Saturday, February 2, 2019

Thiền và Thi Ca trong thi kệ Mãn Giác Thiền Sư

Như Hùng: Thiền và Thi Ca trong thi kệ Mãn Giác Thiền Sư


THIỀN SƯ và TƯ TƯỞNG GIÁC NGỘ
Tác giả: Như Hùng
Lotus Media tái bản, 2019
Bìa và trình bày: Uyên Nguyên
Copyright © 2018 Lotus Media and Như Hùng. All rights reserved.

“Ðừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Ðêm qua sân trước một cành mai”.
Mãn Giác, một thiền sư mang đầy nghệ sỹ tính đã để lại trần gian đóa mai vụt nở trước sân mà ngàn năm vang vọng trong vô cùng vẫn không hề tan rã, ở đó hương sắc quyện vào hư không tô thắm khung trời nghệ sỹ, trong ấy còn lại những vần thơ mang mang bao phủ đất trời.
Cả cuộc sống được dựng nên từ lời thơ, thế giới núp mình trong đóa mai chớm nụ và tính chất nghệ sỹ đượm nhuần trong hương sắc phảng phất đi vào cõi tĩnh mịch trong vô cùng. Chỉ có lúc đêm khuya bặt hết tiếng côn trùng, mọi vật chìm lặng trong màn đen cô tịch mờ ảo, chỉ còn đóa mai hé nụ điểm tô cho đêm trường, những rung cảm bỗng chốc đi vào từng thớ thịt làm ấm lại sinh động cho tâm thức, cuối cùng những tinh hoa của đất trời từ từ tuôn chảy dệt nên những vần thơ tiếng nói trong thời không.
Bóng dáng và dấu vết của chặng đường đó bật tung ra khỏi ngưỡng cửa quyền năng, còn lại những biến hóa phù thủy quyện vào đôi tay tung ra những vần thi kệ, mà cho đến bây giờ cành mai của năm xưa bỗng hiện hình làm tươi mát cho đất trời cho cuộc sống hôm nay.

I. CON NGƯỜI VÀ THI CA, BIÊN GIỚI CỦA MỘNG VÀ THỰC

Sự hiện hữu của con người được kể như vô nghĩa nếu không nhờ thi ca làm đẹp cuộc đời. Con người vốn là dòng sinh mệnh trôi lăn giữa những phong ba bão tố, thỉnh thoảng dừng lại với những biến động trá hình cuả hạnh phúc, mà đúng ra là cửa ngõ của những nghịch cảnh khác. Hạnh phúc mà chúng ta đang trực diện nếu có, chỉ là bóng dáng giữa mộng và thực, ranh giới của nó tựa như đường tơ kẽ tóc, như nhát kiếm chém phăng vào dòng nước đang chảy, biên giới nầy mong manh như chính thân phận con người.
Thực cũng chỉ là mộng được dệt nên từ có của thời gian, những khởi động đi qua nhanh như tia chớp, tạo cho ta tưởng chừng đó là hiện thực, sự thấp thoáng mờ ảo đó, biến thế nhân trở thành đối tượng chỉ sống với cảm quan phong phú, được dệt nên và hình thành từ cuộc sống vốn tràn ngập phi thực. Ý tưởng nhận thức được hưng khởi theo chiều hướng sai sử tác động, không nằm nơi nguyên ủy của lý lẽ vượt thoát.
Con người sống với niềm kiêu hãnh, ôm giữ những gì có được trong đôi tay, yên mình theo nghĩa thực hữu, quan cảm nếu được xuất hiện trở thành định lý bất di bất dịch, vì thế chặng đường đập vỡ thành trì cứng nhắc của tưởng quan lắm lúc trở nên bất lực.
Biên giới được xem là ngăn cách không tạo cho con người cảm thông với sự biết và không biết, giữa say với tỉnh, giữa mộng với thực. Khi nào ranh giới này bị san bằng tiêu hủy thì mộng và thực ấy còn lại một khối duy nhất, vượt ra ngoài những biên kiến, say bới tỉnh như cơn lốc cuốn hút vào hư vô. Có ai tỉnh hoài mà không say? Có ai say hoài mà không tỉnh? Nhưng, nếu tỉnh theo nghĩa tỉnh của thực tại thì điều này cũng chỉ trá hình của say, bởi lẽ hiện thực được dựng nên từ cảm quan, tưởng chừng chứ không phải là một thực tại với những tra vấn khám phá, những đặt lại nếu có, thì thực tại này trở thành phi thực ngay. Nếu trở thành phi thực thì sự có mặt của con người há không phải đang say hay sao?
Biên giới thi ca nằm ngay khoảng đó, tạo cho con người cách thức nhìn sự vật theo những cảm xúc lạ thường, vượt ra khỏi cuộc đời bên cạnh lối nhìn thi vị. Với thi nhân, nếu trăng là trăng thì trăng không còn thơ mộng, huyền ảo nữa và Lý Bạch đâu có tự mình nhảy xuống sông vì chỉ muốn ôm giữ một vầng trăng. Vầng trăng mà họ Lý muốn có được trong đôi tay bé nhỏ của mình chính là vầng trăng của mộng và thực. Vì nếu, họ Lý biết là trăng chiếu rọi bóng ở dưới nước, thì đâu tự mình tìm lấy cái chết oan uổng. Còn nếu bảo rằng trăng là thực thì ông cũng thừa hiểu rằng cỏi thực ấy chỉ có ở trên nền trời trong xanh chứ đâu nằm ở dưới nước, nhưng họ Lý đã thoát ra ngoài tương quan, nên tìm đến vầng trăng mà không cần biết trăng ấy từ cõi nào. Chừng đó cũng đủ rồi, tra vấn nhiều thì trăng không còn thơ mộng nữa.
Nhưng không có nhĩa nhìn trăng và thấy đó là đơn thuần thì cuộc sống và thi nhân hóa ra vô vị sao? Ngôn ngữ thi ca trở thành một thứ quyền năng biến hóa không lường. Có như thế Hàn Mặc Tử mới bắt “trăng nằm sóng sõi trên cành liễu” hay Xuân Diệu mới bắt “gió hôn trên má“.
Không phải thi nhân có quyền năng, nhưng sự sáng tạo để dệt nên thi ca trở thành quyền biến và đưa tri giác của thi nhân thoát ra ngoài những sai biệt mà một con người bình thường không thể tìm được. Thi nhân là kẻ cố gắng khám phá những gì đang bị che dấu, khuất lấp trong thực tại. Sự cố gắng này không có nghĩa phải nặn óc để có những vần thơ, mà điều này là cách nhìn mới lạ vốn đã được un đúc sẵn trong thi nhân, có cơ hội nhìn ngắm đối tượng thì cảm xúc trào dâng, vui buồn đối với thi nhân cũng chỉ là sự pha trộn giữa mộng và thực, khám phá truy tìm những mới lạ không có nghĩa để từ đó chạy trốn cuộc đời mà phải sống thực và gần gủi với đời. Trong niềm hoan lạc hay trong khổ đau ngôn ngữ thi ca đều có mặt, diễn tả những trạng huống nầy thơ mộng ngay lúc khổ đau đến độ dư thừa:
“Một chiếc cùm lim chân có Đế”
Ba vòng xích sắt bước thì Vương”
(Cao Bá Quát)
Điều quan trọng là phải hoán chuyển những thực trạng đó trở thành ngôn ngữ mà đối tượng thưởng thức tìm thấy giá trị siêu việt. Thi nhân không cần phải áp dụng đến nghệ thuật, vì thi nhân vốn đã là một siêu nghệ thuật rồi, nếu sự chuyển hóa phải có nghệ thuật thì sự trào dâng để có thi ca trở nên đè nén trong nghệ thuật. Thơ được xuất hiện khi đi qua quá trình cảm nhận và rung cảm, nếu muốn xử dụng nghệ thuật thì phải xử dụng trước khi rung cảm. Một khi rung động xuất hiện, thi nhân không nỡ chèn ép dù đó là nghệ thuật để thi vị lời thơ. Nhưng nếu thơ được xuất hiện trong ngăn ngại thì hồn thơ trở nên tức tưởi và ngôn ngữ thi ca không còn dệt từ những cảm quan tuyệt diệu nữa. Nó trở thành công lệ của nghệ thuật.
THIỀN SƯ và TƯ TƯỞNG GIÁC NGỘ
Tác giả: Như Hùng
Lotus Media tái bản, 2019
Bìa và trình bày: Uyên Nguyên
Copyright © 2018 Lotus Media and Nhu Hung. All rights reserved.

II. THIỀN TRONG THI CA

Thiền là thực thể của những sinh động, biến hóa liên tục, gây chấn động tâm thức để từ đó đạt được giác ngộ. Thiền hướng đến trực ngộ, chứng nghiệm thực trạng trong những sinh khởi bình thường, không qua lăng kính phân biệt mà phải nhìn thẳng bằng định lực, không đắm chìm trong những lý luận huyền ảo, quán chiếu mọi tương quan hiện tượng bằng đôi mắt cảm thông không ngần mé, nhưng hẳn chắc không gì ngăn trở nổi.
Trong hầu hết những công án của Thiền đều ẩn mang cốt cách văn chương thi ca, như một câu nói lơ lửng, một bài thơ không hiểu nổi. Nhưng, chính cái lửng lơ ấy tạo cho kẻ đối diện hoang mang, ray rứt, bí lối trước những suy luận và cuối cùng bỗng nhiên lăn mình trường tới cửa ngõ rỗng không.
Thiền bao phủ len lõi bàng bạc trong thi ca khá nhiều, nhất là thi nhân một khi muốn hiểu cảm thông đối tượng, trước hết phải cảm thông chính mình, và để từ đó bắt nhịp, phơi bày trao gởi lời thơ. Thơ là một cách hiểu, lối sống với sự vật trong mọi hoàn cảnh gợi hứng cho thi nhân, tuy nhiên sự hiểu lắm lúc vẫn còn kẹt vào những so đo phán xét, theo bản năng lôi kéo những hiện vật trở thành sản phẩm đơn thuần lý trí. Chỉ có sự hiểu biết của siêu nhgiệm, vượt thoát ra ngoài biên giới mọi tương quan thường nghiệm, thì mới có thể đạt tới đích của Thiền là tạo năng lực thể nhập vào thi ca, không còn nhị nguyên mà là một. Bởi vì trí huệ hình thành là nhờ phá tan đi chủ thể, khách thể, những lý luận nếu không tiêu hủy sẽ thành ngăn ngại, như thế chặng đường tìm đến sự dung hòa hội nhập biến thành hố thẳm chôn chặt cuộc đời.
Thiền có công năng linh diệu trong việc hướng tri thức khi nhìn muôn vật trở nên siêu thực, nhìn với cách nhìn, lối nhình như thị, không thành kiến mà phải ly khai ra khỏi những đối lập, phải biến sở hữu của riêng mình thành chung của vạn hữu – Thi nhân nếu không khơi dậy con đường cảm xúc, rung động toàn triệt thì thi ca không đạt được tận cùng vi diệu và như vậy lời thơ không trải hương, ươm mật. Thi nhân cũng có thể dệt những rung cảm của mình trên lối về thăng hoa hiện hữu, nhưng cũng có thể biến ray rứt của mình nhuộm đen tối khổ đau thêm cho đời. Điều này hoàn toàn tùy thuộc vào bản năng đang ngự tiềm ở thi nhân.
Chúng ta thử tìm những sắc thái đặc thù trong một vào công án bằng thi ca của Thiền, như Viên Chiếu Thiền Sư có lần đáp:
“Gốc tùng trổi gió âm buồn
Mưa qua lối đó vấy bùn nẻo đi”.
Ngài diễn tả thực trạng nhưng, trong ấy có một cái gì nhắn gởi bất động như chính cái yên lặng trổi buồn của cây tùng. Và cũng lần khác ngài đáp khi được hỏi về “Chân”
“Hoa rừng vướng lệ nữ thần
Gió xao cành trúc tiếng đàn Bá Nha”
Có ai hiểu được tiếng đàn Bá Nga ngoài Tử Kỳ? Cái lơ lửng của Thiền như chính cái lơ lửng của thi ca vậy. Nếu nhìn nước với con mắt của khoa học, của lý trí thì nước được cấu tạo bởi H2O nhưng, với nhãn quan thi nhân lại thấy nước là bến đò tiễn biệt, những hẹn hò chờ đợi hoang vắng, cô quạnh trong buồn đau, lững lờ trôi như dòng nước v.v… cách nhìn đó xuyên qua thực thể, chặng đường nầy gần giống với Thiền trong việc tìm những bí ẩn đằng sau mọi tương quan. Nhưng, thi nhân hầu hết từ đó khởi lên những hoài cảm, xót xa, thương tiếc, dĩ nhiên vẫn hơn những đối tượng không tìm thấy được lý lẽ này, vì còn cơ may nhìn lại sư đau thương ấy. Ngược lại, với Thiều truy cứu về hiện tượng bằng những cung cách nầy nhưng, vượt lên trên ở điểm Thiền không phải là thực thể chết cứng lặng thinh, mà rất linh diệu, tươi sáng, nhìn sự vật trôi qua, biến hiện, bằng con mắt thờ ơ, lãnh đạm không hề lo sợ mảy may nào.
Ngoài những điều trông thấy như nước chẳng hạn, nếu sự đơn thuần nước là nước thì bình thường quá, nhưng mặt trái nuớc vẫn là cái gì có thể là điểm nhớ nhung, hy vọng, tùy theo trạng huống mà đối tượng đã gặp. Thiền lột trái bộ mặt ấy và đưa con người nhìn thẳng vào đó, đừng lo sợ vu vơ và đặt tra vấn ngay nếu, mặt trái là sự hẳn nhiên thì tại sao không từ đó để thấy rằng đàng sau những xô bồ, tan rã có một cái gì rất thực, rất thi vị, mà ngôn ngữ không diễn tả được. Đừng run rẩy phải đối diện với hùng lực sẵn có trong mỗi người, dung hòa được điều này thì cuộc sống không còn đau khổ triền miên nữa, mà phải bắt nhịp cảm thông như thi nhân đã thi vị cuộc đời bằng chất liệu lời thơ, phải vượt ra khỏi trói buộc, như những Thiền sư đã từng vượt, thì cuộc đời không còn phù vân mộng ảo nữa, có một cái gì đáng yêu nên thơ trong ấy.

III. SỰ DUNG HÒA GIỮA THIỀN VÀ THI CA TRONG CON NGƯỜI MÃN GIÁC

Mãn Giác Thiền Sư (1052-1096) đã tổng hợp dung hòa những sắc thái độc đáo của Thiền tác động và hưng khởi cho thi ca. Trong ấy ta tìm được những vần thơ theo hình thái thi kệ một cách bình dị, thường nhật, thanh thoát, nhưng đã chứa những nghĩa mầu thầm kín, vén mở chân trời huyền nhiệm mà thi ca ẩn mình trong đó.
Mãn Giác khơi dậy sự vật hiện hữu trước mắt với lối nhìn đặt nguyên vị trước và sau chính nó đã nằm, không hẳn phải tách rời ra khỏi tư thế. Điều quan trọng từ đó thăng hoa và đưa nó trở nên biểu tượng tối cần để ngắm nhìn. Mãn Giác đặt vấn đề hết sức dung dị, sự tồn tại, diệt vong của nó theo quan điểm con người và thi nhân, cũng như giữa thi nhân với Thiền Sư. Tra vấn của Mãn Giác được xuất hiện đồng lúc với thời điểm ngự trị của thời gian, nhưng điều này đã mở bày khi hình hài, hương sắc chính nó hiện diện ở trần thế.
Người nghệ sị thi nhân đến giữa cuộc đời không nhất thiết phải để lại những vần thơ bất hủ, sự có mặt của họ chính là vần thơ tô thắm cho những giá trị mà con người ít tìm thấy. Có làm thơ cũng chỉ dệt nên những rung động, và sự nói năng nầy là những tiếng vọng lên, sau đó vụt tắt qua mau, nhưng có ai dám bảo rằng kẻ ấy không gởi gấm cả một tấm lòng cho nhân thế? Hồn thơ khi đã được xuất hiện, nó bàng bạc ăn sâu và thâm nhiễm vào chính ngay đối tượng. Nếu, sự vật được đôi mắt thi nhân ghé qua dù không dệt nên thi ca thì nó vẫn in dấu và tỏa ra những sắc hương hơn những sự vật khác, sự vươn lên cuả nó đã tô thắm, làm đẹp cuộc đời bằng ngữ ngôn im lặng. Sắc vị ấy phảng phất bay chập chờn trong hư không, một lúc nào đó chúng ta thật sự nhìn ngắm giải lục trắng trên nền trời xanh, hay ánh trăng lung linh huyền ảo, màu sắc và yên lặng đó cho chúng ta những rung động mà chính nó đã được un đúc những cảm nhận của thi nhân từ trước.
“Cổ nhân bất kiến kim thời nguyệt
Thời nguyệt năng thường chiếu cổ nhân”
Người xưa không thể trông thấy được vầng trăng hôm nay, nhưng ánh trăng hôm nay trước đó vốn đã chiếu rọi người xưa. Để rồi bây giờ hương sắc người xưa vẫn còn đó, ẩn mình trong thăm thẳm mênh mang. Cổ nhân đã đi qua nhưng ánh trăng còn ở lại để điểm tô và làm đẹp cho con người. Sự ngự trị rung động của thi nhân có mãnh lực phi thường, hoán chuyển sự vật theo cách nhìn và tạo cho con người duyên theo đi vào lối khác tràn ngập màu sắc âm thanh kỳ ảo.
Mãn Giác thiền sư người đã để lại một bài thơ mà ngàn năm trôi qua giá trị vượt ra ngoài tử sinh. Âm vang của nó tựa như tiếng thì thầm được cất lên từ đỉnh cao chất ngất vang vọng xuống trần gian. Làm cho con người sực nhớ đến sự tàn phá hủy diệt của thời gian, nhưng trong đó âm hưởng vẫn tồn tại trong vô cùng, vượt thoát có không.
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Dịch:
Xuân trỗi, trăm hoa rụng
Xuân đến, trăm hoa cười
Trước mặt, việc đi mãi
Trên đầu, già đến rồi
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai
(Ngô Tất Tố)
Thời gian là mấu chốt cột chặt, được con người lập nên và cũng chính từ đó hủy hoại những hình ảnh không chút tiếc thương. Nhưng với Thiền sư kẻ thoát ra ngoài cõi sống chết thời gian không còn đụng đến, bốn mùa không duyên theo thì lấy gì mà lập. Khi tạo cho đời sự dung hòa, Thiền sư y cứ nơi đó hé mở cho thế nhân đàng sau những chồng chất tàn phá ấy còn lại một cái gì rất là thơ, rất là thực. Hoa tàn rơi rụng để rồi chìm lặng ẩn mình trong hư vô, tạo nên kiếp lang thang trước ngưỡng cửa chờ đợi tiếp nối. Nhưng, đó là sự chuyển mình để sinh thức tồn tại ở môi giới khác. Với nhãn quan của Thiền sư nó đã bị chiếu vào tận cùng nguyên thể mà chính nó đã đi qua, đây cũng là phương cách huân trưởng cho sự vươn lên một lối và cách tồn tại khác. Sự hiển lộ nầy vẫn trá hình len lõi chứ không hẳn kết thúc một đời. Hoa tan biến theo bản năng thông thường được dựng nên theo những nguyên lý thành, trụ, hoại, diệt. Nhưng đêm qua sân trước một cành mai nở rộ, mãi mãi tồn tại trong vô cùng, không ai có thể tàn hủy mà chính nó đã hiện hữu trong vượt thoát. Cành mai Mãn Giác thi sỹ trông thấy, không được dựng lên từ thời gian, nó đã xuất hiện tồn tại ngay trong mọi sinh diệt của cuộc đời. Bóng dáng của nó không nằm ở đâu trong hay ngoài nhưng, tất cả chính là sự có mặt phi thường của nó.

IV. TÍNH CHẤT NGHỆ SĨ TRONG CON NGƯỜI MÃN GIÁC

Mãn Giác được mệnh xưng là con người nghệ sỹ, nhưng vượt lên trên tất cả những gì được gọi là nghệ sỹ. Nghệ sỹ ở đây được hiểu theo nghĩa những rung động, những cảm hứng vụt khởi, để rồi còn chỉ lại lời thơ, một chút gì đẹp thấp thoáng ẩn hiện trong vô cùng. Và nghệ sỹ ở đây theo nghĩa lãng quên, làm tất cả nhưng không hề nhớ mình đã làm cái gì cũng như không có cái gì để làm cả, không một vật nào có thể trói buộc ngăn ngại được. Nếu có nhớ thì sự nhớ ấy chỉ là cách để quên và đôi khi sự nhớ nầy trở thành vô niệm trong đó. Vượt lên trên những phê phán ngộ nhận, đạp tung những gì được gọi là định thước. Những thứ ấy không cần thiết và không làm trở ngại nhất là con người nghệ sỹ giải thoát.
Mãn Giác đã đẩy lui thời gian ra khỏi ngưỡng cửa chờ mong, phóng mình tới đích phi thời gian. Đêm trước sân cười một nhánh mai đã chấn động cả đất trời, như tiếnng vang đinh tai nhức óc làm con người chơi vơi giữa khoảng tử sinh.
Con người đo lường cuộc sống và sự sống bằng thời gian, chờ đợi để được trả lời những nghi vấn, thực ra nó hình thành cũng do chúng ta muốn kiểm chứng đo lường, để rồi sau đó chính nó gây nên những tác động, làm con người trở nên lệ thuộc và đau khổ khi bị đào thải, tàn phá, như Xuân Diệu chẳng hạn, xuân vừa đến bỗng sợ xuân mất. Dù rằng Xuân Diệu đã thấy được sự vô thường trong đó.
“Xuân đang đến nghĩa là Xuân đang qua
Xuân còn non nghĩa là Xuân sẽ già
Mà Xuân hết thì đời tôi cũng mất!”
Trái với Mãn Giác bỏ đi thời gian, quên đi mọi vật, chỉ còn cành mai đang phơi sắc tồn tại mãi nơi tâm thức, không còn gì có thể chi phối được nữa. Bản thể khi đã thấu rõ, đâu còn băn khoăn lo lắng, thương đau, ngược lại có thái độ bình tĩnh, tự tại, an nhiên trước những đổi thay biến hiện. Con người nếu đạt được điều này có thể vẫy tay chào tạm biệt thời gian không một luyến tiếc như Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu với mấy vần thơ:
“Người đời ai cảm? Ta không biết
Ta cảm thương ai viết mấy lời
Thôi thì: Cùng thu tạm biệt
Thu hãy tạm lui
Chỉ để khách đa tình đa cảm
Một mình thay cảm những ai ai?
Tính chất nghệ sỹ ấy nếu được khơi mở đúng lúc thì cuộc đời là một cuộc thơ, thăng hoa trên lối về, làm nở những đóa hoa trong vô cùng mà hình ảnh của nó tô thắm khung trời mơ. Mãn Giác đã ý thức một cách thâm thiết trọn vẹn về con người, những tương quan hiện hữu nếu không được buông bỏ ra khỏi cuộc đời thì trở thành gánh nặng cho mình. Chỉ có tính chất nghệ sỹ mới dám đạp tung ra khỏi đôi vai và tâm tư chính mình. Nếu, áp dụng Thiền trong sự pha trộn thì nghệ sỹ này rong chơi dạo khắp nẻo luân hồi hỗn độn mà không bị hề hấn chùng bước. Đi vào cuộc đời tựa như đến khu vườn với trăm ngàn hương thơm cỏ lạ đang chờ đón. Nếu trong ấy có những đóa hoa nào tàn rơi rụng thì với nghệ sỹ tính không khởi lên mối thương đau, vì đó là cách biến dạng để đến môi sinh khác. Và nếu có thương đau thì sự thương đau ấy chỉ là rung động để từ đó dệt nên lời thơ, chắc hẳn sau đó bỗng như gió thoảng mây bay, còn lại chút gì nghệ sỹ truyền trao cho nhân thế. Đôi lúc thi nhân không cần đến sự thưởng thức của kẻ khác, bởi lẽ mấy ai rung động trọn vẹn như thi nhân đã từng rung động, và nếu có, chắc gì hiểu được ý thơ. Với nghệ sỹ thơ nếu được trào dâng thì điều ấy có nghĩa là thông lệ, không nhất thiết để người thưởng ngoạn mà không bắt đúng nhịp.
Một bài thơ được kể như hay nhất là bài thơ không bao giờ được viết nên lời.

V. TẠI SAO MÃN GIÁC ĐỂ LẠI CHO ĐỜI BÀI THƠ

Đối tượng của thi ca là sự vật sinh động trong im lặng nhiều nhất, chính sự vô ngôn nầy tạo cho thi nhân những tiếng nói trở thành tiếng nói dùm cho đối tượng, theo nghĩa diễn tả những rung động bắt nguồn từ đối tượng.
Sự rung động tuyệt diệu chỉ xuất hiện một lần độc nhất trong một cuộc đời, ngoài ra nếu có rung động thì sự rung động ấy được hiểu theo nghĩa rung động để trào dâng nguồn thơ chứ không phải điều đắc ý nhất của thi nhân. Cuộc đời thi sỹ chỉ để lại một bài thơ đắc ý của mình, được hình thành trong một lần tung mình tới đích cảm xúc trào dâng. Truy tìm bài thơ tuyệt tác của thi nhân độc giả phải có những giây phút tiếp nhận những khởi cảm mà thi nhân đã từng rung động, thì mới có thể nhận được những gì thi nhân đã trao gởi trong đó. Và kẻ thưởng ngoạn nếu không đạt tới chiều sâu vi diệu, chính là mức độ thưởng ngoạn của mình bị giới hạn trước những dệt nên của thi nhân. Quả tim con người duy nhất một lần rung động tuyệt hảo, lúc người ấy tiếp nhận một cách trọn vẹn sâu xa, ngoài ra nếu có chỉ là dư hưởng còn lại.
Mãn Giác Thiền Sư thoáng gặp lần vụt mình trên những chấn động một cách toàn triệt, đó là giao điểm thời gian giữa đông và xuân, ở đó tìm về quá khứ của đông sự vật và con người co mình trước những giá buốt, tâm hồn trơ trọi run rẩy như những thân cây phủ tuyết đứng bất động ngoài đường. Ý thức trở nên băng giá khô cứng do thời gian tạo nên. Nhưng với Mãn Giác mùa đông ấy là chất liệu đang được huân trưởng trong ngài. Sự lạnh lùng băng tuyết là thực thể đang dội mạnh vào tâm tư của mình, như dòng nước từ cao điểm đổ xuống tung tóe lên những bông hoa. Mùa đông ấp nụ để chờ cơn gió xuân thổi qua, nụ hoa bổng nhiên bùng lên trong khí trời ấm áp. Nếu không có giao điểm đông tàn thì sự xuất hiện của mùa Xuân không làm cho cuộc đời trở nên đẹp, sỡ dĩ mùa xuân của hy vọng của muôn hoa, vì nhờ những tàn phá của Đông trước đó làm cho con người có ước vọng tìm đến mùa Xuân, để vơi đi những bẽ bàng run rẩy trong cô liêu.
Nhưng mấy ai thực sự hưởng trọn một mùa Xuân đúng với ý nghĩa của nó nhất. Nếu Xuân đến để rồi ra đi mang theo những đóa mai tàn rơi rụng, thì thà nàng Xuân không đến hay hơn. Nhưng rồi Xuân đến và ra đi như chính thân phận tan hợp, con người còn lại những nuối tiếc hoang mang, thương đau, hoài vọng, những dư hưởng vẫn còn phảng phất đâu đây để nhớ dâng chồng chất, để nuối tiếc cho một đời.
Với Mãn Giác mùa xuân không còn nằm nơi khe cửa, không phải chờ đợi chúa Xuân ngự đến, mà bất chợt khi đóa mai vụt nở trước thềm cả sự cảm xúc tuyệt hảo phi thường xuất hiện trong chớp nhoáng, để rồi dệt nên bài thơ trao lại cho đời, một đóa mai không tàn phai theo năm tháng.
Duy nhất và chỉ một lần đắc ý mà trong cuộc đời Mãn Giác đã tìm được, nếu không phải là lần cùng cực rung động, hẳn đã không có những vần thơ bất hủ như thế. Sự giác ngộ được kể như gõ thẳng vào tâm điểm để đạt đến sự thể nhập tuyệt cùng. Sự rung động cũng là cách cần phải thể nghiệm trọn vẹn mới có thể tìm hiểu được những gì mà đàng sau đó đang ẩn chứa. Và biết đâu chính những nguyên lý đó đưa đến giác ngộ?
Thiền sư là những con người có được sự bén nhạy nhanh và năng cảm nhất, vì khám phá uyên nguyên sự vật trước hết, trên hết phải chuyển mình trở thành sự vật đang hiện hữu, không thể đứng ngoài sự vật mà tìm thấy những thầm kín trong ấy, muốn tìm ra gốc rễ phải sống và thở như chính nó đã sống. Nếu không có những điều nầy thì làm sao có thể thành tựu trong việc truy lùng uyên nguyên vật thể.
Thiền sư là những kẻ đang thở và sống trong tất cả mọi hiện tượng và sự vật, hoán chuyển để trở thành nguồn sống nuôi dưỡng cho những trổi dậy, vượt thoát ra ngoài tương quan hiện thực.
Đoá mai không tàn phai khi mai chính là chất liệu được ngự trị, và Mai đã được nở một lần thể nhập vào vô cùng, thì cuộc đời lúc nào không có đóa Mai, không có mùa Xuân? Ý của Xuân và hương sắc quyện vào hư vô chỉ tan loãng nhưng không hề nhạt phai trong trời đất. Phải có cái nhìn như thật vượt thoát thì mới có thể trông thấy được những gì mà kẻ khác không trông thấy. Cái nhìn đó phải là cái nhìn của thi sỹ của Thiền sư của nghệ sỹ thì sự vật mới lộ nguyên hình.
Nếu không là nghệ sỹ thì không là thiền sư
Nếu không là Thiền sư thì không là thi sỹ”
Nhưng tất cả cuối cùng rồi chỉ còn trên đường về của im lặng, những lời thơ không bao giờ được cất lên, nhưng ở đó một khung trời huyền nhiệm đang ngự tác. Mãn Giác để lại một bài thơ hay nhất, đắc ý nhất, và rung động tột cùng nhất. Và rồi sau đó tất cả đang mờ dần, kể cả những lần chấn động kế tiếp, nhưng không còn làm cho cảm tác dâng cao độ. Một khi nó đã ở từ đỉnh cao thì chặng đường sau không phải chỉ là cách gượng ép hay sao? Đúng ra không còn hứng thú nữa?
Lời thơ ấy cho đến bây giờ vẫn còn vang vọng và vang vọng cho đến khi nào bặt hết mọi ngôn từ, lúc ấy nó mới trở về từ nơi mà nó đã xuất hiện. Im lặng.

Monday, January 28, 2019

Trí Nhớ Mù Sương


Mẹ Hiền - ảnh Uyên Nguyên

Trí Nhớ Mù Sương
Nguyên Giác
Rất mực gian nan để kể lại chuyện của rất nhiều thập niên trước. Trí nhớ tôi bây giờ lúc nào cũng lãng đãng, sương mù. Khi khởi lên ý định kể lại mấy chuyện thời nhỏ, chỉ thấy hiện lại trong tri nhớ một khoảng sân trắng, mấy đứa nhóc quậy phá, những lọ mực tím, những tập vở kẻ hàng, mấy bàn học, lối đi có hai hàng tre xanh, âm vang trong đầu là tiếng ê a đánh vần… Tôi đã điện thoại để hỏi chị tôi về tên của vài người xa thật xa, nhưng cũng chỉ được vài phần, những nét kể lạ cứ như hư, như thực.
Xóm Chuồng Bò thì nhớ tên rồi. Hình ảnh con bò thực ra lúc đó không còn nữa. Đúng ra cứ khi rạng sáng, khi nghe lộp cộp trên đường là biết ngay xe thổ mộ (may quá, còn nhớ chữ này, chứ không lại bảo là xe ngựa thì chẳng giống ai) từ trong Xóm Chuồng Bò chạy ra Chợ Hòa Hưng. Còn xóm ao rau muống thì chẳng thể nhớ tên gì. Lối đi từ nhà tôi vào Xóm Chuồng Bò có vài hẻm, những bụi tre xanh cao vút bên đường, dẫn tới mấy ao rau muống trong tận mấy xóm sâu. Lúc đó phía dưới là cát trắng.
Tôi hỏi chị tôi về tên của mấy đứa trong lớp má tôi dạy thời đó. Gọi là lớp cho oai, thực ra chỉ có vài đứa trong xóm. Liên, Linh, Minh, Hiền… Hồi đó có lẽ là lớp tự phát, chỉ  từ mẫu giáo cho tới lớp hai. Tôi không biết có đúng là lớp tự phát hay không, vì có thể má tôi có giấy phép, vì thấy lớp học có ba bàn dài có hộc tủ cho học trò, và đứa nào học hết là được dẫn ra trường ngoài phố học tiếp. Có lý do hiểu được, vì mấy đứa nhỏ quá không thể đi bộ ra trường lớn, dù có người lớn dắt đi. Thời đó xe đạp cũng là hiếm, nên chủ yếu là đi bộ. Vì chỉ có má tôi là cô giáo duy nhất cho khoảng năm đứa, có khi là sáu đứa con nít, nên tới trưa, có một bà dì tôi từ ngoài trường Áo Tím đi học về, là tạm thay má tôi. Má tôi, dì Hà, dì Hương và dì Hoa đều khuất núi cả rồi.
Cả ba dì lúc đó cũng chưa qua trung học, nên cũng bận bài vở, nói là dạy có lẽ chỉ là giữ cho mấy đứa khỏi quậy phá, chờ tới chiều đưa tụi nhỏ về nhà ba má tụi nó. Như thế, có lẽ chức năng chính của lớp này chỉ là giữ trẻ chứ dạy chỉ là một phần. Vì thực ra, má tôi học cũng không cao, theo tôi nghĩ. Nhưng trong xóm ai cũng gọi má là Cô Ba. Lẽ ra, phải gọi Cô Hai mới đúng kiểu Sài Gòn, vì trên má tôi không có ai nữa. Có thể vì hàng xóm quen gọi như thế với ba tôi? Không nhớ. Nhưng ba tôi làm nghề trên xe lửa, đi thường xuyên, có khi vắng nhà cả tuần lễ, cũng không có anh hay chị nào để được gọi thứ tự là Thầy Ba. Hồi đó, hễ thấy làm chính phủ, dù là bấm thẻ hay trưởng tàu xe lửa, là được dân trong xóm gọi là Thầy liền; thầy đây là thầy ký, không mang nghĩa thầy giáo hay nhà sư trong chùa.
Không nhớ hết khuôn mặt mấy đứa nhỏ trong lớp. Nhỏ Liên thì ban đầu tôi nhầm với nhỏ Linh. Chị tôi nói qua điện thoại rằng nhỏ Liên hồi đó ưa ngồi một chỗ thu lu, có vẻ như thích lặng lẽ. Còn nhỏ Linh thì ưa quậy phá, lại ưa ồn ào. Tôi không biết chính xác chị tôi nói đúng không, vì tuổi lớn như chị thì trí nhớ hẳn là còn mù sương hơn mình nữa, tôi tự nhủ. Trong khi chị nhớ về cá tính ưa tĩnh của Liên, ưa động của Linh, thì tôi nhớ rằng nhỏ Liên mặt gầy, thường để tóc bum-bê, còn nhỏ Linh mặt chữ xoan, y hệt hình ảnh xi nê; cả hai đều ưa mặc đồ với vải in hoa, màu dịu. Bây giờ không nghe gì về hai nhỏ đó nữa. Còn tên Minh thì ưa làm trò, lâu lâu bước ra sân, lấy cây viết chấm vào lọ mực tím rồi vảy ra sân cát trắng. Tôi nhớ hình ảnh mấy đứa nhỏ đứng trên sân cát trắng, nơi góc sân là một cây le-ki-ma lớn, lùi phía sau là một mộ cổ bằng đá tổ ong màu nâu đỏ. Lâu lâu nhớ tới, là thấy những đốm mực trên cát trắng hiện ra trong đầu. Còn tên Hiền thì tôi không nhớ nổi chút gì. Còn một hay hai tên học trò nữa, thì chị tôi và tôi không nhớ gì. Chị không nhớ thì dễ hiểu, vì lúc đó chị đã vào lớp ba ở trường tiểu học Chí Hòa. Nhưng tại sao chị nhớ tính tình, còn tôi lại chỉ nhớ màu sắc của cát trắng và mực tím, thì cũng chẳng hiểu.
Sau ngôi mộ cổ là một ngôi chùa. Cả chị tôi và tôi đều không nhớ chính xác chùa tên gì. Có thể là Phổ Quang hay Phổ Minh, hay Phổ Hiền. Chùa lúc đó có hai thầy trò, một ông sư và một chú tiểu. Trí nhớ của tôi về chùa này chỉ là một cổng tam quan nhỏ, căn nhà hai tầng được biến làm chùa, khoảng sân nhỏ tráng xi măng, bên trong có nhiều tượng Phật và Bồ Tát. Mấy đứa nhỏ tụi tôi ưa thích vào chùa này. Hễ vào là được ông thầy tặng mỗi đưa một trái chuối, hay trái quýt… Về sau, tôi dò theo kinh điển thì nghiệm ra đó hình như là hạnh bố thí, hễ là sư là phải tặng cho chúng sinh cái gì. Người thọ nhận cái gì từ chùa là có đi đâu xa, nhiều kiếp sau cũng tìm lại mái chùa.
Cũng có lúc, chú tiểu mang một mâm trái cây sang tặng cho cả lớp má tôi dạy. Chú tiểu thì chỉ nhớ tên là Đăng, còn gì Đăng thì không nhớ. Thầy Đăng này học đâu đó miệt Sài Gòn, đi xe đạp hàng ngày tới trường, trong khi ông sư lớn ở chùa. Về sau, đọc về lược sử Sài Gòn, tôi đoán là Thầy Đăng, lúc đó là học ở Phật Học Viện nào ở Phú Lâm.
Nhà sư lớn tuổi  thì chị tôi cũng không nhớ tên. Chị nói qua điện thoại, lúc đó giọng chị trầm xuống như đang nói bí mật về những người còn ở cõi này, rằng có lúc nghe má tôi nói chú tiểu là con nhà sư. Hồi đó nhà sư từ xứ Huế hay xứ Quảng đó vào Nam, đi vòng vòng mấy tỉnh, có lẽ tìm Thầy học đạo, thế rồi bị Tây bắt vì nghi ngờ chi đó, bắt giam mấy tháng, đánh gãy giò rồi thả. Có nữ Phật tử mang về, thế là nhà sư ra đời. Vài năm sau, nhà sư dắt đứa nhỏ về xóm này, dựng chùa. Còn người nữ Phật tử kia không nghe gì nữa. Có thể họ bí mật thăm nhau, vì không lẽ má lại bỏ con luôn, chị tôi giải thích thì thầm qua điện thoại; giọng chị y hệt tiếng gió thổi qua mấy bụi tre. Tôi không tin mấy vào trí nhớ của chị, nhưng đành chịu. Thôi thì cứ nghe. Vì hiển nhiên, ai cũng có một bà mẹ.
Hình ảnh tôi thường nhớ là chú tiểu Đăng khi có gì tặng cho lớp, bước vào là đứng ngay cửa, hai tay bưng mâm trái cây. Thường là dì Hà, hễ có mặt khi đó, là đứng bật dậy, bước tới cửa và đưa hai tay nhận mâm này. Bây giờ, nhớ lại, tôi nhớ y hệt như một cuốn phim đen trắng đã trôi thật xa. Tôi nghĩ, nếu lúc đó dì Hà điểm trang môi son má phấn, mặc áo dài, trong khi chú Đăng mặc áo dài khăn đóng, thì trông y hệt một đám hỏi. Nhưng không phải đâu. Tôi nghiệm ra rằng nghĩ lung tung là không nên, kinh gọi là tâm phan duyên. Huống gì tất cả những người đó đều là bậc trưởng thượng, cho dù lúc đó họ còn là niên thiếu.
Chị tôi kể rằng ba má tôi cũng là người Miền Trung vào. Ba tôi là gốc Hà Tĩnh; hồi đó vùng này có phong trào chống Tây, bị đàn áp dữ dội, rồi ba chạy loạn, tìm được việc trong ngành xe lửa. Khi xe qua những chuyến ghé Nha Trang, gặp má tôi nơi đây, mới cưới nhau. Khi bà ngoại khuất núi, ba má tôi dẫn mấy dì vào Sài Gòn ở, ban đầu ở Dĩ An, một thị trấn đâu đó phía Đông của Sài Gòn, rồi về ngõ Nguyễn Thông nối dài, sau các rặng tre xanh này.
Tôi nghiệm ra rằng âm thanh dễ nhớ hơn hình ảnh. Như để hình dung ra các hình ảnh trong khu xóm đó, không thể nhớ nổi khuôn mặt mọi người. Chỉ là mang máng thôi. Mấy đứa nhỏ vài năm sau là thay đổi, thì chẳng nói gì. Nhưng hình ảnh nhà sư gầy, tôi không hình dung nổi khuôn mặt. Chỉ nhớ là giọng Huế hay Quảng gì đó. Mà tại sao nhóc tì như tôi lại nhở nổi giọng nói mơi lạ. Có thể vì những thời kinh chăng… Nhưng nhớ nhất là trái cây: ba má tôi thường qua chùa cúng trái cây, những lúc ba tôi trong các chuyến xe lửa về, thường mang theo các trái mít khổng lồ mua từ Dầu Giây hay Biên Hòa về.
Có những lúc má tôi đi khám bệnh hay thăm bệnh đâu đó cả ngày, lớp học bàn giao cho dì Hà. Lúc đó chú Đăng lại vào lớp ngồi. Làm sau chú Đăng canh ngày giờ để vào lớp thì cũng lạ; hồi đó làm gì có điện thoại di động mà nhắn nhau. Hình ảnh nhà sư trẻ, tôi nhớ là cỡ mười mấy tuổi, vào ngồi chung lớp học mầm non là cái gì rất dị kỳ. Nhưng di tôi, tức là cô giáo Hà, xem là chuyện tự nhiên. Chị tôi kể lại, chắc họ thích nhau. Sau này, tôi nghĩ là dùng chữ như thế không chính xác. Cho dù là, trong trí nhớ nhóc tì của tôi lúc đó vẫn nhớ hình ảnh một chú tiểu ngồi sau lưng bốn hay năm đứa con nít mầm non hay lớp một, tay chú tiểu chống cằm ngó lên bảng phấn, trong khi dì tôi, thường lúc đó là lúng túng bắt tụi nhỏ đánh vần, bất kể rằng dì cũng là vị thành niên. Thế rồi, khi đoán tới giờ má tôi sắp về tới, lại thấy chú Đăng lặng lẽ biến đi.
Hình ảnh một thời đó y hệt sương khói. Cho tới khi tình cờ, dì Hoa kể cho má tôi nghe rằng có một học trò ngoài sổ như thế tới, trong những khi má tôi đi cả buổi hay cả ngày. Chị kể rằng, có lẽ ba má tôi sang nói gì với nhà sư lớn. Thế là, những lần như thế giảm đi, nhưng lại thấy dì Hà ưa qua thăm chùa nhiều hơn, bất kể là mấy dì bài vở nhà trường mang về nhà rất nhiều.
Một lần, trong giờ ra chơi, nhỏ Linh đứng nhìn tôi, rồi đưa hay tay nắm hai tay tôi. Cảm giác lúc đó của tôi là tự nhiên giựt ra. Hai đứa nhỏ lớp mầm non nắm tay nhau có lẽ là bình thường bây giờ, nhưng hồi đó là lạ lắm. Nhỏ Linh nói rằng vậy là đúng như nhỏ này đoán là tôi sẽ tự động phản xạ giựt tay ra, vì nhỏ này chỉ thử để xem, vì mấy hôm trước nhỏ này thấy dì Hà đứng nơi sân chùa đột ngột nắm tay Thầy Đăng, rồi nhà sư trẻ này cũng đột ngột giựt tay ra. Tôi nghĩ, chuyện nắm tay của dì Hà cũng là phản xạ, rồi nhà sư này giựt tay ra cũng là phản xạ. Vì tất cả những người đó trong trí nhớ tôi là tuyệt vời đạo đức, không hề làm phiền muộn bất kỳ ai, không hề làm động gì tới thế gian này, không hề làm chết một con kiến hay con muỗi. Họ là những phiến thủy tinh trong vắt.
Tuy nhiên, những gì nhìn thấy hay nghe thấy vẫn cứ thỉnh thoảng lảng vảng trong trí nhớ nhiều năm. Tới hồi năm tôi học đệ nhất, vào học thi trong sân chùa Xá Lợi, nơi lúc đó thường im vắng, dễ tập trung tư tưởng. Nhỏ Linh cũng học đệ nhất Gia Long. Một buổi chiều, tôi và nhỏ Linh đứng nơi cổng tam quan của chùa Xá Lợi, con đường nhỏ bên hông chùa bỗng vắng dị thường. Tự nhiên nhỏ Linh, lúc đó là một nữ sinh áo trắng xinh đẹp rồi, nhìn thẳng vào mắt tôi, nói là tụi mình nhìn thẳng mắt nhau đi, xem ai thành thật thì sẽ không chớp mắt. Tôi không hiểu sao lại có định kiến gì về chớp mắt hay không chớp mắt như thế. Nhưng tự nhiên, bảo nhìn thì nhìn. Thế là tôi nhìn và rồi như dường có người vô hình nào sau lưng mình, muốn xô mình tới. Tôi sợ té vào nhỏ Linh, nghĩa là sẽ bị hiểu là ôm chầm cô bạn dễ thương này,  nên gượng lại, hai tay tự nhiên đưa ra nắm tay nhỏ Linh. Và rồi bất chợt hai tay tôi giựt ra. Nhỏ Linh nói là tôi đã chớp mắt trước. Hai tay tôi như điện giựt. Về tới nhà, tôi bệnh liệt giường mấy ngày. Rồi có lúc, tôi chợt thắc mắc, sao nhỏ Linh nói là tôi chớp mắt trước, mà không nói chuyện tôi đột ngột nắm tay nhỏ này. Và dĩ nhiên, tôi không hề nói gì với nhỏ Linh là lúc đó như có người vô hình xô tôi, hay phải chăng thầm kín trong tôi là ôm nhỏ Linh.
Và rồi, học thi nặng nhọc đã làm quên hết mọi chuyện thường ngày. Tôi nghĩ, có thể vì lúc đó, mùi nước hoa trên tóc nhỏ Linh có sức hấp dẫn. Tôi kể lại cho chị tôi nghe, rằng mùi nước hoa thoang thoảng có sức mạnh xô người nam vào người nữ. Chị tôi cười trên điện thoại là mày làm tao mắc cười gần chết, mới nói chuyện ngó mắt nhau, lại kể chuyện mùi hương trên tóc, mà phải gần cỡ nào mới ngửi thấy hương tóc được. Tôi nói lãng đi, có khi mùi hương từ kiếp trước, nhưng thiệt sự là  chỉ mới nắm tay thôi, rồi giựt ra, chưa từng ôm nhỏ Linh bao giờ.
Chị kể, rằng đúng là có chuyện dì Hà đứng nắm tay Thầy Đăng ở sân chùa, nhưng đó là khi trao nhau kinh sách, hay sách truyện gì  đó, thì tự nhiên, chắc là dì Hà muốn nắm tay Thầy Đăng thử xem có giống Lan và Ngọc trong tiểu thuyết Khái Hưng hay không. Chị tôi cười, chẳng có gì đâu. Tôi nói, vậy còn hôm dì Hà đi bụi đời thì sao. Chuyện dì Hà bụi đời thì tôi không nhớ, chỉ về sau mới nghe người lớn kể. Thời đó, không ai nói chuyện linh tinh như thế. 
Chị tôi kể lại rằng, có một lần, chú tiểu Đăng rủ dì Hà và dì Hoa đi xe đạp sang miệt Tham Lương để thăm ngôi chùa nào nơi đó. Khu vực tôi đoán, có thể là Hóc Môn, hay Bà Điểm, vì qua cầu Tham Lương cũng không chỉ rõ là nơi nào. Nhưng rồi mưa chiều bất chợt lớn kinh khủng, ào ạt. Thế là ba người, đi trên hai xe đạp, không dám về cho kịp ban chiều, phải  ở lại đêm nơi ngôi chùa kia. Thời đó không có điệtn thoại, cho nên má tôi lo lắm. Nghe kể lại là, ban đầu má bảo dì Hương qua chùa, hỏi nhà sư lớn xem vì sao chú Đăng biến mất cùng dì Hà và dì Hoa, có đúng là qua chơi miệt Tham Lương như ba người dặn dì Hương trước khi dì Hoa lên xe đạp ngồi sau lưng dì Hà đạp theo chú Đăng hay không.
Tôi hoàn toàn không nhớ mấy chuyện đó, cũng vì sáng hôm sau ba người về. Ba tôi lúc đó còn trên một chuyến xe lửa nào đó, không có nhà. Má tôi rầy dì Hà và dì Hoa liên tục, nhưng sau đó chỉ giám sát chặt chẽ; hình như không kể lại cho ba tôi nghe. Má tôi lúc đó kéo hai dì Hà và Hoa, từng  người ra tra hỏi riêng. Chị tôi kể, lúc đó má hỏi là có bị ai làm gì không, nấu ăn gì hôm đó, lại còn ngó kỹ từng lai áo, bâu quần xem có dính bùn hay đất gì không, và các thứ.
Nhưng nhà sư trụ trì hôm sau dẫn chú tiểu Đăng sang để xin lỗi cô Ba, vì tụi nhỏ đi chơi không về. Nhà sư bắt chú Đăng ngồi trước mặt má tôi, tước mặt dì Hà và dì Hoa, lập đi lập lại những câu xin lỗi.
Chị tôi kể rằng, chị nhớ mang máng là, Thầy trụ trì bảo chú tiểu Đăng lập lại theo lời Thầy. Trước mặt mấy nữ cư sĩ, lời xin lỗi là bình thường. Nhưng chị kể, là sau đó chị nghe hai dì kể lại, lời Thầy trụ trì bắt chú Đăng đọc từng câu như lời xin lỗi Đức Phật. Nghĩa là, Thầy bắt chú Đăng xin lỗi chúng sinh trước, rồi xin lỗi Đức Phật sau. Nhiều năm trước, có lúc, tôi nghĩ đó là văn sám hối.
Thầy bảo với giọng nghiêm nghị, Đăng, lập lại lời Thầy, “Con không ưa thích những gì được thấy.”
Chú Đăng lập lại lời Thầy trụ trì, giọng đều đều buồn thảm, “Con không ưa thích những gì được thấy.”
Thầy trụ trì tiếp, “Con không ưa thích những gì được nghe, được ngửi, được nếm, được cảm thọ, được suy nghĩ…
Chú Đăng lập lại, trong khi chị kể là lúc đó, theo chị dòm lén thì thấy, dì Hà và dì Hoa cúi gầm mặt, “Con không ưa thích những gì được nghe, được ngửi, được nếm, được cảm thọ, được suy nghĩ…”
Thầy trụ trì nói, lập lại, “Con không ưa thích những gì được thấy hôm qua, hôm kia, tuần trước, trong quá khứ…
Chú Đăng lập lại, giọng sầu thảm hơn.
Thầy trụ trì tiếp, “Con không ưa thích những gì được nghe, được ngửi, được nếm, được cảm thọ, được suy nghĩ… hôm qua, hôm kia, tuần trước, trong quá khứ.”
Chú Đăng lập lại y như thế.
Rồi Thầy dẫn chú Đăng về. Hình phạt cũng lạ. Đọc mấy câu như thế mà gọi là phạt.
Không ưa thích những gì được thấy, được nghe hôm qua, có phải là ám chỉ rằng chú Đăng phải xóa trong ký ức hình ảnh và lời nói của mấy dì xinh đẹp của tôi?
Tuy nhiên, chuyện động trời như thế, chuyện hai dì ngủ một đêm ngoài nhà vì kẹt mưa không về kịp, má dặn mấy dì giấu ba; lúc đó ba tôi còn trên một chuyến xe lửa, mấy hôm sau mới về. Má chỉ lo là ba lấy roi đánh mấy dì. Thêm nữa, hên mà hai dì đi kèm nhau, chớ rủi mà chỉ một dì ngủ đêm ngoài nhà là sẽ bị nghi ngờ táo bạo.
Lần đầu tiên được nghe kể chuyện đó, khoảng thập niên 1970s, tôi nghĩ rằng câu chuyện giống như tiểu thuyết Kim Dung. Vì tôi chợt nhớ ra một câu trong một bài kinh của Minh Giáo Ba Tư, hình như là “sống không lấy gì vui, chết không lấy gì buồn…
Về sau, nhiều thập niên sau, tôi nhắc chị tôi chuyện đó, nhưng nói rằng thực ra, có lẽ là từ một bản Kinh Phật tôi đọc gần đây.
Tôi đọc qua điện thoại cho chị nghe, một đoạn từ Kinh Bất Lạc trong Tạp A Hàm: “Vì nếu Tỳ kheo không ưa sắc, không khen ngợi sắc, không chấp thủ sắc, không đắm trước sắc, thì đối với sắc sẽ không ưa thích, tâm được giải thoát…” (1)
Chị tôi nói, không hoàn toàn giống, vì thời đó chưa có bản Việt dịch này. Thêm nữa, sắc gì mà sắc, con nít trân mà…
Tôi nói, hẳn là Thầy trụ trì đọc bản Hán văn, và bắt chú Đăng đọc để xin lỗi má và hai dì.
Chị tôi nói, buổi xin lỗi chỉ có khoảng 15 phút, nhưng sau đó dì Hà không dám một mình đi gặp chú Đăng nữa.
Tôi cãi, sắc đây là cái mình thấy, không phải nhan sắc, mà thiệt ra, sau đó má dặn dì Hương và dì Hoa là tụi bay phải bám sát chị Hà,   không để một mình đi đâu hết.
Chị tôi bật cười  qua điện thoại, hóa ra má chơi trò kềm kẹp, cảnh sát và công an nơi nào, thời nào cũng có.
Tôi nói, không biết dì Hà sau đó có ý định lãng mạn gì xa hơn không, mấy chuyện này mà không liều mạng, là không thành tiểu thuyết.
Thiệt ra, khi tôi nói như thế, là hình ảnh nhỏ Linh hiện ra trong đầu tôi. Nơi cổng Chùa Xá Lợi, thay vì chỉ ngó vào mắt nhau, thay vì chỉ đột ngột nắm tay và rồi giựt tay ra, mà ôm nhau là lịch sử đời tôi biến đổi rồi. Dĩ nhiên, tôi không bao giờ kể cho chị tôi nghe chuyện nhỏ Linh. Có thể, khi đọc truyện này, chị tôi mới biết.
Từ khi tôi được nghe kể, đôi khi khởi lên mấy chữ thì thầm bên tai tôi rằng không có gì  để ưa thích… Những lúc như thế, hình ảnh khoảng sân cát trắng và lũ nhỏ ê a hiện lên trước mắt tôi lãng đãng y hệt như từ một giấc mơ nhiều ngàn đêm trước.
Vài năm sau, cả nhà tôi dọn vào Chợ Lớn. Những âm vang và hình ảnh từ Xóm Chuồng Bò nhạt dần trong trí nhớ tôi, hệt như làn khói ban chiều mỏng dần và tan đi.


GHI CHÚ:




Wednesday, January 23, 2019

A MOMENT OF DEEP REFLECTION

A quiet time with my Daddy - Photo: Tue Le

A MOMENT OF DEEP REFLECTION

The autumn leaves turned bright yellow, 
      naturally yet majestically.
The leaves are shaking in the afternoon wind, 
       revealing the fragility of life.
Ah, the leaves, like anything, will fall back to their roots.
All things considered—the love, the life, the laughs, 
       and the legacy—have lived:
The echoes of the noble sunset.

Phe Bach

Saturday, January 19, 2019

TIẾNG KHÓC YÊU THƯƠNG

Suối Cả, Hố Lồ Ô - Nhơn Lý

TIẾNG KHÓC YÊU THƯƠNG


Tiếng khóc của một làng xã
bắt đầu từ sự du lịch đại tràng
Những buổi bình minh yên ả, phải chăng là cổ tích?

Núi đồi bị đập tan hoang
Tiếng khóc của bãi biển
bắt đầu
ồn ào và vang dội
và nước mắt của suối*
cũng bắt đầu sắp cạn.

Tiếng khóc của cát đang xùi xụt
cát vàng bay vút nơi đâu?
Đừng để tiếng thở dài đơn điệu
Tan dần theo gió Bấc Nồm.

Ôi, quê hương.
âu ơ, nhớ mãi quê nhà.

Thơ Bạch X. Phẻ


*(Suối Cả hay Hố Lồ Ô hay bất cứ con suốt nào đi nữa)







Monday, January 14, 2019

CALL THEM BY THEIR TRUE NAMES: THE REFUGEES AND ASYLUM-SEEKERS

'Vietnamese Refugees' by Image Google

CALL THEM BY THEIR TRUE NAMES: THE REFUGEES AND ASYLUM-SEEKERS

We, the United States of America, are the nation of immigrants,
We should show sympathy and empathy since our ancestors also immigrated here.
We should value and respect to all those who are seeking help.
The refugees and/or the asylum-seekers at our borders, especially in the South,
Are like any other human beings.
Often, they are the elderly, women, and children.
They are coming here to escape violence, war-torn countries, and other very harsh situations.
Just like any other human beings, who seek a better future,
They are NOT "invaders" and "terrorists."

So, please just call them by their true names.


Phe Bach