ở câu lạc bộ, ông đã từng chiến thắng tại giải Cúp các đội vô địch bóng đá quốc gia châu Âu, một số danh hiệu tại Giải vô địch bóng đá Pháp và Giải bóng đá Ngoại hạng Anh.
Như thế, chúng ta thấy rằng thể thao với Đạo Phật vẫn hòa hợp nhau dễ dàng… Với điều kiện, không bạo động, không gây tổn thương cơ thể đối thủ. Cũng có thể sử dụng thể thao như phương tiện rèn luyện cơ thể để có sức khỏe, không bệnh, hay dùng như lễ hội, dùng như phương tiện giáo dục thiếu niên…