Wednesday, October 9, 2019

Những Bài Nhạc hay trong Thơ Du Tử Lê


Du Tử Lê

Du Tử Lê (1942 -) tên thật là Lê Cự Phách, là một nhà thơ Việt Nam đang định cư ở nước ngoài.
Ông sinh năm 1942 tại huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, miền Bắc Việt Nam.
Sau Hiệp định Genève, 1954, Lê Cự Phách di cư vào Nam cùng với gia đình. Đầu tiên ông định cư ở Hội An, Quảng Nam, sau đó là Đà Nẵng. Đến năm 1956, ông vào Sài Gòn và theo học trường Trần Lực, trường Chu Văn An, sau cùng là Đại học Văn Khoa.
Ông làm thơ từ rất sớm, khi đang còn học tại trường tiểu học Hàng Vôi tại Hà Nội. Sau khi di cư vào Sài Gòn, Du Tử Lê bắt đầu sáng tác nhiều tác phẩm dưới nhiều bút hiệu khác nhau. Bút hiệu Du Tử Lê được dùng chính thức lần đầu tiên vào năm 1958 cho bài "Bến tâm hồn", đăng trên tạp chí Mai.
Du Tử Lê từng là sĩ quan thuộc Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, cựu phóng viên chiến trường, thư ký tòa soạn cuối cùng của nguyệt san Tiền phong (một tạp chí của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa), và là giáo sư dạy giờ cho một số trường trung học Sài Gòn.
Năm 1973 tại Sài Gòn, ông được trao Giải thưởng Văn chương Toàn quốc, bộ môn Thơ với tác phẩm Thơ tình Du Tử Lê 1967-1972.
Ngày 17 tháng 4 năm 1975, Du Tử Lê cùng với Mai Thảo và Phạm Duy bị kết án tử hình vắng mặt trên đài phát thanh của Mặt trận giải phóng Miền Nam vì có thái độ chống đối cộng sản quyết liệt. Sau sự kiện 30 tháng 4, 1975, ông sang tỵ nạn bên Hoa Kỳ.
Hiện ông đang sống ở miền Nam California, tiếp tục nghề viết, và là nhân viên khế ước của đài tiếng nói Hoa Kỳ từ năm 1996. Ông cũng từng là chủ nhiệm các báo Việt ngữ Nhân chứng, Tay Phải, và Văn nghệ ở Hoa Kỳ.
Du Tử Lê đã xuất bản hơn 30 tác phẩm đủ thể loại, trong đó có thể kể đến:

Ở Việt Nam

  • Thơ Du Tử Lê (1964)
  • Năm Sắc Diện Năm Ðịnh Mệnh (1965)
  • Tình khúc Tháng Mười Một (1966)
  • Tay Gõ Cửa Ðời (1970)
  • Chung Cuộc (cùng viết với Mai Thảo, 1969)
  • Mắt Thù (1969)
  • Ngửa Mặt (tiểu thuyết, 1969)
  • Vốn Liếng Một Ðời (1969)
  • Qua Hình Bóng Khác (tiểu thuyết, 1970)
  • Mùa thu hoa cúc (sách thiếu nhi, 1971)
  • Sân trường mắt biếc (sách thiếu nhi, 1971)
  • Chú Cuội buồn (sách thiếu nhi, 1971)
  • Hoa phượng vàng (sách thiếu nhi, 1971)
  • Một Ðời Riêng (1972)
  • Khóc lẻ loi Một Mình (1972)

Ở nước ngoài

  • Thơ Tình (1996)
  • Chỉ Như Mặt Khác Tấm Gương Soi (thơ 1997)
  • Tiếng Kêu Nào Bên Kia Thời Tiết (truyện)
  • Em và, mẹ và tôi là một nhé (bán hồi ký)
  • Chỗ Một Ðời Em Vẫn Ðể Dành
  • Nhìn Nhau Chợt Thấy Ra Sông Núi
  • Chấm Dứt Luân Hồi Em Bước Ra (1993)
  • K.Khúc Của Lê
  • Em Hiểu Vì Ðâu Chim Gọi Nhau
  • Quê Hương Là Người Ðó
  • Tôi - Ấu Thơ và Mẹ (hồi ký)
  • Trường khúc Mẹ và Biển Đông (1989, 2002)
  • [nếu cần,] hãy cho bài thơ một tên gọi !?! (2006)
  • Trên ngọn tình sầu (tập tùy bút, 2011)
Theo wikipedia.org

Khúc Thụy Du
  Thơ Du Tử Lê, Nhạc Anh Bằng

1. Hãy nói về cuộc [Am] đời khi tôi không còn nữa
Sẽ lấy được những [E7] gì về bên kia thế [F] giới
Ngoài trống vắng mà [G] thôi Thụy ơi và tình [Am] ơi

Như loài chim bói [F] cá trên cọc nhọn [G] trăm năm
Tôi tìm đời đánh [C] mất trong vũng nước cuộc [Am] đời
Trong vũng nước cuộc [E] đời Thụy [E7] ơi và tình [Am] ơi

ĐK: Đừng bao giờ em [Dm] hỏi vì sao ta yêu [C] nhau
Vì sao môi anh [Am] nóng vì sao tay anh [G] lạnh
Vì sao chân anh [Dm] run Vì sao chân không [E] vững
Vì sao và vì [E7] sao

2. Hãy nói về cuộc [Am] đời tình yêu như lưỡi [Dm] dao
Tình yêu như mũi [G] nhọn êm ái và ngọt [A7] ngào
Cắt đứt cuộc tình [Dm] đầu Thụy bây giờ về [Am] đâu

Thụy bây giờ về [Dm] đâu anh là chim bói [Am] cá
Em là bóng trăng [C] ngà chỉ cách một mặt [Dm] hồ
Mà [Em] muôn trùng chia [Am] xa.

Khi Tôi Chết Hãy Đem Tôi Ra Biển 
Sáng tác: nhạc Phạm Đình Chương, thơ Du Tử Lê

1. Khi tôi [C] chết hãy [D7] đem tôi ra [G] biển
[Dm] Đời lưu [G] vong không [G7] cả một ngôi [C] mồ
Vùi đất [Am] lạ thịt [C] xương không tan [F] biến
Hồn không đi, sao [D7] trở lại quê [G] nhà

2. Khi tôi [C] chết hãy [D7] đem tôi ra [G] biển
[Dm] Ngược trôi [G] đi, đâu [G7] hình hài trở [C] về
Bên kia [Am] trời là [C] quê hương tôi [F] đó
Biển nghiêng nghiêng ôm [G7] hoài mối tình [C] quê

ĐK: Ôi quê [Am] hương Đà Nẵng Nha Trang
Ôi quê [C] hương Tiền Giang, Hậu Giang
Như bao tiếng đồng bào tôi [F] gọi thêm tiếc [C] nuối

Đâu tre [C] xanh nào mái tranh nghèo
Hắt [F] hiu ngày nao ta trở về
Để ta thấy quê hương lần [Dm] cuối

3. Khi tôi [C] chết hãy [D7] đem tôi ra [G] biển
[Dm] Vì em [G] tôi vì mẹ [G7] già vẫn [C] chờ
Từ mắt [Am] buồn lệ [C] nghẹn hờn bóng [F] tối
Thả tôi đi cho [G7] hồn người được [C] nguôi

* Khi tôi [Ab] chết nỗi buồn kia cũng [Cm] hết
Đời lưu [D7] vong tận [G7] tuyệt với hồn [C] tôi

Khi Tôi Chết Hãy Đem Tôi Ra Biển 
(When I die take my body down to the sea)
Sáng tác: nhạc Việt Dzũng, thơ Du Tử Lê 

When [Am] I die, would you take my body down to the [E7] sea?
‘Cause for a long time, I have been living on without a [Am] country.
For a long time, I have been dying without a [E7] grave
So when I die, would you bury me in the middle of the [Am] waves?

When [Am] I die, would you take my body down to the [E7] sea?
Don’t hesitate, you’d never feel sorry [Am] for me
Even [Dm] cry, let the fish feed on my [Am] flesh,
So when I [E7] die, I will become part of the world that is so [Am] fresh.

When [Am] I die, would you take my body down to the [E7] sea?
Under the sun, let the ebb tide car-[Am] ry me
When we [Dm] go, would you please not close my [Am] eyes?
So I can [E7] see, for the last time, my home [Am] country?

I’ll be [Dm] gone, with the wind to the world other [Am] side
To hear my [E7] mother’s sigh, to hear my [Am] children’s cry
From all the eyes, sadder than the [E7] night.

I’ll be [Dm] gone, with the scream to eternal [Am] dream
Where there is no more blood to be [E7] shed,
And where there are no lives to be [Am] killed.
Ever peaceful-[E7] ly, ever peaceful-[Am] ly

When [Am] I die, the sadness also [E7] dies
Somebody forever [Am] parts, [E7] so forever e-[Am] xiles
When [Am] I die, would you take my body down to the [E7] sea..? [Am]

Đừng Nữa Nhé Chia Lìa
 Sáng tác: Từ Công Phụng & Du Tử Lê 

Và em [Em] nữa cách gì ta trốn [C] mãi
Chạy [B7] muôn đời chiếc [C] bóng vẫn đeo [B7] theo
Sông dấu [Em] mặt nghìn năm trong mắt [B] buồn
Bỗng một [B7] ngày nức nở cuốn ta [Em] theo

Vẫn là [G] em ngực [Em] chiều chim tắt [G] thở
Gai ăn [D7] năn cào rách buổi trưa [G] người
Môi nguyệt [Em] quế lỡ [E7] thì môi ở [A7] trọ
Một góc [B7] vườn em đỏ mẫu đơn [Em] tôi

Và em [E] nữa nắng [C#m] xanh và gió [A] biếc
Tôi thọ [B7] thương tiếng hát cẩn đêm [E] hoa
Sóng khua [C#m] đập cũng chỉ đôi ghềnh đá
Em đập [B] khua cùng [B7] khắp trái tim [E] xa

Và yêu [Em] dấu tình [E] cờ gươm giáo [E7] đó
Xẻ phân [A] tôi thành triệu miếng tương [E] tư
Ai dám [B7] bảo thịt [Abm] da không muốn [Ebm] khóc
Nhìn tôi [B7] đi em sẽ [Bm] hiểu mưa [E] về!

Này yêu [Em] dấu tôi là cây xác [G] pháo
Nổ tan [B7] thây từng buổi thiếu hơi [Em] nhau
Người vô [C] nhiễm mặc [G] tôi đời ném [Em] đá
Ngay hôm [Am] nay đừng [C] nữa nhé chia [Em] lìa


Đời Ở Mãi Phương Đông
Sáng tác: nhạc Trần Duy Đức, thơ Du Tử Lê 

1. Bây [D] giờ, ta đã [G] già và người vẫn mãi [Em] xa
[C] Như núi sớm hao [Am] gầy và [D] dòng sông sớm cạn
Bây [Bm] giờ mùa mưa [Am] luôn thánh [D] thót vườn đời ta
Thánh [Cm] thót vườn đời [G] ta. [D]

2. Bây [D] giờ, ta đã [G] già và người vẫn mãi [Em] xa
Như con [C] thú đã bạt khỏi [Am] rừng đã chạy [D] cuồng về cuôi biển
Bây [Bm] giờ nơi những dấu chân [D] quen
Có chút gì tội [G] nghiệp.

ĐK:
Ôi những móng tư [Em] thù ngập [Eb] vó đời bầm [D] dập
[Bm] Thương nhớ đã như [D] cây sẽ [C] phải còn lớn [Bm] mãi
[D] Nơi cuối mỗi cuộc [G] đời, [C] nơi cuối mỗi cuộc [Am] đời
Xin người phải [D] tin
Trái tim ta với những lời nói thật

3. Bây [D] giờ, ta đã [G] già và người vẫn mãi [Em] xa
[C] Thôi cũng đã muộn [Am] màng để [D] trả lại nhau tất cả
Bây [Bm] giờ, cay đắng đã như [D] sông
Cách gì ta lấp [G] được

* Ôi giờ ta đã [Cm] già
Người đòi chi cuối [G] kiếp
[F#m] Chân chưa thể bước [Bm] qua
Sợi [D] dây người oan [G] nghiệt
[Am] Chân chưa thể bước [Cm] qua
Sợi dây người cuối [D] kiếp


Hiến Chương Yêu

Sáng tác: nhạc Nguyên Bích, thơ Du Tử Lê 


Khi em [Em] lạnh tôi [G] biến thành ngọn [Am] lửa
Đốt yêu [B] thương than [B7] nóng hực ân [Em] tình
Khi em [Em] đọc tôi [C] biến thành chữ [B] viết
Cả nghìn chương chỉ chép chuyện đôi [G] ta

Khi em [Am] viết tôi [Am7] biến thành giấy [F] bút
Bút tương [B] tư mực nhớ đến ai [B7] kia
Giấy từ [Em] cây? Bút [D] từ gỗ xa [C] xưa
Mực từ [B7] nhựa tôi từ em sống [Em] lại.

Khi em [E] khóc tôi [C#m] biến thành nước [G#m] mắt
Chảy giùm [A] em cho cạn sạch nỗi ưu [E] tư
Để mắt em [F#m] xanh để môi em [B] mềm
Tôi thành [B7] lá giữa khi chiều sắp [E] tối

Khi em [G#m] chết cõi đời này phải [C#m] hết
Không chỉ [A] tôi hoa cỏ cũng lên [E] trời
Muôn thú xa [F#m] rừng [B] chim lạnh từng [F#m] đôi
Bao thế [B] hệ vì [B7] em mà em tàn [E] phai

Chuyện mình hai [E] người chuyện cùa lứa [A] đôi
Mặc kệ ai [F#m] cười mặc người bĩu [B] môi
Có gì đâu. Ta sẽ [E] chết [C#m] nhưng tình ra không [A] chết
Vì mở [Am] đầu nhân loại cuộc chơi [E] riêng


Trên Ngọn Tình Sầu

Sáng tác: nhạc Từ Công Phụng, thơ Du Tử Lê - năm: 1970


[C] Hạnh phúc tôi hạnh phúc [G7] tôi
Từ những [F] ngày con nước [C] về
Ngoài trời mưa mau ngoài trời mưa [F] mau
Tay vuốt [G7] mặt không [C] cùng
Bầy sẻ cũ hom [Dm] hem
[G7] Chiều mái xám rêu [C] xanh
Trời êm cao chân nhỏ
Cũng không [G7] về trên dòng sông tội [C] lỗi.

[Am] Tôi nghe hắt [E7] hiu từ [Dm] mắt em ngắt [C] tạnh
Môi thâm [Am] khô từ [F] thuở định hôn [C] người
Ngày tháng [G7] hạ khi [Dm] không mà trở [C] rét
Giọt nắng [Dm] vàng lung [G7] linh màu lạnh [C] ngắt
Sao khi [Dm] không người [G7] ngoảnh mặt kiêu [C] sa.

Chiều qua đó chân [Dm] ai [G7] còn ríu rít âm [Am] thưa
[C] Lời ai ru như [G7] mơ cho [D7] trời xuống thật [Em7] gần
[C] Người trông ngóng hương [Dm] đưa mùi mái tóc đêm [C] mưa
[G7] Nhẹ theo lá oan [D7] khiên lả [G7] tả mái hiên [C] người.

[Am] Tôi nghe hắt [Dm] hiu từ mắt em ngắt [C] tạnh
Còn dế [G7] buồn tự [Em7] tử giữa đêm [Am] sương
Bầy sẻ [G7] cũ cũng [Am] qua đời lặng [Em] lẽ
Em ở [F] đó bờ [C] sông còn ẩm [Em] cát
Con sóng [G7] tình vỗ mãi một âm [C] quen.

Tình Sầu

Sáng tác: nhạc Phạm Duy, thơ Du Tử Lê 

Ta như sương cao mà người như hoa [F] sâu [Dm]
Ta dối gian [F] nhau nên [Dm] nát nụ hôn [F] đầu [Dm]
Tình đi từng [F] bước đi bước [Dm] bước trên đầu [F] gió [Dm]
Gieo xuống lòng [Gm] nhau ôi [C7] từng hạt thương [F] đau

Người một phương ta cũng một [F] phương [Dm]
Phố cao ngày [F] thấp nên nắng [Dm] mưa trùng [F] trùng [Dm]
Mắt có [Bb] sâu để [F] nhốt trời giông [Dm] tố [Gm]
Ta là hồn [C7] câm [Bb] cho cơn bão [F] lên [Bb]

[Am] Người ở đây ta cũng ở đây [E7]
Lòng không như [Am] mặt mà [E7] lòng lệ tràn [Am] đầy [E7]
Chân đi theo [Am] gió [E7] sầu ba [Am] hướng [E7]
Tay vói một [Am] trời [E7] trời mưa [Am] bay

[Am] Người đã vì ta tan ước mơ
Phấn son chửa [Dm] ngát thịt da [Am] ngà
Môi non đã [E7] lỡ tình đau [Am] đớn
Mộng vữa theo [E7] trời hoa phượng [Am] xưa

[F] Người chôn đời mà ta đắng [F] cay [Dm]
Cây im [F] lá và [Dm] khói sương [F] bay [Dm]
Chim treo mỏ [F] cóng [Dm] trơ xương [F] mục [Dm]
Sống đã chẳng [Gm] cùng [G] chết sao [C] hay [C7]

[F] Người ở đâu ôi người ở [F] đâu [Dm]
Cỏ xanh [F] còn áp [Bb] má những đêm [F] sầu [Dm]
Dế giun còn [F] tiếc [Dm] mùa ân [F] ái [Dm]
Từng phiến trời [C7] mang [Bb] bao vết [F] thương


Khúc Thụy Du
Tác giả: Du Tử Lê
1.
như con chim bói cá
trên cọc nhọn trăm năm
tôi tìm đời đánh mất
trong vũng nước cuộc đời
như con chim bói cá
tôi thường ngừng cánh bay
ngước nhìn lên huyệt lộ
bầy quạ rỉa xác người
(của tươi đời nhượng lại)
bữa ăn nào ngon hơn
làm sao tôi nói được!
như con chim bói cá
tôi lặn sâu trong bùn
hoài công tìm ý nghĩa
cho cảnh tình hôm nay
trên xác người chưa rữa
trên thịt người chưa tan
trên cánh tay chó gậm
trên chiếc đầu lợn tha
tôi sống như người mù
tôi sống như người điên
tôi làm chim bói cá
lặn tìm vuông đời mình
trên mặt dài nhiên lặng
không tăm nào sủi lên
đời sống như thân nấm
mỗi ngày một lùn đi
tâm hồn ta cọc lại
ai làm người như tôi?
2.
mịn màng như nỗi chết
hoang đường như tuổi thơ
chưa một lần hé nở
trên ngọn cờ không bay
đôi mắt nàng khôn khép
bàn tay nàng khôn thưa
lọn tóc nàng đêm tối
khư khư ôm tình dài
ngực tôi đầy nắng lửa
hãy nói về cuộc đời
tôi còn gì để sống?
hãy nói về cuộc đời
khi tôi không còn nữa
sẽ mang được những gì
về bên kia thế giới
thụy ơi và thụy ơi
3.
tôi làm ma không đầu
tôi làm ma không bụng
tôi chỉ còn đôi chân
hay chỉ còn đôi tay
sờ soạng tìm thi thể
quờ quạng tìm trái tim
lẫn tan cùng vỏ đạn
dính văng cùng mảnh bom
thụy ơi và thụy ơi
đừng bao giờ em hỏi
vì sao mình yêu nhau
vì sao môi anh nóng
vì sao tay anh lạnh
vì sao thân anh rung
vì sao chân không vững
vì sao anh van em
hãy cho anh được thở
bằng ngực em rũ buồn
hãy cho anh được ôm
em, ngang bằng sự chết!
tình yêu như dao nhọn
an đâm mình, lút cán
thụy ơi và thụy ơi
không còn ý nghĩa gì
ngoài tình em tình em
đã ướt đầm thân thể
anh ru anh ngủ mùi
đợi một giờ linh hiển.

Saturday, October 5, 2019

Phước Lý Đồng Hương Hội Ngộ Tình Xuân 2020


Phước Lý Đồng Hương 
Hội Ngộ Tình Xuân 2020

Được tổ chức tại Sacramento California, mừng Tân Xuân Hội Ngộ 2020 là dịp để bà con đồng hương gặp nhau, trao cho nhau những lời chúc tốt đẹp nhất trong năm, đồng thời cũng là dịp để bà con trao đổi cho nhau những tin tức vui buồn trong cuộc sống, cùng ôn lại những kỷ niệm một thời sinh ra và lớn lên trên mảnh đất quê hương Nhơn Lý.

Năm nay tiệc Tân Xuân Hội Ngộ được tổ chức là dịp để đón tiếp những đồng hương từ xa gần về, và đặc biệt tạo thế hệ con cháu quê hương có dịp gặp mặt làm quen, để cùng chung vui với chương trình văn nghệ xuân cùng thưởng thức những món ăn thuần tuý quê hương, cùng nhau tay bắt mặt mừng. Chúc cho nhau những lời chúc tốt đẹp nhất, cùng cầu nguyện cho nhau được bình an và hạnh phúc thật ấm áp an lành và ấm tình đêm hội ngộ.

Chương trình buổi hội ngộ chính thức được tổ chức vào lúc 5 giờ chiều thứ Bảy ngày 1 tháng 2 năm 2020 tại nhà hàng:
A&A Tasty Restaurant
6601 Florin Rd Sacramento Ca.
5PM: Đón quí khách

          Giới thiệu hình ảnh xưa và nay quê hương Phước Lý.
6PM: Mở đầu buổi tiệc với đội múa truyền thống do Ms. Trinh Phan đảm trách.
           Tiếp theo MC giới thiệu chương trình với chủ đề:
Phước Lý Đồng Hương
Tình Xuân Hội Ngộ 2020

Thay mặt ban tổ chức chào mừng và cám ơn sự tham dự của quý quan khách cùng quý đồng hương thân hữu.
Buổi tiệc bắt đầu mọi người cùng thưởng thức một chương trình văn nghệ xuất sắc do các nghệ sĩ thân hữu và các anh chị em đồng hương Phước Lý trình diễn.

Đặc biệt có Fashion Show “Áo Dài Quê Hương” do mọi người quan khách cùng tham gia, qua phần điều họp của Ms. Trinh Phan, ban vũ đạo tại Sacramento đảm trách.

Xen lẫn chương trình văn nghệ có phần chúc thọ, xổ xố với nhiều giọng hát ngọt ngào gần xa như ca sĩ chuyên nghiệp được đăng ký trước, karaoke chọn lọc và nhiều tiếc mục hấp dẫn khác...
Rất mong quí bà con cùng các cháu gần xa về đây thăm chơi và tham dự.

Ban tổ chức trân trọng đón tiếp.
Trưởng Ban: 
Đinh văn Công
Võ Dượng
Mọi chi tiết xin liên lạc:
Bình Lê: 916-539-0526
Lộc Nguyễn: 916-346-8788
Nhân Nguyễn: 916-257-3608

Chú ý: 
Chúng tôi xin gửi thiệp mời qua mạng, thay vì gửi tận tay quí khách, vì không biết địa chỉ. Xin quí vị thông cảm cho.

Friday, October 4, 2019

THUYẾT PHÁP TỪ BI

THUYẾT PHÁP TỪ BI

Trong lịch sử nhân văn khoảng 4.000 năm trở lại, con người đã bước qua những giai đoạn thông tin và truyền thông đại chúng từ thấp đến cao về số lượng; nhưng cũng trong nhiều trường hợp, từ cao đến thấp về chất lượng.
Khoảng bốn thế kỷ trước tây lịch, cao điểm nhất là thời cổ Hy Lạp, hiện tượng thuyết trình, tranh luận công cộng của các triết gia, đạo sĩ, chính khách... đã ngày càng phổ biến. Những đại môn phái du thuyết như Platon, Socrate, Aristote... thời Hy Lạp cổ đã đưa việc thuyết trình công cộng lên thành một nghệ thuật và kỹ thuật nhào nặn cũng như phát huy ngôn ngữ ở mọi cấp độ. 
Tại Ấn Độ, thời Đức Phật còn tại thế, những đạo sĩ Bà La Môn và các môn phái Du Già Nguyên Thủy cũng là những nhà thuyết pháp đại chúng, rộn rịp một thời trên những nẻo đường xứ Ấn.
Trong nội bộ sinh hoạt đạo Phật thì việc nói hay thuyết giảng chuyện đạo cho đại chúng nghe thường được gọi là thuyết pháp.
Đã hơn 70 năm qua, là một người theo đạo Phật theo mẹ từ nhỏ, tôi thấy chưa có thời kỳ nào mà Phật sự thuyết pháp lại diễn ra rộng khắp, quy mô và đông đảo như thời kỳ này. Trong quan hệ thông tin hai chiều phát và thu hoặc cho và nhận… thì hầu như chùa nào cũng cũng có đủ thời khoá: lễ nghi tụng kinh và thuyết pháp.  Dù được đào tạo hay trang bị phương pháp Giáo Thọ hay chưa thì quý Tu sĩ – Tăng Ni, Cư sĩ, nhất là các vị trụ trì chùa viện đều vô hình chung trở thành là những nhà thuyết pháp thường xuyên. Thông thường, một nhân vật thuyết pháp hay người thuyết pháp vừa đóng vai là một thầy dạy học, vừa là một “nghệ sĩ” trình diễn trên sân khấu. Nghĩa là dạy lý thuyết kinh điển Phật học đã đành, nhưng quan trọng hơn nữa là phương pháp sư phạm và nghệ thuật trình diễn thu hút được quần chúng tới nghe.
Với tầm phát triển tinh xảo của khoa học kỹ thuật ngày nay, phương tiện chuyển tải như hệ thống âm thanh, máy quay hình thu phát, các trang mạng xã hội, các điện thoại cầm tay... đang trở thành quá phổ biến, mọi người đều có khả năng và phương tiện thu và phát thường trực trong tầm tay, trong túi áo.
Bên cạnh phương tiện truyền thông quá dễ dàng và phong phú, phổ biến toàn cầu thì việc còn lại quan trọng nhất trong vấn đề thuyết pháp là NGƯỜI THUYẾT PHÁP.
Một vị Tăng Ni hay Cư Sĩ Phật giáo đóng vai trò liên hệ chuyện đời, thuyết giảng chuyện đạo, tìm phương hóa giải… nhằm mục đích tạo chuyển biến giải khổ, cầu vui và làm sao tạo được sự thuyết phục biện giải cụ thể nơi người nghe thật là cả một yêu cầu không dễ dàng hay đơn giản như một cuộc họp mặt bình thường, gặp nhau nói chuyện mưa nắng, vui buồn.
Thuyết pháp từ bi
Gần đây, một số quý anh chị em cựu huynh trưởng, huynh trưởng GĐPT và cư sĩ Phật tử ở San Jose giới thiệu cho nhau một video về cuộc thuyết pháp của một vị Thầy mà các bạn ấy cho là: thuyết pháp từ bi. Có thể nói hình dung “thuyết pháp từ bi” là một nhóm từ hay để làm biểu tượng cho cuộc pháp thoại hoàn mãn mang được nhiều lợi lạc cho cả diễn giả, hành giả và thính giả.
Theo dõi cuộc thuyết pháp của Thầy nói về “Đạo giữa Đời thường” người nghe bình tâm thấy được những gì là hương lành Từ Bi trong đó?
Nhìn về nội dung cũng như hình thức thì bài thuyết pháp nói về đề tài “Đi tìm hạnh phúc giữa cuộc đời” không có gì màu mè, cuốn hút hay những hiện tượng mới lạ, độc đáo hơn rất nhiều bài thuyết pháp khác đã được “post” lên các trang mạng xã hội. 
Đêm nay về nghe lại, tôi như khám phá ra một điều “đặc biệt” ở bài thuyết pháp là toàn khung cảnh cũng như ngôn từ, chất giọng và nội dung bài pháp thoại của Thầy tuy không có gì “thiện xảo” hơn các bài giảng của quý Thầy, Sư Cô khác. Nhưng có 3 điều khiến tôi tán thán và thanh thoát bị “chinh phục” từ bài thuyết pháp của Thầy là: 

1- Vắng bóng cái tôi đáng ghét.

Thật ra, cái “Tôi đáng ghét” là tên cánh cửa sừng sỏ nhất trong sự giao tiếp hai chiều. Một bài nói chuyện, nhất là nói pháp mà mở màn đã thấy cái tôi đứng từ cửa ngõ vô tới tiền đình là một phần ba cảm tình của người nghe đối với diễn giả bị ghét oan! Nào là: tôi tiến sĩ, tôi giảng sư, tôi viện chủ, tôi trưởng ban, tôi tuyên bố, tôi nhận thấy… là cả một đội canh tuần gác cổng chưa thấy chủ nhân mà chỉ thấy toàn gươm giáo.
Ở đây, trong suốt bài pháp, hầu như vắng bóng cái tôi của Thầy. Người nghe có cảm tưởng như cái ngã sở, ngã chấp, ngã mạn của Thầy đã được chế ngự và nhốt kín. Cái Tôi của Thầy đã thuần hóa (thánh hóa?) để tô điểm cho lời nói pháp của Thầy nhẹ nhàng bay cao. Bởi không có chủ thể khống chế làm cho khung cảnh bị dính mắc vào cái Tôi (ngã mạn) đáng ghét nên lời pháp của thầy thông thoáng đi vào từng ngõ ngách tâm hồn của người nghe.
Sự vắng bặt những xác định hay gợi ý, khoe mẽ cá nhân như say sưa nói về kinh nghiệm, học vị, chứng đắc... của mình đã làm cho lời của Thầy thoát vòng tục lụy phù phiếm mà không ít thì nhiều, quý vị lên diễn đàn thường mắc phải.

2- Rỗng rang hỷ xả.
“Rỗng rang thanh tịnh ắt an định nội tâm!”
Cũng như nhiều cuộc pháp thoại khác, Thầy cũng phải vận dụng những sự kiện lịch sử và xã hội trong nhiều hoàn cảnh nghiệt ngã. Đồng thời, nhận định và phủ nhận hay chấp nhận những con người và hành vi tương ứng thường được xem là ngọn lửa thử vàng cái bản lĩnh và đạo lực của nhà thuyết giảng. Thầy không đặt con người và hành tung của họ lên đấu trường tương tác tay đôi để khen chê, nhiệt tình ca ngợi hay chua chát mà có vẻ như luôn luôn dang tay mình nắm lấy tay người và đặt mình trong vị thế của các nhân vật thiện cũng như bất thiện. Không đánh đổ, tiêu diệt mà hóa giải, hồi phục mới là ánh sáng của Từ Bi. Lời nói như từ tâm phát ra, không qua những cong quẹo gập ghềnh của theo gót và thị phi mới đúng là chánh ngữ.
3- Uy nghi trong ngôn ngữ.
Uy nghi trong ngôn ngữ khác với cách kiểu nói lạnh lùng, đanh thép, xuống lệnh hay biểu tỏ quyền uy. Trong ngôn ngữ nhà Phật, lấy pháp uy nghi là trọng. Nhưng uy nghi là dùng lời nói như một phương tiện hợp với hoàn cảnh, vị trí phù hợp với tinh thần Bát Chánh Đạo, Lục Hòa và ái ngữ. Im lặng sấm sét như chánh pháp. Tiếng vọng uy vũ như hải triều âm, sư tử hống. Nụ cười trọn đầy ý nghĩa sâu xa như niêm hoa vi tiếu… Ngôn ngữ nói cho cùng là phương tiện chuyển tải những thông điệp giữa hai đối tượng nói và nghe.
  Thuyết pháp hay diễn thuyết tự bản chất là dùng lời nói để thuyết phục người nghe và xây dựng luận điểm mình muốn nói ra với một mục đích nào đó. Do vậy, nhiều vị diễn thuyết đã dùng những lý luận, phân tích để tấn công nhằm phủ định hay bẻ gãy luận điểm của người khác bằng lời nói gay gắt phê phán, cười cợt, chụp mũ, dán nhãn hiệu. Đấy là tiểu xảo ngôn ngữ của lối hùng biện duy lý phương Tây chứ không phải tinh thần uy nghi trong ngôn ngữ chân ngôn của nhà Phật.
Trong bài thuyết pháp của Thầy, có đủ những mẫu chuyện đạo, đời, xưa nay minh họa. Nhưng những cảm xúc vui buồn do chính ý nghĩa của câu chuyện nói lên chứ không phải Thầy “cười trước cái cười của thiên hạ hay trĩu giọng buồn trước cái buồn của nhân vật ví von”. Thầy tạo cảm xúc mà không dấy động cảm xúc bằng thân ngữ (body language).
Nghe hết bài Thầy giảng, quả nhiên tôi thất tâm đắc với nhận xét: “Thuyết pháp từ bi” bởi cái tâm Thầy an tịnh như một dòng sông trong vắt. Lời giảng pháp của Thầy phát ra như tiếng nói khi trầm khi lắng của Bà mẹ Thiên nhiên.
Khi nói đến khái niệm Thuyết pháp Từ bi, có bạn hỏi tôi thế thì trường hợp Robot (người máy) Phật giáo Android Kannon của Nhật sáng chế có thể thuyết pháp kinh tạng Phật pháp bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau thì sao. Robot không có Ngã, luôn luôn rỗng rang hỷ xã, chính xác uy nghi trong ngôn ngữ thì có đạt được chất lượng “thuyết pháp từ bi” không?
Tôi đã xin thưa: Từ bi là cảm xúc từ trái tim, rỗng rang là trạng thái từ cân não, uy nghi ngôn ngữ là sự kết hợp của trí tuệ và sự thấu cảm nhân văn. Tất cả những tinh túy tạo ra lòng từ bi, niềm thấu cảm trí tuệ và sự uy nghi ngôn ngữ đều hoàn toàn không tìm thấy từ nơi con Người Máy Kannon. Thuyết pháp Robot là một hiện tượng thóc mách kỹ thuật, là sự ứng dụng thoái trào trong sinh hoạt hoằng dương Phật Pháp bởi ngôn ngữ là phương tiện tạm thời. Tạm dùng tiếng nói để hướng đến tầm cao diệu lý của đạo Phật là rỗng lặng vô ngôn. Robot sẽ không bao giờ tới được “Kim Cang vô tự thị chân kinh” (Kim Cang chân nghĩa là kinh không lời)!
Một hướng thuyết pháp Từ Bi
Là một thầy giáo dạy Ngữ Văn bậc trung học ở Việt Nam và đại học ở Mỹ, tôi hết lòng cảm thông cũng như chia sẻ sự khó khăn và nhạy cảm của người thuyết giảng trước quần chúng. Người có kiến thức rộng, sở học cao chưa hẳn là người nói hay, nói giỏi. Tuy nhiên, lịch sử ngữ học chứng minh rằng: Tài hùng biện là một thiên khiếu nhưng đồng thời nhà hùng biện cũng là kết quả của một quá trình cần mẫn học hỏi và khổ luyện lâu dài. Bởi vậy, tôi có cái biên kiến là rất ngưỡng mộ những người thuyết trình hay, các vị tu sĩ (của bất cứ tôn giáo nào) giảng đạo thu hút hay thuyết pháp tài năng.
Đã nhiều năm qua, trong 37 năm ở Mỹ, tôi thường ráng sắp xếp cho mình mỗi năm ít nhất cũng dự được một vài khóa tu học hay tham gia các cuộc thuyết trình về những đề tài thích hợp. Và tính đến nay cũng đã hơn mười lần, tham gia thường trú hay bán trú các khóa tu học ở Thiền viện Diệu Nhân trong các khóa tu theo mùa. Năm nay, tôi tham dự bán trú khóa Tu Học Mùa Thu năm 2019. Tôi vẫn “chuẩn bị ưu tiên” cho các buổi pháp thoại trong các khóa Tu Học. Được theo dõi các buổi thuyết pháp của các Ni Sư tu theo Thiền Tông Việt Nam, thuộc phái Trúc Lâm Yên Tử là cả một nguồn vui tinh thần và hạnh phúc tín tâm.
Sáng nay, thứ Năm 3-10-2019, tôi dậy lúc 3 giờ rưỡi sáng, uống một bình nước trà xanh Bắc Thái thường lệ như mọi sớm mai cho tỉnh người và tới 4:30 am, lái xe một mình lên Thiền Viện Diệu Nhân ở thành phố Rescue, California. Nhà tôi ở cách chùa 55 miles (94 km), cũng ngót nghét xa gần bằng từ Huế vào Đà Nẵng và lái xe cũng mất gần 1 giờ trên xa lộ 99 N và 50 E South Lake Tahoe.
Đêm gần sáng mùa Thu lạnh (49 độ F = 9.5 độ C), xe chạy quá 80 miles một chút (non 130 Km/giờ). Tôi phải ghi xuống tỉ mỉ như thế vì càng lên hướng Bắc, bốn bề càng vắng lặng, nên tôi rất “hiện sinh” với chiếc xe, tay lái và con đường. Tôi nghĩ đến các Ni Sư thiền viện Diệu Nhân và quý Ni Sư từ Việt Nam mới sang hôm qua. Tôi đã được nghe quý Ni Sư thuyết pháp nhiều lần; nhưng lần này tôi mỉm cười tẩn mẩn với ý nghĩ “thuyết pháp từ bi”.
Quý Ni Sư viện chủ và phó viện chủ thiền viện Diệu Nhân: Ni sư Thuần Tuệ và Ni sư Thuần Bạch là hai vị thuyết pháp đã tạo được ảnh hưởng tích cực trong dòng hoằng pháp hải ngoại. Ni sư Thuần Bạch là một nhà nghiên cứu và dịch giả Phật học với trên 10 tác phẩm biên khảo và dịch thuật đã xuất bản. Đặc biệt, Ni sư Thuần Tuệ được cả hai giới Phật tử già và trẻ - nói tiếng Việt và tiếng Anh quý mến gọi là nhà “thuyết pháp từ bi” vì bên cạnh những phẩm chất nêu trên, Ni sư còn một ưu điểm mà các vị thuyết pháp khác thường không quan tâm là “giáo án”, là bài soạn cẩn trọng cho đề tài thuyết pháp

Các Ni sư - Những vị “thuyết pháp Từ bi” trong khóa Tu Học Mùa Thu 2019 tại Thiền viện Diệu Nhân, Rescue – California – Hình ảnh khai mạc khóa tu.
Khoá Tu Học Mùa Thu Diệu Nhân hôm nay có duyên lành được quý Ni sư Như Đức, Hạnh Huệ, Hạnh Như, Giải Thiện... là những giáo thọ, giảng sư thời danh khả kính trong sinh hoạt hoằng pháp của Thiền tông Việt Nam tham dự và thuyết pháp.

Đến thiền viện Diệu Nhân lúc 5:20 sáng, đúng lúc buổi tọa thiền buổi sáng bắt đầu, tôi tìm được một chỗ để đặt bồ đoàn tọa cụ cho cá nhân mình. Thiền đình đã chật ních thiền sinh. Sáu mươi phút tĩnh tâm thiền tọa, chỉ cần vài phút giữ cho ý nghĩ và xúc cảm như như rỗng lặng thì cũng đã đạt lắm rồi. Tôi có cảm tưởng như mình cảm ứng được với nguồn năng lượng của đại chúng. Xả thiền, 06:30 sáng trời còn sương mù. Buổi tọa thiền kết thúc. Khoá Tu học Mùa Thu khai mạc. Thiền cũng là một sự khai mở… luôn luôn khởi sự mà không bao giờ chấm dứt. Thuyết pháp từ bi cũng thế: Mở ra cánh cửa Thiền không khép lại cho tới khi qua được Bờ Bên Kia. 

TV Diệu Nhân, Rescue California, Thu 2019
Trần Kiêm Đoàn