Sunday, June 28, 2020

Tuệ Sỹ: Về Những Minh Họa Từ Thiền Uyển Tập Anh

Về Những Minh Họa Từ Thiền Uyển Tập Anh

Tuệ Sỹ

Kể từ khi được Ông Trần văn Giáp tình cờ phát hiện từ đống giấy vụn của một gánh hàng vụn phế thải, sau đó được công bố bởi trường Viễn đông Bác cổ,[1] Thiền uyển tập anh trở thành tư liệu cơ sở cho các khảo cứu về lịch sử Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên cho đến thế kỷ 13, cũng như các sinh hoạt chính trị, xã hội, tôn giáo nước ta trong suốt thời gian Bắc thuộc. Công trình của ông Trần Văn Giáp dựa trên tập Sử Thiền này được thực hiện khá công phu, nhưng do thiếu nhiều tư liệu tham khảo, đối chiếu để xử lý văn bản, do đó ông đã không tránh khỏi một số sai lầm. Những sai lầm ấy được lặp lại trong hầu hết các quyển sử Phật giáo Việt Nam tiếp theo sau ông.
Trong năm 1973, Lê Mạnh Thát trong khi đi sưu khảo các tự viện ở miền Nam đã phát hiện thêm các dị bản của Thiền uyển tập anh.[2] Y cứ trên các phát hiện mới, công tác xử lý văn bản được thực hiện với rất nhiều tư liệu liên hệ trong nền văn hiến đồ sộ của Phật giáo Trung quốc, cũng như trong kho tàng lịch sử Việt Nam, từ dã sử đến chính sử, những truyền kỳ. Một bản dịch tương đối hoàn chỉnh của Thiền uyển tập anh được công bố, cung cấp nhiều dữ liệu quan trọng khả dĩ bổ sung, và đồng thời cải chính, những điều được ghi chép bởi các chính sử của Việt Nam mà các tác giả của chúng phần lớn dựa trên những thông tin đầy thành kiến và xuyên tạc của sử liệu Trung quốc đối với sự hình thành ý thức dân tộc cũng như sự phát triển chính trị xã hội của nước ta. Bản dịch san định do Lê Mạnh Thát thực hiện này nhanh chóng trở thành văn bản cơ sở cho nhiều khảo cứu lịch sử theo sau nó. Một bản dịch Anh ngữ cũng đã được thực hiện bởi Cuong Tu Nguyên, Zen in Medieval Vietnam. A Study and translation of the Thiền Uyển Tập Anh, xuất bản năm 1997, bởi Ban tu thư Viện Đại học Hawaii. Công trình nghiên cứu và dịch thuật này cũng thường xuyên tham chiếu bản dịch của Lê Mạnh Thát, như nhận xét của Giáo sư Philippe Langlet, trong phần thư mục của bản dịch Pháp mà chúng ta đang được giới thiệu hôm nay.[3]
Thiền uyển tập anh theo thể loại là một tác phẩm thiền sử. Về hình thức, nó tương tợ cách viết Cảnh đức Truyền đăng lục của Đạo Nguyên (Tống, 1004). Thế nhưng, Truyền đăng lục của Đạo Nguyên thuần túy là một thiền sử, ký tải sự phát triển của Thiền tông từ khởi thủy của Phật giáo; trong khi đó Thiền uyển tập anh ngoài sự ký tải các truyền thừa và phát triển các dòng thiền Việt Nam, nó còn phản ánh khá rõ nét bối cảnh xã hội Việt Nam mà trường độ thời gian kéo dài trên dưới mười thế kỷ. Bài kệ thị tịch của Khuông Việt (930-1011) sau đây có thể cho chúng ta thấy khá rõ nét về điều này. Trước khi chết, Sư truyền kệ lại cho Đa Bảo rằng:
Mộc trung nguyên hữu hỏa,
Hữu hỏa hỏa hoàn sanh.
Nhược vị mộc vô hỏa,
Toản toại hà do manh.[4]
Bản dịch Pháp của Philippe Langlet:
A l’origine, le feu est dans le bois,
Le feu originel renaît sans cesse.
S’il n’y a pas de feu dans le bois,
Comment pourrait-on en faire jaillir en le frottant?
Rõ ràng đây là một bài thơ ngắn mang ẩn dụ siêu hình. Nhưng nếu chúng ta nhìn nó từ vị trí lịch sử của Khuông Việt trong liên hệ với các thế hệ đi trước kể từ Định Không trưởng lão (730-808); với các Thiền sư đồng thời như Pháp Thuận (925-990), cũng như thế hệ tiếp nối theo sau là Vạn Hạnh (?-1025), ngoài lớp vỏ tư duy siêu hình, bài thơ cho thấy sự tiếp nối dòng chảy liên tục và trưởng thành của ý thức dân tộc và một Nhà nước tự chủ.[5] Nó mang nội dung gần như đồng nhất với các dự ngôn hay sấm ký của Pháp Thuận và Vạn Hạnh về sự xuất hiện của một nhân vật mà, qua dự ngôn của Pháp Thuận,
Vô vi cư điện các,
Xứ xứ tức đao binh.[6]
Theo đó, một thời thịnh trị sẽ đến với đất nước sau nhiều thế kỷ bị đô hộ và nô dịch.
Trong phần tiểu sử tác giả, Philippe Langlet không bỏ sót một chi tiết trong cuộc đời của Khuông Việt, mặc dù theo một cách nhìn đó chỉ là một câu chuyện hoang đường có vẻ không giúp gì cho sự lãnh hội bài thơ được dẫn dịch của Giáo sư Philippe Langlet, cũng như minh họa của Dominique De Miscault. Thiền uyển tập anh chép, có lần Khuông Việt chiêm bao thấy Tỳ-sa-môn Thiên vương (Vaiśravaṇa) xuất hiện và tự giới thiệu sứ mạng của mình rằng được Thiên đế (Śakra devendra) sai đến để bảo vệ quốc giới ngõ hầu khiến cho Phật pháp được thịnh hành. Sáng hôm sau, do theo giấc mộng, Sư vào núi tìm và thấy một cây to.
Từ cây bông gạo mà Trưởng lão La Quý (852-936) trồng trước chùa Châu minh,[7] qua cây cổ thụ của Khuông Việt vừa đề cập, cho đến cây bông gạo của Sư Vạn Hạnh bị sét đánh,[8] nó là chuỗi liên tục dự ngôn về sự xuất hiện của Lý Thái Tổ. Sự kiện đó hoặc là sự thật lịch sử, hay chỉ là hư cấu của ai đó muốn minh giải một biến cố xã hội hay một tín điều tôn giáo, thế nhưng ảnh hưởng quần chúng của nó vẫn có thể được tìm thấy rõ nét không chỉ trong Thiền uyển tập anh, mà còn trong các truyền kỳ và ký tải của các sử quan triều đình.
Chúng ta trở lại bài thơ của Khuông Việt với minh họa của De Miscault.
Mộc sinh hỏa, à l’origine, le feu est dans le bois, nguyên thủy, lửa vốn ẩn tàng trong gỗ. Ngọn lửa ấy vốn hiền hòa, hài hòa trong nguyên lý ngũ hành sanh khắc; nhưng khi nó bừng cháy để làm nên lịch sử văn minh nhân loại, thì nó cũng có cơ trở thành thảm họa. Qua ống kính của nghệ sĩ tạo hình, Dominique De Miscault, ngọn lửa ấy không bốc thẳng lên theo chiều thuận lý của Dịch lý phương Đông, mà nó quằn quại trong từng sớ gỗ dưới một góc nhìn minh họa; nó chợt được thấy như bùng cháy từ hỏa ngục, từ một mùa hỏa ngục của Rimbaud: Une Saison en Enfer. Nó bốc cháy từ tổ tiên người Gaulois, thiêu rụi những đồng cỏ, lột da dã thú, rồi lần bước lịch sử theo dấu chân của đoàn quân viễn chinh qua những ngã đường của châu Âu: J’ai de mes ancêtres gaulois… Les Gaulois étaient les écorcheurs de bêtes, les brûleurs d’herbes les plus ineptes de leur temps…[9]
Tuy dấu chân của Rimbaud tiếp nối tổ tiên Gaulois lần bước xuống tận châu Phi chứ không lần về phương Đông châu Á, nhưng người thưởng ngoạn ngôn ngữ và minh họa của các tác giả Pháp, từ di ngôn, mà cũng là dự ngôn, của Khuông Việt trước khi chết, muốn nhìn ngắm nó từ một dòng chảy thuần khiết trong nền văn học Pháp qua hình thái biểu hiện nhức nhối của ngôn ngữ đang nói lên nỗi niềm khổ lụy hiện sinh. Đó cũng là góc nhìn mà chúng tôi mượn tạm của nhà thơ Bùi Giáng trong một bức thư gởi René Char, những dòng chữ được viết từ bão tố chiến tranh đang tàn phá một đất nước, sát hại một dân tộc: Nous pensons … à vous, Monsieur René Char, et aussi à un courant discernable de pureté dans la litterature française … à travers l’expression déchirante du malheur, oui, nous pensons à tout cela, en un temps où l’ouragan s’abat sur notre pays et meurtrit notre peuple.[10]
Người thưởng ngoạn như vậy có thể đang cố ý chọn một điểm đứng và một thời điểm để nhìn không theo cùng một hướng của nhà nghệ sỹ tạo hình, nhưng trong không gian và từ thể tính của tồn tại thì ưu tư khắc khoải về lẽ sống nhân sinh và chiêm nghiệm những điều kỳ diệu trong sự vận hành của thế giới vẫn âm vang một sự đồng cảm, mà chúng ta đọc thấy trong phần giới thiệu bởi De Miscault: Le mélange d’angoisse et d’admiration devant le mystère du monde a été vécu par toutes les civilisations… Nous pensons en trouver un example dans les écrits des moines bouddhistes, notamment vietnamiens sous la dynastie des Lý.[11]
Các tác giả của Un livre des moines Bouddhistes đang tìm vào các thơ văn của các Thiền sư đời Lý; không phải bằng những tư biện triết học, không phải bằng những tư duy siêu hình, mà bằng ngôn ngữ hình ảnh, tìm kiếm và chìm lắng trong một thế giới tĩnh lặng, vô ngôn, ở đó thực tại tối hậu là khoảng chân không thăm thẳm: la vacuité fondamentale de toute chose et même de l’ultime réalité.[12]
Thực tại tối hậu là gì? Qu’est-ce que c’est? Đó là một câu hỏi rất thông thường trong giao tiếp hằng ngày; nhưng lại là câu hỏi muốn vén bức màn kỳ ảo của thời gian để nhìn sâu vào tính thể tồn tại. Vậy, yếu tính của tồn tại, của cái đang được ném ra đó, là cái gì? Thiền sư Ngộ Ấn (1020-1088) nói: Diệu tính hư vô bất khả phan. Yếu tính ấy, cái l’essence de l’être ấy, là cái trống không mà nhận thức không thể nắm bắt, mặc dù bản chất của ý thức là luôn luôn vươn đến nắm bắt đối tượng. Ở đây, Philippe Langlet không phiên giải diệu tính trong bài thơ của Ngộ Ấn như là yếu tính của tồn tại, mà hiểu nó là bản chất hay tự tính huyền nhiệm:
La mystérieuse nature du vide est inaccessible,
La mystérieuse nature đó có thể một thiên nhiên kỳ diệu, được sáng tạo từ huyền nhiệm của Thượng đế; mà Thượng đế thì siêu việt mọi tạo vật: Dieu transcende toute créature (Catéchisme). Vậy, câu hỏi về thân phận con người được nêu lên từ tư duy chiêm nghiệm về bản tính huyền nhiệm này, như De Miscault đã dẫn từ Pascal: Qu’est-ce que l’homme dans la nature? Ta là ai, con người là cái gì, trong thế giới này, trong bản tính huyền nhiệm của tồn tại này? Câu hỏi xuất phát từ hai hướng Đông Tây bất đồng, như trong cảm hứng để thử trả lời, ta có thể tìm thấy sự đồng cảm giữa Ngộ Ấn và Pascal. Với Ngộ Ấn, con người không là gì cả, vì tự tính của nó không là gì cả. Hình ảnh của cái không là gì cả ấy là đóa hoa sen còn thắm đượm sương mai trong lò lửa đang rực cháy. Trống không, vô nghĩa, nhưng ngời sáng: tồn tại chỉ có thể chiêm nghiệm trong mối quan hệ biện chứng được kết cấu bằng những mâu thuẫn nội tại.
Trả lời của Pascal cũng âm vang đồng điệu. Ta không là gì cả. Tất cả mọi tạo vật đều từ hư vô mà ra, tồn tại bao la ngang tầm vô hạn: Toutes choses sont sorties du néant et portées jusqu’à l’infini. Con người là tồn tại vô thể, là hư vô nếu được nhìn từ vô hạn. Trong vô hạn, nó không là gì cả. Trong cái không là gì cả, nó là tất cả. Con người là một trung gian giữa không là gì cả và là tất cả: Un néant à l’égard de l’infini, un tout à l’égard du néant, un milieu entre rien et tout. Đồng điệu hay đồng cảm này cũng được chia sẻ bởi một Thiền sư khác: Từ Đạo Hạnh (?- 1117), được chuyển tải qua ngôn ngữ Pháp:
Existence. Le moindre grain de poussière existe.
Vide. Tout est vide.
Existence et vide, c’est comme la lune dans l’eau.
Ne vous attachez pas à l’existence ni à l’idée du vide.
Tồn tại và không tồn tại, có và không, hữu thể và hư vô, chứa vô biên trong hạt cát, nắm vô hạn giữa lòng tay; thể tính hư vô bừng sáng thành hoa sen trong biển lửa; đó là những tư duy và phát biểu mang tính phản lý; đồng thời đó cũng là sử tính của một dân tộc được hiện tượng hóa trong chuỗi mâu thuẫn biện chứng của hiện thực lịch sử.
Ở đây, sử gia và nhà nghệ sỹ tạo hình, bằng ngôn ngữ của mâu thuẫn biện chứng và bằng hình ảnh được thấy thường nhật để phản chiếu sinh hoạt tầm thường mà luôn luôn biến động của đời sống thường nhật. Những cảm hứng từ các hình ảnh này trong nhiều trường hợp dẫn người thưởng ngoạn đến những ý tưởng đầy bất ngờ, vừa thống nhất vừa xung đột giữa những cái nhìn mà ta quen nói là khác biệt Đông Tây, khác biệt thời đại. Một trường hợp có thể dẫn ra ở đây là bài thơ của Không Lộ, và hình ảnh minh họa. Trong bài thơ này, ngôn ngữ Pháp đi rất gần với tiết nhịp của âm vận tiếng Việt, mặc dù dịch giả không cố diễn dịch nó theo tiết nhịp thơ của ngôn ngữ Pháp:
Sur dix mille lieues le fleuve limpide, sur dix mille lieues le ciel.
Un village avec des mûriers, un village avec des fumées.
Le vieux pêcheur s’est endormi, personne ne l’appelle.
Passé midi il se réveille, la neige a rempli sa barque.
Toàn thể bài dịch Pháp còn phảng phất phong vận bình dị của đồng quê Việt Nam cũng như sinh hoạt của nó. Trong khi đó, trong nguyên văn Hán của bài thơ, do âm luật nghiêm túc của Đường thi, mọi thứ trở nên trang trọng. Ngư ông trong nguyên văn Hán mang phong thái tiêu dao của một ẩn sĩ. Ngư ông trong bản dịch Pháp là một người dân quê trong cảnh đồng quê bận rộn nhưng an nhàn. Ngư ông trong minh họa mang dáng vẻ của một con người sinh họat trong xã hội văn minh công nghiệp đến từ phương Tây, đang vẫy tay chào đón hoặc tiễn đưa, đứng giữa lòng sông trong lớp bụi mờ ẩn hiện hình ảnh được minh họa từ câu thơ của Ngộ Ấn: Liên phát lô trung thấp vị can, La fleur de lotus eclose dans un four est éternellement fraîche. Minh họa như thế là nối liền quá khứ với hiện tại, một quá khứ lịch sử đầy bi kịch đã hay đang đi vào quên lãng, với hiện tại của một xã hội đang biến chuyển để chào đón hoàng hôn rực rỡ của trời Tây, La Crépuscule de l’Occident  (Spengler).
Hình ảnh ngư ông trong minh họa tình cờ khiến chúng ta nhớ lại bóng dáng của Bùi Giáng đang đi giữa phố phường hoa lệ Saigon mà như đi giữa hoang tàn sa mạc, điên loạn trong cơn điên loạn siêu hình của Nietzsche. Thế rồi, trong phút tỉnh táo, nhà thơ của chúng ta bất chợt thốt lên những lời trầm thống, vang vọng ưu tư khoắc khoải lan dài trong lịch sử. Đó là những lời mà Bùi Giáng đã viết cho René Char: Voici la réponse que vous en donne le Viet nam: Weil (Simone Weil), c’est une de ces âmes assez rares qui sont venues en ce monde pour un temps bien bref, qui s’en sont allées brusquement, laissant derrière elles de regrets; des âmes qui se sont penchées sur la souffrance de siècles, qui nous ont apporté des promesses de fontaines sonores, qui nous ont parlé des peuples lointains et de leur pulsation blessée, qui ont posé le problème des déshérités de l’Asie.
Hình ảnh một Simone Weil nhỏ thó, gầy mòn, một tâm hồn nhạy bén trước khốn cùng của những con người khốn khổ, một ý chí ngoan cường, bướng bỉnh của một cô giáo trẻ; hình ảnh ấy không chỉ là biểu tượng cho sự trỗi dậy của tầng lớp yếu ớt trong bối cảnh xã hội hùng cường, phú thịnh của phương Tây; hình ảnh ấy một thời đã làm xao xuyến tuổi trẻ Việt Nam lớn lên giữa khói lửa, đang lắng nghe âm vang từ nhịp đập của trái tim mang chứng tích đầy thương tích của lịch sử văn minh, âm vang từ những suối nguồn xa xôi mang những ước nguyện nhân bản đến cho các dân tộc, đặt vấn đề cho những con người đang bị bứt lìa truyền thống.
Khi một tâm hồn bị bứt lìa truyền thống, nó như một con thuyền lơ lửng trôi xuôi theo định hướng mù khơi ngoài phương trời vô định; trôi ngang qua bà mẹ đang đứng sững quay lưng hờ hững với con thuyền, đang dõi mắt tìm vào bến bờ của quá khứ, của cây đa bến cũ, con đò năm xưa mà nay đã vắng, đã mất. Thế nhưng, trong thể tính uyên nguyên của dòng sông lịch sử, mảnh trăng treo từ trên đỉnh Lăng-già đang tỏa ánh sáng trầm tịch trong khoảng không vô tận, cho con thuyền định hướng ra biển khơi:
Dans le grand calme du clair de lune sur la montagne de Lanka,
Devant le vide pour un bateau qui s’avance en pleine mer,
Minh họa này từ bài thơ của Tăng thống Huệ Sinh (?- 1076), thế hệ tiếp nối Thiền sư Vạn Hạnh, vốn là minh giải triết học cho vua Lý Thái Tông, ngẫu nhiên phản chiếu tâm tình lịch sử trải dài suốt gần mười thế kỷ, qua những minh họa mà chúng ta biết được cảm hứng một phần từ tín điều Catéchisme như được nói rõ trong bài giới thiệu do Dominique De Miscault.
Suy nghĩ từ những dòng ngôn ngữ Pháp chuyển tải những tư duy uẩn khúc của tư tưởng, như những mặt gương khi mờ khi tỏ, phản chiếu mấy đoạn đường quanh co khi thăng khi trầm của lịch sử; chiêm quan những hình ảnh minh họa cấu hình bằng phương tiện kỹ thuật hiện đại mà thể tính là những nguyên lý, những công thức cứng đọng, khô cằn của lý trí hướng ngoại và chinh phục; người đọc và người xem để cho tâm hồn mình di động bất thường giữa những cảm hứng ngẫu nhiên, hoặc trần thuật tiên cảm; từ đó quay nhìn lại những đoạn lịch sử đã qua, trải dài suốt trên hoặc dưới mười thế kỷ; những lộ trình riêng biệt, với những định hướng và định mệnh khác biệt, ở hai phương trời cách biệt; những con đường lịch sử ấy có khi được thấy song song, có khi đối nghịch dẫn đến sông núi ngửa nghiêng, đảo lộn, áp bức, đọa đày, chiến tranh, giết chóc; có khi hòa quyện trong nỗi đau thương chung của thân phận con người. Nhưng dù ở bên này hải đảo, hay bên kia đại dương, mà trong cõi tịch mặc vô ngôn, trong thế giới mặc nhiên vô hạn, với những điều nói được và không nói được, những hình ảnh ký họa được hay không ký họa được, giữa người và người, giữa các dân tộc dị biệt, trong các truyền thống và văn minh tương phản, vẫn còn ẩn tàng trong tận đáy sâu, trong rung cảm đồng điệu của những trái tim nhân hậu. Chúng tôi muốn nói, từ những chuyển tải bằng ngôn ngữ Pháp thực hiện bởi Giáo sư Philippe Langlet, từ những minh họa bằng kỹ xảo của lý trí tư biện phương Tây bởi nghệ sĩ tạo hình Dominique De Miscault, chúng ta thử tìm lại dấu vết tâm tư của tiền nhân, thử nhìn lại chính mình từ đôi mắt của những người khác, để tự khẳng định chính mình trong những cơn lốc thời đại.
Xin cảm ơn các tác giả đã đến với chúng ta trong đồng cảm nhân loại, cùng chia sẻ những giá trị phổ quát giữa những truyền thống dị biệt.

_______________________________________
[1] Trần Văn Giáp, Le Bouddhisme en Annam, dès origines jusqu’au XIIIe siècle. BEFEO XXXII, 1932. Bản dịch Việt, Tuệ Sỹ: Phật giáo Việt Nam, từ khởi nguyên đến thế kỷ XIII, Tu thư Viện Đại học Vạn Hạnh, Saigon, 1968.
[2] Lê Mạnh Thát, Tổng tập Văn học Phật giáo Việt Nam, tập 3, Nxb TP Hồ Chí Minh, 2002.
[3] Philippe Langlet, Un livre des moines Bouddhistes; Les Editions Aquilon, Paris, 2005.
[4] Lê Mạnh Thát, Tổng tập 3, tr. 203: Trong cây vốn có lửa/ Có lửa, lửa mới bừng/ Nếu bảo cây không lửa/ Cọ xát do đâu bùng.
[5] Tuệ Sỹ, Những cuộc vận động của Phật giáo Việt Nam dưới triều đại nhà Đường, Tạp chí Tư Tưởng, Viện Đại học Vạn Hạnh, 1972.
[6] Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 2, tr. 498; nxb TP Hồ Chí Minh, 2001.
[7] Lê Mạnh Thát, Tổng tập 3, tr. 284: “(La Quý di chúc) Ở chùa Châu Minh ta có trồng cây bông gạo để trấn chỗ, biết đời sau ắt có kẻ hưng vương ra đời…”
[8] Đại Việt sử ký toàn thư, tờ 31a7: sét đánh cây bông gạo làng Diên Uẩn, Cổ Pháp, để lại hàng chữ: Thọ căn niểu niểu, mộc biểu thanh thanh, hòa đao mộc lạc, thập bát tử thành. Theo chiết tự, bài thơ tiên đoán nhà Lê mất, họ Lý lên thay.
[9] Arthur Rimbaud, Oeuvres, p. 196: Mauvais sang (Une Saison en Enfer). Pocket, Paris 2005.
[10] Bùi Giáng, Lettre à René Char, Dialogue, Lá bối, Saigon, 1965.
[11] Un livre des moines Bouddhistes: Introduction.
[12] Ibid.

Thích Phước An: Lời Giới Thiệu Tuyển Tập Thơ Thiền Lê-Nguyễn

* Hòa thượng Thích Phước An, Ảnh của Thầy An Trú


Lời Giới Thiệu Tuyển Tập Thơ Thiền Lê-Nguyễn

Thích Phước An



Trong tác phẩm Lịch sử tư tưởng Việt Nam tập VI, cố giáo sư Nguyễn Đăng Thục dã phê phán vua Lê Thánh Tông , vị vua dược hầu hết các sử gia xưa nay ca tụng là “ bậc anh quân vĩ đại nhất của Triều Lê” như thế này :“Vua Lê Thánh Tông chỉ tin vào Nho giáo, chê nhà Lý mê tín Phật Giáo , nhưng sau một đời hoạt động tích cực cho quốc gia, khi sắp từ giã cuộc đời đã thốt ra những lời đầy hoang mang”:
Ngũ thập niên lai, thất xích khu
Cương trường như thiết khước thành nhu
Nghĩa là:
Năm mươi năm bảy thước thân trai
Dạ sắt lòng gang chợt yếu rồi
Nhưng phải đợi đến hai câu thơ trong bài Đề Tu Mộng Tự trụ khắc , thì ta thấy không còn là hoang mang hay giao động nữa,mà gần như đau khổ đến cùng cực, khi nhà vua thốt lên với vị sư trụ trì chùa Tu Mộng:
Đại giác hãi trung quân dị độ
Vô cùng môn lý ngã nan hành
Nhà thơ Nguyễn Duy dịch:
Thầy qua biển giác bình yên
Còn ta vất vả triền miên giữa đời
Đây có phải là lời ân hận của nhà vua vì đã đối xử bất công với Phật Giáo, một tôn giáo đã có mặt từ những ngày đầu dựng nước? thật khó để chúng ta khẳng định nhất là đối với những tâm hồn được gọi là vĩ đại, vì càng vĩ đại bao nhiêu thì càng phức tạp và khó lường bấy nhiêu. Nhưng có một điều ta có thể khẳng định được là , một ông vua bài xích Phật Giáo thì cuối cùng cũng phải trở về một ngôi chùa Phật Giáo để tâm sự về những đau khổ, những dằn vặt của chính mình.
Trong ba mươi tác giả của ba mươi bài thơ trong tuyển tập này, ta có thể thấy đủ mọi thành phần trong xã hội vào thời Lê Nguyễn.
Ngoài các Thiền sư ra , thì còn có vua chúa, giới quý tộc, những bậc anh hùng đánh đuổi giặc phương bắc xâm lược như Nguyễn Trãi, Ngô Thời Nhiệm, nhà hiền triết Nguyễn Bỉnh Khiêm, thầy thuốc Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, thi hào Nguyễn Du, nữ sĩ Hồ Xuân Hương, nhà Nho vui thú điền viên Nguyễn Khuyến đến cả kẻ nổi loan chống lại triều đình như Cao Bá Quát v.v… nghĩa là tát cả đều lấy cảm hứng từ Phật Giáo hay những ngôi chùa của Phật Giáo.
Nhưng tại sao Phật Giáo lại được giới trí thức, Nho sĩ đón nhận một cách nồng nhiệt như vậy? trong khi hai triều đại này đặc biệt là nhà Lê đã đưa ra những khẩu hiệu đầy cực đoan để bài Phật Giáo như “Tịch Thích Lão” “Tịch Phật Lão” nghĩa là phải bài trừ Phật Giáo và Lão Giáo.đến tận gốc.
Sau khi đoạn tuyệt với ý thức hệ Tam Giáo của Thiền Tông Lý Trần mà người đại diện cuối cùng là Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc (19/09/1942) thì nhà Lê đã lấy ý thức hệ Nho giáo để cai trị quốc gia.
Dĩ nhiên, độc quyền thì lúc đầu rất hùng mạnh, vì là con trời “Thiên tử” thì không ai dám động đến, nhưng sau khi vua Lê Thánh Tông qua đời, Lê Uy Mục lên kế vị làm rối loạn triều đình , giết anh em chú bác trong hoàng tộc đến vua Tương Dực thì cũng chẳng có gì khá hơn nghĩa là cũng huynh đệ tương tàn để tranh quyền đoạt vị. Cuối cùng thì nhà Lê cũng mất vào tay Mạc Đăng Dung.
Chắc chắn không phải là ngẫu nhiên khi một nhà Nho chân chính là Nguyễn Bỉnh Khiêm, được ca tụng là "Cây đại thọ của thế kỷ XVI" đã tìm đến thăm chùa Phổ Minh của vương triều Trần ở làng Tức Mặc phủ Thiên Trường nơi phát tích của nhà Trần oanh liệt với hai câu thơ đầy xúc động, vừa ngậm ngùi cho một triều đại thạnh trị đã qua đồng thời cũng xót xa cho thời đại hôn ám mà mình đang sống:

Bi văn tước lạc hòa yên bích
Phật nhãn thê lương chiếu dạ thanh
Giáo sư Nguyễn Bá Chung dịch:

Bia văn khói biếc bóng mờ
Sầu vương mắt Phật sáng bờ đêm thâu
Đó có lẽ là lý do các nhà Nho trí thức chân chính chỉ còn tin vào Phật Giáo chăng?
Sở dĩ hai triều đại Lý Trần đưa đất nước thạnh trị đến gần năm thế kỷ là vì hai triều đại này không lấy Phật Giáo làm ý thức hệ độc tôn mà biết tôn trọng các hệ tư tưởng đương thờiđể đoàn kết với Phật Giáo mà xây dựng một nước Đại Việt phú cường.
Bao dung, đó chính là tinh thần cốt lõi của Phật Giáo. Lịch sử truyền bá hơn hai nghìn năm của Phật Giáo đã chứng minh cho điều ấy.
Muốn có được tinh thần bao dung thì chúng ta không nên nô lệ vào bất cứ ý thức hệ nào, hệ tư tưởng nào , lý thuyết nào như Đức Phật đã khuyến cáo các đệ tử của Ngài trong Kinh Samyutta Nikaya:

“Này Kaccayana, thế gian phần nhiều lần mò đi tìm những hệ thống, và bị trói buộc bởi những tín điều. Những người nào không đi tìm những hệ thống, không cần những lập trường lý thuyết , không theo những tín điều, không coi các tín điều như pháo đài. Người ấy sẽ không có sự hoài nghi và do dự, vì người ấy không phụ thuộc kẻ khác để hiểu biết, sự hiểu biết của người ấy, phải từ thực chứng của chính mình. Đó mới là quan điểm chân chính”
Và dường như Đức Phật đã tiên đoán được những lý thuyết cực đoan sẽ gây đau khổ cho nhân loại trong những thiên niên kỷ sau khi ngài nói:

“Mỗi quan điểm là một bui rậm, một sa mạc, một mê cung, một sự nô lệ, một sự trói buộc tri thức, chỉ đem lại đau đớn và thống khổ” (Majjhima Nikaya)
Đọc những lời trên của Đức Phật khiến tôi nhớ đến Hương Hải Thiền sư ở đời Lê cũng khuyến cáo chúng ta không nên “đi tìm trí thức trong mộng” mà nên tìm những giá trị tâm linh siêu việt từ chính mình:

Phản văn tự kỷ mỗi thường quan
Thẩm sát tư duy tử tế khan
Mạc giáo mộng trung tìm tri thức
Tương lai diện thượng đồ sư nhan
Giáo sư Nguyễn bá Chung dịch:

Từng giây phút tự xét mình
Suy đi nghĩ lại tâm hình rõ ra
Chớ tìm trí thức trong mơ
Mặt thầy sẽ hiện trong ta sáng ngời
Bài thơ trên được trích từ tuyển tập thơ thiền Lê Nguyễn do giáo sư Nguyễn Bá Chung và nhà thơ Nguyễn Duy tuyển chọn và dịch thuật. Giáo sư Nguyễn Bá Chung đã sống và giảng dạy tại Mỹ gần nữa thế kỷ qua. Dù sống xa tổ quốc nhưng lúc nào cũng nặng lòng với tổ quốc. Trong một điện thư gửi cho tôi mới đây, giáo sư tâm sự: “ thơ Thiền là một tinh túy của văn hóa Việt Nam, không có nó Việt Nam đã không thể tồn tại được cả ngàn năm qua. Nhờ nó, Việt Nam đã hóa giải được tất cả những mâu thuẫn, những khổ đau, những ngang trái suốt quá trình tồn tại của mình”
Như vậy, theo quan điểm của Giáo sư thì Thiền không phải chỉ thuần túy là biểu tượng cho cái đẹp trong đời sống tâm linh mà còn dính chặt đến sinh mệnh sống còn của dân tộc Việt Nam chúng ta nữa. Còn nhà thơ Nguyễn Duy thì rất được kính trọng vì những bài thơ của thi sỹ đã chứa chan những yêu thương, âu lo, và cả những xót xa cho quê hương đất nước.
Một nhà nghiên cứu và một nhà thơ cùng hợp tác với nhau để dịch thì nhất định theo thiển ý của tôi, tập thơ đó chẳng những rất nghiêm túc về chữ nghĩa mà còn tràn đầy tinh thần thi ca nữa.
Trong tuyển tập này, ngoài ba mươi bài thơ Thiền, còn có tiểu sử tóm tắt ba mươi tác giả được Sam Hamill người sáng lập nhà xuất bản Copper Canyon danh tiếng dịch sang tiếng Anh, cũng cần nhắc lại là Sam Hamill cũng đã dịch nhiều thơ Trung Quốc và Nhật Bản sang tiếng Anh nữa.
Với thơ Thiền Lý Trần thì chúng ta đã có bộ thơ văn Lý Trần đồ sộ, do viện văn học thuộc Ủy Ban khoa học xã hội Việt Nam xuất bản vào năm 1983 nhưng đây là lần đầu tiên một tuyển tập thơ Thiền Lê Nguyễn với bản dịch tiếng Anh được xuất bản tại Việt Nam. Điều này theo tôi rất quan trọng vì lâu nay chúng ta chỉ biết đến Lý Trần tức là hai triều đại cực thịnh của Phật Giáo, còn Lê Nguyễn là hai triều đại được các sử gia gọi là “độc tôn Nho Giáo”. Nhưng nếu chúng ta đọc ba mươi bài thơ trong tập này thì chúng ta sẽ thấy rằng, nói theo giáo sư Lê Mạnh Thát “Phật Giáo biết bám vào sức sống của Dân Tộc để tồn tại còn triều đại nào không hợp lòng dân thì triều đại đó sẽ bị loại bỏ.”
Bằng tất cả sự xúc động trước tấm lòng của giáo sư Nguyễn Bá Chung và nhà thơ Nguyễn Duy đối với văn hóa Phật Giáo nói riêng và dân tộc nói chung, tôi xin được trân trọng giới thiệu tuyển tập này đến với Phật tử và bạn đọc trong và ngoài nước.
Nha Trang, cuối năm Mậu Tuất (2018)
Nhà nghiên cứu Nguyễn Bá Chung và nhà thơ Mỹ Sam Hamill dịch sang tiếng Anh

Thích Phước An (Ảnh: Quang Vu)


Introduction 
An Introduction to the Collection of Lê-Nguyễn Zen Poems

In the work Lịch sử tư tưởng Việt Nam tập VI (History of Vietnamese Ideas, Vol. VI), Nguyễn Đăng Thục has criticized King Lê Thánh Tông, a king whom almost every historian past and present has praised as “the most brilliant king of the Lê dynasty,” in the following manner:
“King Lê Thánh Tông only believed in Confucianism, considered the Lý dynasty as superstitious in Buddhism, but after a life devoted to serve the country, before leaving this world, he uttered the following words full of bewilderment:

Ngũ thập niên lai, thất xích khu
Cương trường như thiết khước thành nhu
which means:

After fifty years unflinching as a seven-meter man
My iron will and stout heart suddenly grow weakened
But we will have to wait until the two lines in the poem Poem carved at the pillar of Tu Mong Temple to see that it’s no longer an issue of bewilderment or agitation, but a matter of utmost agony when he shared the following with the bonze superior of Tu Mong Temple:

Đại giác hải trung quân dị độ
Vô cùng môn lý ngã nan hành
which poet Nguyen Duy translates as:

You pass the sea of enlightenment with ease
While I go about the world with enormous difficulties
Wasn’t it the king’s remorse because he had dealt unjustly with Buddhism, a religion that has been with the country since its very inception? It’s difficult for us to ascertain, esp. with spirits that have been considered great because the greater that spirit is, the more complicated and unmeasurable it becomes. But there is one thing we can be sure of, that a king who once denounced Buddhism, would in the end have to return to a Buddhist temple to unburden his own agonies, his own distresses.
In the thirty authors of the thirty poems in this collection, we will find all the different social members of the Lê-Nguyễn dynasties. Beyond the Zen masters, we find kings and lords, aristocrats, heroes who had driven out the Northern invaders such as Nguyễn Trãi and Ngô Thời Nhiệm, the sage Nguyễn Bỉnh Khiêm, the doctor Hải Thượng Lãn Ông, the great poet Nguyễn Du, the woman poet Hồ Xuân Hương, the scholar who resigned and led a hermit’s life Nguyễn Khuyến, and even a rebel against the Court Cao Bá Quát, etc .. All took their inspirations from Buddhist teaching or Buddhist temples.
Why did the intellectuals and Confucian scholars receive Buddhism with such enthusiasm? Esp. when these two dynasties had put out the most extreme slogans to wipe out Buddhism such as “Tịch Thích Lão,” “Tịch Phật Lão,” that is, to eliminate Buddhism and Taoism at the very root.
After dismantling the Triple Religion weltanschauung of Ly Tran Zen whose final representative Nguyễn Trãi had his three lineages exterminated (Sept 19, 1442), the Le dynasty employed Confucian ideology to rule the country.
Naturally, the monopoly of power was extremely potent in the beginning. As the king was looked upon as being the “Son of Heaven” (Thiên Tử), no one dared to go against him. After the death of King Lê Thánh Tông, Lê Uy Mục succeeded. He roiled the Court, killing his uncles’ sons in the royal family. His successor Lê Tương Dực was no better; he was involved in a fratricidal conflict, contending for authority to win power. In the end, the Lê dynasty was eliminated by Mạc Đăng Dung.
Certainly it wasn’t accidental that a veritable scholar like Nguyễn Bỉnh Khiêm, one who was praised as “The Leading Authority of the XVI century”, had sought out Phổ Minh pagoda of the Tran dynasty at Tức Mặc village, Thiên Trường district, the originating landmark of the glorious Trần dynasty. He composed two especially moving lines, one grieving over the passing of a prosperous dynasty, the other deploring the stupefied period he was living through:

Bi văn tước lạc hòa yên bích
Phật nhãn thê lương chiếu dạ thanh
Nguyễn Bá Chung translates:

Dim steles mingle with blue smoke
The Buddha’s sorrowful eyes pierce the sounds of night
Could it be that this was the true reason why the veritable scholars could only believe in Buddhism?
The reason the Lý-Trần dynasties brought the country to prosperity for nearly five centuries is because these two dynasties did not use Buddhism as a monopolistic ideology, but knew how to respect other contemporary ideologies and to bring them into solidarity with Buddhism, to build up a powerful and prosperous Đại Việt.
Generosity, that’s the essence of Buddhism. The history of propagation of over two thousand years of Buddhism has proved it.
To achieve a spirit of generosity, we should not be enslaved to any ideology, any school of thoughts, any theory as the Buddha has urged his disciples in the Samyutta Nikaya:
“Dear Kaccayana, the world mostly goes about searching for systematic ideas, and is constrained by credos. Those who do not search for systematic ideas, do not need theoretical standpoints, do not follow credos, do not see credos as fortresses, they will not have doubts and hesitation, because they do not depend on others in order to understand. His understanding must come from his own positive knowledge. That’s a genuine starting place.”
And it seems that the Buddha has predicted that the extremist theories would create sufferings for humanity in the following millennia when he said:
“Every standpoint is a thicket, a desert, a labyrinth, an enslavement, an intellectual bondage, which only bring about suffering and misery.” (Majjhima Nikaya)
Reading the above words of the Buddha, I’m reminded of Hương Hải Thiền Sư in the Lê dynasty who advises us not to “search for knowledge in dreams” but to find the transcendental spiritual values within ourselves.
Phản văn tự kỷ mỗi thường quan
Thẩm sát tư duy tử tế khan
Mạc giáo mộng trung tầm tri thức
Tương lai diện thượng đồ sư nhan
Nguyễn Bá Chung translates:

Every moment, be ready to watch one’s mind
Observe and ponder real carefully
No need to search for knowledge in dreams
Your Teacher’s face will shine in yours brilliantly
That poem is excerpted from The Collection of Lê-Nguyễn Zen Poems compiled and translated by Nguyễn Bá Chung and Nguyễn Duy. Nguyễn Ba Chung has lived and taught abroad for nearly half a century. Though living far from the homeland, he’s always deeply attached to the homeland. In an email sent to me recently, he wrote: “Zen poem is an essence of Vietnamese culture; without it, Vietnam could not have survived its thousand-years history. Thanks to it, Vietnam has been able to resolve all the contradictions, all the sufferings, all the adverse circumstances throughout its existence.”
Therefore, according Nguyễn Bá Chung’s perspective, Zen isn’t just the symbol of the beauty in our spiritual life, but it’s also deeply attached to the living history of our people. For poet Nguyễn Duy, he’s highly respected for his poems which are overflowing with love, worry, and poignant feelings for the country.
A researcher and a poet collaborate with each other to perform the translation, then, to me, such a collection is not only exacting in term of words used, but also afired with the poetical spirit.
In this collection, thirty Zen poems are turned into English by Sam Hamill, a founder of the famous Copper Canyon publishing house in the U.S.. Sam Hamill is well-known as a great translator of Chinese and Japanese poems.
With the Lý-Trần Zen poems, we have already had the magnificent series Poetry and Prose of the Lý-Trần Dynasties, published in 1978 by Uy Ban khoa hoc xa hoi Viet Nam. Here, for the first time we have a tri-lingual Collection of Lê-Nguyễn Zen Poems published in Việt Nam. This, to me, is very important, because for a long time we only know that Lý-Trần are the two most significant dynasties of Buddhism while Lê-Nguyễn are considered “singularly Confucian.” If we read the thirty poems in this collection, we will find that, as Prof. Lê Mạnh Thát says, “Buddhism knows how to grasp on to the living force of the People in order to endure, while any dynasty that does not fit well with the people’s will would be removed.”
Being greatly moved by the heart of Nguyễn Bá Chung and Nguyễn Duy towards Buddhist culture in particular and the people in general, I respectfully present this collection to my Buddhist friends and readers both here and abroad.
Nha Trang, end of the Year of the Dog (2018)
Thích Phước An

Friday, June 26, 2020

Google và Tuệ Giác của Thiền Sư Nhất Hạnh - Jo Confino/Sư cô Tại Nghiêm chuyển ngữ



Jo Confino/Sư cô Tại Nghiêm chuyển ngữ: Google và Tuệ Giác của Thiền Sư Nhất Hạnh


(Được chuyển ngữ từ bài viết “Google seeks out wisdom of Zen Master Thich Nhat Hanh” của tác giả Jo Confino đăng trên tờ The Guardian ngày 5/9/2013)
Tại sao nhiều tập đoàn công nghệ lớn nhất thế giới, trong đó có Google, lại dành sự quan tâm đặc biệt đối với một vị Thiền sư Phật giáo người Việt đã 87 tuổi?
Câu trả lời là tất cả các tập đoàn này đều mong muốn tìm hiểu: làm thế nào những lời dạy của Thiền sư Thích Nhất Hạnh – thường được hàng trăm ngàn đệ tử trên khắp thế giới gọi một cách thương kính là Thầy – có thể giúp cho tổ chức của họ có thể hoạt động một cách hiệu quả hơn và mang lại nhiều hạnh phúc hơn.
Thầy Nhất Hạnh được mời hướng dẫn một ngày thực tập chánh niệm tại trụ sở chính của Google tại California vào cuối tháng này – đây là một dấu hiệu cho thấy sự thực tập chánh niệm đang bắt đầu trở nên phổ biến trong xã hội hiện nay. Thầy – tác giả của hơn 2 triệu cuốn sách được bán ra ở Mỹ – sẽ có một buổi gặp gỡ với hơn 20 Giám đốc điều hành (CEO) của các tập đoàn công nghệ có trụ sở ở Mỹ tại Silicon Valley để chia sẻ tuệ giác của Thầy về nghệ thuật an trú trong hiện tại.
Trong buổi gặp gỡ này, Thầy dự định sẽ thảo luận với các Giám đốc điều hành của các tập đoàn công nghệ về cách thức làm thế nào để họ có được một sự hiểu biết sâu sắc về bản chất gắn kết và phụ thuộc lẫn nhau giữa mọi người và mọi loài. Với hiểu biết đó, họ có thể hiến tặng những công cụ thực tiễn để đưa sự thực tập chánh niệm trở thành một phần thiết yếu trong công việc hàng ngày của họ, trong những sản phẩm mà họ chế tạo ra cũng như trong chiến lược mà họ vạch định để khoa học công nghệ có thể mang lại sự thay đổi cho thế giới này. Buổi gặp gỡ này sẽ kết thúc bằng sự thực tập thiền hành.
Những nỗ lực của Thầy trong hơn 50 năm qua đã được nhiều nhà lãnh đạo thế giới ghi nhận. Giám đốc Ngân hàng thế giới Jim Yong Kim đã nói rằng phương pháp thực tập của Thầy Nhất Hạnh là phương pháp “giúp cho chúng ta có thể cảm thông và thương yêu một cách sâu sắc đối với những người đang khổ đau”. Thầy cũng đã từng được Mục sư Martin Luther King đề cử cho Giải Nobel Hòa bình vào năm 1967 vì những nỗ lực của Thầy trong việc kêu gọi hòa bình và chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam.
Mục sư Luther King nói rằng việc trao giải Nobel Hòa bình cho Thầy Nhất Hạnh “sẽ một lần nữa làm cho nhân loại thức tỉnh trước bài học lớn về cái đẹp và tình yêu được tìm thấy trong hòa bình. Nó làm sống dậy niềm hy vọng về một trật tự mới mang tính công bằng và hòa hợp cho thế giới này.”
Thầy Nhất Hạnh xuất gia đã được 71 năm. Mặc dù tuổi đã cao, Thầy vẫn liên tục đi hoằng pháp khắp nơi trên thế giới. Thầy hiện đang trong chuyến đi hoằng pháp ba tháng tại Bắc Mỹ với lịch trình khá nặng. Trước đó, Thầy đã có chuyến đi hoằng pháp tại châu Á cũng trong 3 tháng.
Tăng thân xuất sĩ của Thầy Nhất Hạnh được đánh giá là tăng thân có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới. Vé tham dự những khóa tu do Thầy hướng dẫn trong 1 tuần tại Toronto, Canada hay tại New York, Mississippi và California – mỗi khóa tu đều có hơn 1000 tham dự – đều được bán hết chỉ trong vài ngày.

Nền kinh tế chạy theo ham muốn

Thầy Nhất Hạnh cảnh báo rằng nền văn minh của chúng ta đang có nguy cơ sụp đổ trước những thiệt hại nghiêm trọng về xã hội cũng như môi trường sinh thái do nền kinh tế chạy theo ham muốn gây nên. Thầy cũng đồng thời chỉ ra cho chúng ta một hướng đi mới, đó là xây dựng một nền kinh tế lấy hạnh phúc chân thực làm mục tiêu, thay vì hy sinh hạnh phúc của mình để thờ phụng chủ nghĩa vật chất như bấy lâu nay chúng ta vẫn làm.
Những lời dạy của Thầy tập trung chủ yếu vào sự thực tập chuyển hóa khổ đau bằng cách buông bỏ những ưu sầu của quá khứ cũng như những lo lắng về tương lai, thông qua thiền định và nếp sống chánh niệm.
Thầy đã chỉ ra rằng tình trạng đam mê tiêu thụ hiện nay là dấu hiệu cho thấy chúng ta đang cố gắng khỏa lấp khổ đau trong chính mình. Và Thầy đề nghị chúng ta nên đi theo hướng ngược lại, đó là trở về để tiếp xúc trực tiếp với nỗi khổ, niềm đau trong ta để có thể vượt thoát những khổ đau đó.
Thầy cho rằng để các doanh nghiệp có thể đóng vai trò quan trọng trong việc chận lại con tàu tư bản đang chạy trật đường ray thì trước tiên các nhà lãnh đạo tập đoàn cần phải nhận ra sai lầm căn bản của mình, đó là cách tư duy hạn hẹp, lấy lợi nhuận làm thước đo duy nhất cho sự thành công của tập đoàn.

Cần có sự thay đổi căn bản trong nhận thức của các doanh nghiệp

Các doanh nghiệp cần phải trải qua một quá trình chuyển đổi căn bản về nhận thức. Họ cần phải nhận ra tầm quan trọng của việc đưa những giá trị tâm linh vào trong đời sống hàng ngày.
Trong một cuộc phỏng vấn với tờ The Guardian vào cuối khóa tu tuần trước tại Catskill Mountains về nghệ thuật chuyển hóa khổ đau, Thầy chia sẻ rằng: “Chúng ta cần phải xem lại quan niệm của chúng ta về hạnh phúc. Chúng ta nghĩ rằng hạnh phúc chỉ có được khi nào chúng ta giành thắng lợi, khi chúng ta giành được vị trí đứng đầu. Tuy nhiên, sự thực thì không cần thiết phải như vậy. Bởi vì ngay cả khi chúng ta kiếm được nhiều tiền hơn, chúng ta vẫn khổ đau như thường. Chúng ta cạnh tranh bởi vì chúng ta không hạnh phúc. Thiền tập có thể giúp cho chúng ta bớt khổ hơn”.
“Nhiều người trong chúng ta nghĩ rằng chúng ta chỉ có thể hạnh phúc khi nào chúng ta vượt lên trên những người khác, khi nào chúng ta trở thành nhân vật số 1. Sự thực là chúng ta không cần phải trở thành “number one” mới có thể hạnh phúc.
“Chúng ta cần phải có một hướng đi tâm linh trong đời sống của mình cũng như trong công việc kinh doanh, nếu không chúng ta không thể nào có thể xử lý những khổ đau do công việc và đời sống hàng ngày tạo ra.”
Các kỹ sư Google trao đổi và thực hành thiền

Những cuộc gặp gỡ với Mục sư Martin Luther King

Nhớ lại những lần gặp gỡ với Mục sư Luther King – những cuộc gặp gỡ này có ảnh hưởng rất quan trọng đến quyết định đấu tranh cho hòa bình và chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam của nhà tranh đấu cho dân quyền nổi tiếng thế giới này, Thầy Nhất Hạnh nói rằng Tổng thống Obama đã bỏ sót một yếu tố quan trọng trong bài phát biểu của mình vào tuần trước, nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày Mục sư Martin Luther King đọc bài diễn văn bất hủ có tựa đề “Tôi có một giấc mơ” (I have a dream).
“Khi Tổng thống Obama kêu gọi hãy để cho tự do được vang tiếng bay xa (let freedom ring), Tổng thống chỉ nói về tự do đến từ bên ngoài như tự do chính trị, tự do xã hội, nhưng thực tế là ngay cả khi chúng ta có rất nhiều tự do về tổ chức, về ngôn luận, về báo chí, v.v. chúng ta vẫn có thể khổ đau như thường bởi vì chúng ta không có tự do ở bên trong chúng ta, đó là sự tự do khỏi những giận hờn và sợ hãi”, Thầy chia sẻ.
Một trong những điều tâm huyết của Mục sư Luther King là xây dựng những cộng đồng, những đoàn thể sống hạnh phúc mà ông gọi là Beloved Community (tạm dịch là Tăng thân yêu quý). Cũng với mong ước đó, Thầy Nhất Hạnh đã dành hết tâm lực của mình cho việc xây dựng hơn một ngàn tăng thân cư sĩ trên khắp thế giới.
Tuy nhiên, liệu các nhà lãnh đạo doanh nghiệp có thể tạo ra một sự thay đổi tích cực hơn thông qua việc xây dựng tinh thần tăng thân, xây dựng văn hóa tập thể trong doanh nghiệp của mình?

Chánh niệm và thiền tập tại công sở

Thầy Nhất Hạnh cho rằng phương pháp thực tập chánh niệm và thiền tập nếu được áp dụng vào các doanh nghiệp sẽ giúp cho họ thay đổi được cách sống, cách làm việc có tính tiêu cực, đồng thời giúp họ nhận ra được bản chất tương tức và phụ thuộc lẫn nhau giữa mọi người và mọi loài.
“Thiền tập có thể giúp cho các thành viên trong doanh nghiệp vơi bớt khổ đau,” Thầy nói. “Chỉ riêng điều này thôi cũng đủ hữu ích rồi, bởi vì nếu nhân viên của một doanh nghiệp có đủ hạnh phúc thì doanh nghiệp đó sẽ làm ăn hiệu quả hơn.”
“Trong trường hợp công ty của anh đang có những hoạt động gây tổn hại môi trường, và bởi vì anh đã thực tập thiền nên anh có thể có được một cái thấy, cái thấy này sẽ giúp anh tìm ra cách thức điều hành công ty của mình theo hướng làm giảm nhẹ những tổn hại đối với môi trường.
“Thiền tập có tác dụng làm lắng dịu nỗi khổ, niềm đau trong ta, đồng thời mang lại cho ta nhiều tuệ giác và một cái thấy chân thực (chánh kiến) về chính bản thân mình và về thế giới. Và nếu ta có được tuệ giác của một tập thể thì chắc chắn là ta sẽ tổ chức và điều hành hoạt động của doanh nghiệp mình theo hướng làm cho thế giới này vơi bớt khổ đau.”
Theo Thầy, đem chánh niệm vào công sở, vào các doanh nghiệp còn có tác dụng giúp cho các nhân viên tránh được tình trạng bị quá tải bởi công việc, tuy nhiên để làm được điều này thì các chủ doanh nghiệp, các giám đốc công ty cần phải làm gương trước.
“Tìm kiếm trong tự thân” (Search Inside Yourself)
Các nhà lãnh đạo doanh nghiệp cần phải biết chăm sóc chính mình trước tiên
Thầy cho rằng nhiều lãnh đạo cao cấp của các tập đoàn đã bắt đầu đề cập đến tầm quan trọng của sự phát triển bền vững, tuy nhiên rất ít người trong số đó thấy được mối liên hệ giữa sự phát triển bền vững của một doanh nghiệp với văn hóa bên trong của doanh nghiệp mà họ đang điều hành.
“Nếu người giám đốc doanh nghiệp dành toàn bộ thời gian của mình cho công việc của doanh nghiệp, người đó sẽ không còn thời gian để chăm sóc cho chính mình hay cho gia đình của mình. Người giám đốc đó cần phải nhận ra rằng doanh nghiệp của mình sẽ hoạt động hiệu quả hơn nếu người đó trở nên lắng dịu, tươi mát hơn, có khả năng cảm thông và thương yêu nhiều hơn” Thầy nói.
Trong điều kiện hiện nay khi mà máy tính trở nên quá phổ biến và tiện dụng với tốc độ xử lý ngày càng nhanh thì các giám đốc doanh nghiệp lại càng khó có được thời gian cho riêng mình, thời gian để nhìn lại bản thân và tìm niềm cảm hứng cho cuộc đời mình.

Sức mạnh của Vô tác

Thầy chia sẻ về tầm quan trọng của sự thực tập vô tác (aimlessness), tức là không chờ đợi kết quả, không mong cầu gì hết khi hành động, không có đối tượng gì để chạy theo. Thông thường chúng ta hay có thói quen chạy theo hết dự án này đến dự án khác, không ngừng nghỉ.
“Chúng ta thường cho rằng hạnh phúc nằm ở tương lai, vì vậy sự thực tập vô tác là dừng lại, không đuổi theo một đối tượng nào nữa cả và tìm hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây”, Thầy nói.
“Hạnh phúc chân thực không thể nào có được nếu không có bình an. Nếu ta cứ mãi đuổi theo một đối tượng nào đó thì làm sao ta có thể có bình an. Ta cứ chạy hoài, chạy mãi, ngay cả trong giấc mơ chúng ta vẫn còn chạy. Đó là thực trạng của nền văn minh chúng ta”.
“Chúng ta phải đi ngược lại xu hướng này. Chúng ta phải trở về với chính mình, trở về với những người thân yêu, trở về với thiên nhiên. Lâu nay chúng ta để cho các thiết bị điện tử kéo chúng ta ra khỏi chính mình. Chúng ta đánh mất mình trong Internet, trong các dự án, các kế hoạch kinh doanh, vì vậy mà chúng ta không có thời gian cho chính mình. Chúng ta không có thời gian để chăm sóc những người mà ta thương yêu và cũng đồng thời không để cho Đất Mẹ có cơ hội trị liệu cho chúng ta. Chúng ta luôn có xu hướng trốn chạy khỏi chính mình, khỏi gia đình và khỏi thiên nhiên xung quanh.”.
Hầu hết các nhà lãnh đạo doanh nghiệp đều khó nói ra những áp lực mà họ đang phải gánh chịu. Tuy nhiên gần đây một số giám đốc điều hành của những tập đoàn nổi tiếng đã can đảm chia sẻ với công chúng về những áp lực trong công việc của mình, tương tự như những lo ngại của Thầy Nhất Hạnh.
Từ chức một vài tháng trước khi tập đoàn của mình bị phá sản, Erin Callan, cựu Giám đốc Tài chính của tập đoàn Lehman Brothers, đã can đảm viết lại những trải nghiệm của mình khi bị công việc lôi kéo hoàn toàn và chia sẻ điều đó với công chúng vào đầu năm nay.
“Khi quyết định nghỉ việc ở công ty, tôi cảm thấy suy sụp và buồn khổ vô cùng”, Erin Callan chia sẻ trên tờ New York Times. “Tôi không thể nào lấy lại sức lực và đi tiếp được nữa. Tôi không biết phải dựa vào đâu để khẳng định chính mình nếu không có công việc.”
“Vào ngày nghỉ cuối tuần, nếu không phải làm thêm việc của công ty thì tôi cũng dành thời gian để sạc lại năng lượng cho một tuần làm việc kế tiếp. Nói chung, đối với tôi lúc đó, công việc luôn chiếm vị trí ưu tiên số 1, trên cả gia đình, bạn bè và cả việc hôn nhân – chuyện hôn nhân của tôi cũng chỉ kéo dài được một vài năm.”

Bản chất lưỡng nguyên của công nghệ

Mặc dù lo ngại về những tác dụng tiêu cực của công nghệ, Thầy vẫn nhận thấy bản chất lưỡng nguyên của công nghệ, nghĩa là bên cạnh những tác dụng tiêu cực, công nghệ cũng có tác dụng rất hữu ích. Đó là lý do vì sao trong cuộc gặp gỡ sắp tới, Thầy sẽ kêu gọi các Giám đốc điều hành của các tập đoàn công nghệ tập trung phát triển các phần mềm ứng dụng và những thiết bị công nghệ khác để giúp đưa mọi người trở về với một cuộc sống cân bằng.
“Chúng ta cần phải có sự tỉnh thức. Khi nói chuyện với Google và các tập đoàn công nghệ khác, tôi sẽ đề nghị họ sử dụng trí tuệ và thiện chí của mình để tạo ra những phương tiện, những công cụ có khả năng giúp cho mọi người trở về với chính mình, để trị liệu cho chính mình” Thầy nói. ” Chúng ta không loại trừ hay vứt bỏ tất cả các thiết bị công nghệ này, mà chúng ta có thể hoàn toàn tận dụng được những tiến bộ của công nghệ.”
Thầy gợi ý về việc phát triển những phần mềm ứng dụng có khả năng giúp mọi người lắng dịu cơn giận khi nó phát khởi. Thầy cũng đề cập đến loại đồng hồ Now Watch được Thầy thiết kế với mục đích giúp mọi người trở về với phút giây hiện tại: trên mặt đồng hồ, mỗi giờ được đánh dấu bằng chữ “Now” (nghĩa là Bây giờ) thay vì số giờ như thông thường.
Google đã mời Thầy chia sẻ về những nội dung như: xây dựng mục tiêu trong công việc, sự sáng tạo và tuệ giác. Thầy nói rằng chúng ta đều có thể đạt được những điều này thông qua sự thực tập chánh niệm.
Thầy đã được mời đến thăm tập đoàn Google vào năm 2011 và kể từ đó, sự thực tập chánh niệm đã được áp dụng nhanh chóng tại tập đoàn công nghệ hàng đầu này. Số lượng người tham gia vào chương trình “Tìm kiếm trong tự thân” (Search Inside Yourself) – chương trình thiền tập chính thức của Google – ngày càng tăng. Các phòng dành cho thiền tập cũng đã được thiết kế bên trong nhiều tòa nhà làm việc của Google.
Thầy nói rằng: “Cũng như mọi người, các nhân viên của Google cũng mong muốn học hỏi cách thức chuyển hóa khổ đau của chính mình”.
“Đa số các nhân viên ở đây đều còn rất trẻ và tài năng, vì vậy mà họ có thể hiểu và thực tập những điều Thầy dạy một cách nhanh chóng. Họ còn có đủ phương tiện để đem sự thực tập này đến được với rất nhiều người.”
“Sẽ rất hữu ích nếu họ biết rằng ai trong chúng ta cũng có ước mong làm những điều đẹp và lành, bởi vì mỗi người trong chúng ta đều có tính Bụt. Khi nhìn vào con đường bất thiện, không chân chính, chúng ta có thể tìm thấy trong đó một con đường ngược lại. Cũng như nhìn vào khổ đau, chúng ta sẽ thấy được con đường đưa tới hạnh phúc. Đây là giáo lý Tứ Diệu Đế trong đạo Bụt, nhưng chúng ta không cần phải là một Phật tử mới có thể hiểu được điều đó.
“Xã hội của chúng ta đang cần một sự tỉnh thức tập thể để có thể cứu chúng ta ra khỏi cuộc khủng hoảng hiện nay. Vì vậy chúng ta cần phải thực tập để chế tác năng lượng tỉnh thức trong từng bước chân và từng hơi thở. Nếu ta có được sự tỉnh thức thì cũng có nghĩa là ta đang đi trên con đường hạnh phúc, ta có thể chuyển hóa được khổ đau trong ta. Và khi đó ta có thể giúp những người khác làm được tương tự.”
(Sư cô Tại Nghiêm chuyển ngữ)

Xin đọc tiếng Anh ở đây. Read English here.
https://www.theguardian.com/sustainable-business/global-technology-ceos-wisdom-zen-master-thich-nhat-hanh