Sunday, January 26, 2020

Lời Giới Thiệu cho “Hiu Hắt Quê Hương Bến Cỏ Hồng” của Hòa Thượng Thích Phước An

Nguyên Không Nguyễn Tuấn Khanh: Lời Giới Thiệu cho “Hiu Hắt Quê Hương Bến Cỏ Hồng” của Hòa Thượng Thích Phước An



Có một câu chuyện kể về vị thiền sư vô danh ở Nhật ở thế kỷ thứ 16, văn bản xưa trong đền cổ ghi lại rằng dân chúng thời đó trong vùng Tokai, miền Trung Nhật Bản, ít người nào có thể hiểu được ngài. Mặc dù được kính trọng nhưng ông cũng bị nhiều người coi là một kẻ tu hành khùng điên.
Trong một lần đi ra sông lấy nước, người dân nhìn thấy ông đột nhiên dừng lại, cúi xuống và hốt từ thinh không lên cái gì đó, nhìn ngắm một cách tần ngần, rồi phất tay bỏ đi.
Vì tò mò, nhiều người cũng đã chạy đến và quan sát xem thiền sư đã tìm thấy điều gì nơi đó. Nhưng rồi mọi thứ chỉ là sỏi đá trơ trọi. Có người có đuổi theo thiền sư và hỏi rằng “ngài vừa nhặt gì đấy?”. Con người bị coi là điên khùng đó im lặng một lát rồi trả lời “thời gian”. Dân chúng ngơ ngác nhìn quanh, rồi lại hỏi “thời gian ở đâu, của ai?”. Vị thiền sư đáp nhanh rồi quay lưng bỏ đi “thời gian của ta và các ngươi, nhưng chỉ là những loại thời gian đáng vứt đi”.
Khi gấp lại những trang cuối của Quê hương hiu hắt bến cỏ hồng của tác giả Thích Phước An, bất giác tôi nghĩ đến hình ảnh ông như một con người cô đơn và lặng lẽ giữa thế gian này, dành trọn cả một đời để luôn nhìn ngắm lại bức tranh thời gian, nhặt nhạnh lại những điều đẹp nhất, tô điểm và nhẹ nhàng khắc cẩn gửi vào bảo tàng của ký ức cho người Việt về sau.
Đã từng có người hỏi rằng vì sao một tu sĩ lại nói về thơ văn nhiều đến vậy. Nhưng với tác giả Thích Phước An, ông ôm cái đẹp vào lòng và cầu nguyện cho nó.
Lặng lẽ như vị thiền sư bị coi là điên khùng ở nước Nhật xa xôi, cũng có một vị tu sĩ ở Việt Nam rảo bước qua cõi nhân sinh, luôn cúi nhặt trên đường đi của mình những mảnh vụn của thời gian. Chắp nối nhẫn nại và đầy yêu thương để dựng thành một tấm gương xưa, đủ để mọi người soi lại chính mình, soi lại cõi sống của mình, soi để biết rõ những loanh quanh kiếm tìm hữu hạn của chúng ta và cái đẹp vô hạn của trần thế.
Với Thầy Phước An, Pleiku, 2019 (Ảnh: Vũ)
Quyển bút ký Hiu hắt Quê hương  Bến Cỏ Hồng nhắc nhiều đến Quách Tấn, Tuệ Sỹ, Võ Hồng, Nguyễn Đức Sơn, Hoài Khanh… Những tri kỷ của núi sông đã vận dụng mọi từ ngữ cao quý nhất của mình, để mô tả vẻ đẹp của quê hương Việt Nam, đời Việt Nam. Từ trang đầu đến cuối, quyển sách mở ra những con đường làng thơ mộng, những khó khăn hữu duyên đến rồi đi qua và trở thành thi vị, những kí ức đẹp nhất về mẹ, về thời gian sống giản đơn… mà đôi khi ngoái nhìn lại, có thể rơi nước mắt vì thương nhớ khôn cùng.
Nhưng không chỉ vậy, trong tấm gương xưa mà tác giả Thích Phước An dựng lại, có đủ các chân dung của rất thường dễ bị quên lãng bởi thời gian, và cả thời thế. Các trích dẫn được ông đưa ra, chứa ngồn ngộn những biến động của lịch sử, thúc giục tầm nguyên. Chẳng hạn như đọc lại hai câu thơ của Tuệ Sỹ mà ngẩn ngơ:
Rồi trước mắt ngục tù thân bé bỏng
Ngón tay nào gõ nhịp xuống tường rêu
Năm tháng bỗng vụt hiện về, can qua lại mịt mờ trong tâm trí, nhưng từ đó, hiển lộ đức năng uy vũ bất năng khuất của một người học Phật, một chí sĩ luôn ngạo nghễ trước mọi nguy nan.
Với nhà thơ trác tuyệt Nguyễn Đức Sơn, tác giả mô tả tài tình một nhà thơ say cuồng trí tuệ, thách thức mọi sự tăm tối của đồng loại, nhưng ẩn trong ngôn từ và hành xử là sự khắc khoải bất tận trước cái tôi yếu đuối giữa vũ trụ này. Khắc khoải đến hiu quạnh.
Chúng ta giờ ước mong gì
Văn minh gửi cát bụi về mai sau
Đọc mà nghe như giữa cuộc chiến khốc liệt, bỗng vang vọng tiếng cười kiêu bạc. Mọi mưu mô thâm hiểm cho đến những khát vọng vĩ đại của thời đại, đều vô nghĩa.
Người Việt đã từng hay đến vậy. Trí tuệ Việt đã từng vời vợi như vậy. Chúng ta từng có tất cả đó thôi. Đọc sách, mà bật lên tiếng lòng xao xuyến. Từng lời kể giản đơn trong Quê hương hiu hắt bến cỏ hồng cứ thấm dần qua từng trang giấy. Sột soạt như đôi giày cỏ thầm lặng bước ở ven đường. Chậm rãi và an nhiên như một lữ khách đi qua địa cầu, tác giả ghi chép kỹ lưỡng những gì mình nhìn thấy, vì biết rõ chỉ còn lại một ít thời gian ở kiếp máu đỏ da vàng này như duyên nghiệp.
Những niên kỷ được trao lại, với sự da diết và tụng ca, là khoảng không giữa những nhịp tim mỗi người: còn không, chúng ta có còn những điều đẹp đẽ đó không, hay đã phai nhạt dần trong ký ức từng ngày? Đọc những dòng soi vào thời gian và trao lại từ bậc trí giả im lặng, thấy sấm động đâu đó trong trái tim mình.
À, hóa ra quê hương hiu hắt là như vậy, khi kho báu của người đi trước để lại bị quên lãng. Bên bến cỏ hồng, rất nhiều người đã bước ra đi, nhưng dường như ít người ngoảnh lại.
À, hóa ra quê hương hiu hắt là như vậy, khi chỉ là bến tiễn những đứa con ra đi, tiễn những điều đẹp nhất đi vào sương khói.
NGUYÊN KHÔNG - Nguyễn Tuấn Khanh

Saturday, January 25, 2020

Đạt Lai Lạt Ma: Sống Cuộc Đời Từ Bi - Living the Compassionate Life

Tuấn Anh và La Sơn Phúc Cường Việt dịch
Đạt Lai Lạt Ma: Sống Cuộc Đời Từ Bi 
- Living the Compassionate Life
Những chia sẻ của Đức Đạt Lai Lạt Ma giúp mỗi người hiểu vì sao thực hành chính niệm và nuôi dưỡng từ bi tâm tất yếu dẫn đến sự tự tin và lòng nhân ái nơi mỗi người.
dalai lamaLà con người, tất cả chúng ta đều có tiềm năng để trở thành người hạnh phúc và tràn đầy từ bi tâm, nhưng đồng thời chúng ta cũng có thể làm tổn hại và mang lại những khổ đau cho người khác. Tất cả những xu hướng này tiềm ẩn nơi thân tâm mỗi người.
Nếu chúng ta muốn được hạnh phúc, thì điều quan trọng là hãy biết nuôi dưỡng những mầm thiện và năng lực lợi lạc nơi mỗi người, nỗ lực giảm thiểu những xu hướng xấu ác. Làm những việc xấu ác, chẳng hạn như ăn cắp và nói dối, đôi khi có vẻ mang lại sự hài lòng trước mắt, nhưng về lâu dài, chúng sẽ gây nên những khổ đau khôn cùng.
Các việc thiện, xuất phát từ tâm chân thành luôn mang lại cho chúng ta sức mạnh nội tâm. Khi ấy, chúng ta tự tin hơn, bớt lo âu và dễ mở lòng biết quan tâm tới lợi lạc của tha nhân dù cho có những khác biệt về tôn giáo, văn hóa hay bất kỳ rào cản nào. Biết hướng nội tâm, quan sát, nuôi dưỡng những mầm thiện và tránh xa những thứ xấu ác tiềm ẩn trong thân tâm ta là rất quan trọng. Bạn cần trau dồi năng lực nội tâm, biết quan sát, phân tích một cách cẩn trọng và kỹ càng.
Tôi gọi đây là thúc đẩy giá trị con người. Tâm nguyện của tôi là làm thế nào để chúng ta có sự hiểu biết về giá trị con người một cách sâu sắc hơn. Những giá trị như từ bi tâm, lòng nhân ái và kỷ luật là không thể thiếu nếu bạn mong muốn có niềm hạnh phúc đích thực được dù cho bạn có theo tôn giáo nào, có đức tin gì.
Chúng ta cần từ bi tâm và lòng nhân ái không chỉ để tồn tại mà đây là nguồn cội của những thành công trong đời sống.
Từ bi tâm và lòng nhân ái là nền tảng cho sự thành công của chúng ta trong đời này và những tăng trưởng trên đạo lộ tâm linh, và cao hơn là đạt tới toàn giác. Do vậy, từ bi tâm không phải chỉ là tâm nguyện khi khởi đầu mà cần luôn được nuôi dưỡng, phát triển trong mọi nơi, mọi lúc, không bị giới hạn ở bất kỳ thời gian, địa điểm hay giới hạn chỉ trong cộng động tâm linh, Phật giáo hay bất kỳ tôn giáo nào.
Là con người, chúng ta cần từ bi tâm và lòng nhân ái để tồn tại trên cõi đời này. Sự ích kỷ tự lợi không chỉ làm tổn hại người, mà còn ngăn cản chính hạnh phúc bản thân chúng ta. Vậy thì đã đến lúc mỗi người chúng ta cần biết suy nghĩ một cách khôn ngoan hơn, quý vị có nghĩ vậy không? Tôi tin tưởng như vậy.

Khai triển từ bi tâm

Trước khi có thể phát khởi từ bi tâm và lòng bi mẫn, chúng ta cần biết những phẩm chất đó là gì. Nói một cách đơn giản, từ bi và lòng bi mẫn có thể được hiểu là những dòng tâm thiện, những cảm xúc làm khởi sinh niềm hy vọng, can đảm, quyết tâm và sức mạnh nội tâm. Trong truyền thống Phật giáo, từ bi có hai phương diện: mong cho chúng sinh thoát khổ và mong cho chúng sinh được hạnh phúc đích thực.
Vậy làm thế nào để tăng trưởng từ bi tâm và lòng bi mẫn nơi mỗi người. Nói cách khác, có những phương tiện nào để tăng trưởng những phẩm chất này và giảm bớt sự sân giận, hận thù, và ghen tỵ? Chắc chắn có. Dù nhiều người không hoàn toàn đồng ý câu trả lời của tôi cho điều này nhưng dứt khoát là “Có!” Dù bạn không đồng ý với tôi ngay lúc này, thì cũng hãy để mở khả năng phát triển như vậy cho bản thân. Chúng ta hãy cùng nhau thực hiện một số thử nghiệm; sẽ thấy một số câu trả lời.
Có thể sắp xếp các loại hạnh phúc và đau khổ thành hai mức độ: tâm thức và thân thể. Hạnh phúc hay khổ đau về tâm có ảnh hưởng to lớn hơn nhiều. Trừ khi chúng ta bị mắc căn bệnh hiểm nghèo hoặc quá thiếu thốn các nhu cầu cơ bản, tình trạng của thân hầu như đóng một vai trò thứ yếu trong cuộc sống. Nếu thân chúng ta thoải mái, chúng ta hầu như không để tâm tới. Tuy nhiên, dòng tâm thức ghi lại mọi sự kiện, dù vụn vặt đến mức nào. Do đó chúng ta nên dành những nỗ lực nghiêm túc nhất của mình để mang lại niềm an bình cho nội tâm thay vì những thú vui của thân xác.

Có thể chuyển hóa được các dòng tâm

Từ kinh nghiệm còn hạn hẹp của riêng mình, tôi tin rằng thông qua rèn luyện tâm liên tục, chúng ta thực sự có thể nuôi dưỡng sự an bình và niềm an lạc. Thái độ tích cực của chúng ta, các suy nghĩ, và tri kiến có thể được tăng cường, và có thể giảm được các phóng chiếu tiêu cực. Mỗi khoảnh khắc của ý thức phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, và khi chúng ta thay đổi những yếu tố bên ngoài đó, tâm chúng ta cũng thay đổi. Đây là một sự thật đơn giản về bản chất của tâm.
Ban trải từ bi tâm tới tha nhân, những khổ đau của ta sẽ bị tận diệt
Thứ mà ta gọi là “tâm” rất đặc biệt. Đôi khi tâm rất bướng bỉnh và luôn kình chống sự thay đổi. Tuy nhiên, với những nỗ lực không ngừng nghỉ và với niềm tin dựa trên sự suy tư sâu sắc, ta phát hiện ra bản chất tâm là sinh động, linh hoạt và có thể được chuyển hóa thông qua rèn luyện.
Chỉ ngồi cầu nguyện thôi sẽ không biến đổi được tâm chúng ta; mỗi người cần có sự suy tư sâu sắc và những kinh nghiệm của riêng mình. Bạn sẽ không dễ dàng chuyển hóa tâm của bạn qua một đêm; thói quen cũ, đặc biệt là những thói quen tinh thần, luôn có xu hướng chống lại các giải pháp vội vàng. Nhưng với nỗ lực qua thời gian và những suy tư sâu sắc, bạn chắc chắn sẽ chuyển hóa tâm thức mình.
Để có cơ sở vững chãi cho rèn luyện tâm, chúng ta cũng cần thấu hiểu rằng chừng nào ta còn tồn tại trên thế giới này, ta không nên mong chờ những khó khăn chướng ngại sẽ ngay lập tức được tận trừ. Nếu những thách thức đến mà ta bi quan, mất phương hướng thì thách thức càng lấn áp. Nếu ta luôn ghi nhớ rằng không chỉ riêng mình ta mà rất nhiều người khác đều đang phải trải qua những khổ đau khôn cùng, ta sẽ mạnh mẽ hơn, đỡ cô độc hơn, quyết tâm hơn và tự tin hơn vượt qua những khổ đau, chướng ngại. Khi biết hướng tâm tới những khổ đau của người khác, lòng bi mẫn trong ta nảy sinh, khổ đau của ta cũng sẽ dễ dàng giảm thiểu. Như thế trước mỗi thử thách là cơ hội quý giá cho ta nuôi dưỡng, rộng mở lòng từ. trước mỗi hoàn cảnh mới, lòng từ của ta ngày một nảy nở hơn, ta chân thành hướng tâm tới nỗi khổ đau của tha nhân và mong nguyện giúp họ vượt thoát khổ đau cũng to lớn và vững chãi hơn. Kết quả là sức mạnh nội tâm, sự buông xả nơi thân tâm ngày một vững chãi hơn.

Làm thế nào để nuôi dưỡng từ bi tâm

Ích kỷ ngăn cản chúng ta hướng tâm tới mọi người, tất nhiên ai cũng ít nhiều còn bị ảnh hưởng như thế. Để có hạnh phúc, chúng ta cần một nội tâm an bình và trạng thái thái cần phải được nuôi dưỡng bằng từ bi tâm. Làm thế nào chúng ta có thể nuôi dưỡng từ bi tâm? Rõ ràng, việc chúng ta chỉ đơn giản tin rằng lòng bi mẫn là quan trọng và suy nghĩ về sự tốt đẹp nơi những phẩm chất này là không đủ! Chúng ta cần nhiều nỗ lực để nuôi dưỡng, điểm quan trọng là dùng ngay các trải nghiệm hàng ngày của bản thân để chuyển hóa lối suy nghĩ và tập tính của mình.
Trước hết, cần minh định rõ các phương diện của từ bi tâm. Bởi nhiều phương diện của từ bi thường bị lẫn lộn với tâm tham muốn và chấp trước. Ví dụ, tình yêu thương mà cha mẹ giành con cái thường gắn liền với nhu cầu tình cảm của riêng họ, vì vậy đó không phải là từ bi thật nghĩa. Thông thường khi chúng ta quan tâm đến một người bạn thân, chúng ta gọi đây là lòng từ bi, nhưng sự quan tâm thường gắn với tham ái, với mong muốn này kia. Ngay cả trong hôn nhân, tình cảm chồng vợ – đặc biệt là lúc ban đầu, khi mỗi người có thể chưa biết rõ tính cách sâu sắc của người khác – phụ thuộc vào những chấp trước và luyến ái hơn tình yêu thương đích thực.
Hôn nhân chỉ kéo dài một thời gian ngắn vì họ thiếu lòng bi mẫn; chúng được tạo ra bởi sự bám chấp về tình cảm dựa trên những dự đoán và kỳ vọng, và ngay khi các dự đoán ban đầu không như ý, sự gắn bó lập tức không còn.
Mong muốn của chúng ta có thể mạnh mẽ đến mức ta xem người mà gắn bó dường như hoàn hảo, trong khi trên thực tế, người đó có thể vẫn còn những khiếm khuyết này kia. Thêm nữa, chấp trước làm cho ta phóng đại những năng lực của người bạn đời. Khi điều này xảy ra, nó cho thấy rằng tình yêu thương của chúng ta được thúc đẩy bởi nhu cầu cá nhân hơn là sự quan tâm, sẻ chia đích thực cho người.
Từ bi không chấp trước là hoàn toàn có thể nuôi dưỡng nơi mỗi người. Cần sự minh định giữa từ bi và sự bám chấp. Từ bi tâm đích thực không chỉ là một phản ứng cảm xúc mà là một nguyện lực vững chắc được thiết lập trên những suy tư sâu sắc về bản thân và đời sống. Nhờ nền tảng vững chắc này, từ bi tâm với tha nhân vẫn mãi ban trải và tăng trưởng dù cho đối phương có hành xử tốt hay xấu với bản thân mình. Lòng bi mẫn thực sự không dựa trên dự đoán và kỳ vọng cá nhân, mà dựa theo nhu cầu của mọi người: bất kể ai là thân hay thù đều không có khác biệt, bởi một sự thật họ đều mong muốn có được hạnh phúc, sự an bình, vượt qua khổ đau, dựa trên suy tư sâu sắc này, chúng ta hướng tâm làm lợi ích cho con người.
Đây là lòng bi mẫn thực sự. Phật giáo là sự thực hành vô ngã, vị tha, nuôi dưỡng từ bi tâm vô điều kiện, mang lại hạnh phúc, niềm an lạc cho tha nhân, cho chúng sinh khắp vô tân. Tất nhiên, phát triển tâm từ bi vô điều kiện cần nhiều nỗ lực, cũng không hề dễ!
Cho dù người có thân thể đẹp đẽ hay không, thân thiện hay hiểm ác, điểm trên hết ta cần biết họ cũng là con người, không khác ta. Cũng giống như chính bản thân ta, họ mong muốn được một đời sống hạnh phúc, chẳng ai muốn đau khổ cả. Hơn nữa, họ cũng bình đẳng với ta về quyền được vượt hoát đau khổ và có hạnh phúc.
Như thế bạn nhận thức được rằng tất cả chúng sinh đều như nhau, đều mong muốn hạnh phúc và đều có quyền được ân hưởng hạnh phúc, sự đồng cảm và chân thành trong bạn sẽ hiện khởi. Rèn luyện một tâm thức như vậy, bạn phát triển năng lực đảm nhận sống có trách nhiệm với mọi người; bạn thực sự mong muốn giúp họ tích cực khắc phục những khó khăn trong đời sống. Mong muốn này không có tính phân biệt mà ban trải đều như nhau tới tất thảy chúng sinh. Chừng nào mọi người còn trải nghiệm niềm vui và những nỗi khổ đau giống như bạn, thì thật không hợp lý chút nào để khởi tâm phân biệt người này với người kia.
Một số người, đặc biệt là những người cho rằng mình là rất thực tế, đôi khi quá thực tế và bị ám ảnh bởi chúng. Họ có thể nghĩ, “Ý tưởng mong muốn hạnh phúc của tất cả chúng sinh, mong muốn điều tốt lành nhất tới với mọi người, là không thực tế và quá lý tưởng. Một ý tưởng phi thực tế như vậy không thể đóng góp gì cho việc chuyển hóa tâm thức hoặc đạt được một loại kỷ luật tâm thần nào bởi vì hoàn toàn không thể thực hiện được.”
Tất cả chúng ta đều chia sẻ một nhu cầu giống nhau về tình yêu thương, và trên nền tảng của tính tương đồng này, có thể cảm thấy rằng bất cứ ai chúng ta gặp, trong bất cứ hoàn cảnh nào, đều là bằng hữu.
Trong suy nghĩ cho rằng cần khép kín một số đối tượng mà mình chỉ nên tương tác, nhiều người cho cho rằng đơn giản là không cần hướng tâm đến tất thảy chúng sinh, vì chúng sinh là vô hạn. Họ có thể cảm nhận được những liên hệ với một số người trong cuộc đời này, nhưng lại thấy rằng hằng hà sa số chúng sinh trong vũ trụ không liên quan gì đến trải nghiệm của cá nhân mình. Họ có thể đặt câu hỏi “Cố gắng dung chứa vô số chúng sinh khi nỗ lực rèn luyện tâm có ý nghĩa gì?”
Ở phạm vi của người thực hành nuôi dưỡng từ bi tâm. Có một kinh nghiệm nhỏ cho những ai mới bước vào ngưỡng cửa thực hành. Ở ngưỡng ban đầu, nên suy tư về những khổ đau lan tràn khắp các cõi luân hồi, và nên hướng tâm tới những mong nguyện có được hạnh phúc, bình an ở tất cả mọi người, như thế sẽ dễ dàng mở rộng lòng hướng tới chúng sinh mà không bị bám chấp vào một đối tượng cụ thể. Với những người sơ cơ nếu chỉ chăm chăm cầu nguyện, hướng tâm tới một đối tượng cụ thể sẽ rất dễ bị những tâm tham luyến, ái chấp chi phối.
Với sự kiên nhẫn và những nỗ lực không dừng nghỉ, ta chắc chắn sẽ lan tỏa được từ bi tâm ngày một rộng lớn hơn. Tất nhiên những ngã mạn nơi tâm ta, niềm tin kiên cố vào cái tôi bất biến làm ngăn cản sự nuôi dưỡng từ bi tâm. Thật vậy, chỉ khi nào sự bám chấp bản ngã như thế được tận trừ thì lòng bi mẫn mới thực sự được lan tỏa và mở rộng. Nhưng không có nghĩa là chúng ta phải đợi chờ khi ấy thì mới bắt đầu nuôi dưỡng từ bi tâm.
Vì lòng từ bi và trái tim nhân hậu được phát triển thông qua sự nỗ lực không ngừng và tỉnh thức. Do đó, điều quan trọng là chúng ta phải sống một cuộc đời luôn trong chính niệm và tỉnh thức. Khi ta biết chính niệm trong mọi nơi, mọi lúc, ta có thể dễ dàng nhận biết được những thuận lợi để tăng trưởng phẩm chất nhân từ của chính chúng ta hay những nghịch cảnh đang hạn chế từ bi tâm và lòng nhân ái.
Từ bi tâm toàn cầu
Tôi tin rằng ở mọi cấp độ của xã hội như gia đình, quốc gia và rộng hơn là quốc tế, chìa khóa cho một thế giới phát triển và an bình hơn là sự lan tỏa của từ bi tâm. Chúng ta không nhất thiết phải có tôn giáo, cũng không cần phải tin vào một ý thức hệ cụ thể nào đó. Điều cần thiết là mỗi chúng ta phát triển các nhân cách cao đẹp nơi chính thân tâm mình. Tôi tin tưởng rằng mỗi cá nhân nếu biết nuôi dưỡng niềm an lạc nơi thân tâm mình sẽ có thể đóng góp một cách sâu sắc và hữu hiệu tới toàn bộ cộng đồng nhân loại rộng lớn.
Là con người, tất cả chúng ta đều chia sẻ một nhu cầu giống nhau về lòng nhân ái, từ bi tâm, và trên nền tảng của sự tương đồng này, chúng ta có thể cảm nhận được rằng bất cứ ai chúng ta gặp, trong bất cứ hoàn cảnh nào, đều là những con người đáng tôn trọng. Bất kể chúng ta có khuôn mặt thế nào, trang phục hay hành xử khác nhau ra sao thì không có sự khác biệt đáng kể giữa người với người. Thật dại dột khi ôm khư khư định kiến về sự khác biệt bên ngoài, bởi vì bản chất tự nhiên của con người chúng ta là như nhau.
Lợi ích của việc vượt qua những khác biệt bề ngoài như vậy trở nên rõ ràng khi chúng ta nhìn vào hiện thực trên toàn cầu ngày nay. Nhân loại là một và hành tinh nhỏ bé này là ngôi nhà chung duy nhất của chúng ta. Nếu chúng ta biết cùng chung tay bảo vệ ngôi nhà, mỗi chúng ta sẽ có niềm an vui, lòng vị tha và từ bi tâm rộng lớn. Chỉ có những phẩm chất này này mới có thể loại bỏ những động cơ tự ngã khiến mọi người lừa dối và lạm dụng lẫn nhau. Nếu bạn có một trái tim chân thành và cởi mở, bạn tự nhiên sẽ thấy sự tự trọng và đáng tin cậy, và không cần phải lo âu hay sợ hãi bất kỳ ai khác.
Sự cần thiết có một bầu không khí cởi mở và hợp tác ở cấp độ toàn cầu đang trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Trong thời đại hiện đại này, khi nói đến việc đối phó với các biến động trong lĩnh vực kinh tế, chắc chắn không còn ranh giới trong phạm vi gia đình hay thậm chí một quốc gia nữa. Từ quốc gia này đến quốc gia khác, từ lục địa này đến lục địa khác, thế giới liên kết ngày một chặt chẽ với nhau hơn. Mỗi quốc gia phụ thuộc chặt chẽ vào những quốc gia khác khác. Một quốc gia, để phát triển nền kinh tế của chính mình, buộc phải cân nhắc nghiêm túc các điều kiện kinh tế của các quốc gia khác. Trong thực tế, cải thiện kinh tế ở các nước khác cuối cùng dẫn đến cải thiện kinh tế trong đất nước của chính mình.
Lòng từ bi, lòng nhân từ, lòng vị tha, và tình bằng hữu và tình cảm nhân loại là chìa khóa không chỉ cho sự phát triển của nhân loại mà còn là sự tồn vong của cả hành tinh.
Nếu xét những sự kiện này trên khắp thế giới hiện đại, chúng ta đang cần một cuộc cách mạng toàn diện về tư duy và thói quen cũ. Mỗi ngày càng cho thấy rõ ràng hơn rằng một hệ thống kinh tế khả thi phải dựa trên ý thức thực sự về trách nhiệm toàn cầu. Nói cách khác, những gì chúng ta cần là một cam kết thực sự với các nguyên tắc của tình bằng hữu và sự tôn trọng lẫn nhau. Điều này rất rõ ràng, phải không? Đây không chỉ là một lý tưởng thánh thiện, đạo đức hay thuộc về tôn giáo mà đúng hơn là thực tế liên quan tới tồn vong và phát triển của toàn thể nhân loại.
Nếu bạn hướng tâm tới nhiều lĩnh vực hơn, bạn sẽ thấy điều hiển nhiên rằng chúng ta cần lòng từ bi và lòng vị tha rộng lớn hơn ở khắp mọi nơi. Giá trị quan trọng của điều này ta thấy bằng cách quan sát tình trạng hiện tại các lĩnh vực trên thế giới, cho dù trong các lĩnh vực kinh tế hiện đại hay chăm sóc sức khỏe, hay trong các tình huống chính trị và quân sự. Bên cạnh vô số các cuộc khủng hoảng xã hội và chính trị, thế giới cũng đang phải đối mặt với một chu kỳ thiên tai gia tăng chưa từng có. Năm này qua năm khác, chúng ta đã chứng kiến sự dịch chuyển cực đoan các các kiểu khí hậu toàn cầu dẫn đến hậu quả nghiêm trọng: lượng mưa quá mức ở một số quốc gia đã gây ngập lụt nghiêm trọng, thiếu mưa ở các quốc gia khác đã dẫn đến nạn hạn hán.
May mắn thay, mối quan tâm về sinh thái và môi trường đang tăng lên nhanh chóng ở khắp mọi nơi. Chúng ta đang bắt đầu hiểu rõ giá trị của vấn đề bảo vệ môi trường – một vấn đề liên quan trực tiếp tới sự tồn tại của chúng ta trên hành tinh này. Là con người, chúng ta cũng phải biết tôn trọng các thành viên trong gia đình nhân loại của mình: hàng xóm, bạn bè, người thân v. v… Lòng từ bi, lòng nhân từ, lòng vị tha, và cảm giác về sự trân trọng, thân thuộc là chìa khóa không chỉ cho sự phát triển của con người mà còn là sự sống còn của nhân loại.
Sự thành công hay thất bại của nhân loại trong tương lai phụ thuộc chủ yếu vào ý chí và quyết tâm của thế hệ hiện tại. Nếu bản thân chúng ta không sử dụng các ý chí và tri thức của mình, không có ai khác có thể đảm bảo tương lai của chúng ta và của thế hệ kế tiếp sẽ là an bình, phát triển. Đây là một thực tế chẳng ai sáng tạo ra trước được.
Chúng ta không thể đơn giản đổ lỗi tất cả cho các chính khách hay những người được cho là phải chịu trách nhiệm trực tiếp gây nên các khủng hoảng; chúng ta trước hết cũng phải chịu trách nhiệm với cá nhân mình. Chỉ khi mỗi cá nhân biết chấp nhận trách nhiệm riêng mình thì người đó mới bắt đầu có sáng kiến. Chỉ phàn nàn và chỉ trích thôi không đủ. Một sự thay đổi đích thực trước tiên phải đến từ nội tâm mỗi cá nhân, khi ấy cá nhân đó có thể cố gắng đóng góp đáng kể cho nhân loại. Lòng vị tha không chỉ đơn thuần là một lý tưởng tôn giáo; nó là một giá trị, một phẩm chất không thể thiếu của toàn thể nhân loại.

Living the Compassionate Life

By THE DALAI LAMA
Lion’s Roar | OCTOBER 23, 2016
This teaching by the Dalai Lama explains how the Buddhist teachings of mindfulness and compassion lead inevitably to feelings of self-confidence and kindness.
As human beings we all have the potential to be happy and compassionate people, and we also have the potential to be miserable and harmful to others. The potential for all these things is present within each of us.
If we want to be happy, then the important thing is to try to promote the positive and useful aspects in each of us and to try to reduce the negative. Doing negative things, such as stealing and lying, may occasionally seem to bring some short-term satisfaction, but in the long term they will always bring us misery. Positive acts always bring us inner strength. With inner strength we have less fear and more self-confidence, and it becomes much easier to extend our sense of caring to others without any barriers, whether religious, cultural, or otherwise. It is thus very important to recognize our potential for both good and bad, and then to observe and analyze it carefully.
This is what I call the promotion of human value. My main concern is always how to promote an understanding of deeper human value. This deeper human value is compassion, a sense of caring, and commitment. No matter what your religion, and whether you are a believer or a nonbeliever, without them you cannot be happy.
We need compassion and human affection not only to survive; they are the ultimate sources of success in life.
Kindness and a good heart form the underlying foundation for our success in this life, our progress on the spiritual path, and our fulfillment of our ultimate aspiration: the attainment of full enlightenment. Hence, compassion and a good heart are not only important at the beginning but also in the middle and at the end. Their necessity and value are not limited to any specific time, place, society or culture.
Thus, we need compassion and human affection not only to survive; they are the ultimate sources of success in life. Selfish ways of thinking not only harm others, they prevent the very happiness we ourselves desire. The time has come to think more wisely, hasn’t it? This is my belief.

Developing Compassion

Before we can generate compassion and love, it is important to have a clear understanding of what we understand compassion and love to be. In simple terms, compassion and love can be defined as positive thoughts and feelings that give rise to such essential things in life as hope, courage, determination and inner strength. In the Buddhist tradition, compassion and love are seen as two aspects of same thing: compassion is the wish for another being to be free from suffering; love is wanting them to have happiness.
The next matter to be understood is whether it is possible to enhance compassion and love. In other words, is there a means by which these qualities of mind can be increased, and anger, hatred, and jealousy reduced? My answer to this is an emphatic, “Yes!” Even if you do not agree with me right now, let yourself be open to the possibility of such development. Let us carry out some experiments together; perhaps we may then find some answers.
For a start, it is possible to divide every kind of happiness and suffering into two main categories: mental and physical. Of the two, it is the mind that exerts the greatest influence on most of us. Unless we are either gravely ill or deprived of basic necessities, our physical condition plays a secondary role in life. If the body is content, we virtually ignore it. The mind, however, registers every event, no matter how small. Hence we should devote our most serious efforts to bringing about mental peace rather than physical comfort.

The Mind Can Be Changed

From my own limited experience, I am convinced that through constant training we can indeed develop our minds. Our positive attitudes, thoughts, and outlook can be enhanced, and their negative counterparts can be reduced. Even a single moment of consciousness depends on so many factors, and when we change these various factors, the mind also changes. This is a simple truth about the nature of mind.
By feeling compassion for others, our own suffering becomes manageable.
The thing that we call “mind” is quite peculiar. Sometimes it is very stubborn and very resistant to change. With continuous effort, however, and with conviction based on reason, our minds are sometimes quite honest and flexible. When we truly recognize that there is some need to change, then our minds can change. Wishing and praying alone will not transform your mind; you also need reason—reason ultimately grounded in your own experience. And you won’t be able to transform your mind overnight; old habits, especially mental ones, resist quick solutions. But with effort over time and conviction grounded in reason, you can definitely achieve profound changes in your mental attitudes.
As a basis for change, we need to recognize that as long as we live in this world we will encounter problems, things that obstruct the fulfillment of our goals. If, when these happen, we lose hope and become discouraged, we diminish our ability to face these difficulties. If, on the other hand, we remember that not just we but everyone has to undergo suffering, this more realistic perspective will increase our determination and our capacity to overcome troubles. By remembering the suffering of others, by feeling compassion for others, our own suffering becomes manageable. Indeed, with this attitude, each new obstacle can be seen as yet another valuable opportunity to improve our mind, another opportunity for deepening our compassion! With each new experience, we can strive gradually to become more compassionate; that is, we can develop both genuine sympathy for others’ suffering and the will to help remove their pain. As a result, our own serenity and inner strength will increase.

How to Develop Compassion

Self-centeredness inhibits our love for others, and we are all afflicted by it to one degree or another. For true happiness to come about, we need a calm mind, and such peace of mind is brought about only by a compassionate attitude. How can we develop this attitude? Obviously, it is not enough for us simply to believe that compassion is important and to think about how nice it is! We need to make a concerted effort to develop it; we must use all the events of our daily life to transform our thoughts and behavior.
First of all, we must be clear about what we mean by compassion. Many forms of compassionate feeling are mixed with desire and attachment. For instance, the love parents feel for their child is often strongly associated with their own emotional needs, so it is not fully compassionate. Usually when we are concerned about a close friend, we call this compassion, but it too is usually attachment. Even in marriage, the love between husband and wife—particularly at the beginning, when each partner still may not know the other’s deeper character very well—depends more on attachment than genuine love. Marriages that last only a short time do so because they lack compassion; they are produced by emotional attachment based on projection and expectation, and as soon as the projections change, the attachment disappears. Our desire can be so strong that the person to whom we are attached appears to be flawless, when in fact he or she has many faults. In addition, attachment makes us exaggerate small, positive qualities. When this happens, it indicates that our love is motivated more by personal need than by genuine care for another.
Compassion without attachment is possible. Therefore, we need to clarify the distinctions between compassion and attachment. True compassion is not just an emotional response but a firm commitment founded on reason. Because of this firm foundation, a truly compassionate attitude toward others does not change even if they behave negatively. Genuine compassion is based not on our own projections and expectations, but rather on the needs of the other: irrespective of whether another person is a close friend or an enemy, as long as that person wishes for peace and happiness and wishes to overcome suffering, then on that basis we develop genuine concern for their problem. This is genuine compassion. For a Buddhist practitioner, the goal is to develop this genuine compassion, this genuine wish for the well-being of another, in fact for every living being throughout the universe. Of course, developing this kind of compassion is not at all easy! Let us consider this point more closely.
Whether people are beautiful or plain, friendly or cruel, ultimately they are human beings, just like oneself. Like oneself, they want happiness and do not want suffering. Furthermore, their right to overcome suffering and to be happy is equal to one’s own. Now, when you recognize that all beings are equal in both their desire for happiness and their right to obtain it, you automatically feel empathy and closeness for them. Through accustoming your mind to this sense of universal altruism, you develop a feeling of responsibility for others; you wish to help them actively overcome their problems. This wish is not selective; it applies equally to all beings. As long as they experience pleasure and pain just as you do, there is no logical basis to discriminate between them or to alter your concern for them if they behave negatively.
One point I should make here is that some people, especially those who see themselves as very realistic and practical, are sometimes too realistic and obsessed with practicality. They may think, “The idea of wishing for the happiness of all beings, of wanting what is best for every single one, is unrealistic and too idealistic. Such an unrealistic idea cannot contribute in any way to transforming the mind or to attaining some kind of mental discipline because it is completely unachievable.”
We all share an identical need for love, and on the basis of this commonality, it is possible to feel that anybody we meet, in whatever circumstances, is a brother or sister.
A more effective approach, they may think, would be to begin with a close circle of people with whom one has direct interaction. Later one can expand and increase the parameters of that circle. They feel there is simply no point in thinking about all beings, since there is an infinite number of them. They may conceivably be able to feel some kind of connection with some fellow human beings on this planet, but they feel that the infinite number of beings throughout the universe have nothing to do with their own experience as individuals. They may ask, “What point is there in trying to cultivate the mind that tries to include within its sphere every living being?”
In other contexts, that may be a valid objection. What is important here, however, is to grasp the impact of cultivating such altruistic sentiments. The point is to try to develop the scope of our empathy in such a way that we can extend it to any form of life with the capacity to feel pain and experience happiness. It is a matter of recognizing living organisms as sentient, and therefore subject to pain and capable of happiness.
Such a universal sentiment of compassion is very powerful, and there is no need to be able to identify, in specific terms, with every single living being in order for it to be effective. In this regard it is similar to recognizing the universal nature of impermanence: when we cultivate the recognition that all things and events are impermanent, we do not need to consider individually every single thing that exists in the universe in order to be convinced of it. That is not how the mind works. It is important to appreciate this point.
Given patience and time, it is within our power to develop this kind of universal compassion. Of course our self-centeredness, our distinctive attachment to the feeling of a solid “I,” works fundamentally to inhibit our compassion. Indeed, true compassion can be experienced only when this type of self-grasping is eliminated. But this does not mean that we cannot start to cultivate compassion and begin to make progress right away.
Since compassion and a good heart are developed through constant and conscious effort, it is important for us first to identify the favorable conditions that give rise to our own qualities of kindness, and then to identify the adverse circumstances that obstruct our cultivation of these positive states of mind. It is therefore important for us to lead a life of constant mindfulness and mental alertness. Our mastery of mindfulness should be such that whenever a new situation arises, we are able to recognize immediately whether the circumstances are favorable or adverse to the development of compassion and a good heart. By pursuing the practice of compassion in such a manner, we will gradually be able to alleviate the effects of the obstructive forces and enhance the conditions that favor the development of compassion and a good heart.

Global Compassion

I believe that at every level of society—familial, national and international—the key to a happier and more successful world is the growth of compassion. We do not need to become religious, nor do we need to believe in a particular ideology. All that is necessary is for each of us to develop our good human qualities. I believe that the cultivation of individual happiness can contribute in a profound and effective way to the overall improvement of the entire human community.
We all share an identical need for love, and on the basis of this commonality, it is possible to feel that anybody we meet, in whatever circumstances, is a brother or sister. No matter how new the face or how different the dress or behavior, there is no significant division between us and other people. It is foolish to dwell on external differences because our basic natures are the same.
The benefits of transcending such superficial differences become clear when we look at our global situation. Ultimately, humanity is one and this small planet is our only home. If we are to protect this home of ours, each of us needs to experience a vivid sense of universal altruism and compassion. It is only this feeling that can remove the self-centered motives that cause people to deceive and misuse one another. If you have a sincere and open heart, you naturally feel self-worth and confidence, and there is no need to be fearful of others.
The need for an atmosphere of openness and cooperation at the global level is becoming more urgent. In this modern age, when it comes to dealing with economic situations there are no longer familial or even national boundaries. From country to country and continent to continent, the world is inextricably interconnected. Each country depends heavily on the others. In order for a country to develop its own economy, it is forced to take seriously into account the economic conditions of other countries as well. In fact, economic improvement in other countries ultimately results in economic improvement in one’s own country.
Compassion, loving-kindness, altruism, and a sense of brotherhood and sisterhood are the keys not only to human development, but to planetary survival.
In view of these facts about our modern world, we need a total revolution in our thinking and our habits. It is becoming clearer every day that a viable economic system must be based on a true sense of universal responsibility. In other words, what we need is a genuine commitment to the principles of universal brotherhood and sisterhood. This much is clear, isn’t it? This is not just a holy, moral or religious ideal. Rather, it is the reality of our modem human existence.
If you reflect deeply enough, it becomes obvious that we need more compassion and altruism everywhere. This critical point can be appreciated by observing the current state of affairs in the world, whether in the fields of modern economics and health care, or in political and military situations. In addition to the multitude of social and political crises, the world is also facing an ever-increasing cycle of natural calamities. Year after year, we have witnessed a radical shifting of global climatic patterns that has led to grave consequences: excessive rain in some countries that has brought serious flooding, a shortage of precipitation in other countries that has resulted in devastating droughts. Fortunately, concern for ecology and the environment is rapidly growing everywhere. We are now beginning to appreciate that the question of environmental protection is ultimately a question of our very survival on this planet. As human beings, we must also respect our fellow members of the human family: our neighbors, our friends, and so forth. Compassion, loving-kindness, altruism, and a sense of brotherhood and sisterhood are the keys not only to human development, but to planetary survival.
The success or failure of humanity in the future depends primarily upon the will and determination of the present generation. If we ourselves do not utilize our faculties of will and intelligence, there is no one else who can guarantee our future and that of the next generation. This is an indisputable fact. We cannot place the entire blame on politicians or those people who are seen as directly responsible for various situations; we too must bear some responsibility personally. It is only when the individual accepts personal responsibility that he or she begins to take some initiative. Just shouting and complaining is not good enough. A genuine change must first come from within the individual, then he or she can attempt to make significant contributions to humanity. Altruism is not merely a religious ideal; it is an indispensable requirement for humanity at large.

Từ Nhà Sư Chí Hiên Tới Nhà Thơ Nguyễn Du

Tranh hai chị em Thuý Kiều - Photo: Bui Thuy Dao Nguyen - Wikipedia

Từ Nhà Sư Chí Hiên Tới Nhà Thơ Nguyễn Du  
Nguyên Giác

Thi hào Nguyễn Du (1766–1820) mang trong tâm rất nhiều nỗi buồn sâu thẳm… Đó là điểm nổi bật hiện ra khi đọc lại thơ Nguyễn Du, nơi đó từng trang sách, từng câu văn là những suy nghĩ rất buồn. Hình ảnh Nguyễn Du trong văn học Việt Nam  đã trở thành một đỉnh cao ngôn ngữ, một tượng đài thi ca cho muôn đời sau, tuy tuổi thọ của cụ chỉ 54 tuổi (ghi nhận, một số sách cũ ghi rằng Nguyễn Du sinh năm 1765, nhưng các sách mới ghi theo Nguyễn tộc gia phả viết rằng Nguyễn Du sinh năm 1766).
Như thế, năm nay, năm 2020, là 200 năm tính từ năm cụ khuất núi. Nguyễn Du từng có thời xuất gia… Nếu cụ ẩn trong chùa, sống suốt một đời tăng sĩ, hẳn là chúng ta sẽ thấy sự nghiệp văn học của cụ mang ngôn phong khác; có thể sẽ là một Thiền sư để lại nhiều bài thơ Thiền và một số sách luận giải kinh điển. Nhưng khói lửa thời ly loạn đã kéo Nguyễn Du về với nội chiến phân tranh, và tâm hồn lãng mạn đã dẫn cụ về những những hình bóng giai nhân trong thơ (và cả trong đời thường). 
Trong thời đất nước điêu linh, gia tộc Nguyễn và bằng hữu chia nhiều phe – một phần theo phò nhà Lê, một phần theo nhà Tây Sơn dựng nghiệp, một phần theo Nguyễn Ánh, người sau này thống nhất đất nước và trở thành Vua Gia Long (sử ghi: năm 1796, Nguyễn Du trốn vào Gia Định theo chúa Nguyễn Ánh nhưng bị Quận công Nguyễn Thận bắt giam ba tháng ở Nghệ An, sau án tù được tha về quê sống ở Tiên Điền)  – nhà thơ Nguyễn Du từng trực tiếp tham dự cuộc chiến phân tranh, rồi do cơ duyên lưu lạc (nói theo chữ bây giờ: làm du tăng? hay tỵ nạn? hay lưu vong?) nhiều năm trên đất Trung Hoa. Rồi cũng có một thời kỳ nhà thơ nho sĩ Nguyễn Du dấy binh nổi dậy, thua trận và rồi trốn về quê vợ, ăn rau nhiều năm tới xanh cả mặt... Khi Tây Sơn bị tận diệt, Nguyễn Du ra làm quan cho Vua Gia Long, nhưng thơ ông cho thấy một tấm lòng muốn lui về ẩn cư nơi quê nhà Hồng Lĩnh. Nỗi buồn sâu thẳm tới mức khi bệnh nặng, Nguyễn Du không uống thuốc, nói người nhà sờ vào tay chân xem; khi người thân nói lạnh rồi, Nguyễn Du chỉ nói, “Được” – và từ trần, không lời nào trăn trối để lại. 
Nỗi buồn đó không chỉ ẩn trong Truyện Kiều với những câu như:
Trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng...

Nỗi buồn đã hiển lộ rất mực đa dạng trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du, trong nhiều bài viết và nhiều đề tài. Thơ buồn tới mức có thể nói rằng Nguyễn Du đang tuyên thuyết Khổ Đế của nhà Phật.
Một điểm cho thấy rằng ngay cả khi trong cõi nhân gian, có mối tình lãng mạn với Hồ Xuân Hương khoảng ba năm, Nguyễn Du từng làm 2 bài thơ tặng nữ sĩ họ Hồ với bút hiệu Chí Hiên (và như thế, Nguyễn Du từng làm thơ tặng cô với một hay nhiều bút hiệu khác)… Tại sao làm thơ tặng nữ sĩ lại ký bút hiệu bằng pháp hiệu Chí Hiên thời còn là một tăng sĩ? Hay là, có ai trùng tên Chí Hiên? Hay là, Nguyễn Du làm thơ tặng nàng họ Hồ nhưng không muốn nhiều người biết, nên dùng pháp danh khi còn là tăng sĩ Chí Hiên trong thời lưu lạc bên Trung Hoa? 
Trong khi đó, Nguyễn Du trong thi tập “Nam trung tạp ngâm” có 5 bài thơ nhan đề Mộng đắc thái liên (từ kỳ 1 tới kỳ 5), lời rất lãng mạn, được học giả Hoàng Xuân Hãn và Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích (trong sách Lưu Hương Ký do NNB dịch và chú) suy đoán là Nguyễn Du làm tặng Hồ Xuân Hương.
Nơi đây, sẽ trích  các bản dịch nghĩa của Thivien.net để thấy chất thơ rất lãng mạn của Nguyễn Du. Để dễ đối chiếu các văn bản, sẽ viết như văn xuôi.
--- Mộng đắc thái liên kỳ 1 (Mộng thấy hái sen kỳ 1): Khẩn thúc giáp điệp quần / Thái liên trạo tiểu đĩnh. / Hồ thuỷ hà xung dung / Thuỷ trung hữu nhân ảnh.
Dịch nghĩa: Buộc chặt váy cánh bướm / Chèo thuyền con hái sen / Nước hồ sao lai láng / Trong nước có bóng người.
--- Mộng đắc thái liên kỳ 2: Thái thái Tây Hồ liên / Hoa thực câu thướng thuyền / Hoa dĩ tặng sở uý / Thực dĩ tặng sở liên.
Dịch nghĩa: Hái, hái sen Hồ Tây / Hoa và gương sen đều để trên thuyền / Hoa để tặng người mình trọng / Gương để tặng người mình thương.
--- Mộng đắc thái liên kỳ 3: Kim thần khứ thái liên / Nãi ước đông lân nữ / Bất tri lai bất tri / Cách hoa văn tiếu ngữ.
Dịch nghĩa: Sớm nay đi hái sen / Nên hẹn với cô láng giềng / Chẳng biết đến lúc nào không biết / Cách hoa nghe tiếng cười.
--- Mộng đắc thái liên kỳ 4: Cộng tri liên liên hoa / Thuỳ giả liên liên cán / Kỳ trung hữu chân ti / Khiên liên bất khả đoạn.
Dịch nghĩa: Mọi người đều biết yêu hoa sen / Nhưng ai là kẻ yêu thân sen / Trong thân cây sen thật có tơ sen / Vương vấn không đứt được.
--- Mộng đắc thái liên kỳ 5: Liên diệp hà thanh thanh / Liên hoa kiều doanh doanh / Thái chi vật thương ngẫu / Minh niên bất phục sinh.
Dịch nghĩa: Lá sen sao mà xanh xanh / Hoa sen đẹp đầy đặn / Hái sen chớ làm tổn thương ngó sen / Sang năm sen không mọc lại được.
Làm tới 5 bài thơ lãng mạn tuyệt vời, chỉ để tặng một cô hái sen vô danh? Hiển nhiên là tặng ai đó, nhiều phần hẳn là nữ sĩ họ Hồ.
Tiến sĩ Phạm Trọng Chánh trong bài viết nhan đề “Tiểu Sử Nguyễn Du Qua Những Phát Hiện Mới” trên Việt Báo ngày 02 / 01 / 2016 ghi nhận như sau, trích:
“Từ khi tìm ra Lưu Hương Ký thơ Hồ Xuân Hương có chép hai bài thơ Chí Hiên tặng. Suy diễn từ tình cảm oán trách trong bài, tôi cho rằng đó là thơ Nguyễn Du, oán trách Hồ Xuân Hương đi lấy chồng Thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm, khi Nguyễn Du bị tù tại Hồng Lĩnh năm 1796. Tôi cho rằng đó là bút hiệu Nguyễn Du dùng trước khi đổi thành bút hiệu Thanh Hiên. Cuối năm 1787 Nguyễn Du sang Vân Nam bị bệnh ba tháng xuân, sau đó Nguyễn Du xuất gia thành nhà sư Chí Hiên, để đi giang hồ đến Trường An và hẹn gặp lại Nguyễn Đại Lang tại Trung Châu. Thành nhà sư đi nhờ các thuyền buôn không mất tiền, đêm trú lại một ngôi chùa trên đường đi tụng Kinh Kim Cương làm công quả, ăn ngủ tại các chùa trên đường đi. Chí là danh hiệu Chí Thiện Thiền Sư Chưởng môn Thiếu Lâm Tự thời vua Càn Long. được người đương thời kính phục, đề tài của nhiều bộ tiểu thuyết. Nhà sư giỏi võ vác thanh trường kiếm trên vai, được các thuyền buôn tin tưởng và có thể nhờ làm lễ cầu phúc cầu may buôn bán tốt lành. Với phương tiện này Nguyễn Du có thể đi Giang Bắc Giang Nam cái túi không, Muôn dậm mũ vàng chiều nắng xế, (đi gần 5000 km) và Tụng Kinh Kim Cương nghìn lượt (1000: 365 ngày= khoảng 3 năm).” (1)
Đó là một giả thuyết cũng có thể khả tín. Tuy nhiên, không ai biết chính xác các chi tiết đó. Bởi vì, một Thiền sư hẳn là quan tâm về Thiền hơn tụng kinh, và  không chắc đã tụng kinh hàng ngày trong khi lưu lạc trên đất Trung Hoa. Một điểm nên thấy, Nguyễn Du (trong vai trò nhà sư Chí Hiên) có thể giỏi làm thơ, viết văn chữ Hán, nhưng để giao tiếp là phải nói, hẳn nhiên là giọng không phải là giọng nói của người bản xứ Trung Hoa, như thế chuyện “tụng kinh để làm lễ cầu phúc cầu may buôn bán tốt lành” thì đa số dân Trung Hoa có lẽ không thỉnh mời một nhà sư Việt Nam, với cách tụng kinh giọng người Hà Tĩnh như cụ. Hẳn là, cụ Nguyễn Du tụng ngàn biến Kinh Kim Cương nhiều phần là trong những khi ẩn cư ở Việt Nam. Có thể đoán rằng, trong bộ y phục nhà sư, Nguyễn Du chỉ cần viết thư pháp vài chữ là được Phật tử cúng tiền, thậm chí chỉ cần đứng chắp tay trước cửa nhà hay góc phố là được dân Trung Hoa bước tới cúng dường; đó là truyền thống của các Thiền sư Trung Hoa, tùy trường hợp: vấn đạo, thỉnh pháp, du hóa… Bởi vì, Nguyễn Du không lẽ chỉ mặc áo sư để có tiền đi bụi đời Giang Nam, Giang Bắc… 
Nhưng khát vọng sống đời xuất gia lúc nào cũng mang trong tâm Nguyễn Du (có thể, kể cả khi đã lấy vợ?)… Giọng thơ Nguyễn Du bàng bạc chất buồn của một người sống thâm sâu với ý thức về Khổ Đế, như trong bài thơ nhan đề Tự thán kỳ 2, trong tập Thanh Hiên Thi Tập viết trong thời kỳ Mười năm gió bụi (1786-1795), trích: 
Thư kiếm vô thành sinh kế xúc / Xuân thu đại tự bạch đầu tân / Hà năng lạc phát quy lâm khứ / Ngọa thính tùng phong hưởng bán vân!
Bản dịch nghĩa trên Thuvien.net: Văn võ không thành sinh kế quẫn bách / Hết xuân lại thu, đầu cứ bạc thêm / Ước gì có thể gọt tóc vào rừng / Nằm nghe tiếng thông reo lưng chừng mây!
.
Hãy hình dung rằng Nguyễn Du tự biết mình có tài văn chương, tự tin có tài võ lược (Sử ghi: năm 1787, Nguyễn Du bốn năm trấn đóng Thái Nguyên, sau trận chiến với quân Tây Sơn, đi giang hồ không nhà không cửa cùng Nguyễn Đại Lang) nhưng cuộc nội chiến đã làm tan nát cả gia tộc nhà Nguyễn, và rồi Nguyễn Du phải bụi đời (tỵ nạn? lưu vong?) sang Trung Hoa – và trở thành nhà sư du tăng trong thời kỳ này.
Trong thời kỳ lưu lạc bên Trung Hoa (từ 1787 tới 1790), Nguyễn Du lúc nào cũng nghĩ tới quê nhà. Bài thơ nhan đề Bát Muộn (Xua Nỗi Buồn) trong tập Thanh Hiên Thi Tập có 4 dòng cuối như sau:
Tang tử binh tiền thiên lý lệ / Thân bằng đăng hạ sổ hàng thư / Ngư long lãnh lạc nhàn thu dạ / Bách chủng u hoài vị nhất sư.
Dịch nghĩa: Quê nhà trong cơn binh lửa hẳn đã tiêu điều / Ở xa muôn dặm nghĩ đến mà rơi nước mắt / Bạn bè, bà con chỉ còn lại mấy hàng thư dưới đèn / Đêm thu vắng, cá rồng lặng lẽ, trăm mối u hoài chưa dẹp được chút nào!
Nỗi buồn không chỉ là từ xa muôn dặm nghĩ về quê nhà, mà tự thấy là suốt đời không gỡ nổi. Trong bài thơ nhan đê “Thu Chí (II)” trong cùng tập thơ trên, có hai câu rất buồn, trích:
Trù trướng lưu quang thôi bạch phát / Nhất sinh u tứ vị tằng khai.
Dịch nghĩa: Thời gian thấm thoắt làm cho mái tóc chóng bạc / Nghĩ mà ngậm ngùi, suốt đời ta chưa hề gỡ được mối u sầu.
Nỗi buồn sâu thẳm tới mức Nguyễn Du không nói nên lời. Ngay cả khi làm quan cho Vua Gia Long cũng  giả vờ như ngu, như khờ, như sợ cung đình… Tại sao? Nguyễn Du là một nhà thơ tài năng tự biết hơn người, bản thân cũng đã từng vào sinh ra tử với đao kiếm, cũng từng là nhà sư và ý thức về vô thường, lẽ nào lại thực sự là ngu, thực sự là khờ, thực sự là sợ? Trong khi đó, theo gia phả, Nguyễn Du là chú vợ của Vua Gia Long Nguyễn Ánh (một cung tần của vua là bà Thị Uyên, con Nguyễn Trừ, anh thứ năm của Nguyễn Du).
Tự điển Bách khoa Mở viết về thái độ Nguyễn Du trong cung đình:
“Đại Nam thực lục chép về Nguyễn Du: 'Du là người Nghệ An, học rộng giỏi thơ, càng giỏi về Quốc ngữ. Nhưng là người nhút nhát, mỗi khi ra mắt vua thì sợ sệt không hay nói gì.' Đại Nam liệt truyện chép: 'Du là người ngạo nghễ tự phụ, mà bề ngoài tỏ ra kính cẩn, mỗi khi vào yết kiến, sợ hãi như không nói được.' Người đời sau, như ý kiến của các ông Trịnh Vân Định, Trần Nho Thìn cho đó là một cách khéo léo để giữ toàn mạng và thăng tiến trong thời loạn, mặc dù trong văn thơ của Nguyễn Du thường đề cao những anh hùng thời loạn, nhưng ông chọn cách sống khác, cống hiến nhưng "ẩn dật" trong chốn quan trường.”
Ngẫm lại, nỗi buồn sâu kín của Nguyễn Du kéo dài hơn một đời người. Ông nghĩ rằng ba trăm năm sau may ra mới có người thương tiếc ông… Bài thơ nhan đề “Độc Tiểu Thanh ký” trong Thanh Hiên Thi Tập) có hai câu cuối:
Bất tri tam bách dư niên hậu / Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Dịch nghĩa: Chẳng biết ba trăm năm sau nữa / Thiên hạ có ai khóc Tố Như ta?
Buồn chi mà gửi tâm sự tới ba trăm năm sau? Hẳn là từ cuộc nội chiến binh đao… Anh vợ của Nguyễn Du theo nhà Tây Sơn, trong khi hai người anh / em của Nguyễn Du dự tính chạy theo Lê Chiêu Thống sang Tàu nhưng không kịp. 
Bài thơ nhan đề "Ngô gia đệ cựu ca cơ" trong thi tập Bắc Hành Tạp Lục, tương truyền là Nguyễn Du tặng cho em khác mẹ là Nguyễn Úc. Theo Wikisource:
“Gia đệ: Em, có thể là em cùng mẹ, mà cũng có thể là em khác mẹ. Đây có thể chỉ người em cùng mẹ là Nguyễn Úc được tập ấm là Hoàng Tín đại phu Trung Thành Môn Vệ Úy. Năm Kỷ Dậu (1789) vua Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc, Nguyễn Úc chạy theo không kịp, về ngụ nơi quê vợ, làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Năm Tân Vị (1811), Gia Long nghe ông có tài khéo, xuống chiếu triệu vào kinh, bổ làm Thiêm Sự bộ Công, tước Hầu. Những miếu điện ở kinh thành đều do ông sáng chế kiểu thức.” (2)
Trong khi đó, sách Thơ chữ Hán Nguyễn Du (Trần Văn Nhĩ, NXB Văn Nghệ, 2007) ghi rằng: “Anh của Nguyễn Du là Nguyễn Nễ (1761-1805) giữ chức Hiệp tán quân cơ Sơn Tây. Khi Lê Chiêu Thống sang Trung Quốc, ông theo không kịp, về quê mẹ ở Bắc Ninh. Sau có người tiến cử, ông theo Tây Sơn, giữ chức Hàn lâm thị thư, sau đó làm Phó sứ tuế cống sang Trung Quốc. Khi Gia Long lên ngôi, ông ra trình diện, làm quan vài năm rồi mất.”
Mặt khác, Wkipedia kể về một người anh Nguyễn Du lui về quê dấy binh chống Tây Sơn, và các gia trang nhà Nguyễn đều bị đốt sạch:
“Tháng mười, năm Tân Hợi (1791), anh thứ tư cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du là Nguyễn Quýnh do chống Tây Sơn nên bị bắt và bị giết. Dinh cơ, từ đường họ Nguyễn ở Tiên Điền, Hà Tĩnh bị tướng Tây Sơn Lê Văn Dụ đốt cháy, phá hủy, làng Tiên Điền bị làm cỏ vì cuộc khởi nghĩa Nguyễn Quýnh.”
Trong khi đó, Nguyễn Đề (anh của Nguyễn Du) và Đoàn Nguyễn Tuấn đều đã rời nhà Lê để theo Tây Sơn (nhưng Nguyễn Du hướng tâm về Nguyễn Ánh, người sau trở thành Vua Gia Long). Wikipedia viết, trích:
"Năm Quý Sửu (1793), Nguyễn Du về thăm quê Tiên Điền và đến cuối năm ông vào kinh đô Phú Xuân thăm anh là Nguyễn Đề đang làm thái sử ở viện cơ mật và anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn.
Năm Giáp Dần (1794), Nguyễn Đề được thăng Tả phụng nghi bộ Binh và vào Quy Nhơn giữ chức Hiệp tán nhung vụ. Nguyễn Du và Nguyễn Ức được Nguyễn Đề giao cho việc về Hồng Lĩnh xây dựng lại từ đường và làng Tiên Điền mà ông bận việc quan không thể trực tiếp trông coi.
Năm 1795, Nguyễn Đề đi sứ sang Yên Kinh dự lễ nhường ngôi của vua Càn Long nhà Thanh, đến năm 1796 trở về được thăng chức Tả đồng nghị Trung thư sảnh.
Mùa đông năm Bính Thìn (1796), Nguyễn Du trốn vào Gia Định theo chúa Nguyễn Ánh nhưng bị Quận công Nguyễn Thận bắt giam ba tháng ở Nghệ An. sau khi được tha ông về sống ở Tiên Điền. Trong thời gian bị giam ông có làm thơ My trung mạn hứng (Cảm hứng trong tù). Nguyễn Du ra Thăng Long, thì Hồ Xuân Hương đã được mẹ gả cho thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm.” (hết trích)
Trong bài thơ làm trong tù đó, Nguyễn Du viết:
Tứ hải phong trần gia quốc lệ / Thập tuần lao ngục tử sinh tâm.
Dịch nghĩa: Khắp bốn bể đầy gió bụi, chuyện nhà chuyện nước nghĩ tới là rơi lệ / Mười tuần nằm trong lao tù, trong lòng băn khoăn chuyện sống chết.
Lúc đó là liều thân rồi: Nguyễn Du liều thân từ khi trốn vào Gia Định tìm theo Nguyễn Ánh, thì chuyện tù hay hy sinh thân mạng không còn  là điều quan tâm. Do vậy, băn khoăn chuyện sống chết có thể là nghĩ tới theo quan điểm nhà Phật, đặc biệt là với cựu tăng sĩ Chí Hiên (Nguyễn Du), cũng là người đã từng tụng tới một ngàn lần Kinh Kim Cương… Nghĩa là, chuẩn bị cho giây phút cận tử? Chúng ta chỉ có thể suy đoán thôi. 
Trong khi đó, lúc nào Nguyễn Du cũng ý thức về pháp ấn Vô Thường của nhà Phật, trong khi tâm vẫn giữ được an nhiên. Ngôn ngữ về pháp ấn Vô Thường rất minh bạch trong các trích thơ sau.
Tạp thi kỳ 2, trích: Diệp lạc hoa khai nhãn tiền sự / Tứ thì tâm kính tự như như.
Dịch nghĩa: Chuyện trước mắt đổi thay như hoa nở lá rụng / Quanh năm, cõi lòng vẫn thản nhiên như không.
Ký hữu (I), trích: Nhãn để phù vân khan thế sự / Yêu gian trường kiếm quải thu phong.
Dịch nghĩa: Mắt xem việc đời như một đám phù vân / Thanh kiếm đeo lưng trước làn gió thu.
Đặc biệt là hình ảnh chỉ có trong Kinh Luận, khi dùng trăng sáng để chỉ cho bản tâm, hiện lên minh bạch khi sóng lặng.
Đạo ý, trích: Minh nguyệt chiếu cổ tỉnh / Tỉnh thuỷ vô ba đào / Bất bị nhân khiên xả / Thử tâm chung bất dao / Túng bị nhân khiên xã / Nhất dao hoàn phục chỉ / Trạm trạm nhất phiến tâm / Minh nguyệt cổ tỉnh thuỷ.
Dịch nghĩa: Trăng sáng chiếu giếng xưa / Nước giếng không nổi sóng / Không bị người khuấy lên / Lòng này không xao động / Dù bị khuấy lên / Dao động một lúc lại lặng ngay / Tấm lòng trong vằng vặc / Như ánh trăng sáng chiếu giếng nước năm xưa.
Nỗi buồn sâu thẳm của Nguyễn Du hiển lộ minh bạch trong tác phẩm có tên quen thuộc với chúng ta là Truyện Kiều (nhan đề: Đoạn Trường Tân Thanh, dịch là “Tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột.”). Hình ảnh Thúy Kiều bán mình chuộc cha có phải ám chỉ tự thân từng có những hành xử bất như ý nào đó? Thí dụ: muốn làm tăng sĩ trọn đời, nhưng rồi phải về cõi thế tục, vào cuộc nội chiến, rồi làm quan? Thí dụ: nhìn thấy gia tộc chia nhiều hướng trong cuộc binh lửa, và ông muốn giải thích rằng có rất nhiều lựa chọn không hoàn toàn như ý? Hiển nhiên, chúng ta không biết minh bạch.
Nhưng di hại chiến tranh luôn luôn là tan nát, chết chóc. Đó là lý do Nguyễn Du sáng tác Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh (Văn Tế Mười Loại Chúng Sinh), với 184 câu thơ song thất lục bát, mang tấm lòng từ bi của ông. Chúng ta có thể nêu giả thuyết rằng, nếu Nguyễn Du không phải cựu tăng sĩ Chí Hiên, văn phong không thể co giọng của người trong cửa Thiền như thế.
Trong đó, thấy rõ là nỗi đau hậu chiến. Trích Văn Tế, từ câu 21:
Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh / Chí những lăm cướp gánh non sông / Nói chi những buổi tranh hùng / Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau / 25. Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở / Khôn đem mình làm đứa sất phu / Lớn sang giàu nặng oán thù / Máu tươi lai láng, xương khô rã rời / Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc / 30. Quỷ không đầu than khóc đêm mưa / Cho hay thành bại là cơ / Mà cô hồn biết bao giờ cho tan...
Nhìn theo mắt của người học Phật, một bài thơ nổi bật của Nguyễn Du là bài “Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài” (Đài đá chia kinh của thái tử Chiêu Minh nhà Lương). Ngôn phong của Nguyễn Du nơi đây không còn là thơ, mà thực sự chính là kinh, là luận, là lời của Bồ Đề Đạt Ma, là ngôn ngữ của Huệ Năng… Không phải người đã trực nhận bản tâm, sẽ không viết nổi như thế.
Thiền sư Đại Lãn (Hòa Thượng Thích Đức Thắng) ghi nhận: "Qua nội dung bài thơ này, Nguyễn Du tiên sinh đã cho chúng ta biết được sự thông hiểu về giáo lý Đại thừa nhà Phật nói chung và, nhất là Thiền Tông Phật giáo nói riêng của cụ, không những về mặt nghiên cứu học hỏi thâm hiểu thông suốt sâu xa không thôi, mà ngay cả đến vấn đề thực hành trong tu tập để đưa đến sự đạt ngộ về Thiền qua “Vô Tự” là chân kinh cũng được cụ thể hiện rốt ráo nữa." (2)
Nơi đây, chúng ta trích các câu thơ cuối bài “Phân Kinh Thạch Đài” như sau:
Nhân liễu thử tâm nhân tự độ / Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu / Minh kính diệc phi đài / Bồ Đề bản vô thụ / Ngã độc Kim Cương thiên biến linh / Kì trung áo chỉ đa bất minh / Cập đáo phân kinh thạch đài hạ / Chung tri vô tự thị chân kinh.
Đại Lãn dịch:
Người tỏ tâm này người tự độ / Linh sơn chỉ tại tấm lòng ngươi / Gương sáng trong veo cũng không đài / Bồ-đề xưa nay vốn không cây / Ta đọc Kim Cương hơn nghìn biến / Áo chỉ trong kinh không tỏ nhiều / Cho đến dưới đài đá phân kinh / Cuối cùng “Vô tự” biết là chân kinh.
Than ôi, lấy đâu ra một nhà thơ viết được như thế? Người tự độ, tại tấm lòng ngươi, gương sáng không đài, Bồ-đề không cây, vô tự chân kinh… Không phải Thiền sư, không viết nổi như thế. 
Tụng kinh tới mức như thế, thấu rõ kinh luận như thế, viết rành mạch như thế, nhưng rồi vẫn trở về nơi gió bụi… để tới một ngày, ngồi xuống viết văn tế chiêu hồn cho những người bị chém đầu trong cuộc nội chiến: “Quỷ không đầu than khóc đêm mưa / Cho hay thành bại là cơ / Mà cô hồn biết bao giờ cho tan...”
Nỗi buồn nào sâu thẳm hơn… cho nhà sư Chí Hiên, người một hôm đã lang thang vào chợ để đóng vai nhà thơ Nguyễn Du.
GHI CHÚ:
(1) TS Phạm Trọng Chánh. "Tiểu Sử Nguyễn Du..." https: / / vietbao.com / a247531 / tieu-su-nguyen-du-qua-nhung-phat-hien-moi 
(2) Đại Lãn. Nguyễn Du Và Phân Kinh Thạch Đài. https: / / thuvienhoasen.org / a8357 / nguyen-du-va-phan-kinh-thach-dai 

PHOTO:
H 1:
Tượng đài nơi Khu lưu niệm Nguyễn Du ở huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh (Photo: VietnamPlus)
H 2:
Tranh miêu tả cảnh Kim Trọng gặp chị em Thúy Kiều trong ngày Tết Thanh minh của họa sĩ Lê Chánh, được trưng bày tại lầu 3 của dinh Độc Lập. (Ảnh: Bùi Thụy Đào Nguyên, Wikipedia)