Tuesday, May 1, 2018

Năm Phẩm Chất Đầu Tiên của Người Lãnh Đạo Tôn Giáo Thành Công



Năm Phẩm Chất Đầu Tiên của Người Lãnh Đạo Tôn Giáo Thành Công
Chuyển ngữ và hiệu đính: Nguyên Túc 2016

Kính thưa quý anh chị, khi chuyển ngữ bài học này, chúng tôi đặt quý anh chị ở vị trí người lãnh đạo một tổ chức giáo dục Phật giáo, với mục đích và vai trò rõ ràng. Trên tinh thần đó, chúng tôi mạo muội dịch thoáng hơn, thay vì bám vào từng câu chữ của nguyên tác. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng muốn một phần giúp quý anh chị  so sách bản English và bản Việt Ngữ để giúp chúng tôi hoàn thiện hơn bản dịch này trong tương lai. Kính cảm ơn quý anh chị.

Lời Giới Thiệu

Lãnh đạo không phải là khả năng mà ta sinh ra đã có. Đó là khả năng do chúng ta huân tập qua kinh nghiệm tiếp xúc với xã hội mình đang sống. Mỗi cá nhân học tập để thành một người lãnh đạo bằng cách thực nghiệm những gì các người lãnh đạo xuất sắc đã làm trước đó, và ứng dụng một cách sáng tạo kinh nghiệm của mình vào môi trường mới(*).  Những phẩm chất lãnh đạo bao gồm những kỹ năng mềm khéo léo, từng trải, được đánh giá cao, mà mỗi cá nhân rèn luyện cho chính mình để hướng dẫn hoặc chỉ hướng cho người khác đạt tới thành công. Cách lãnh đạo hiệu quả có thể giúp một đoàn thể, cộng đồng, xã hội hay quốc gia vượt qua các thời kỳ gian khó. Khả năng lãnh đạo tốt luôn mang đến thành công cho những người đi theo và giúp họ hoàn thành sứ mệnh của mình.

Trong một cộng đồng, người lãnh đạo là những người dẫn đầu và xếp đặt phương hướng cho cộng đồng của mình. Đây là trách nhiệm của người lãnh đạo nhằm giúp cộng đồng thấy những gì đang ở phía trước, làm thế nào để hình dung và đạt được các mục tiêu trong cuộc sống.  Người lãnh đạo luôn khuyến khích và truyền cảm hứng cho mọi người hướng thiện và phát triển các kỹ năng cần thiết để thành công trong mọi công việc. Các bài học lịch sử chứng mình rằng nếu thiếu một người lãnh đạo giỏi, một  tổ chức, một nhóm người sẽ nhanh chóng đi đến chỗ tranh cãi và xung đột với nhau, bởi vì mỗi người khác nhau nhìn thấy mọi thứ theo những cách khác nhau và nghiêng về giải pháp khác nhau. Nên, nhiệm vụ của một người lãnh đạo là kéo mọi người lại với nhau, cùng chung một mục đích, giải quyết các vấn đề với nhau, và dẫn mọi người theo cùng một hướng.

Tuy nhiên, lãnh đạo cũng có nhiều vai trò khác nhau tùy thuộc vào mục đích của mỗi cộng đồng.  Những phẩm chất của người lãnh đạo cũng khác nhau tùy thuộc vào vai trò  của lãnh đạo.  Trong bài viết ngắn gọn này, chúng tôi sẽ thảo luận về những năm phẩm chất hàng đầu của một người lãnh đạo tinh thần / tôn giáo qua cái nhìn của mình.

Năm Phẩm Chất Hàng Đầu Của Một Người Lãnh Đạo Tinh Thần / Tôn Giáo

Qua chiều dài lịch sử, nếu chúng ta quan tâm đến tiểu sử của các lãnh đạo tôn giáo thành công, những người đã xuất hiện trong xã hội loài người, chúng ta có thể nhận thấy một cách rõ ràng là tất cả các người lãnh đạo đều đạt một điểm chung; đó là họ được đánh giá cao bởi đa số dân chúng. Câu hỏi cho chúng ta là, “những đặc điểm chung thường thấy trong số các người lãnh đạo tôn giáo thành công được đánh giá cao bởi đa số người dân là những đặc điểm gì?” Nếu chúng ta nghiên cứu chính xác, chúng ta sẽ thấy những phẩm chất này là những phẩm chất phổ biến đã thu hút mọi người tới với họ.  Có rất nhiều phẩm chất như vậy mà một người lãnh đạo giỏi cần huân tập. Trong số những phẩm chất đó, năm (5) phẩm chất hàng đầu, mà chúng tôi nghĩ là quan trọng nhất, sẽ được chúng tôi thảo luận chi tiết trong bài viết này. Năm phẩm chất đó là:

1. Đạo đức
2. Trung Thực
3. Độ lượng
4. Sử dụng quyền hạn hợp lý
5. Bình Tỉnh

Đạo Đức
Những giá trị đạo đức là những bước cơ bản trong việc gầy dựng tính cách và bản tính mỗi cá nhân; tổng hợp tất cả cá nhân đó là chính chúng ta: loài người! Những nguyên tắc đạo đức là cơ sở để phân biệt giữa con người và các sinh vật khác. Nói một cách khác, đạo đức là nền tảng làm thăng hoa loài người lên trên tất cả các sinh vật khác. Giá trị đạo đức cho chúng ta ý thức của sự hiểu biết vạn vật và cho chúng ta khả năng lựa chọn giữa đúng và sai. Giá trị đạo đức cứu chúng ta khỏi rơi vào con đường sai lầm và kéo chúng ta hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhờ những nguyên tắc đạo đức đó, mà chúng ta biết lỗi khi mình cố làm một điều gì sai trái. Theo một định nghĩa từ mạng Google, “đạo đức là nguyên tắc về sự phân biệt giữa hành vi đúng/sai hoặc tốt/xấu.

Đây là những khía cạnh khác nhau của các giá trị đạo đức; thông thường, một người có đạo đức cao là một trong những người sách tấn và làm thăng hoa đạo làm người. Phẩm chất đạo đức là chiếc la bàn trong chúng ta, hướng cho ta tới lẽ phải và sự công bằng.  Chỉ khi một người có được một kim chỉ nam đạo đức thì người đó mới có thể chắc chắn rằng những phẩm chất lãnh đạo sẽ không nghiêng về bên ác đạo.  Người lãnh đạo với la bàn đạo đức của mình giữ được khoảng cách của mình với bất kỳ hành động vô đạo đức nào - đó là một dấu hiệu an tâm cho những người đi theo.

Những người lãnh đạo đó sẽ không để mình dính tới việc làm vô đạo đức và sẽ không thuyết phục những người theo mình để tham gia làm việc vô đạo. Thay vào đó, họ sẽ luôn cố gắng để dẫn dắt mọi người tới Chân-Thiện-Mỹ và bản thân họ cũng luôn luôn nêu gương bằng cách làm việc phước đức.

Nếu chúng ta để ý lối sống của người lãnh đạo tôn giáo vĩ đại trong lịch sử, chúng ta có thể thấy rằng tất cả người lãnh đạo đề cao giá trị của các nguyên tắc đạo đức. Ví dụ, Đức Phật không bao giờ làm điều Ác -- ngược lại các nguyên tắc luân lý của mình. Người ta tin rằng Đức Phật là một bậc giác ngộ hoàn toàn; là một bậc giác ngộ, Ngài đã thông suốt tuyệt đối về cái Thiện và cái Ác. Bản thân đức Phật chưa từng làm điều Ác, và Ngài dạy các đệ tử của Ngài không được làm điều Ác.

Một lãnh đạo giỏi có những nguyên tắc luân lý của mình, thường không bao giờ làm những điều trái với nguyên tắc đó; bởi vì nếu phạm giới, nó sẽ mang lại cảm giác ưu phiền, cảm thấy hối hận và thất vọng.  Giá trị đạo đức là điều mà tất cả mọi người thấy thì dễ, nhưng làm thì khó. Vì vậy, khi một người nào đó dành thời gian và nỗ lực của họ trong việc thực hành các giá trị đạo đức, xã hội sẽ tôn trọng và cố gắng làm theo người đó.  Đạo đức là điều mà một người lãnh đạo tôn giáo tốt nên tự thân cố gắng trau dồi và phát triển.

Trung Thực

Trung thực là lòng chân thành, thẳng thắn, đáng tin cậy, xứng đáng, công bằng, chính trực, và trung thành với cộng đồng của một người lãnh đạo. Luôn gìn giữ sự trung thực để dẫn đầu là điều rất cần thiết cho một người lãnh đạo. Đó là một phẩm chất hầu hết mọi người thường dựa vào người lãnh đạo của mình. Trung thực là một cầu nối để một người lãnh đạo xây dựng một mối quan hệ tin tưởng với đồng sự của mình. Nói một cách khác, sự trung thực là một trong những công cụ cơ bản của một nhà lãnh đạo nhằm xây dựng lòng tin giữa những người theo mình. Một người lãnh đạo giỏi luôn cố gắng gìn giữ mối quan hệ hòa nhã với mọi người. Và, sự  trung thực là một trong những hạnh tốt giúp người lãnh đạo làm được điều đó.

Trung thực với cộng đồng nghĩa là luôn cập nhật mọi người tất cả các công việc của mình. Một lãnh đạo giỏi không nên đòi hỏi những người theo mình làm một việc và bản thân mình không thể làm theo. Nói cách khác, với một người lãnh đạo, lời đó phải đi đôi với việc làm (yathavādi tathakāri- làm những gì anh nói).  Người lãnh đạo nên cởi mở và chia sẻ tất cả những kinh nghiệm của mình với mọi người.

Dù làm được việc gì đi nữa, người lãnh đạo cũng phải thừa nhận những việc mình làm chưa được - và không nên che giấu điều đó. Người lãnh đạo giỏi có được tính cách hoàn hảo, được biết tới bằng sự trung thực và liêm chính của của mình. Khi một người lãnh đạo chứng tỏ lòng trung thực, người đó có thể kêu gọi, thức dậy lòng trung thực trong mọi người theo mình.

Đức Phật là một ví dụ nổi bật nhất cho việc này. Đức Phật không bao giờ giấu bất cứ điều gì với các đệ tử của mình và Ngài luôn luôn khuyên các đệ tử của mình tự thực nghiệm những điều mà Ngài đang tu và hành theo.

Sự gắn kết chặt chẽ trong một tổ chức được xây dựng khi người lãnh đạo luôn trung thực và hướng dẫn mọi người một cách hoà hợp. Khi sự gắn kết đã có, thì tổ chức sẽ thăng tiến, và mọi người sẽ tin tưởng nhau dễ dàng hơn.

Độ lượng

Sự nóng nảy là tính cách không phù hợp với một lãnh đạo. Nhà lãnh đạo là người có thể tiếp nhận nhiều người với bản chất khác nhau. Vì vậy, trách nhiệm của người lãnh đạo là tu dưỡng khả năng chịu đựng để tiếp xúc với nhiều đối tượng và có thể lắng nghe mọi suy nghĩ của họ.  Có lòng độ lượng và khả năng lắng nghe mọi người là phẩm chất quan trọng đối với người lãnh đạo. Người lãnh đạo có khả năng giữ được một tâm trí thăng bằng khi lắng nghe quan điểm bất đồng từ mọi phía.

Một người lãnh đạo độ lượng hướng dẫn mọi người để chung sống hòa hợp với nhau, hướng tới hạnh phúc và sự thịnh vượng. Khi một người lãnh đạo chứng tỏ được sự khoan dung thực sự của mình đối với những người khác, tất cả mọi người sẽ cảm thấy mình có giá trị và đang được tôn trọng. Phẩm chất độ lượng giúp người lãnh đạo chấp nhận được người khác từ đó tạo ra một sự hiểu biết tốt hơn về quan điểm, tôn giáo, văn hóa và dân tộc khác. Như Wegela phát biểu trong cuốn 'Can đảm để hiện hữu" -

“Một sự kiên nhẫn chánh niệm (độ lượng hay khoan dung) là để mở cửa cho những điều chúng ta đang trải nghiệm ở giây phút hiện tại. Đó là phương thức thực hành hạnh Hoà Hợp. Như chúng ta đã từng trải nghiệm khi thể hiện Lòng Tốt, Hoà Hợp cũng được đón nhận hơn là bị từ chối ... "
 Wegela, Karen Kissel, ‘Courage to be Present’, Shambhala Publications, Boston, 2009- P. 134

Một người lãnh đạo tôn giáo giác ngộ thực sự là một người có lòng khoan dung với những người thuộc các tôn giáo khác và luôn tôn trọng niềm tin của họ. Mặc dù ta có thể không đồng ý với cách tu tập của người khác, như ta  không nên có bất kỳ sự thiếu tôn trọng đối với niềm tin của người khác. Làm một người lãnh đạo của một tổ chức, chúng ta cũng phải hướng dẫn những người khác một cách thích hợp, để mọi người cũng phát triển tố chất khoan dung đối với tôn giáo  và niềm tin của người khác. Bằng cách này, người lãnh đạo giỏi có thể tạo một cộng đồng của những người trưởng thành trong tình thương và hiểu biết.

Thời Phật còn tại thế, một người bá hộ tên là Upali, đến gặp Đức Phật để tranh luận về giáo lý. Thầy ông Upali là ông Nighathanata Putta (Ni Kiền Tử), sai Upali đến gặp Đức Phật với ý định nhằm cố thắng Đức Phật trong tranh luận. Nhưng khi Upali đến và lắng nghe Phật giảng pháp, ông thay đổi ý định và muốn quy y Phật. Nghe và hiểu được tâm ý Upali, Đức Phật khuyên Upali không nên quyết định nhanh chóng, cần phải suy nghĩ thêm.  Ông Upali rất ngạc nhiên khi nghe những gì Đức Phật nói; và ông nói với Đức Phật rằng nếu ông muốn trở thành một đệ tử của bất kỳ ông Thầy nào khác ở Ấn Độ, họ sẽ đánh trống thổi kèn chào đón ông. Nhưng, sự đáp lại của Đức Phật là một cái gì đó hoàn toàn khác không giống như ông tưởng.  Ông trở nên chân thành hơn với Phật và mong Đức Phật chấp nhận ông làm đệ tử. Sau đó, Đức Phật nhận ông làm đệ tử, và dạy bảo ông không nên bỏ bê hoặc ngừng ủng hộ vị Thầy cũ (Ni Kiền Tử) của mình. Qua câu chuyện này, chúng ta nhận thấy sức mạnh của lòng độ lượng đối với người có niềm tin khác mình. Khi một người lãnh đạo thực sự nhẫn nại với người có niềm tin khác, mọi người sẽ quan tâm tới chúng ta và tôn trọng chúng ta như người lãnh đạo thực sự.

Sử dụng quyền hạn hợp lý

Một điều rất quan trọng đối với một người lãnh đạo là biết làm thế nào để vận dụng quyền lãnh đạo của mình. Một người lãnh đạo mà không vận dụng quyền có được của mình một cách đúng đắng thì chắc không thể trở thành một người lãnh đạo giỏi.

Người lãnh đạo không được lợi dụng hoặc lạm dụng quyền lực của mình. Chúng ta phải biết giới hạn của quyền lực của mình và vận dụng đúng thời cơ.  Quan sát các người lãnh đạo của thế giới hiện đại, chúng ta có thể nhận thấy rằng hầu hết các lãnh đạo đều lạm dụng quyền lực của họ.  Điều này phát sinh là bởi vì hầu hết các nhà lãnh đạo đó chưa “đủ điều kiện” đứng ở vị trí đó. “Đủ điều kiện" có nghĩ là gì trong ngữ cảnh này ?

Ở đây 'đủ điều kiện' có nghĩa là sự hành hoạt tương tác giữa đời sống tâm linh cùng với quyền lực. Nếu một người lãnh đạo có đời sống tâm linh trống rỗng, người đó không biết giá trị chân thực của quyền lực; một người mà không biết giá trị của một cái gì đó thì cũng sẽ không có kiến thức để dùng nó một cách đúng đắng và hiệu quả.

Thiền Sư Thích Nhất Hạnh tin rằng sự lạm dụng quyền lực ắt xảy ra, vì như con người sinh ra tự nhiên đã có tập tánh xấu có thể hại mình, hại người. Đó là Tham lamSân hận - nguyên nhân gốc rễ của chúng là sự Vô minh. Để sử dụng quyền lực một cách khéo léo, Sư Ông Thích Nhất Hạnh nói rằng chúng ta phải cắt đứt tất cả những tập tánh xấu, có hại. Trước hết, chúng ta phải cố gắng để thoát khỏi sự vô minh của mình. Thầy tin rằng ta phải làm chủ được hành vi của mình thì mới vận dụng được quyền lực một cách đúng đắng và hiệu quả.

“Hạnh đầu tiên ta cần phải biết để sử dụng quyền lực của mình một cách khéo léo là hạnh của sự “chặt đứt” “Chặt đứt” những gì? Ta chặt đứt sự tức giận, tham ái, và sự thiếu hiểu biết. Nói một cách khác, điều này là 'sự Buông Xả.” Ta sẽ dần dần chuyển hóa được lòng ái dục, giận dữ, sợ hãi và ảo tưởng. Nếu ta không có tự chủ bản thân, ta có thể gây đau khổ cho mình và cho người khác, và mọi người sẽ không tôn trọng ta.” ( Hanh, Thich Nhat, ‘The Art of Power’ Harper One, New York, 2007 -P.34)

Bình Tỉnh

Bình tỉnh chính là sự cân bằng hoàn toàn với tâm trụ không lay chuyển từ trong ra ngoài.  Đó là một phẩm chất giúp một người có được sự bình thản khi đối mặt với nhiều hoàn cảnh khác nhau trong cuộc sống.

Một người lãnh đạo với phẩm chất bình tỉnh, dù nhìn thấy gì, nghe thấy gì, ngửi thấy gì ...; người đó luôn luôn cố gắng để duy trì vị trí cân bằng trong tâm trí của mình. Nói cách khác, người đó luôn cố gắng buông bỏ cách nhìn nhận tiêu cực, và thay vào đó, bằng một thái độ chấp nhận để đi lên.

Nhìn vào cuộc sống hàng ngày của chúng ta, chúng ta có thể thấy rõ ràng tâm trí mình liên tục thay đổi khi chúng ta phải đối diện với nhiều tình huống khác nhau trong cuộc sống. Khi chúng ta đối diện với sự “ba chìm bảy nổi chín lênh đênh" của cuộc đời, chẳng hạn như sự thăng trầm, thành bại, được mất, khen chê.., chúng ta thấy rằng rất khó để duy trì một tâm trí quân bình. Chúng ta cảm nhận được trái tim mình đập theo nhịp hạnh phúc và đau khổ, niềm vui và nỗi buồn, thất vọng và sự hài lòng, niềm hy vọng và sợ hãi. Những đợt sóng của cảm xúc có thể đưa chúng ta lên cao và cũng có thể vùi chúng ta xuống vực sâu.

Nhưng một người lãnh đạo không được phép để tâm trí của mình bị chi phối với tất cả những cảm xúc tình cảm; người lãnh đạo nên cần luôn luôn cố gắng để duy trì một tâm trí cân bằng khi phải đối mặt với tất cả những kinh nghiệm sống khác nhau.  Người lãnh đạo không cảm thấy thích thú khi ai đó khen ngợi mình; không nên chìm đắm trong đau khổ khi bị người đổ lỗi... Một người lãnh đạo nên bình tỉnh trước những thăng trầm của cuộc sống. Người lãnh đạo không nên xử tệ với người đổ lỗi cho mình, và cũng không nên cố gắng đứng về phía những người ca ngợi mình.  Đó là chất liệu quan trọng đối với một người lãnh đạo nhằm nuôi dưỡng một tâm trí vững chãi hoặc điều hoà cân bằng các cảm xúc của mình.

Kết Luận

Trong thế giới hiện đại, nghề nghiệp lãnh đạo có thể là một việc không khó khăn lắm - học là làm được. Nhưng, để trở thành một người lãnh đạo tinh thần giỏi, thì thực sự rất khó khăn. Tất cả những phẩm chất nói trên, nghe thì dễ đó, nhưng thực tế rất khó tạo dựng và nuôi dưỡng. Đó là những phẩm chất đạo đức hàng đầu nhằm giúp một người lãnh đạo tự hướng dẫn mình (tự giác) và hướng dẫn những người khác một cách đúng đắn (giác tha). Một người lãnh đạo sở hữu những phẩm chất đạo đức trên sẽ gặt hái thành công ở vị trí của mình (giác hạnh viên mãn).  Mọi người sẽ đánh giá cao người lãnh đạo đó và sẽ hết lòng đi theo. Mọi người sẽ không có bất kỳ suy nghĩ thù địch chống lại người lãnh đạo và người đó sẽ được yêu thương bởi tất cả mọi người. Mùi hương của người đức hạnh, không giống như mùi thơm của hoa thường, hương đức hạnh sẽ bay ngược chiều bay của gió, lan toả chan hoà. Mọi người khắp nơi sẽ ngưỡng mộ những phẩm hạnh đó, cùng đón nhận và đi theo bước chân người lãnh đạo đức hạnh.

Thư mục tham chiếu

Hanh, Thich Nhat. ‘The Art of Power’ Harper One, New York, 2007.
Wegela, Karen Kissel. ‘Courage to be Present’, Shambhala Publications, Boston, 2009.



Monday, April 30, 2018

LÀ NHƯ THẾ - AS IT IS


LÀ NHƯ THẾ
  Kính tặng Ni trưởng Hạnh Huệ


Ni trưởng thong dong bước
Mây cùng bay qua đồi
Nhẹ nhàng không tì vết
Như bóng nhạn ngang trời.

Nụ cười loang diệu vợi
Hoa nở khắp trên đồi
Khi tâm không ràng buộc
Cõi lòng thật thảnh thơi

Sống hay chết như thế
Nhẹ nhàng không mong đợi
Rõ-ràng-ta-thường-biết
Tánh Phật ở muôn nơi.

Bước nhẹ trên đồi - Photos: BXK

AS IT IS
 For Abbess Hanh Hue

Walking leisurely on one afternoon
The clouds also passing along freely  
Like her, flowing gently, without any mark
Just like a heron crosses the sky without a trace. 

The smile is contagious 
Like the California poppies bloom all over the hill
When the mind is not bound to anything
Our heart and mind are at peace and free

Coming or going, life or death is just like that
Live gently, at ease, not expecting nor worrying
Knowing the awakening potential within us
The Buddha Nature is everywhere. 

Giới Thiệu Cuộc Nghiên Cứu về Tái Sanh: “Rebirth in Early Buddhism & Current Research”


Giới Thiệu Cuộc Nghiên Cứu về Tái Sanh:
“Rebirth in Early Buddhism & Current Research”
Nguyên Giác

Có nhiều câu hỏi về tái sanh thường được nêu ra đối với các Phật tử. Có tái sanh không? Nếu có, có thể nhớ chuyện kiếp trước không? Cái gì tái sanh? Có thân trung ấm hay không? Nếu có, có thể tu trong thân trung ấm hay không? Bên cạnh kinh điển Phật giáo, các nhà khoa học nói gì về tái sanh, và các nghiên cứu  đang tới đâu rồi?
Đã có nhiều nhà sư dựa vào Kinh Tạng để trả lời các câu hỏi trên, cũng như nhiều nhà khoa học đã khảo sát về một số trường hợp được hiểu là có tái sanh khi các thiếu niên nhớ lại ba mẹ kiếp trước. Tuy nhiên, nhiều ngờ vực vẫn không ngừng nêu ra, vì cơ duyên để phỏng vấn hay nghiên cứu các trường hợp lạ vẫn rất hiếm, hoặc bất toàn.
Trong các tác phẩm biên khảo về đề tài tái sanh, cuốn “Rebirth in Early Buddhism and Current Research” của Bhikkhu Analayo có một tầm quan trọng đặc biệt, cần có trong tủ sách các thư viện Phật giáo. Tác phẩm này do NXB Wisdom Publications phát hành trên Amazon ngày 24/4/2018, tức là mới vài ngày qua, chưa tới một tuần. Sách này có hai lời nói đầu. Lời đầu sách là của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Lời giới thiệu thứ nhì là của nhà sư Bhante Gunaratana.
Nhiều nhà nghiên cứu Phật học có theo dõi cuộc nghiên cứu của tác giả Bhikkhu Analayo đã đặt mua cuốn này từ một năm trước. Ít có tác phẩm biên khảo nào được chú ý như thế trong giới học Phật. Nơi đây xin nêu ý riêng: trân trọng mời gọi các học giả Việt Nam giỏi tiếng Anh (và sẽ có lợi thêm nếu biết một chút về các ngôn ngữ như tiếng Hán, Pali, Sanskrit) nên tìm mua tác phẩm này. Hãy vào Amazon.com và gõ nhóm chữ  “Bhikkhu Analayo” sẽ thấy sách này.
Tác phẩm viết bằng tiếng Anh, và vì sách mới ấn hành, nếu các nhà nghiên cứu trong GHPGVN muốn dịch ra tiếng Việt có lẽ sẽ khó xin phép chuyển ngữ vô điều kiện, phần cũng vì sách này là một trong các quan tâm lớn của giới học Phật toàn cầu. Tuy nhiên, hãy suy nghĩ, chúng ta xây những tượng Phật lớn nhất Đông Nam Á, xây các ngôi chùa tốn kém hàng chục triệu đôla, trong khi nếu ký hợp đồng để xin dịch sách này sang tiếng Anh, cho cao nhất là vài ngàn đôla là cùng. GHPGVN nên quan tâm để xin dịch sang tiếng Việt các sách tương tự, để làm sách tham khảo cho các Phật học viện, có lợi hơn xây chùa vô cùng tận. Bởi vì Nhật Bản có rất nhiều chùa đẹp, nổi tiếng về kiến trúc quốc tế, cũng không ngăn nổi sự suy thoái của Phật giáo ở quốc gia này.
.
Trước tiên, để nói sơ lược về tác giả. Bhikkhu Anālayo là một nhà sư, một học giả, và là người dạy thiền. Ông sinh tại Đức năm 1962, xuất gia năm 1995 tại Sri Lanka, nổi tiếng với các công trình tỷ giảo về Kinh Văn Phật Giáo Sơ Thời (Early Buddhist Texts) được lưu giữ từ nhiều truyền thống Phật Giáo. Bhikkhu Anālayo ban đầu xuất gia tạm năm 1990 tại Thái Lan, sau một khóa thiền ở chùa Wat Suan Mokkh, tự viện thiết lập bởi nhà sư Thái Lan Ajahn Buddhadasa. Năm 1994, đại sư tới Sri Lanka, và năm 1995 thọ đại giới. Năm 2000, hoàn tất đề tài Tiến sĩ về Kinh Niệm Xứ (Satipatthana-sutta) tại đại học University of Peradeniya (ấn hành bởi NXB Windhorse tại Anh quốc). Trong năm 2007, đại sư hoàn tất một cuộc nghiên cứu bổ túc tại đại học University of Marburg, trong đó đại sư đối chiếu các kinh Trung Bộ trong Tạng Pali với các kinh tương tự trong tiếng Trung Hoa, tiếng Sanskrit, và tiếng Tây Tạng. Hiện nay đại sư là một thành viên của viện nghiên cứu Numata Center for Buddhist Studies (thuộc University of Hamburg) trong cương vị Giáo sư, và làm việc với cương vị nhà nghiên cứu tại đại học Dharma Drum Buddhist College tại Đài Loan. Ngoài thời giờ cho nghiên cứu, đại sư thường xuyên hướng dẫn các khóa thiền.
Bhikkhu Anālayo là nhà nghiên cứu có thẩm quyền về nhiều hệ kinh văn cổ. Hiện nay đang là nhà biên tập chính và là một trong các dịch giả cho bản dịch Anh văn đầu tiên từ bản tiếng Trung Hoa của Trung A Hàm [Madhyama-āgama (Taishō 26)], và đang thực hiện bản dịch tiếng Anh từ bản tiếng Trung Hoa của Tạp A Hàm [Saṃyukta-āgama (Taishō 99)]. Nhóm Kinh Tạp A Hàm là song song với nhóm Kinh Tương Ưng trong tiếng Pali.
Tới đây, xin nói về tác phẩm biên khảo “Rebirth in Early Buddhism & Current Research.” Trong tiếng Việt, có thể dịch là “Tái Sanh trong Phật Giáo Sơ Kỳ & Nghiên Cứu Hiện Nay.” Sách chia làm 4 phần. Chương đầu tiên khảo sát về lý thuyết tái sanh trong các nguồn kinh điển Phật Giáo xưa cổ nhất. Chương thứ nhì duyệt về các cuộc tranh luận về tái sanh trong lịch sử Phật Giáo và tới thời hiện đại, ghi nhận vai trò của sự thiên lệch khi đánh giá các chứng cớ. Chương thứ ba duyệt lại các nghiên cứu hiện nay về tái sanh, kể cả kinh nghiệm cận tử, ký ức về kiếp trước, và về trẻ em nhớ lại các kiếp trước; chương này bao gồm cả việc khảo sát năng lực xenoglossy, tức là khả năng nói các ngôn ngữ không hề học trong kiếp này. Chương 4 khảo sát trường hợp của Dhammaruwan, một cậu bé người Sri Lanka tụng đọc các kinh văn tiếng Pali mà cậu không hề học trong kiếp này. Tác phẩm chỉ khảo sát về các chứng cớ, và để độc giả tự kết luận.
Chương thứ 4, từ trang 119 tới trang 162, nhan đề là “Case Study in Pali Xenoglossy,” khảo sát về cậu bé Dhammaruwan ở Sri Lanka, trong đó khảo sát chia làm 4 phần: thứ nhất, viết tổng quát về trường hợp cậu bé đọc tụng kinh văn Pali mà chưa từng được học; thứ nhì là đối chiếu, đại sư yêu cầu cậu bé dọc 13 bản kinh Pali, trong đó có 3 kinh trong Trường Bộ Kinh, 5 kinh trong Tương Ưng Bộ Kinh, nhận ra rằng cậu bé đọc ra là văn khẩu truyền, trong khi chúng ta đọc Tạng Pali hiện nay là văn đã viết xuống giấy; thứ ba là tìm sai sót và dị bản, giữa kinh văn cậu bé đọc và kinh văn trên chữ viết hiện nay; thứ tư là xem những phần cậu bé đọc tụng thiếu sót những gì và có thêm hơn những gì, khi so với các kinh văn Pali hiện nay.
Ngắn gọn, tác phẩm nghiên cứu này cần cho các thư viện trong các Phật Học Viện.
Tới đây, xin dịch Lời nói đầu của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong tác phẩm “Rebirth in Early Buddhism & Current Research” của Bhikkhu Analayo. Bản Việt dịch của Nguyên Giác sẽ cố gắng dịch sát nghĩa, vì  Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng kể về các kinh nghiệm riêng, khảo sát riêng về tái sanh, kể cả một số trường hợp các nhà sư Phật giáo Tây Tạng khi còn thơ ấu đã nhớ về kiếp trước và tìm về tu viện cũ.
.
Lời nói đầu của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong sách này ở trang ix tới trang xi. Việt dịch như sau.
“Tôi đón mừng việc ấn hành sách này trong khảo sát về tái sanh, một khái niệm được hầu hết Phật tử chấp nhận rằng cuộc đời chúng ta không có khởi đầu và rằng chúng ta đi từ một đời này sang đời kế tiếp. Bởi vì Phật tử tất cả các truyền thống chấp nhận rằng kinh điển trong tiếng Pali là các bản văn sớm nhất ghi lời Đức Phật dạy, sự xác nhận của Bhikkhu Analayo rằng tái sanh được giải thích rõ ràng trong Kinh Pali qua văn mạch về duyên khởi và nghiệp là công trình giá trị. Tác giả cũng nêu bật các trường hợp thường được chấp nhận rằng có một điểm sinh động trong kinh nghiệm giác ngộ của Đức Phật là nhớ lại các kiếp trước của chính Đức Phật và [nhớ lại] kiếp của các người khác.
Dignaga, nhà luận sư Ấn Độ vĩ đại của thế kỷ thứ 5 và thứ 6, đã khảo sát tận tường khái niệm tái sanh. Vị này chỉ ra rằng khi chúng ta nói về các thứ vật chất, chúng ta phải khảo sát về các nguyên nhân chính yếu và các điều kiện cùng vận hành. Thí dụ, cơ thể vật chất của chúng ta là tổng hợp các vi hạt. Mỗi vi hạt có một nguyên nhân chính yếu, và chúng ta có thể, một cách lý thuyết, dò ngược tới trận nổ Big Bang và ngay cả xa hơn trước đó nữa. Do vậy, chúng ta kết luận rằng các vi hạt làm thành thế giới vật chất không có khởi đầu.
Y hệt như vật chất không có khởi đầu, thức cũng không có khởi đầu. Dignaga lý luận rằng nguyên nhân chính yếu của thức phải cùng bản chất như thức. Luận sư này khẳng định rằng, trong khi vật chất có thể tạo ra điều kiện cùng vận hành khi nói về các căn, não bộ và hệ thần kinh của chúng ta, vật chất không có thể là nguyên nhân chính yếu cho thức. Nguyên nhân chính yếu cho thức phải cùng bản chất như thức. Nói cách khác, từng khoảnh khắc của thức là theo sau một khoảnh khắc trước đó của thức; do vậy chúng ta nói rằng thức không có khởi đầu – và trên căn bản đó, chúng ta mô tả về lý thuyết tái sanh.
Tôi chia sẻ mục tiêu của Bhikkhu Analayo khi tìm cách hiểu về những chuyện như chúng thực sự xảy ra, do vậy tôi hạnh phúc thấy rằng tác giả duyệt lại trong sách này các cuộc tranh luận về tái sanh trước khi nhìn vào các chứng cớ khác. Trong các cuộc thảo luận tôi tham dự với các nhà khoa học hiện đại trong hơn ba mươi năm qua, tôi ghi nhận sự chuyển biến từ giả thuyết ban đầu của họ rằng thức không vượt hơn một chức năng của não bộ sang tới  một xác nhận về neuroplasticity -- tạm dịch: chức năng tái phục hoạt của hệ thần kinh, xem chi tiết ở (1) – và công nhận rằng liên hệ giữa tâm và não bộ có thể tương thuộc nhiều hơn là trước kia họ nghĩ. Tôi cũng đã hỏi rằng, có phải hay không, khi một tinh trùng hoàn hảo gặp một trứng hoàn hảo trong một tử cung hoàn hảo, việc khai sinh ra một chúng sinh hữu thức sẽ tự động xảy ra. Các nhà khoa học nhìn nhận rằng không có chuyện đó, nhưng không có thể giải thích tại sao. Phật giáo giải thích rằng cần thêm một yếu tố để xem xét, đó là sự có mặt của thức.
Bhikkhu Analayo gợi chú ý về các phúc trình về các trẻ em nhớ kiếp trước. Chính tôi cũng đã gặp nhiều trẻ em như thế. Trong đầu thập niên 1980s, tôi gặp hai bé gái, một từ Patiala và một từ Kanpur ở Ấn Độ, cả hai đều nhớ rất rõ ràng về kiếp trước của họ. Một cách rõ ràng và một cách thuyết phục, hai bé gái nhận ra ba mẹ kiếp trước của họ, cũng như nơi cả hai đã sống trong kiếp trước. Mới gần đây, tôi gặp một bé trai, cậu này sinh ở Lhasa, Tây Tạng. Trước tiên, người ta mang cậu bé tới Dharamsala, nơi tôi cư ngụ, nhưng cậu bé cứ nói, “Tôi không đến từ nơi này; nơi của tôi là phía Nam Ấn Độ.” Sau đó, cậu dẫn ba mẹ cậu [kiếp này] tới tu viện Gaden Monastery (2), tìm ra căn nhà trước kia của cậu này, và chỉ vào căn phòng trước kia của cậu. Khi họ bước vào phòng, cậu bé nói, “Nếu nhìn vào trong cái hộp này, mọi người sẽ thấy cặp mắt kính của tôi,” và đúng là họ thấy như thế.
Một chuyện tương tự liên hệ tới cháu trai của một người bạn Tây Tạng sống ở Hoa Kỳ. Tôi đã công nhận cậu bé này là tái sanh của một lạt ma mà bạn tôi trước đó đã quen biết. Tuy nhiên, cha của cậu bé không muốn con trai mình được công nhận và tu học như một lạt ma tái sanh, và do vậy đưa cậu vào trường học đời thường. Người ông (nội/ngoại) của cậu bé kể với tôi rằng chính cậu bé tự kể về cậu, nói, “Đây không phải là nơi con nên ở. Con nên ở tại Ấn Độ, trong tu viện Drepung Loseling Monastery.” Sau cùng, người cha chấp nhận, và cho cậu bé vào tu viện.
Mẹ tôi thường nói với tôi rằng khi tôi còn nhỏ, tôi đã có ký ức rõ ràng về kiếp trước của tôi. Những ký ức đó mờ dần khi tôi lớn, và bây giờ tôi không có thể nhớ cả những gì đã xảy ra hôm qua. Khi tôi mới đây gặp một cậu bé tới từ Lhasa để vào tu viện của cậu, tôi hỏi cậu bé rằng có còn nhớ gì kiếp trước không, và cậu bé trả lời rằng không nhớ. Tôi hài lòng biết rằng bản thân tôi không phải là người duy nhất mà ký ức về kiếp trước tan biến.
Trường hợp mà Bhikkhu Analayo dẫn ra [trong sách này], một cậu bé có thể đọc tụng tiếng Pali từ một thời đại xa xưa, rằng cậu này không có cách nào gặp được ngôn ngữ [Pali xưa cổ] này trong cách nào khác, cũng phù hợp với kinh nghiệm của tôi. Tôi có nghe về những người có thể đọc tụng các bản văn và các bài kệ mà họ không hề học [trong kiếp này], và dĩ nhiên, có nhiều người có thể học thuộc các bản văn rất dễ dàng, như dường họ đã biết chúng. Như thế, họ có kiến thức từ các kiếp trước như dường là một giải thích phù hợp. Những chuyện như  thế đã xảy ra, nhưng tới giờ, khoa học chưa có giải thích về những gì xảy ra. Tuy nhiên, tôi biết nhiều nhà khoa học đang quan tâm về chuyện này.
Tôi đồng ý với Bhikkhu Analayo rằng mục đích của việc khảo sát ghi lại trên các trang giấy này không nhằm áp đặt một quan điểm đặc biệt, nhưng để cung cấp một cơ hội để hiểu rõ hơn dựa vào các phân tích và thảo luận. Nhiều người tiên đoán rằng thế kỷ 21 này sẽ là lúc chúng ta sẽ thực sự hiểu về cách não bộ hoạt động. Nếu đúng như thế, sẽ cần tới một lúc khi chúng ta cũng khai triển ra một hiểu biết tốt hơn về vận hành của tâm thức. Tôi tin rằng các trường hợp như thế sẽ chiếu sáng vào câu hỏi về tái sanh. Khoa học có thể chưa khám phá ra chứng cớ thuyết phục rằng tái sanh không có thể xảy ra. Trong thời gian này, tôi đề nghị các độc giả quan tâm hãy nhận lời dạy của Đức Phật khi Ngài thúc giục các vị sư theo Ngài  hãy khảo sát và điều tra những gì Ngài đã nói như một người thợ vàng thử nghiệm vàng bằng cách nung nóng, cắt ra, và chà xát nó. Hãy đọc các chứng cớ nơi đây, hãy suy nghĩ về chúng, cân nhắc chúng so với kinh nghiệm riêng của quý vị, và tự quyết định [về vấn đề này].
Ký tên: Đức Đạt Lai Lạt Ma.”

GHI CHÚ:
(1) Tự điển Oxford giải thích về neuroplasticity: Khả năng của não bộ để hình thành và tái tổ chức các nối kết giữa các tế bào não bộ, đặc biệt khi đáp ứng tới việc học hỏi, hay khi kinh nghiệm, hay sau khi bị thương tích. (The ability of the brain to form and reorganize synaptic connections, especially in response to learning or experience or following injury.)
(2) Gaden Monastery là một tu viện lớn của dòng Gelug tại thị trấn Karnataka, trong khu định cư Mundgod của người Tây Tạng lưu vong, tại Ấn Độ. Từ tu viện này, một đại học Phật giáo được thiết lập có tên là Gaden Jangtse Monastic College, trung bình thường có 2,000 học tăng nội trú.

Saturday, April 28, 2018

Chùa Phước Sa Nhơn Lý Duyên Khởi Khai Sơn và Qua Mấy Đời Tái Kiến Thiết

Chùa Phước Sa Nhơn Lý Duyên Khởi Khai Sơn và Qua Mấy Đời Tái Kiến Thiết

DUYÊN KHỞI : PHẬT LỒI HIỂN LỘ

Năm Kỷ Mùi 1919 bão tố mất mùa đói kém khắp nơi, gạo không có ăn, chết đói rất nhiều phải lên rừng núi đào củ mài, hái rau trái ăn thay cơm bữa. 
Tháng 9 năm ấy vừa qua cơn bão biển, ông Thước ở xóm mới (nay Lý Hòa) đi đào còng và phát hiện đầu Phật lồi lên gần với hố nước (sau lưng chùa Giác Hải bây giờ) bà con đào lên sau đó đem lên trên trảng đất ruộng bằng trên núi Cấm thường gọi rẫy ông Tín che mái Am tranh thờ Phật Bà Quan Âm. Tự dưng năm đó và những năm sau yên bình mùa màng thuận lợi. Bà con xa hương lại quay về nhà cửa nhiều thêm. 
Năm 1922 Đình Xương Lý sửa chữa lợp lại mái tranh bà con lên kẻ đánh tranh, người chẻ lạt. Bỗng nhiên chiếc rựa ông Biện Đình xổ cán bay thẳng xuống lùm phía sau nhà ông Bộ Phán, ông chui xuống lùm cây rậm rạp tìm và phát hiện cái bao mở ra thấy Đức Phật Quan Âm. Ông la lên và vác lên sân Đình...thì ra ăn trộm mang vác chưa ra khỏi làng và bỏ lại đây. 
Thời ấy tiếng đồn lan xa Phật lồi ở xứ Vũng Cát Xương linh hiển nên bị ăn trộm khiêng đi nhưng không biết tại vì sao bỏ lại. 
Cuối cùng quý cụ bàn bạc lên trên triền núi phía trước biển phía trên Đền Thánh và Lăng ông Nam Hải xây chùa thờ tự. Từ đó phá dỡ núi xây chùa gỗ mái chái lợp tranh năm 1924 khánh thành thỉnh tượng Phật Quan Âm thờ nên tục gọi Chùa Bà.

** XÂY DỰNG & NHỮNG ĐỜI TRỤ TRÌ
Đến năm 1947 sửa chữa lợp ngói nhân có Ngài Hòa Thượng Thiên Bình - Thích Tâm Đạt về là tế độ cứu bạt nịch tử và mở đàn truyền giới quy y rất đông. Mời ngài quang lâm chứng minh và khai sơn lấy tên Phước Sa Tự từ đó. 
- Ngài Thích Thiện Giai ( trung niên xuất gia thường gọi thầy Cả) chính thức trụ trì khi đã thọ đại giới tỳ kheo tại Tổ Đình Thiên Bình và là Trụ trì đời thứ nhất, tháp ngài ở trước cổng chùa. 
- Năm 1954 chùa Ông phía dưới bị chiến tranh phá sập nên bà con hiến cúng dời chùa Phước Sa đã xuống cấp từ bên trên ( nay là đất Tháp chuông) xuống Tái thiết mới là Chùa Phước Sa ngày nay. Thầy Cả mất năm 1968 tháp tôn trí trước cổng chùa. 
- Đệ tử là Thầy Thích Đồng Nhiên trụ trì đời thứ 2. Năm 1973 tái thiết Chùa Phước Sa mới và xây trường Bồ Đề để con em ở xã nhà có nơi ăn học. 
Năm 1977 thầy giao chùa Phước Sa lại cho Thầy Đồng Lực sư đệ trụ trì thầy vào xây chùa Giác Hải ở khi đồi Miếu Bà xóm mới. 
Năm 1978 bão số 3 tháng 5 làm chết nhiều người, mùa đông năm đó lại bị mất thể Phật lồi... Nhưng cuối cùng tìm lại được tại dốc chùa Thiên Long ngõ đò khe đá. 
- Năm 1989 Xây dựng nhà Tổ, những năm sau đó nới rộng chùa, xây cổng ngõ, tượng Quan Âm lộ thiên trước sân chùa. 
- Cuối năm 1999 thỉnh thầy Thích Đồng Tín trụ trì đời thứ tư. 
- Năm 2000 - 2001 nâng đường xây trụ cổng. 
- Năm 2002 Xây giảng đường công trình phụ. 
- Tháng 25/8/2009 âm lịch triệt hạ toàn bộ chánh điện, nhà Tổ. 
Tháng 10/2009 đặt đá xây dựng và hoàn thiện Chánh điện, Tượng Phật Di Lăc, Tượng Phật lộ thiên Quan Thế Âm cao 12m trên triền núi do nữ thí chủ Sài Gòn Phật Bà báo mộng tìm về vận động hiến cúng. 
Ngày 19/2/2015 Âm Lịch Lễ Đúc Chuông 1tấn diễn ra và hoàn thiện Tháp chuông cuối năm đó. 
Trải qua bao nhiêu thời kỳ từ khó khăn vật chất cho đến ngày nay. Sự linh ứng nhiệm màu của Bồ Tát Quan Thế Âm mới có chùa Phước Sa và đạo Phật lan tỏa khắp xã nhà. Thật tự hào một vùng quê biên địa hạ tiện, cập miệt lệ sa mà có đến 4 chùa, 1tịnh xá, 1tịnh thất và 2 thất Cao Đài. Lành thay vui thay... 

*** XÂY DỰNG NHÀ TỔ
Hiện nay Thầy Thích Đồng Tín cùng Ban Đốc Công Xây Dựng kêu gọi bà con bổn đạo Phật tử xa gần phát tâm hỷ cúng để xây dựng Tổ Đường & Tăng Phòng. Mong quý bà con hỷ cúng để công trình Tái Thiết Chùa Phước Sa thập phần viên mãn. 
NAM MÔ CÔNG ĐỨC LÂM BỒ TÁT MA HA TÁT

Liên lạc: Thầy Thích Đồng Tín 
chủ TK số ĐT: 01628630529 - 01692410840.
Hoặc PT Vạn Thi (anh Hai Thí) Tr BXD ĐT: 01676717135
Pt Vạn Tuệ (A. Trí) TK BXD : 0981427211
Pt Đồng Tuyên (A. Nha) KTXD : 0914221820
Pt Vạn Minh (A. Tuấn) thủ quỹ 1: 0914570263
Pt Vạn Mỹ ( E. Sáu ) thủ quỹ 2 : 01682341113
Pt Vạn Lịch (E.Thanh) Hậu cần 01663847472

Vạn Tuệ thông tin.

Friday, April 27, 2018

Ta Thấy Em




Hình ảnh ở Xứ Ấn - Photos: BXK


Ta Thấy Em

Kẻ du thủ rong chơi trên xứ lạ
Sau thuyết trình mang chánh niệm vào đời
Ai chở mộng đi về miền đất hứa
Thấy xanh xao thân xác lũ em thơ

Thấy mẹ gầy, chị đen thủi trơ vơ
Ôi bụi bặm với người xe đông đúc
Ta cứ ngỡ người như sông có khúc
Ai bơ vơ xô dạt bến sông Hằng


Ta thấy thần thấy thánh cũng bất năng
Theo gót Phật thấy trần gian mộng mị
Bao trầm luân bao đau khổ lâm li
Thì mới ngộ ra con đường Trung Đạo


Ta thấy Phật trong em qua diện mạo
Ta thấy ta qua mưa gió cuộc đời
Ta thấy người có Phật tánh muôn nơi
Ta thấy cả hư vô trong khoe mắt.

Bạch Xuân Phẻ

Wednesday, April 25, 2018

VỀ THĂM LỊCH SỬ - Trần Trung Đạo

Sách mới nhất của nhà văn Trần Trung Đạo. Thiết kế - Uyên Nguyên

VỀ THĂM LỊCH SỬ  

Anh sẽ đưa em về thăm Hà Nội 
Cả đời anh chưa được một lần qua 
Mộng Hồ Gươm vằng vặc bóng trăng tà 
Sâu thăm thẳm như lòng anh nhớ nước 

Hỡi chiếc cọc Bạch Đằng Giang thuở trước 
Hãy chờ tôi đừng vội cuốn ra khơi 
Những rong rêu thành quách của muôn đời 
Xin cố đứng dù trời đang nổi gió 

Ta sẽ tới thăm khu Trường Giảng Võ 
Tìm chiếc nỏ thần lưu lạc của Thục Vương 
Đâu Mỵ Châu lông ngỗng trắng ven đường 
Đâu Trọng Thủy tìm người thương muôn dặm 

Ta sẽ ghé bến Bình Than một bận 
Nơi ngày xưa ai bóp nát quả cam vàng 
Trần Khánh Dư xuôi ngược chiếc thuyền than 
Trần Thủ Độ đầu chưa rơi xuống đất 

Em sẽ nhớ bao nhiêu người đã khuất 
Nhớ Chương Dương mơ Vạn Kiếp, Thiên Trường 
Có phải nơi nầy Trần Bình Trọng đầu rơi 
Thà làm quỉ hơn làm vương đất bắc 

Ta sẽ đợi bên bờ sông Thiên Mạc 
Nhìn xa xa lửa dậy đất Thăng Long 
Hưng Đạo Vương vung kiếm chỉ vào sông: 
"Dẫu thịt nát thây phơi ngoài nội cỏ" 

Em sẽ thấy gò Đống Đa còn đó 
Nấm mồ hoang của hàng vạn quân Thanh 
Vua Quang Trung oai dũng tiến vào thành 
Chiếc áo ngự còn vương mùi khói súng 

Ta sẽ đến Lam Sơn tìm dấu chứng 
Nơi ngày xưa Nguyễn Trãi viết Bình Ngô 
Rừng Chí Linh ai giả mặc long bào 
Để được chết thay vua và thay nước 

Anh sẽ đưa em đi dọc bờ sông Hát 
Nơi nào đây Trưng Trắc đã trầm thân 
Vẫn thấy lòng đau dù đã mấy nghìn năm 
Vẫn tha thiết như nhớ người chị cả 

Anh sẽ đưa em về qua Hưng Hóa 
Ghé Phong Châu quì trước điện Vua Hùng 
Dẫu lạc loài nơi cuối bể đầu non 
Hồn con vẫn là hồn muôn năm cũ 

Mỗi chiếc lá như còn nghe hơi thở 
Mỗi cành cây như có một linh hồn 
Ta sẽ về sống lại một lần thôi 
Em sẽ khóc như chưa hề được khóc 

Ta sẽ viếng đường Cổ Ngư bóng mát 
Những chuyện tình đẹp nhất khởi từ đây 
Nắng dịu dàng soi mặt nước Hồ Tây 
Xin một chút hong khô màu mắt biếc 

Ôi Lịch sử, một vầng trăng diễm tuyệt 
Sáng trong anh nét đẹp của muôn đời.

Trần Trung Đạo