Saturday, May 18, 2019

Thi Ca và Tư Tưởng

Tuệ Sỹ: Thi Ca và Tư Tưởng

Thầy Tuệ Sỹ (Ảnh: Tâm Nhãn)
Với cái tựa đó, tôi không cốt ý bàn riêng về một tập sách của ông Giáng, viết rải rác về các nhà thơ. Thi ca và Tư tưởng, cái đó muốn được đặt ra trong cách điệu Chung và Riêng, từ một cuộc Hội thoại trong cõi Hằng thể Tịch nhiên, vang dội những âm hưởng Nguyên sơ hiện hình ra giữa dòng Lịch sử, và vang dội với một câu hỏi ngân dài bất tận: “và để làm gì, thi nhân trong thời buổi điêu linh thống khổ?” (M. Heidegger, Wozu Dichter; Sương bình nguyên của Bùi Giáng). Câu hỏi đột ngột đứng lên giữa lòng Tư tưởng, như để đánh dấu chỗ sơn cùng lộ tuyệt trong bước đường phiêu lưu khốc liệt của Lịch sử, và cũng như là nỗi Ưu tư (die Sorge) của Tại thể (Dasein) đang hoài vọng những phương trời Viễn mộng Ban sơ trên bước đường Lữ thứ của Thi ca:
Ngõ ban sơ hạnh ngân dài
Cổng xô còn vọng điệu tài tử qua
Nơi đó, nơi “Ngõ ban sơ” đó, còn là nơi của một cõi miền Hội thoại trong cách điệu tài hoa, mà Thiên nhiên đã phơi mở tất cả xiêm y lồng lộng của Tuế nguyệt phiêu bồng, đã giũ áo mù sa, đã trút quần phong nhụy, và kỳ cùng, tà huy lãng đãng bay cao cùng với Lời Thơ vọng về Hằng thể:
Được lời như cởi tấm lòng
Giở bom đạn với phi thuyền trao tay
Lời thơ như đôi cánh chuồn chuồn, mà tất cả tinh thể của Tài hoa đã phơi bày trong cơn mưa lũ. Đôi cánh chuồn chuồn bay thấp thoáng, và Hằng thể luôn luôn trì ngự nơi Thiên nhiên Phơi mở. Mưa nguồn và nước lũ, cuộc Hội thoại trào ra những trùng trùng ẩn ngữ. Để làm gì, với ẩn ngữ, với bom đạn, với phi thuyền, với ngõ hạnh…? Để làm gì, với những cuộc Chung và Riêng? Cho đến tận cùng biên tế, và để làm gì, thi nhân…? Tới chỗ đó, cuộc Lữ bỗng mở ra hai ngã đường xuôi và ngược. Cuộc Lữ là để ra đi. Ra đi trước sự sụp đổ của một cuộc Hội thoại, vì thảm họa lịch sử trong viễn tượng đã trở thành những biến tượng và những hiện tượng. Là đi trong thời buổi điêu linh thống khổ. Đó là từ lúc các thiên thần đã biến mất khỏi trần gian. Thế giới trầm mình trong bóng tối, và triết học đã tôn vinh Đồng nhất tính lên ngự trị. Dưới bóng mù tỏa rộng của Đồng nhất tính, triết học nỗ lực tạo dựng một thế giới quân phân trật tự. Trật tự cho lý tưởng Bình đẳng, trật tự cho lý tưởng Cộng hòa Thống nhất Âu châu: chỉ trong một sớm một chiều, Nã phá luân nghiễm nhiên được triết học tấn phong làm Anh hùng của Lịch sử mang bom đạn dội lên tất cả Lịch sử của Anh hùng. Cuồng phong trỗi dậy, cuộn Lịch sử đổ xô vào sa mạc, và, sa mạc lớn dần… Lịch sử Nguyên sơ biến thành một con sông nhỏ, chảy xa mù và sa mù. Sông chảy khơi vơi như một dòng nước thiên thu bất động, càng xa càng bất động, như một dòng sông chết (chết từ sơ ngộ màu hoa trên ngàn). Cuộc Lữ của Thi ca cũng trôi theo dòng sông, đi về nơi Hằng thể Tịch nhiên bất động. Trên những bước Lữ hành, Lời thơ trầm tư trong nỗi ưu tư về Hằng thể vang vọng như thế này:
Sông ơi em bỏ sa mù
Đi thiêm thiếp cõi quân thù gọi nhau
Thế là ra đi trong lối về; trở về trong bước ra đi. Đó là cuộc Hội thoại của Thi ca trong Hằng thể; rồi giữa lòng của Hằng thể Tịch nhiên, phơi mở một cuộc Hội thoại của Thiên nhiên và Lịch sử trong Thi ca. Cho đến lúc, Lịch sử trở thành thời buổi điêu linh thống khổ, thì bấy giờ lại là một cuộc Hội thoại của Thi ca và Tư tưởng. Nhưng kỳ cùng, phải thấy rằng, chúng ta đang từ một cõi Thơ này mà xắn tay bước tới một cõi Thơ khác, trong cách điệu tương ứng song trùng. Trước hết, đây là cách điệu:
Was bleibel aber,
Stiften die Dichter.
“Tuy nhiên cái lưu tồn thường tại,
người thi sĩ dẫn khởi nó về trong lập định.”
Như thế là cách điệu Thi ca, Hoelderlin và Tính thể Thi ca. Đặt lời đó vào trong cách điệu Thi ca, vì đã bao lâu rồi, cái đó, cái gì đó (Was) cái bản lai thường tại, cái lưu tồn thường tại (bleibel), được triết học khoác cho một vòng hoa lộng lẫy đặt tên Đồng nhất tính, rồi bị đuổi đi, đuổi ra khỏi Quê hương trì ngự của Hằng thể; đi để làm kẻ thù, cho Lý tính mở những trận chiến Lịch sử bắt trở về làm nô lệ, và phải trả lời cho câu hỏi: Cái đó là gì? Was ist Das? Cái đó là tất cả cái có đó: Ce n’est pas identique, c’est la même chose. Đồng nhất vì là đồng loại và đồng loạt. Cho nên, bom đạn không trút xuống đầu một ai hay một cái gì, mà trút xuống mục tiêu. Mục tiêu là mục tiêu, không là Một hay là Hai. Sau trận bom từ trên vòm trời Lý tính dội xuống, sau sự sụp đổ của Một, Hai, Ba… Cái Gì Đó, sau cơn mưa lũ đó, cánh bướm lững thững bay lên, trong tiếng thì thầm Nhưng mà… Nhưng mà… aber… aber…
Hỏi tên? Rằng biển xanh dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa
Mộng ban đầu còn đó hay không còn đó; mộng ban đầu giữa vùng Sương bình nguyên Sơ nguyên; mộng ban đầu dưới vầng Trăng Châu thổ Nguyên màu: Ni cô Phùng Khánh Nguyên màu Sơ nguyên Đất trích đi vào Nguyên sơ: Cái thường tại tuy nhiên, người thi sĩ thiết lập: Was bleitet aber, stiften die Dichter. Tuy nhiên và thiết lập; thường tại và các Thi sĩ; Cái Đó vẫn là cách điệu nguyên sơ đó. Từ đó dấy lên những tương ứng, tương ngộ.
Lời Cố Quận, bản Việt của Bùi Giáng về tập giảng giải thơ Hoelderlin của Heidegger, được mở đầu bằng “Xuân Việt Nam đọc sách”, với những lời này:
“Bài giảng về thi phẩm Quy hồi Cố quận (Heimkunft) là vào năm 1943. Trước đó một năm, hay là chính vào năm đó, ở Việt nam có thằng thiếu niên Việt gặp được một vần lục bát in rơi rớt trên một tờ báo bạn đường: ‘Tâm tình một nẻo Quê Chung. Người về Cố quận muôn trùng ta đi’. Hình như man mác trong không gian, thường có những niềm tương ngộ.”
Những niềm tương ngộ, những cuộc trùng phùng, rằng từ ngẫu nhĩ…; nói khác đi, đó là những tao ngộ tình cờ trong một cuộc Hội thoại. Tất cả những gì được bộc bạch trong cuộc Hội thoại, phải là những cái tâm phúc tương cờ, tương nhượng… Vì chính ở chỗ đó, Tính thể của ngôn ngữ tự hiển hiện: “Als Gespraech nur ist Sprache wesentlich: chỉ duy bằng hội ngữ hiệp ngôn, mà ngôn ngữ lịch hiện là ngôn ngữ tính thể” (Lời Cố Quận). Ngôn ngữ của Thi ca đi về trong Hội thoại; và trên đường về của nó, chúng ta có thể ghi lại mấy cách điệu sau đây. Trước hết là cách điệu của Thiên nhiên Phơi mở:
Em về giũ áo mù sa
Trút quần phong nhụy cho tà huy bay
Cũng có thể nói đó là cách điệu của chàng Kim khi ‘được lời như cởi tấm lòng’. Cởi tấm lòng Riêng của mình lúc mà tấm lòng Chung đã mở. Chung và Riêng cùng gắn bó giao thoa trong tương ứng để cùng đi về trong cách điệu của Lịch sử:
Tay cầm cung bực xô ngang
Nửa chừng dâu biển lấp ngàn ước mong
Đó há không phải là cách điệu của chàng Kim khi ‘xắn tay bẻ khóa động đào’? Bấy giờ mới đến lúc khai diễn một trường Hội thoại. Hội ngộ đưa đường dẫn lối tới Hội thoại. Đường tới và đường lui, đi và về trên một nẻo Quê Chung, Hội thoại suốt canh dài trên bóng đèn mờ tỏ của Hằng thể, trong cơn gió rì rào từ ngoài kia và qua đó, dồn tụ về đó:
Gió lay lất bốn phương về dồn tụ
Bụi thu mờ ai phủi với hai tay
Tại sao lại phủi với hai tay, và nhất là phủi với hai tay?
Chúng ta thử tự tiện đổi đi một lời, sẽ tưởng tượng ra được một cuộc Hội thoại khác, trong cách điệu khác:
Mòn con mắt sầu đưa từ cổ độ (TS.)
Bụi thu mờ ai phủi với hai tay (BG.)
Gió cuốn bụi thu mờ bay tới, và hai tay phủi bụi thu mờ; chính là niềm tương ứng, tương ngộ song trùng. Chính là lúc chàng Kim với:
Một vùng cỏ mọc xanh rì
Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu
Không thấy gì hết vì thấy cỏ xanh rì và nước trong vắt. Nhưng, cỏ xanh rì và nước trong vắt vì là không thấy gì hết. Thế là thấy cái gì? Và không thấy cái gì? Hằng thể Tịch nhiên đang trì ngự ở đó. Từ chỗ đó, Thơ từ nơi tương ứng mà bước tới song trùng. Vậy, tương ứng như thế nào? Thì chúng ta cũng cứ tạm thời ghi lại đây một vài cuộc tương ứng.
Thứ nhất, tương ứng trong Lịch sử. Cuộc tương ứng này chuẩn bị cho chúng ta một bước nhảy để đi vào Hội thoại trong cõi Thơ.
Đoạn chót trong Lời dẫn cho Con đường điền dã, bản dịch Việt về Der Feldweg của Heidegger, in trong Sương Tỳ hải, ông Giáng viết như thế này: “Lẽ thanh khí, lẽ thần giao cách cảm, lẽ tương ứng Synousia, người xưa đã từng đạt tới sâu thẳm vô cùng. Vậy ta xin làm bài thơ chút ít đem gắn vào chỗ đó.” Và bài thơ, được trích hết từ đầu đến cuối ở đây:
Ngõ ban sơ hạnh ngân dài
Cổng xô còn vọng điệu tài tử qua
Ta về ngóng lại mưa sa
Giọt dài ly biệt nghe ra giọng chào
Chiên đàn đốt tặng chiêm bao
Diệu hoa lầu các đêm nào hóa sinh
Đài xiêu nhụy rớt bên mình
Sầu Thoan Nghê dậy bên mành đăm chiêu
Tỉnh oa khúc sĩ xế chiều
Bình minh phát tiết sương kiều lê pha
Rừng Ong gấu quẩn quanh nhà
Càng nghe thấy cỗng giang hà cửa truông
Sương tỳ hải dội lên nguồn
Ngàn xưa ôi lệ ngóng Nuồng Mô Din.
Những lời thơ như thế cũng có thể được coi là những lời từ giã, khi các thiên thần sắp biến mất khỏi Lịch sử, Con người Tại thể bỗng thấy mình lạc lối đi tìm lại nguồn suối Mnémosyne, vì đã lạc lối trong nỗi niềm Lãng quên Hằng thể. Nhưng trong giông tố kỳ cùng của Lịch sử, khi mà ‘Đường đi xuống khung trời sương lỗ đổ’, có con Thoan Nghê nằm tư lự bên mành viễn mộng. Những triết gia của lịch sử hóa thân làm con ếch ngồi đáy giếng để ngân lên ngôn ngữ của Lý tính trong buổi hoàng hôn của triết lý, để cho lịch sử trở thành thảm họa vây quanh.
Mnémosyne, Nữ thần của Hoài vọng, hay Thánh mẫu của Nàng thơ, đã mất hút cho Tại thể Con người đăm chiêu trong nỗi niềm Lãng quên Hằng thể: ‘O weh Mnémosyne! Wie soll ich sagen? Der Wind springt herum!’ (ibid.). Đó là tiếng vọng bên dòng lịch sử, khi Nữ thần của Tư tưởng và Thánh mẫu của Thi ca đã cất cánh tung bay theo ngọn gió. Lịch sử đẩy thế giới đi như cánh bèo trôi nổi: ‘Thiên địa phiêu chu phù tợ diệp, văn chương tàn tức nhược như ty’: Thiên tài Tố Như đã mở ra một cuộc Hội thoại cho những Homère, Empédocle, Hoelderlin, Nerval, Vương Bột, về thiên thu trong cuộc Hội ngộ, cuộc tao phùng, cuộc tương ứng, bên hồng quần quốc sắc Việt Nam: “Suốt trăm năm trong cõi người ta, Thanh Hiên Hiệp Lộ chỉ suy gẫm một điều: làm sao biến lịch sử làm Sử Lịch, dìu dắt Sử Lịch vào Sử Xanh bằng con đường của lục bát ca dao bảy chữ là ba của Logos uyên nguyên còn truyền là tiếng gọi trên con đường Cõi Đạo sơ khai trên ngã ba tam giáo.” (ibid.)
Vậy, đường đi vào Thơ, đi từ tương ứng Synousia, đi thẳng vào Ngôi nhà Hằng thể và ở đó đang có thịnh triệu của Nguyên ngôn Logos. Đó là đi ngược, đi trong cách điệu trang trọng của Tư tưởng. Nhưng cũng có thể đi xuôi, theo cách điệu phiêu bồng của Thi ca: “Tiếng gọi vèo bay trên dâu biển, nắm biên cương làm nên biên thùy kết tụ, thiết lập ngôi nhà tồn lưu bên nhịp cầu sa mạc đang ngồi nhậu la de.” (ibid.)
Từ tương ứng trong Lịch sử khai diễn một cuộc tương ứng khác, và khá hào hứng. Tố Như Tử như là mái nhà của Hội thoại Đông Tây, Thi ca và Tư tưởng cùng gặp gỡ dưới mái nhà của Hằng thể. Cho nên, người ta không lấy làm lạ khi Parménide nơi cõi trời Tây của Hy Lạp, đã chống gậy, đi về Hồng sơn Liệp hộ. Ông nương theo cánh bằng tiện gió của Tố Như Tử mà đi.
Trong lịch sử Tư tưởng triết học Tây phương, Parménide đầu tiên đã chỉ ra con đường tư duy về Hằng thể: Ce qui à dire et à penser se donne est nécessairement: son être est d’être. Đó là một mệnh đề, mệnh đề nằm trong nếp gấp ẩn ngữ. Nhưng kể từ khi Platon đặt ra cuộc Đối thoại giữa Parménide và Socrates, Hằng thể trở thành một khối Vô hạn và Vô tận lầm lỳ bất động, và bị đặt dưới sự giám thị khắc khe của Lý tính, Nguyên lý Lý tính (Principe de la Raison). Thay vì Hằng thể trì ngự phơi mở, Lý tính đã đẩy Nó đi vào phiêu lưu lịch sử bằng Biện chứng pháp (Dialectique). Hegel khép chặt Hằng thể trong vận hành của Biện chứng để phục vụ cho lý tưởng thống nhất cộng hòa Âu châu. Thế thì, một cách nào đó, triết học Tây phương đã nhân danh Parménide để đày đọa Hoelderlin, cũng như Gia Long đã nhân danh Khổng Tử, dưới bóng cờ của Hình nhi hạ Khổng, để đày đọa Tố Như Tử. Trong không gian, chừng như man mác có sự tương ứng của những thảm kịch khốn cùng của lịch sử. Parménide ngõ lời với Tố Như: “Làn ánh sáng Như Lai đã ngậm ngùi về trên Việt Nam vô song từ đó… Vì Việt Nam là cái chốn, cái nơi của mọi cuộc tương xứng lịch sử cõi trần trên mép bờ của Hình nhi hạ Khổng.” (Trăng châu thổ). Cuộc Hội thoại đó là những lời ngậm ngùi như thế, của những Cô thần nơi đất trích của Lịch sử. Đây là lời của Tố Như nói với Parménide: “… do đó, bên xứ láng giềng, Hoelderlin vẫn luống công kêu gọi, và Hegel vẫn mặc nhiên lầm lỳ lung trạo sử lịch Tây phương một thời gian dài dậm duộc, cho tới ngày nay thì con cháu Hegel nảy nở tùm lum thiên hình vạn trạng ở tại sơn hà Việt Nam.” (ibid.)
Sau cùng của cuộc Hội thoại lịch sử hy hữu này, Parménide đọc bài thơ của Nerval để tặng Tố Như:
Và ta đã hai lần hai lượt thắng
Vượt giòng trôi tại địa phủ hoàng tuyền
Vì hai bận trên thất huyền Orphée
Gieo trùng điệu Thánh nữ với Nàng tiên
Vì nhị bội chuyển cung cầm thúy lệ
Giọng Tiên nương thét Nữ thánh than phiền
Et j’ai deux fois vainqueur traversé l’Archéron
Modulant tour à tour sur la lyre d’Orphée
Les soupirs de la Sainte et les cris de la Fée
Tiên nương thét và Nữ thánh than phiền, đó là tiếng thét và lời than của Thi ca và Tư tưởng, giữa một sa mạc đang lớn dần suốt cõi Đông Tây.
Nguyệt tuyệt đao của Nietzche đã được vung lên để chận lại sa mạc đang lớn dần. Ẩn ngữ của Parménide cũng đã được tái lập cho Mái nhà của Hằng thể. Và như thế: “Heidegger giúp chúng ta đọc lại Khổng Tử trong vùng lập ngôn sương bóng lãng đãng rất mực vô ngần…” (Sương bình nguyên). Mái nhà Hằng thể được dựng lên nơi Hồng sơn Liệp hộ; chỗ đó, là nơi hội tụ của Như Lai Tu-bồ-đề, của Long Thọ và Nam Hải Điếu Đồ, của Hoelderlin, Nerval, Shakespear, Huệ Thi, Công Tôn Long… vậy thì, đây há không phải là cuộc tương ứng trên Đất Trích, nơi tụ hội của thảm kịch lịch sử?
Tiếng đàn lịch sử vấn vương
Mười cung bạc mệnh lên đường lưu ly
“Tuy nhiên, trong tĩnh dạ thâm canh còn cái gì đương kết tụ. Niềm hoài vọng theo dõi mãi trên ‘dặm khuya ngất tạnh mù khơi’.” (Sương tỳ hải)
Tương ứng của Lịch sử đã giẫm chân chúng ta đi về nơi tương ứng của Đất Trích. Thi ca từ đó có thể đôi lần thay đổi cách điệu lập ngôn:
Ngõ ban sơ hạnh ngân dài
Cổng xô còn vọng điệu tài tử qua
Xin chào giữa bước chân ra
Chết từ sơ ngộ màu hoa trên ngàn
Thử xem cách điệu lập ngôn có thay đổi như thế nào:
Ngõ ban sơ hạnh ngân dài
Cổng xô còn vọng điệu tài tử qua
Ta về ngóng lại mưa sa
Giọt dài ly biệt nghe ra giọng chào
Những thay đổi khác cũng có thể được khơi diễn, cho các mệnh đề chính và mệnh đề phụ gắn bó nhau dẫn tới chỗ lập ngôn của song trùng nhị bội, như là những nếp gấp trong ẩn ngữ của Lịch sử hay Sử lịch.
Lỡ từ lạc bước bước ra
Mấy lòng hạ tứ màu hoa trên ngàn
Đó là Parménide làm thơ lục bát để tặng cho Tố Như Tử; lập ngôn trên bước ra đi của Nàng Kiều, và có thể dẫn tới đoạn đường khép kín trong thời đại của Brigitte Bardo, Marilyn Monroe… vì là Lịch sử tụ hội giữa Hồng quân với khách Hồng quần…
Qua những lời chào giã biệt để lưu ly, lời thơ là Lời Cố Quận gieo về trong rừng núi A ly by tê, đồng vọng những âm vang kỳ dị của Hằng thể:
Thiên thần hằng vi tiếu
Tạo hóa có buồn không
Vân lý tự nhiên thanh cách thiểu
Đản bằng trì ngự sứ quân thông
A mẫu diên đầu tranh nhứt trích
Túy trung thâu khước tiểu bồng sơn
Tham tha nhứt khấu long đàm mạt
Uổng khuếch phiêu bồng bát nhã môn
Kim cương từ điệu lưu tồn
Dzuồng ơn ghếch tỏng đót sồn phai eo…
(Jung an Gestalt, doch stark, feiert es
Hebenden Streit unter den Felsen…)
Điệu lập ngôn trên diễn ra trên gặp gỡ ly kỳ của tất cả mọi cõi miền của ngôn ngữ. Chúng tụ hội, và kết dệt thành một Hình bóng thanh xuân, hùng dũng. Jung an Gestalt, doch stark…? Và Bóng dáng thanh kỳ tú lệ nhưng kiêu hùng ấy là một cuộc gắn bó, gùn ghè, nó đón mừng cuộc tranh hùng thân thiết… feiert es Hebenden Streit…? Như thế há không là một cuộc tao ngộ tình cờ, rằng từ ngẫu nhĩ, giữa những nham thạch cù cưa, unter den Felsen?
Trong khóe mắt em ngậm ngùi ngày đó
Lúc dung nhan về đối diện trăng tà
Màu nước chảy vô ngần khôn giải tỏ
Gió biên thùy về bích ngạn chiêu hoa
Bởi vì cách điệu của thi ca vốn dĩ phiêu hốt, khơi vơi, lãng đãng, nên bờ biếc bích ngạn chiêu hoa như một nơi chốn thong dong thánh thót. Thảm kịch khốn cùng dù có đổ ào lên Thi ca đến mấy đi nữa, Thi ca vẫn như điềm nhiên, ngao du theo ngày tháng, trong ngày tháng ngao du. Có thể nói đó là ẩn ngữ song trùng của Thi ca. Với cách điệu song trùng đó, cho nên khi Thi ca trở gót về trong ngày tháng ngao du, trời đất bỗng dậy lên những niềm tư lự, ưu tư. Nhưng khi Thi ca đi vòng trong không gian quỹ đạo của tuế nguyệt xoay vần, vòng quỹ đạo chật hẹp vỡ tung ra cho một cõi trời lồng lộng. Đi và về, lênh đênh trong thảm họa mà vẫn như là tới và lui trong phong vận hài hòa:
Trên vòm thời đại đi quanh
Rách quần quỹ đạo tan vành nguyệt hoa
Em về bủa rộng bao la
Buồn sông bóng mạ đan sa đến điều
Phong vận đó, một lúc nào đó, trở nên dồn dập, vì Lời với Lời quấn quít nhau, Tình tự nằm ngay trong Tình tự, cái Phơi mở hiện hình trong sự Phơi mở…; hoàn toàn là cách điệu song trùng của Thi ca:
Quần sẽ đỏ từ khi trăng là nguyệt
Kinh là kỳ từ châu quận tân toan
Từ xứ sở đắng cay thu dầu chết
Bước dã man sầu xé lá gieo vàng
Lá sẽ đỏ từ da vàng mũi tẹt
Môi là mềm từ mọng miệng cong côi
Từ bờ cõi chia xương chua là ngọt
Trút lang thang từ nát mộng lên trời
Cách điệu tương ứng song trùng, như là ba cõi miền riêng biệt của ngôn ngữ trong trình tự lập ngôn cho Thi ca. Nhưng cả ba cùng đi và về trong và trên cái Một; là cái Một của Hội thoại. Trong Một Hội thoại, Thi ca sẽ dư sức đánh gục ngã mọi công trình to lớn của triết học, dựng trên cái Một Lý tính, cái Một của Đồng nhất tính. Một Lý tính đẩy Lịch sử xuống giếng khơi; tỉnh oa khúc sĩ; chúng ta sẽ như con ếch ngồi đáy giếng trông lên vòm trời, nhưng không đủ sức làm rách quần của quỹ đạo vòm trời đó. Rách quần quỹ đạo, cho nên Một đích thị là cái Như. Thi ca tái dựng lập ngôn trong Như Lai Tu Bồ Đề, cho nên mới có Duy Ma Cật nương uy lực của Thần thông du hí tam muội, rong chơi trong cõi bờ Vô tận của Hoa Nghiêm. Thi ca đã đi bằng những ‘bước dã man sầu xé lá gieo vàng’. Bước đi tái dựng của Thi ca được thực hiện trong cách điệu song trùng như thế này:
Was bleitet aber, stiften die Dichter: Tuy nhiên cái lưu tồn thường tại, người thi sĩ dẫn khởi nó về trong lập định. Diễn dịch ra theo thể lệ lục bát của Hồng sơn Liệp hộ: Ngõ ban sơ hạnh ngân dài, Cổng xô còn vọng điệu tài tử qua. Với lời nói ấy, luồng ánh sáng đi về trong câu hỏi của chúng ta về Tinh thể Thi ca. Thi ca là lập định. Dựng thơ là Thiết lập qua Lời và trong Lời (Dichtung ist Stiftung durch das Wort und im Wort). Dựng thơ từ cỗi nguồn, là ngân dài từ ban sơ ngõ hạnh (theo thể lệ Cửa Trời mở rộng đường mây, hoa chào Ngõ Hạnh…). Dựng qua lời là điệu tài tử qua và trong lời còn vọng. Và cổng xô là cuộc tiến nhập (einruecken, Einrueckung) dị thường của một lần Tại Thể bước vào Vạn Hữu trong Tâm nguyện chon von.” (Lời cố quận)
Gọi đó là cách điệu song trùng, vì Thi ca đã tự giải thích lấy nó, tự thực hiện sự phơi mở cho nó. Thì chính Thi ca từ cái Một và cái Như mà tái dựng cái Một và cái Như cho một cuộc Hội thoại của Tại thể chúng ta xuất hiện trong Tồn sinh và Lịch sử. Trong sự hiện thể của Tại thể chúng ta giữa Tồn sinh và Lịch sử, cách điệu tương ứng song trùng nào đã làm ngân vang bất tận câu hỏi này: Và để làm gì, thi nhân trong thời buổi điêu linh thống khổ?
Cuối bài báo này, tôi xin được phép có thêm vài lời phụ chú sau đây.
Có thể độc giả thấy rõ tôi viết về thơ của Bùi Giáng trong cách điệu Riêng nào đó; hoặc tôi chỉ viết về Thi ca theo cách điệu Chung. Nhưng cả hai, đến đây không thành vấn đề nữa. Thi ca và Tư tưởng, luôn luôn là những tương ứng của Chung và Riêng.
Hoặc giả, có thể tôi đang dọn con đường nào đó cho các câu hỏi: Làm sao chúng ta bước tới gần một nhà thơ? Hay, Thi ca là tiếng nói gì, nói lên từ tâm nguyện gì, của Tại thể chúng ta trong cuộc Tồn sinh đầy hiểm họa?
Có thể không có vấn đề nào như thế hết. Nhưng chắc chắn, điều khó mà chối cãi cho trôi, là độc giả hẳn đã thấy bài báo đi vòng quanh những nỗ lực cho một cuộc Hội thoại. Thời đại chúng ta đang khao khát một cuộc Hội thoại như thế, trước những thảm họa lịch sử đang dày xéo khôn cùng ở đây. Nhưng cõi Tư tưởng đã bị khống chế bởi những tri thức cuồng dại; thảm họa đen tối của nó không còn là một viễn tượng xa xôi, mà đã trở thành những hiện tượng, những quái tượng. Trong khi đó, Thi ca cũng đang bị dồn vào những cuộc đầu cơ lịch sử. Cảnh tượng như thế, chúng ta chịu khó mở mắt mà nhìn là thấy. Cho nên, thay vì nói đủ thứ chuyện, ở đây chúng ta có thể mượn một kết luận như thế này (M. Heidegger, Wozu Dichter): “Trong thời đại của đêm tối cõi đời, cái vực sâu không đáy kia của cõi đời phải được thể nghiệm và được kiệt tận miên bạc bình sinh. Mà muốn vậy, thì điều cần thiết là phải có vài kẻ đạt tới cái chỗ cùng tận của cái đáy vực sâu không đáy.”
[Bài đăng Giai phẩm Văn, số 5/ 1973. Trích Tuệ Sỹ, Văn Tuyển, Hạnh Viên sưu tuyển. Hương Tích Phật Việt xuất bản, 2015]

Saturday, May 11, 2019

TÌNH NGƯỜI VÀ DOANH NHÂN PLEIKU

Vũ và Cường từ miền núi cao nguyên Pleiku ra thăm trong ngày Mẹ. Hình- tự chụp. 


TÌNH NGƯỜI VÀ DOANH NHÂN PLEIKU

Pleiku, đọc theo tiếng Việt là Pờ-lây-cu, là thành phố lớn nhất của tỉnh Gia Lai ở Tây Nguyên, Việt Nam. Cái tên thân yêu Pleiku đã có thời Pháp thuộc, theo từ điển mở, "Plơi" tiếng Jarai nghĩa là "làng". Còn "Kơdưr" có hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất là "hướng Bắc", nghĩa thứ hai là "trên cao". À, với tôi thì Pleiku là làng trên cao, trội hơn, tiên phong hơn; không những là về địa dư mà còn về tấm lòng, tâm và tầm của những người bạn kinh doanh trẻ, trong đó có Huỳnh Quang Vũ, Tạ Nguyên Minh, Nguyễn Phúc Tâm, v.v…

Tôi nhớ là gặp Huỳnh Quang Vũ trên facebook khoảng 4 năm trước, anh em kết bạn và thú vị nhất là biết được cuộc sống của những người bạn trẻ, nhất là Vũ mang tính nhân văn, nghệ sỹ, phóng khoáng, tự tại và rất thiền. Giữa cái ồn ào pha lẫn đua đồi của xã hội Việt Nam, sự hiện hữu của những pháp hữu hay những bạn doanh nhân ‘trẻ’ trên đất lành Pleiku đã, đang, sẽ là một dấu chấm hỏi và chấm than của mình đối với tuổi trẻ Việt Nam.

Mãi đến mùa Xuân năm 2017, trong chuyến đưa các con về với cội nguồn, thăm quê Cha đất Tổ, Vũ, Tâm cùng Minh và anh Vĩnh Hảo đã đến Quy Nhơn thăm mình. Xúc động làm sao khi gặp được 4 vị thân kính. Sau khi trà đàm, tâm tình và hiểu nhau hơn. Chúng tôi mới thấy được tấm lòng của những người bạn vừa kết nghĩa anh em. Chúng tôi chung cùng chí hướng là việc phải lợi mình, lợi người, ngay bây giờ và cho cả tương lai. Mặc dù anh em có lý tưởng chung là lấy quốc gia, dân tộc, nhân bản và tình người làm nền tảng, lấy kinh doanh hay văn hoá nghệ thuật làm phương tiện, nhưng lấy tinh thần tự độ, độ tha; tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn của nhà Phật làm cứu cánh.

Người xưa có câu: “Họa hổ họa bì nan họa cốt, tri nhân tri diện bất tri tâm”, ở đây chúng tôi thấy được những thao thức, ước mơ và nguyện vọng của Vũ, Tâm, Minh cùng những người kinh doanh trẻ ở đất Pleiku. Chúng tôi làm sao thấu hết tâm can của các vị, tấm lòng đó lại càng cao thượng vì cuối cùng khi đã thấu hiểu, tất cả cũng chỉ là ‘để cho gió cuốn đi’. Vì thế, tôi ủng hộ hết mình trong khả năng có thể để đưa lối kinh doanh của doanh nhân Pleiku làm điểm tựa, làm mẫu mực cho đất nước từ thực phẩm an toàn, thức ăn sạch, đến quán Café tao nhã, từ việc nhỏ khuyên người đọc sách cho đến tinh thần đồng lợi hay tự độ, độ tha của nhà Phật.

Tôi nhớ không lầm là Huỳnh Quang Vũ đã khai trương quán cafe KupPlei, ở địa chỉ 38 Hùng Vương, Pleiku, Gia Lai vào Ngày của Mẹ ở Hoa Kỳ (Mother’s Day) vào 13 tháng 5-2018. Còn Tạ Nguyên Minh, lo ngại về an toàn thực phẩm và biển đổi khí hậu, bạn góp phần bằng cách khai trương Cửa hàng Agrita An - Rau củ quả sạch Gia Lai.

Rồi đây trên đường Lý Thái Tổ, có thêm một cái quán Tâm Coftea (một sự kết từ sáng tạo, một branding tuyệt vời, rất thơ và hấp dẫn của Vũ & Tâm). Một tiệm Café và Trà, vừa Tây vừa Ta mà với chữ Tâm trên hết như thế này nữa, thì tôi tin chắc là một cái Tâm trong sáng, nhân hậu, nhân bản và đầy dân tộc tính. Kính mời quý vị hãy đến và ủng hộ những người bạn có cái Tâm trong. Tôi tin là quý vị có thể đến để thưởng thức sự tinh khiết của Trà, Cafe và không gian quyến rũ cũng như hiểu thêm cái Tâm của Người Việt Nam chân chính đằng sau lối kinh doanh nhân bản này.

Uống trà, cafe, hay đọc sách ở những nơi như Kuplei, Tâm Coftea, hay mua sắm ở Cửa hàng Agrita An là các bạn đang làm đẹp Pleiku, làm đẹp Gia Lai và làm đẹp Việt Nam khi các bạn chọn những hạt giống café (local) Việt Nam, những giá trị cốt lõi: thanh lịch, tình người, vị tha và hướng thượng.

Tôi đồng thuận với nhà thơ Du Tử Lê rằng, ở KupPlei “nếu chúng ta có thể hình dung: Mỗi khi nâng một ly cà phê hay thức uống nào khác, ở KupPlei thì, cũng đồng nghĩa, với việc, cùng lúc, chúng ta đã uống một ly-nước-đất-trời Pleiku từ hàng trăm năm trước.” thì ở Tâm CofTea, bạn cũng sẽ uống cả một suối nguồn yêu thương thuần Việt từ vô thuỷ đến vô chung, và ít nhất là trong những phút giây hiện tại.

Tôi tin, như có lần đã viết trên xứ người khi nhâm nhi cùng Bố,

Café
Ngọt đắng,
Nắng lọt vào trong.

Thì ở những nơi này, bạn còn có thể có cơ hội nếm được tất cả những hương vị của cuộc đời, trong đó có vị của yêu thương và thanh thoát. Và, nếu bạn đến với những mô hình kinh doanh của các bạn trẻ ở Pleiku như bạn của tôi: HQV, TNM, NPT v.v…, tôi tin rằng bạn sẽ được thả hồn vào cõi mênh mang bất tận. Ở đó, bạn sẽ tìm thấy không gian Tây giữa lòng Pleiku, và khi bạn lắng lòng, nhẹ buông, thì bạn sẽ tìm gặp tinh thần Đạo Việt, cũng như những tấm chân tình, những tấm lòng thanh tao rộng mở. Vậy bạn hãy tìm về và đắm mình trong cõi bình an ở Phố núi Cao, bạn nhé!

Pleiku có gì lạ?
Có KupPlei - Tâm Coftea
Những tấm lòng lưu ly
Vàng looang hồng đôi má
Cõi Pleiku mới lạ
Quyện giọt tình doanh nhân!

Hồn quê đất tổ trong ngần
Tâm Không gieo rắt ân cần tình quê!

Bạch X. Phẻ

Bạch X. Phẻ là tác giả Thong Dong Khắp Mọi Nẻo Đường, Viet Ananda Foundation, USA. và An Essence Of Mindful Leadership: Learning Through Mindfulness And Compassion. LAP LAMBERT Academic Publishing, Germany The Beauty of Multiculturalism - Vẻ Đẹp Đa Văn Hóa, Hương Tích Phật Việt.


Sunday, May 5, 2019

Congratulations message for The 16th United Nations Day Of Vesak Celebration and Conference 2019 - Thông điệp chúc mừng Đại Lễ Phật Đản Của Liên Hợp Quốc, UNDV 2019, tại Việt Nam



Lời dẫn: Chúng tôi được vinh dự nhận lời mời thuyết trình cho Đại Lễ Tam Hợp (Vesak) của Liên Hợp Quốc tại Việt Nam. Ban tổ chức mong mỏi chủng tôi viết lời chúc mừng. Vì thế, chúng tôi đã viết bằng hai ngôn ngữ Anh Việt và đã gởi như sau.

(Mời đọc bài tiểu luận được BTC chấp nhận)



The 16th United Nations Day Of Vesak Conference 2019

Main Theme: Buddhist Approach to Global Leadership
& Shared Responsibilities for Sustainable Societies
at Tam Chuc Pagoda,
International Buddhist Convention Center
Ba Sao, Ha Nam, Vietnam


Congratulations message for The 16th United Nations Day Of Vesak Celebration and Conference 2019

To all of planners of and participants in UNDV 2019.

We offer our heartfelt congratulations to you all, on a remarkably successful event. As we come together in a caring community, we seek paths toward sustainable societies that live in harmony with each other; with all living creatures; and with the sacred and scarce resources on our planet. Rather than merely “humans doing” we become “human beings” –being mindfully compassionate, respectful, and peaceful. May what we weave together in these days of Vesak become a shawl that wraps others in love, understanding, compassion, wisdom and hope.

Metta
With Loving-kindness 

Phe Bach, EdD and W. Edward Bureau, PhD


Thông Điệp Chúc Mừng
Đại Lễ Phật Đản của Liên Hợp Quốc, UNDV 2019
tại Việt Nam

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính gởi Ban Tổ Chức cùng tất cả quý vị đang tham dự Đại Lễ quan trọng này.

Hoà vào niềm vui của Nhân loại trong mùa Phật Đản 2643, chúng tôi kíngởi lời chúc mừng chân thành nhất đến tất cả Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni và tất cả quý vị. Chúng ta đến với nhau trong một cộng đồng hoà kính để thực hiện những giá trị trong xã hội là sự hoà hợp, thương yêu, và tương kính lẫn nhau. Cho dù xã hội có văn minh tiến bộ đến cách mấy thì những lời dạy của Đức Thế Tôn vẫn mãi là những giá trị tinh thần của nhân loại trong mọi thời đại.

Chúng ta không chỉ là "con người của mọi hành động" mà còn là "con người của sự tỉnh thức" trong mọi hoàn cảnh. Tỉnh thức để sống với lòng từ bi, thương yêu, và cùng xây dựng hoà bình. Những gì chúng ta chia sẻ với nhau trong những ngày Đại Lễ Tam Hợp / Vesak này sẽ là món quà quí giá cho xã hội vốn chứa đựng nhiều bất an mà chúng ta phải đối diện. Đó là quà tặng của tình thương bằng hành động, hiểu biết trong cư xử, và sống tử tế hơn với mọi người.

Với bình an và từ tâm,
Tiến sỹ Bạch X. Phẻ và Tiến sỹ W. Edward Bureau