Friday, November 13, 2020

Tấm Lòng của Một Huynh Trưởng Già



Tấm Lòng của Một Huynh Trưởng Già
Thương tặng Htr. Diệu Chân - CDL

 

Chị gọi em xin lỗi

Vì chưa kịp gửi tiền

Chị cũng là nàng tiên

Lương tháng này cho hết

 

Thiên / nhân tai đói chết

Ôi miền Trung quê hương

Gửi đến bao người thương

Hẹn tháng sau cho tiếp

 

Sống an vui một kiếp

Tử tế lẫn bao dung

Vị tha cõi muôn trùng

Nhận / Cho Ba la mật

 

Tâm này là Tâm Phật

Bao trí tuệ từ bi

Không chấp / tham sân si

Giữ ba nghiệp thanh tịnh

 

Ôi Miền Trung sinh linh

Xin Có Mặt Cho Nhau *

Vơi bớt nỗi khổ đau.

Giúp người qua hoạn nạn

 

Miền Trung bao lãng mạn

Cõi nào riêng cho em !

 

 

* Có Mặt Cho Nhau

Website: https://cmcn.online

Mạng xã hội: https://www.facebook.com/cmcn.online

https://www.facebook.com/groups/comatchonhau2020

Email: trieuquyentapchoem@gmail.com

 

 

| THÔNG BÁO 11.01.2020 |

Kính thông tri.

Hiện nay, nhóm Có Mặt Cho Nhau đang thực hiện 3 việc chính.

1. Cứu trợ Trực tiếp: Tại Huế, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Ngãi và các vùng phụ cận. Do, hai Thầy Tâm Ý và Từ Niệm phụ trách. Hậu phương CTTT do bạn Tạ Nguyên Tân phụ trách.

2. Chuẩn bị hậu cần và yểm trợ các nhóm cứu trợ do anh Lê Vũ Bảo phụ trách.

3. 1 Triệu Quyển Tập Cho Em: Chị Đặng Thị Trúc Giang phụ trách.

Tất cả những anh chị em thiện nguyện khác, vẫn y như cũ.

Có Mặt Cho Nhau rất mong sự tiếp tục đồng hành và hỗ trợ của quý vị. Xin hồi hướng công đức và kính chúc quý vị sáu thời an lành. 🙏🙏🙏

p.s. Hãy thích / Like trang nhà CMCN để nhận thêm tin tức. https://www.facebook.com/cmcn.online

 

MỌI ĐÓNG GÓP HAY ỦNG HỘ, xin gởi về:

 

1. Nếu quý vị muốn ủng hộ các chương trình "10 tấn gạo"; "Đổi Sách Thành Gạo/Vở"; Quỹ Học Bổng CMCN; Quỹ Yểm Trợ Các Em Mồ Côi, CMCN - Cùng Em Đến Trường.

*Mọi đóng góp xin gửi về: Huỳnh Quang Vũ

4000 1015 240782 - Ngân hàng Hàng hải (Maritime bank - MSB).

Chi nhánh Gia Lai

 

2. Nếu quý vị muốn đóng góp cho Chương Trình Triệu Vở Cho Em, xin ủng hộ ở đây.

 

Chương trình Triệu Quyển Tập Cho Em hiện chỉ mới đi được một chặng đường nhỏ. (Khi thông báo này đến với quý cô bác anh chị, thì quỹ Triệu Quyển Tập Cho Em đã nhận được 818.887.000 VND, tức gần 1/4 đoạn đường). Vẫn còn rất nhiều nơi chờ được tiếp sức, vì vậy rất mong quý cô bác anh chị hãy tiếp tục chung tay.

Hiện một quyển tập theo giá thị trường hiện nay CHỈ khoảng 4.000 VND!

Nhóm CMCN rất mong được đón nhận sự đóng góp, chung sức cho chương trình TRIỆU QUYỂN TẬP CHO EM qua số Tài khoản:

ĐẶNG THỊ TRÚC GIANG -  133450659 - Ngân hàng ACB - Bình Thuận

Góp sức từ Hoa Kỳ (hay bên ngoài Việt Nam) thì xin dùng Venmo/PayPal với account @PheBach

----------------

 

3. Nếu quý vị ủng hộ chung chung cho việc cứu trợ Miền Trung, xin gởi Tạ Nguyên Tân - 0966 777 888

Số tài khoản: 62010000365762

Ngân hàng: BIDV Gia Lai

Tên tài khoản: TẠ NGUYÊN TÂN

 

4. Nếu quý vị ủng hộ Quỹ học bổng Chánh Nguyên

Nhận mọi sự hỗ trợ: Tỳ Kheo: Thích Tâm Ý (facebook An Trú)

Địa chỉ: chùa Thiên Hưng, 4/77 Trần Thái Tông, phường Thuỷ Xuân, thành phố Huế. Số điện thoại: 0906344008

Chủ tài khoản: Phạm Tăng Duy (facebook An Trú)

Số tài khoản: 030023766538

Ngân hàng sacombank. Chi nhánh Việt Trì- Phú Thọ.

Lưu ý: khi gửi quý vị ghi rõ: ủng hộ học bổng Chánh Nguyên.

 

5. Nếu quý vị tại Hoa Kỳ/Hải Ngoại, hãy ủng hộ/liên lạc

Htr. Tâm Thường Định

Venmo/PayPal @PheBach hay Zelle @9166074066.



Giới thiệu: BỘ NÃO CỦA PHẬT (Rick Hanson; Richard Mendius)




BỘ NÃO CỦA PHẬT
Tác giả: Tiến sĩ y khoa Rick Hanson - Tiến sĩ y khoa Richard Mendius
Dịch giả: Nguyễn Hà Phương, Lê Thị Minh Hà
Phát hành: 05-2019
NXB: Hồng Đức
Số trang: 356

Cuốn sách là sự gặp gỡ giữa khoa học thần kinh hiện đại phương Tây và truyền thống thực hành tâm linh cổ xưa của Đạo Phật phương Đông, không chỉ mang đến cho chúng ta những cách thức hiệu quả để phát triển hạnh phúc thật sự trong cuộc sống, mà còn giải thích một cách tâm lý về việc những cách thức đó hoạt động như thế nào và vì sao chúng lại hoạt động như vậy. Chính thông qua những điều như vậy mà “Lịch sử khoa học trở nên phong phú nhờ thành công trong việc giao thoa giữa hai xu hướng kĩ thuật, hai chiều hướng tư tưởng được phát triển ở những bối cảnh khác nhau trong việc theo đuổi chân lý mới.” (J. Robert Oppenheimer).

"Bộ não của Phật" giúp bạn hiểu rõ hơn cách thức hoạt động của bộ não (một trong những bộ phận quan trọng nhất của cơ thể), lý giải vì sao con người có xu hướng chú ý đến những điều tiêu cực, theo cơ chế của bộ não đã từng giúp loài người sống sót qua các thời kì khó khăn trong quá khứ nhưng lại tạo nên những thói quen xấu gây ra khổ như thế nào, cùng cách chuyển hóa những thói quen đó để có cuộc sống hạnh phúc, tình thương và trí tuệ thông qua các thực hành của Đạo Phật (bố thí, trì giới và những thực hành thiền cơ bản: thiền hơi thở – anapanasati, chánh niệm – vipassana và thiền phát triển tình yêu thương – metta bhavana).

Thông qua cuốn sách, ngoài cơ hội tiếp cận với những kiến thức mới, hữu ích về khoa học thần kinh – một ngành khoa học khá mới mẻ, nhất là ở Việt Nam, bạn đọc còn có thêm những cái nhìn mới về cuộc sống, về hạnh phúc và cả việc thực hành thiền, tâm linh của chính mình bằng các bài hướng dẫn thực hành hữu ích được giới thiệu ngắn gọn trong cuốn sách.
___________________________

CÁCH SỬ DỤNG CUỐN SÁCH

Để sử dụng cuốn sách này, các bạn không cần phải có bất cứ nền tảng kiến thức nào về khoa học thần kinh, tâm lý học hoặc thiền tập. Cuốn sách đã dệt thông tin và các phương pháp lại với nhau – giống như một cuốn cẩm nang vận hành về bộ não được kết hợp với một bộ đồ nghề – và các bạn sẽ tìm thấy những công cụ hoạt động tốt nhất cho mình trong đó.

Vì bộ não hết sức thú vị nên chúng tôi đã trình bày khá nhiều nghiên cứu khoa học mới nhất về bộ não, gồm cả những tài liệu tham khảo trong trường hợp các bạn muốn tìm đọc chúng để tự tìm hiểu. (Nhưng để tránh việc này khiến cho cuốn sách trở thành một cuốn giáo trình y khoa, chúng tôi đã đơn giản hóa các mô tả về những hoạt động thần kinh nhằm mục đích chỉ tập trung vào các đặc tính thiết yếu của chúng.) Mặt khác, nếu các bạn cảm thấy lôi cuốn hơn trong các phương pháp thực hành, các bạn hoàn toàn có thể lướt qua những phần trình bày về khoa học thần kinh. Lẽ dĩ nhiên, tâm lý học và thần kinh học, cả hai đều là những ngành khoa học non trẻ mà có rất nhiều điều chúng ta vẫn chưa hiểu hết về chúng. Cho nên chúng ta không phải cố gắng lĩnh hội tất cả. Trên thực tế, chúng ta đã có được cơ hội và đang tập trung vào các phương pháp để có một lời giải thích mang tính khoa học đáng tin cậy về việc tâm lý học và thần kinh học thúc đẩy các mạng thần kinh của sự mãn nguyện, lòng tốt và bình an như thế nào.

Các phương pháp này bao gồm một số bài hướng dẫn hành thiền. Tuy nhiên những bài hướng dẫn thiền đó mang chủ đích không gò ép, được viết với từ ngữ có tính liên tưởng và nên thơ hơn là chuyên biệt và chặt chẽ. Các bạn có thể tiếp cận các bài hướng dẫn này theo những cách khác nhau như: có thể chỉ đọc và suy nghĩ về chúng; có thể kết hợp một số phần trong chúng với bất cứ sự hành thiền nào mà các bạn vẫn đang thực hành; có thể rủ bạn bè cùng tập chúng; hoặc các bạn có thể thu âm những bài hướng dẫn này và tự mình thực hành. Những bài hướng dẫn này chỉ là những gợi ý và bạn có thể tạm dừng chừng nào bạn thích. Không có cách thức sai để hành thiền, còn cách thức đúng chính là cảm thấy đúng những gì đến với bạn.

Và chúng tôi cũng đưa ra lời cảnh báo rằng: Cuốn sách này không phải là một liệu pháp thay thế cho việc chăm sóc sức khỏe theo chuyên môn, cũng như không phải là cách thức chữa trị cho bất cứ căn bệnh nào về tâm thần hoặc thể chất. Những điều khác nhau luôn được dành cho những người khác nhau. Đôi khi một phương pháp có thể gây ra những cảm giác không thoải mái, nhất là khi bạn có tiền sử về tổn thương tinh thần. Bạn nên gạt bỏ một phương pháp như vậy, bàn bạc với bạn bè (hoặc nhà tư vấn), thay đổi hoặc loại bỏ nó hoàn toàn. Hãy đối xử tử tế với chính mình.

Cuối cùng, nếu tôi biết một điều gì chắc chắn, thì đó chính là các bạn có thể thực hiện những điều nhỏ bé ngay bên trong tâm mà sẽ dẫn tới những thay đổi lớn trong bộ não và kinh nghiệm sống của các bạn. Tôi đã chứng kiến điều này xảy ra nhiều lần với những người tôi biết trên phương diện là một nhà tâm lý học hoặc một giảng viên dạy thiền [thiền sư], mà tôi cũng đã chứng kiến điều đó trong suy nghĩ và cảm giác của chính mình. Các bạn thực sự có thể đạt được trọn vẹn điều đó của mình theo hướng đi tốt hơn mỗi ngày.

Khi các bạn thay đổi bộ não của mình, các bạn thay đổi cuộc sống của mình.
___________________________

LỜI NÓI ĐẦU

Cuốn sách “Bộ não của Phật” là một lời khích lệ bạn nên sử dụng sự tập trung của tâm để khai thác sức mạnh của sự chú tâm nhằm nâng cao cuộc sống và các mối quan hệ xã hội của bạn. Bằng việc kết hợp những tuệ giác cổ xưa về hành thiền theo truyền thống Phật Giáo với những khám phá hiện đại trong lĩnh vực khoa học thần kinh, hai tiến sĩ y khoa Rick Hanson và Richard Mendius đã tổng hợp nên sự hướng dẫn đáng suy ngẫm và thiết thực này giúp đưa bạn từng bước đi trên con đường tỉnh thức tâm của bạn.

Gần đây, cuộc cách mạng trong khoa học đã phát hiện thấy bộ não ở người trưởng thành vẫn không ngừng thay đổi theo tuổi thọ của con người. Mặc dù nhiều nhà khoa học nghiên cứu về bộ não trước đây đã giải thích rằng tâm chỉ là hoạt động của bộ não, nhưng giờ đây chúng ta có thể nhận thấy sự kết nối giữa hai phương diện này [tâm và bộ não] trong cuộc sống theo một cách nhìn khác. Khi chúng ta xem tâm như một quá trình được biểu thị và mang tính liên hệ nhằm kiểm soát luồng năng lượng và thông tin, chúng ta đều nhận thấy rằng chúng ta có thể thực sự sử dụng tâm để thay đổi bộ não. Chân lý đơn giản chính là cách chúng ta tập trung sự chú tâm, cách chúng ta định hướng có chủ đích luồng năng lượng và thông tin xuyên suốt các mạch thần kinh của mình như thế nào để có thể thay đổi được hoạt động của bộ não và cấu trúc của nó một cách trực tiếp. Bí quyết là để biết cách sử dụng sự nhận biết của chúng ta trong việc làm gia tăng hạnh phúc.

Khi biết tâm mang tính liên hệ và bộ não là cơ quan xã hội của cơ thể, chúng ta còn có một quan điểm mới khác nữa. Đó là: các mối quan hệ của chúng ta với người khác không phải là một sự tình cờ trong cuộc sống; chúng là cơ sở cho tâm của chúng ta thực hiện chức năng ra sao và là một khía cạnh then chốt của sức khỏe bộ não. Các kết nối xã hội của chúng ta với người khác định hướng những kết nối về thần kinh của chúng ta để hình thành cấu trúc của bộ não. Điều này có nghĩa rằng cách chúng ta giao tiếp thay đổi thực sự hệ thống mạch thần kinh của bộ não, đặc biệt theo những cách giúp duy trì sự cân bằng cho cuộc sống của chúng ta. Hơn nữa, khoa học cũng đã xác minh rằng khi chúng ta nuôi dưỡng lòng trắc ẩn và sự nhận biết có chánh niệm trong cuộc sống – khi chúng ta buông bỏ sự chỉ trích và chú tâm hoàn toàn vào hiện tại – là chúng ta đang kiểm soát các mạch thần kinh về xã hội của bộ não nhằm cho phép chúng ta chuyển hóa ngay cả mối quan hệ lẫn bản thân chúng ta.

Các tác giả đã kết hợp những thực hành Phật Giáo được phát triển qua hơn hai nghìn năm trăm năm với những tuệ giác mới mẻ về các hoạt động của bộ não để mang đến cho chúng ta sự hướng dẫn này nhằm mục đích giúp chúng ta tạo ra những thay đổi tích cực ngay trong chính bản thân chúng ta. Kỉ nguyên hiện đại ngày nay liên tục phát triển các chương trình tự động, không ngừng làm cho chúng ta trở nên bận rộn hơn và tất bật thực hiện những công việc đa nhiệm kĩ thuật số, với lượng thông tin quá tải cùng các lịch trình dày đặc gây căng thẳng cho bộ não và lấn át cuộc sống của chúng ta. Việc tìm được khoảng thời gian để tạm ngừng giữa mớ hỗn loạn này đã trở thành một nhu cầu cấp bách mà rất ít người trong chúng ta có thể đáp ứng được. Vì vậy, với “Bộ não của Phật”, chúng ta được khuyến khích chỉ cần thực hiện một hơi thở sâu và xem xét những lý do về thần kinh vì sao chúng ta nên sống chậm lại, cân bằng bộ não và cải thiện các mối quan hệ cũng như chính bản thân mình.

Những bài luyện tập được đưa ra trong cuốn sách đều dựa trên sự thực hành đã được minh chứng một cách khoa học để có những tác dụng tích cực trong việc định hình thế giới nội tại của chúng ta bằng cách làm cho chúng ta trở nên tập trung, nhẫn nại và linh hoạt hơn. Những bước thành công này không chỉ nâng cao sự đồng cảm của chúng ta đối với người khác, mà còn mở rộng phạm vi của lòng trắc ẩn và sự quan tâm chăm sóc của mỗi chúng ta đối với chính thế giới mà chúng ta đang sống ở đó, nơi luôn tồn tại những mối liên hệ với nhau. Sự hứa hẹn của việc khai thác tâm để thay đổi bộ não của chúng ta thông qua những sự thực hành này là nhằm mục đích xây dựng nên mạch thần kinh của bộ não về lòng tốt và hạnh phúc trong từng phút giây, ở mỗi con người, cho từng mối quan hệ tại mọi thời điểm. Vậy chúng ta có thể yêu cầu điều gì hơn thế? Và thời điểm nào để bắt đầu điều đó tốt hơn ngay chính lúc này?

Tiến sĩ y khoa Daniel J. Siegel
Tác giả của các cuốn sách “Mindsight: The New Science of Personal Transformation” và “The Mindful Brain: Reflection and Attunement in the Cultivation of Well-Being”.
Viện Mindsight và Trung tâm nghiên cứu nhận biết chánh niệm UCLA
Los Angeles, California
Tháng Sáu năm 2009
___________________________

LỜI TỰA

Trong cuốn sách “Bộ não của Phật”, hai tiến sĩ y khoa Rick Hanson và Richard Mendius đã mang đến cho độc giả một sự kết nối rõ ràng và thiết thực thật tốt đẹp với những lời dạy trí tuệ quan trọng và cần thiết của Đức Phật. Sử dụng ngôn ngữ hiện đại của nghiên cứu khoa học, các tác giả đã khuyến khích độc giả khai mở sự huyền bí của tâm, mang lại một sự hiểu biết hiện đại đối với những lời dạy cổ xưa và uyên thâm về sự hành thiền nội tại. Cuốn sách “Bộ não của Phật” đã kết hợp khéo léo những lời dạy cổ xưa kia với những phát hiện mang tính cách mạng của khoa học thần kinh, vốn đã bắt đầu chứng thực các khả năng của con người về chánh niệm, lòng trắc ẩn và sự tự điều chỉnh là những trọng tâm đối với đào tạo thiền quán.

Qua cuốn sách này, độc giả sẽ học được những cách thức nội tại thực hành và khoa học về bộ não để nâng cao trạng thái hạnh phúc, phát triển sự thanh thản [tâm Xả] và lòng trắc ẩn [tâm Bi], đồng thời giảm bớt khổ. Độc giả sẽ được giới thiệu để giác ngộ những cái nhìn mới mẻ về cuộc sống và những cơ sở mang tính sinh học cho việc thúc đẩy sự phát triển trí tuệ này. Các chương sách sẽ giúp độc giả hiểu rõ hơn về hoạt động của tâm và gốc rễ thần kinh của hạnh phúc, sự đồng cảm và sự tương hỗ.

Những lời dạy làm nền tảng của mỗi chương – các chân lý cao quý [Tứ Diệu Đế], nền tảng của chánh niệm [Tứ Niệm Xứ] và sự phát triển đức hạnh, tình yêu thương [tâm Từ], tha thứ và bình an nội tại – đều dễ hiểu và gần gũi, được thể hiện trong lời mời gọi của Đức Phật khích lệ mọi người tự mình chứng nghiệm. Sự thực hành theo những lời dạy này cũng rõ ràng và đáng tin cậy. Về cơ bản, đó là những thực hành giống như những gì bạn sẽ học được ở một thiền viện.

Tôi đã chứng kiến Rick cùng Richard hướng dẫn thực hành cho người khác theo những lời dạy này và tôi đánh giá cao điều đó tác động tích cực như thế nào tới tâm trí của những người đã tới thực hành cùng họ.

Hơn bao giờ hết, thế giới loài người cần tìm ra những cách thức xây dựng được tình yêu thương, sự hiểu biết và bình an, trong phạm vi mỗi cá nhân và trên toàn cầu.

Mong cho những lời này góp phần vào sự nỗ lực hết sức này.
Mong cho tất cả đều an vui,
Tiến sĩ Jack Kornfield
Trung tâm Spirit Rock
Woodacre, California
Tháng Sáu năm 2009
____________
Độc giả xem chi tiết tại:

Saturday, November 7, 2020

Nguyên Giác: Lắng Nghe Bờ Bên Kia

 



Lắng Nghe Bờ Bên Kia

Nguyên Giác


Nhan đề bài viết -- Lắng Nghe Bờ Bên Kia -- là một cách viết thơ mộng, dựa theo Kinh Lăng Nghiêm, và cũng mượn ẩn dụ Đức Phật thường nói, rằng hãy nương vào bè pháp để vượt qua dòng sông sinh tử. Bè pháp là Bát Chánh Đạo, dòng sông sinh tử còn gọi là bể khổ. Thấy khổ nơi cõi này là dễ, nhưng thấy thân tâm mình đang bị khổ tan hoại thường trực gặm nhấm là khó. Sinh già bệnh chết là khổ. Chiến tranh, nghèo khó, đại dịch, bão lụt là khổ. Phải có kinh nghiệm sâu thẳm về khổ, không phải là chữ nghĩa trừu tượng, không phải là suy luận mơ hồ, mà là cái gì rất thực y hệt như khắp trời sương mù đang ngấm ướt toàn thân, mới biết sợ để tinh tấn lo tu. Bài viết này, phần lớn, sẽ nhìn từ Kinh Lăng Nghiêm, tập trung vào pháp viên thông; viên là tròn đầy, thông là không ngăn ngại. Người viết không có thẩm quyền nào; sai sót tất nhiên sẽ có, xin được sám hối với Tam Bảo.

Thực tế, không dễ có duyên lành tu học, vì cõi này quá nhiều ràng buộc. Cứ nhìn quanh là cũng thấy. Nhiều người trong ngày phải làm hai việc ở hai nơi, hết việc này xong là chạy sang việc kia, tới cuối tháng là phải lo tiền gửi về cho ba mẹ, anh em ở quê nhà; do vậy, cũng không còn bao nhiêu thì giờ đi chùa, dự khóa tu, hay đọc kinh sách. Giới trẻ cũng bận theo cách khác, mất 1/3 cuộc đời để học ngày học đêm, ra trường lại ganh đua tìm sự nghiệp, trong khi tiếng Việt thì kém, không mấy cơ duyên thân cận với tăng ni để học pháp. Nhưng không lo tu học thì biết tới bao giờ giải thoát. Thấy vậy, phải luôn luôn nhớ lời Phật dạy là phải tinh tấn y hệt như lửa cháy trên đầu.

Thêm nữa, tu giải thoát là khó, không dễ. Nhưng đã có duyên lành tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, nếu kiếp này không tinh tấn tu học thì kiếp sau đã chắc gì được thân người. Đức Phật đã cảnh giác trong Kinh MN 41 rằng chúng sinh sau khi từ trần sẽ có người đọa xuống cõi dữ, và có người sinh lên cõi lành, trích bản dịch của Thầy Minh Châu: “...một số loài hữu tình, sau khi thân hoại mạng chung phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục... một số loài hữu tình sau khi thân hoại mạng chung được sanh vào thiện thú, Thiên giới, đời này...” (1)

Câu hỏi là, có thể tìm một pháp tu nào đơn giản, thích hợp với những người rất mực bận rộn, hoàn toàn không có thì giờ để hàng ngày tụng kinh hay ngồi thiền? Đức Phật có dạy pháp tu nào thích nghi cho những người hàng ngày làm việc không nghỉ, về nhà là mệt tới mức lăn ra ngủ? Không thể trả lời đơn giản là có hay không. Vì bước đầu tiên tu là cần phải học nhiều, phải đọc nhiều, và phải có một số kinh nghiệm thực chứng mới có được niềm tin bất động vào Đức Phật

Trong Kinh AN 10.64, qua bản dịch Thầy Minh Châu, Đức Phật dạy rằng chỉ cần niềm tin kiên cố, niềm tin bất động vào Đức Phật là được vào dòng Pháp, ít nhất là chứng quả Nhập lưu, tức là 7 lần trở về cõi này tu học nữa là hoàn toàn giải thoát, trích:

"Này các Tỷ-kheo, những ai có lòng tịnh tín bất động ở nơi Ta, tất cả những vị ấy là những bậc Dự lưu. Với những bậc Dự lưu ấy, năm hạng người đạt được cứu cánh ngay ở nơi đây. Năm hạng người, sau khi từ bỏ đời này, đạt được cứu cánh. Và năm hạng người nào, đạt được cứu cánh, ngay ở nơi đây? Hạng trở lui nhiều nhất là bảy lần (Thất lai)..." (2)

Bản kinh vừa dẫn nên hiểu ngầm rằng, những vị đó là đã quy y và thọ ngũ giới, và niềm tin dẫn tới thánh quả Thất Lai (còn gọi là: Tư Đà Hoàn, Nhập Lưu) phải là niềm tin bất động vào Phật, Pháp, Tăng. Nghĩa là, song song niềm tin là giữ ngũ giới (không giết, không tà hạnh, không trộm, không nói dối, không rượu hay chất gây nghiện). Có vài chục kinh nói rõ 4 chi phần như thế: chỉ cần kiên cố tin Phật, tin Pháp, tin Tăng và giữ giới là đắc quả Thất Lai. Xin đọc lời giới thiệu tiếng Anh nơi nhóm 10 kinh SN 55.1-55.10 ở link số (3)

Làm thế nào để tin Phật, tin Pháp, tin Tăng? Phải tin bất động, tin kiên cố, tin chắc thật, chứ không phải tin sơ sơ, tin lờ mờ. Muốn tin như thế, phải đọc kinh nhiều, phải lên mạng YouTube nghe giảng kinh sách (dù vậy, không phải thầy nào cũng giảng đúng ý Phật). Còn giữ giới nữa, làm sao giữ cho toàn vẹn thật là khó. Trong thân khẩu ý, chúng ta có thể giữ thân và lời nói cho trong sạch tương đối dễ, nhưng các ý niệm đột khởi trong tâm sẽ cần nhiều năm mới thuần thục. Bởi vì, mở TV lên xem phim, hay vào YouTube nghe nhạc hay xem đủ thứ chuyện trên thế giới, dễ có cơ nguy bị cuốn trôi theo vui buồn hờn giận từ các nhân vật và tình tiết trong thế giới ảo. 

Như thế, nghĩa là, đối với hai thánh quả đầu tiên, không cần phải hàng ngày tụng kinh hay ngồi Thiền: để đắc quả Tu Đà Hoàn, cần tịnh tín bất động với Tam Bảo và giữ ngũ giới; để đắc quả Tư Đà Hàm, cũng như thế, thêm một điều là cần làm mỏng bớt tham, sân. Đặc biệt có Kinh SN 55.53 kể rằng cư sĩ Dhammadinna cùng với 500 cư sĩ tới gặp Đức Phật tại vườn nai gần Benares, khi nhóm cư sĩ này nói rằng họ có niềm tin bất động và Phật, Pháp, Tăng và có giữ ngũ giới, Đức Phật nói rằng cư sĩ Dhammadinna cùng với 500 cư sĩ đó đều đã đắc quả Tu Đà Hoàn. Do vậy, niềm tin và giới hạnh có sức mạnh như thế. 

Thoạt nghe tin Phật, tin Pháp, tin Tăng là đơn giản, nhưng nghĩ kỹ thì rất mực gian nan. Cũng cần phải nắm vững giáo lý. Nếu tin rằng Đức Phật là một dạng ông Trời, ông Tiên hay như ông Bụt kiểu truyện cổ tích Việt Nam thì sẽ hỏng. Còn tin Pháp cho đúng cũng cần phải có chánh kiến. Vì Pháp không phải là chuyện trên trời hay dưới đất, không phải chuyện hôm qua hay ngày sau, mà Pháp là ngay trước mắt, ngay bên tai, và ngay trong những gì chúng ta hít thở và thâm cảm. Do vậy, muốn tin Pháp kiên cố cũng cần trải qua một số kinh nghiệm thực chứng, nếu không thì chỉ là tin lờ mờ, tin qua loa thì chỉ được phước hữu lậu và sẽ chẳng đi xa tới đâu.

__ () __

Kinh MN 7 giải thích về lòng tin kiên cố với Pháp: "Vị ấy thành tựu lòng tin tuyệt đối đối với Pháp: Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người có trí chứng hiểu." (4)

Trong lòng tin vào Pháp, nhóm chữ "thiết thực hiện tại, không có thời gian" nơi các bản dịch tiếng Anh như sau:

-- Horner dịch: self-realised, it is timeless (tự thực chứng, phi thời gian).

-- Bodhi dịch: visible here and now, immediately effective (thấy ngay ở đây và bây giờ, hiệu quả tức khắc).

-- Sujato dịch: visible in this very life, immediately effective (thấy ngay lúc này, hiệu quả tức khắc).

-- Nyanaponika dịch: realizable here and now, possessed of immediate result (thực chứng nơi đây và bây giờ, có kết quả tức khắc).

Chúng ta thấy 2 cách dịch khác nhau: hai ngài Minh Châu và Horner dịch là “phi thời gian” trong khi ba ngài Bodhi, Sujato, Nyanaponika dịch là “ngay đây, tức là còn trong thời gian”… Như thế, các vị đã dịch bất đồng nhau. Chính ngay chữ “không có thời gian” (timeless) cho một ý nghĩa khác hơn chữ “hiệu quả tức khắc” (immediately effective) vì cái phi thời gian là cốt tủy của Kinh Kim Cương, rằng Kinh Kim Cương viết: "...không nên trụ nơi sắc sanh tâm, không nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, nên không có chỗ trụ mà sanh tâm kia..." Phi thời gian là pháp viên thông, vì không còn có thể dựa vào đâu để suy lường.

Tại sao nói câu vừa dẫn của Kinh Kim Cương là cốt tủy của Pháp, của cái phi thời gian? Bởi vì tất cả những gì được thấy (sắc), được nghe (thanh), được ngửi (hương), được nếm (vị), được sờ chạm (xúc), được ý thức tư lường (pháp) đều nằm trong thời gian. Nhưng Pháp là phi thời gian, vì Pháp chính là giải thoát, là Niết Bàn. Vì chúng ta đang sống trong cõi của thời gian, sẽ rất gian nan để thực chứng, dù trong khoảnh khắc, được cái phi thời gian của Pháp.

Có thể thí dụ thế này: chúng ta lấy tờ giấy ra làm toán cộng, đó là chú tâm vào hiện tại với những cái được thấy (bài toán trên giấy) và những gì được tư lường (gợi nhớ lại ký ức về toán cộng, tư lường về kết quả, phân biệt đúng/sai, sợ không đủ điểm để thi đậu…). Đó là tâm của hiện tại, ngay cả khi chánh niệm tỉnh giác với hiện tại như thế cũng là còn trong vòng thời gian (của cái sợ, cái lo lắng, cái ước muốn), chưa chạm tới cái phi thời gian. Vậy thì, làm sao sống được với tâm vượt thời gian, lìa cả ba thời quá, hiện, vị lai? Trong khi đó, hễ còn nghĩ ngợi tư lường là còn trong vòng ký ức, còn trong thời gian. Nhưng không nghĩ ngợi tư lường là mất một công cụ của trạch pháp, của nhận biết đúng với sai.

Trong khi đó, cái tâm vượt ngoài thời gian đó (tức là xa lìa cả sắc thanh hương vị xúc pháp, trong cả ba thời) từng được Đức Phật nói trong Kinh Sn 5.11 rằng: “1099. Hãy để khô héo tất cả những gì của quá khứ, và chớ hề có chút gì dính tới tương lai. Nếu con không nắm giữ gì trong chặng giữa (hiện tại), con sẽ sống trong bình an." (5) 

Thiền Trúc Lâm của ngài Trần Nhân Tông dạy cách sống với tâm vô tâm (vô tâm đối cảnh hỏi chi Thiền), và đây là tâm vượt thời gian vì không dính gì với cảnh (cả nội xứ và ngoại xứ -- tức xa lìa sắc thanh hương vị xúc pháp). Cũng ngài Trần Nhân Tông nói kệ: “Tất cả pháp chẳng sanh / Tất cả pháp chẳng diệt / Nếu hay hiểu như thế / Chư Phật thường hiện tiền.” Đó là đi đứng nằm ngồi trong tánh Không chiếu diệu, tức là bản tánh của gương tâm, lúc đó thấy nghe hay biết sẽ không vướng chút gì nơi tất cả ảnh hiện. Nơi đó, ảnh hiện (sắc thanh hương vị xúc pháp) nhưng tánh của gương tâm (rỗng rang và chiếu sáng) vẫn lìa sanh diệt, tức là phi thời gian, là timeless. Tức là, phải ngộ trước, rồi mới tiệm tu.

Do vậy, muốn tin Pháp kiên cố, tin bất động, tin tuyệt đối là phải có một vài kinh nghiệm thực chứng. Ngài Hoàng Bá có thơ rằng, "Nếu chẳng một phen sương thấm lạnh / Hoa mai đâu dễ tỏa mùi hương."  

Thực tế, tất cả, hay gần như tất cả, các kinh Bắc Tông đều nhìn và lý giải Pháp theo phẩm tính “phi thời gian” và đây là Chân Đế nằm hòa hài trong Tục Đế, cũng như gương không lìa ảnh và nước không lìa sóng. Chỉ khi nhìn Pháp trong phẩm tính phi thời gian, và vì thời gian chỉ có thể hiển lộ trong không gian (sắc thanh hương vị xúc pháp) nên mới có thể hiểu được vì sao Kinh Pháp Hoa nói rằng Đức Phật Thích Ca đã thành Phật từ vô lượng kiếp, và có thể hiểu được vì sao Bắc Tông nói rằng Bồ Tát Quán Tự Tại (trí viên thông, tròn đầy và không ngăn ngại) có một hiện thể khác có tên là Bồ Tát Quán Thế Âm với nghìn mắt và nghìn tay, tức là từ Trí hiển lộ Bi. Và chỉ nhìn Pháp trong phẩm tính phi thời gian mới hiểu được vì sao Đức Phật nói trong Tương Ưng Bộ của Tạng Pali, nơi Kinh SN 12.64 về tánh viên thông của một thức phi thời gian và cũng là phi không gian (xa lìa sắc thanh hương vị xúc pháp), rằng "Chỗ nào không có thức an trú, chỗ ấy không có danh sắc sanh. Chỗ nào không có danh sắc sanh, chỗ ấy không có các hành tăng trưởng. Chỗ nào không có các hành tăng trưởng, chỗ ấy không có hữu tái sanh trong tương lai…" và như thế là giải thoát.

Không hề dính gì tới đất nước gió lửa, có phải là phi thời gian và phi không gian? Chúng ta đọc thấy trong Kinh DN 11, bản dịch Thầy Minh Châu: “Thức là không thể thấy, vô biên, biến thông hết thảy xứ. Ở đây, địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại không có chân đứng. Ở đây, cũng vậy dài, ngắn, tế, thô, tịnh và bất tịnh. Ở đây danh và sắc tiêu diệt hoàn toàn. Khi thức diệt, ở đây mọi thứ đều diệt tận."  Nói thức diệt, là cái thức còn sinh diệt trong tứ đại và ngũ uẩn. Nói thức không thể thấy và vô biên phải chăng là pháp vô sinh diệt, và là một pháp viên thông? 

Có thể đối chiếu lời của ngài Hoàng Bá về “đạo nhân vô tâm” với Kinh MN 7, Kinh Sn 5.11, Kinh SN 12.64 và Kinh DN 11 vừa dẫn trên. Trong sách Luận Tối Thượng Thừa, bản dịch của Thầy Thích Thanh Từ về lời của Thiền sư Hoàng Bá, trích: "Chỉ một tâm này, trọn không có pháp bằng hạt bụi nhỏ có thể được, tức tâm là Phật. Như nay người học đạo không ngộ tâm thể này bèn ở trên tâm sanh tâm, hướng ra ngoài cầu Phật, chấp tướng tu hành đều là pháp ác, chẳng phải đạo Bồ đề. Cúng dường chư Phật mười phương không bằng cúng dường một đạo nhân vô tâm. Tại sao ? Vì người vô tâm là không tất cả tâm, thể như như, trong như cây đá không động không lay, ngoài như hư không chẳng bít chẳng ngại, không năng sở, không chỗ nơi, không tướng mạo, không được mất, người thú hướng mà không dám vào pháp này, sợ lạc vào không, không có chỗ nơi nương tựa, trông thấy mé rồi thối lui."

Nhưng khi dịch rằng Pháp có một phẩm tính là “phi thời gian” (timeless) có phải là phản khoa học hay không? Bây giờ, khoa học đã đồng ý với Phật Giáo. Chỉ riêng Phật Giáo mới nhấn mạnh yếu tố Pháp là phi thời gian. Nhà khoa học vĩ đại Albert Einstein từng viết: Những người như chúng ta, những người tin vào vật lý biết rằng sự phân biệt giữa quá khứ, hiện tại và tương lai chỉ là một ảo giác thường trực khó đổi. Thời gian, nói cách khác, Einstein viết rằng, là một ảo giác. Nhiều nhà vật lý từ đó chia sẻ quan điểm này, rằng thực tại chân thực là phi thời gian. (Albert Einstein once wrote: People like us who believe in physics know that the distinction between past, present and future is only a stubbornly persistent illusion. Time, in other words, he said, is an illusion. Many physicists since have shared this view, that true reality is timeless.) --- có thể đọc theo nhiều nguồn: xin vào Google.com và gõ các chữ "einstein time illusion".

Trong khi đó, khoa học lại chứng minh quan điểm “nhất thiết pháp vô ngã” của Phật Giáo là một chân lý. Chúng ta Thiền tập, sẽ tới một lúc nhìn thấy thân tâm mình y hệt như các khối lung linh di động, không hề có cái gì là ngã. Khoa học bây giờ đã công nhận “vô ngã” rồi. Nhà khoa học vĩ đại Stephen Hawking đưa ra lý thuyết cuối cùng trong đời ông: vũ trụ chính là một hình hologram lung linh, và tất cả chúng ta đang sống trong cái hologram rỗng rang, chiếu diệu, lung linh này. (xin vào Google, gõ chữ "hawking hologram" sẽ thấy nhiều bài về lý thuyết này.)

Không có nghĩa rằng nhờ khoa học mà Phật pháp đúng. Chỉ muốn nói rằng, các bài toán tuyệt vời của vật lý đã dẫn tới các pháp ấn nhà Phật, trong khi nhiều khoa học gia có thể chưa từng đọc gì về Kinh Phật. Đây cũng là một phương tiện để chúng ta nói chuyện với giới trẻ có quan tâm về Phật pháp và khoa học. Nghĩa là, chúng ta chỉ là những hình phóng chiếu hologram từ các ánh sáng năng lượng nào đó (theo Kinh Phật, là từ ngũ uẩn; và theo Bắc Tông, ngũ uẩn vẫn không rời Tánh Không chiếu diệu, rỗng sáng và tịch lặng). Để hiểu thêm về khái niệm hologram, có thể xem video này -- https://youtu.be/IuNj_rqx04o -- khi ban nhạc đứng ở London (Anh quốc) và tia sáng phóng hologram làm cho khán giả ở Florida (Hoa Kỳ) nhìn cứ tưởng trước mắt là thật. So sánh nơi đây, không có nghĩa là dám khẳng định chúng sanh cõi này chỉ là ánh sáng hologram. Chỉ là nêu một đối chiếu để các bạn trẻ dễ hình dung và khảo sát thêm (trong khi bản thân người viết rất lờ mờ về khoa học).

Như thế, Einstein và Hawking sau một đời làm toán đã khám phá rằng thế giới này như huyễn, như mộng, như hoa đốm hư không lung linh trước mắt, không hề sanh diệt (vì là thực tướng phi thời gian) và trong sạch vô tướng – đó là 2 vị đã lặp lại, đúng từng câu từng chữ, y hệt lời Đức Phật nói trong Quyển I Kinh Lăng Già, theo bản dịch của Thầy Duy Lực: “Thế gian lìa sanh diệt / Như hoa đốm trên không. / Trí chẳng trụ hữu, vô, / Mà khởi tâm đại bi./ Tất cả pháp như huyễn,/ Xa lìa nơi tâm thức./ Trí chẳng trụ hữu, vô,/ Mà khởi tâm đại bi./ Xa lìa chấp đoạn thường,/ Pháp thế gian như mộng./ Trí chẳng trụ hữu, vô,/ Mà khởi tâm đại bi./ Biết nhơn pháp Vô ngã / Phiền não và nhĩ diệm / Thường trong sạch vô tướng,/ Mà khởi tâm đại bi."

Thấy thế, mới thực là tin Pháp. Một mặt khác, muốn giữ giới cho kiên cố, cần phải tin vào luật nhân quả. Bất kỳ hành động nào của chúng ta, qua thân khẩu ý, đều gây nghiệp lực, sẽ dẫn tới quả lành hay dữ, tùy theo việc làm đó, lời nói đó, hay suy nghĩ đó là thiện nghiệp hay ác nghiệp. Nếu không tin vào nghiệp quả, sẽ không kiên trì giữ giới được. Làm thế nào để tin sâu nhân quả? Cũng cần phải thường xuyên đọc nhiều sách, hay vào YouTube nghe các truyện nhà Phật về nhân quả báo ứng. Phải sợ nghiệp mới lo tinh tấn tu học. Không thường trực tự khuyến tấn tu giải thoát, thế nào rồi cũng sẽ lui sụt, trễ nải.

__ () __

Một nỗi lo lớn: làm thế nào có thể giải bớt nghiệp? Vì nếu nặng nghiệp, sẽ khó tu. Làm thế nào để hóa giải, làm nghiệp nặng trở thành nghiệp nhẹ hay là xóa sổ nghiệp luôn? Nếu không tin sâu nhân quả, không hiểu giáo lý nghiệp, e là có lúc sẽ chệch hướng.

Nơi đây, chúng ta tóm lược một số ý chánh về nghiệp từ bài viết nhan đề “Nghiệp và Giải Nghiệp theo Chánh Pháp(6) để sẽ thảo luận thêm: 

-- Kinh AN 6.63 viết: Tác ý, ta nói với chư tỳ kheo, chính là nghiệp. Khi tác ý, là gây nghiệp cho thân, khẩu và ý.

-- Kinh AN 5.43 viết: Nghiệp lành, phước đức không thể tới từ kinh cầu nguyện hay ước muốn. 

-- Kinh SN 12.46 viết về câu hỏi rằng, người gây ra nghiệp và người thừa tự nghiệp có phải là một người, hay hai người khác nhau? Đức Phật bác bỏ cả hai trường hợp, nói rằng hễ đáp thế nào cũng sẽ là cực đoan; và ngài chủ trương trung đạo.

-- Kinh SN 35.142 viết: Thế nào là nghiệp cũ? Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đều là nghiệp cũ. Thế nào là nghiệp mới? Việc mình làm bây giờ với thân, khẩu, ý là nghiệp mới. Thế nào là nghiệp đoạn diệt? Sự đoạn diệt thân nghiệp, ngữ nghiệp, ý nghiệp, nhờ vậy cảm thấy giải thoát. Bát Thánh Đạo là con đường đưa đến nghiệp đoạn diệt.

-- Kinh AN 3.99 viết: Cũng như hạt muối bỏ vào ly nước sẽ làm người uống thấy mặn, nhưng hạt muối bỏ vào Sông Hằng sẽ không tác dụng mặn được. Do vậy, Đức Phật nói rằng một nghiệp ác nhỏ có thể đẩy chúng ta xuống địa ngục, trong khi với người biết tu, nghiệp nhỏ như thế sẽ gần như không tác dụng, “này các Tỷ-kheo, có làm nghiệp ác nhỏ mọn tương trợ, và nghiệp ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến chút ít cũng không thấy được (trong đời sau), nói gì là nhiều.”

-- Kinh AN 9.20 viết: cách giải nghiệp tốt nhất là tu hạnh từ bi, và quán niệm vô thường; dù chỉ trong một khoảnh khắc cũng có công đức hơn cúng dường vô lượng chư Phật.

__ () __


Tâm chúng ta sẽ dẫn chúng ta về thế giới tương ưng. Đức Phật nói trong Kinh MN 57 rằng những người tu hạnh con chó hay hạnh loài bò, khi thân hoại mạng chung sẽ tái sanh trong loài chó hay loài bò, trở thành quyến thuộc loài chó hay loài bò. Thêm nữa, Đức Phật trong Kinh này cũng nói rằng có nghiệp trắng (chúng ta thường nói là thiện nghiệp, sẽ dẫn chúng ta tới cõi lành sau khi mạng chung), có nghiệp đen (chúng ta thường nói là ác nghiệp, sẽ kéo chúng ta xuống cõi dữ sau khi mạng chung), có nghiệp không trắng và không đen (sẽ dứt nghiệp, tới giải thoát). Như thế, nghiệp không đen và không trắng chính là pháp viên thông.

Trong Kinh MN 57,  Đức Phật nói: "Và này Puñña, thế nào là nghiệp không đen trắng, đưa đến quả báo không đen trắng, nghiệp đưa đến sự đoạn tận các nghiệp? Ở đây, này Puñña chỗ nào có ý chí (Cetana: Tư tâm sở) đoạn trừ nghiệp đen đưa đến quả báo đen, chỗ nào có ý chí đoạn trừ nghiệp trắng đưa đến quả báo trắng, chỗ nào có ý chí đoạn trừ nghiệp đen trắng đưa đến quả báo đen trắng. Ở đây, này Puñña, chỗ nào có ý chí như vậy, này Puñña, được gọi là nghiệp không đen trắng đưa đến quả báo không đen trắng, nghiệp đưa đến sự đoạn tận các nghiệp." (7)

Như thế, Kinh vừa dẫn cho chúng ta hiểu rõ thêm về các bài kệ trong Kinh Pháp Cú nói rằng người trí sẽ vượt qua thiện ác. Người làm thiện nghiệp sẽ lên trời, làm ác sẽ xuống địa ngục, nhưng người bất nhiễm thiện ác sẽ vào Niết Bàn. Như thế, nghiệp không đen trắng chính là pháp viên thông. Sau đây là trích từ Pháp Cú, bản dịch HT Thích Minh Châu, về tâm lìa thiện ác.

Pháp Cú bài kệ 39: Tâm không đầy tràn dục, Tâm không (hận) công phá, Đoạn tuyệt mọi thiện ác, Kẻ tỉnh không sợ hãi.

Pháp Cú bài kệ 126: Một số sinh bào thai, Kẻ ác sinh địa ngục, Người thiện lên cõi trời, Vô lậu chứng Niết Bàn.

Pháp Cú bài kệ 267: Ai vượt qua thiện ác, Chuyên sống đời Phạm Hạnh, Sống thẩm sát ở đời, Mới xứng danh tỷ kheo. 

Pháp Cú bài kệ 412: Người sống ở đời này, Không nhiễm cả thiện ác, Không sầu, sạch không bụi, Ta gọi Bà-la-môn.

Tại sao như thế? Tại sao lìa thiện ác là Niết Bàn? Bởi vì thiện và ác là ảnh hiện của tâm ba cõi sáu đường, nhưng lìa thiện ác là tương ưng với bản tánh của gương tâm vốn tịch lặng, rỗng chiếu. Bởi vì, tâm của người trong ba cõi sáu đường là tâm của sắc/không, của Có/Không, của thiện/ác, của sanh/diệt. Trong khi đó, tâm lìa sanh diệt là giải thoát. Y hệt như chúng ta lấy bút chì, vẽ lên giấy hình cái bàn hay cái bình, tức là làm cho Có hình; và lấy gôm tẩy xóa, thì dò theo đường lằn tẩy xóa là không bàn, không bình, là Không (còn dựa theo Có mà hiển lộ). Nhưng tờ giấy bao trùm cả có hình và cả không hình chính là tâm ban sơ bất động, cũng như tánh gương bao trùm cả có ảnh và cả không ảnh, mới thực sự là Tánh Không rốt ráo.

Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tông Thông, Quyển 2, Chương Lựa Riêng Trần Cảnh Để Nêu Ra Tánh Thấy, trong phần Thông, có đoạn ghi lời Thiền sư Vân Cư Trí giải thích về Thấy Tánh:

"Ngài Vân Cư Trí nói rằng : “Cái Tánh Trong Sạch xưa nay trong lặng, chẳng có một chút động lay, không thuộc Hữu, Vô, lìa ngoài Nắm, Bỏ, Tánh Thể làu làu, vốn tự như nhiên. Thấy rõ ràng như vậy, mới gọi là Thấy Tánh (Kiến Tánh). Tánh tức Phật, Phật tức Tánh nên nói là “Kiến Tánh thành Phật... 

Tính toán hư vọng mà cho là Có, liền có năng, sở: bèn mang tiếng là mê. Theo cái Thấy hư vọng đó sanh chuyện hiểu biết, liền đọa sanh tử. Người thấy biết rõ ràng thì chẳng có vậy. Suốt ngày thấy mà chưa hề thấy. Tìm cầu danh, xứ, thể, tướng bèn chẳng có được. Năng, sở đều dứt tuyệt, gọi là Thấy Tánh”. (8)

.

Trong ba nghiệp thân, khẩu và ý, Đức Phật nói rằng nghiêm trọng nhất là ý nghiệp. Trong Kinh MN 56, Đức Phật có đoạn vấn đáp với Tapassi, theo bản dịch của Thầy Minh Châu:

“Hiền giả Gotama, ba loại nghiệp này, được chia chẻ như vậy, được phân biệt như vậy, Hiền giả chủ trương loại nghiệp nào tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp? Thân nghiệp chăng, khẩu nghiệp chăng, ý nghiệp chăng?

—Này Tapassi, ba loại nghiệp này, được chia chẻ như vậy, được phân biệt như vậy, Ta chủ trương ý nghiệp là tối trọng, để tác thành ác ý, để diễn tiến ác nghiệp, thân nghiệp không bằng được, khẩu nghiệp không bằng được.” (9)

Một điều có thể làm chúng ta an tâm là cho dù nghiệp nặng thế nào, người có chánh kiến có thể lãnh thiện nghiệp ngay trong hiện tại, theo Kinh MN 136: “...có chánh kiến, người ấy phải lãnh thọ quả báo được khởi lên ngay hiện tại hay trong một đời khác.” (10)

Và không nên lo ngại, vì biết tu thì nghiệp cực nặng cũng chuyển thành nhẹ... vì biết tu là có tài sản vô lượng, có trả nợ khi nghiệp tới thì chỉ nhẹ nhàng, không bị bắt trói. Đức Phật nói trong Kinh MA 11, bản dịch Thầy Minh Châu:

Lại nữa, có người tạo nghiệp bất thiện tất phải thọ quả khổ là quả báo trong đời hiện tại. Thế nào là có người tạo nghiệp bất thiện tất phải thọ quả khổ là quả báo trong đời hiện tại? Ở đây, có một người tu thân, tu giới, tu tâm, tu tuệ, thọ mạng rất dài; người ấy tạo nghiệp bất thiện tất phải thọ quả khổ là quả báo trong đời hiện tại.

“Cũng như có người dù mắc nợ một trăm tiền nhưng không bị chủ nợ bắt trói; cho đến nợ ngàn vạn tiền cũng không bị chủ nợ bắt trói? Nghĩa là người mắc nợ có vô lượng tài sản và thế lực rất lớn. Người ấy nhờ vậy dù mắc nợ trăm ngàn tiền vẫn không bị chủ nợ bắt trói. Đó là người mặc dù mắc nợ trăm tiền vẫn không bị chủ nợ bắt trói, cho đến nợ ngàn vạn tiền cũng không bị chủ nợ bắt trói. Cũng vậy, có người tạo nghiệp bất thiện, tất phải thọ quả khổ là quả báo trong đời hiện tại. Thế nào là có người tạo nghiệp bất thiện tất phải thọ quả khổ là quả báo trong đời hiện tại? Nghĩa là, có một người tu thân, tu giới, tu tâm, tu tuệ, thọ mạng rất dài; người ấy tạo nghiệp bất thiện tất phải thọ quả khổ là quả báo trong đời hiện tại. Người ấy ở trong đời hiện tại giả sử có thọ báo của thiện hay ác nhưng chỉ nhẹ nhàng, chút ít thôi”. (10)

Nhưng thế nào là biết tu? Thế nào là tu với tâm lìa cả ba thời, lìa cả ngũ uẩn (sắc thọ tưởng hành thức)? Có nhiều pháp, một trong đó là pháp niệm vô thường. Trong Kinh AN 9.20, Đức Phật ca ngợi pháp quán niệm vô thường, chỉ trong khoảnh khắc là có oai lực gấp nhiều lần so với người bố thí Đức Phật và chúng Tỳ kheo. Kinh này viết, bản dịch của Thầy Minh Châu:

“…và có ai bố thí chúng Tỷ-kheo với đức Phật là vị cầm đầu, và có ai cho xây dựng một tinh xá cho chúng Tăng trong bốn phương... và có ai với tâm tịnh tín qui y Phật, Pháp và chúng Tăng... và có ai tâm tịnh tín chấp nhận học pháp, từ bỏ sát sanh... từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu... và có ai dầu chỉ trong một khoảnh khắc vắt sữa bò, tu tập từ tâm, và có ai dầu chỉ trong một khoảnh khắc búng ngón tay, tu tập tưởng vô thường, bố thí này quả lớn hơn bố thí kia.” (11)

Pháp quán niệm vô thường cũng là một pháp viên thông. Vì trong khi niệm vô thường, sẽ không thấy có bất kỳ pháp nào trong ba cõi níu lại trong tâm, dù đó là sắc thanh hương vị xúc pháp hay là bất cứ gì của đất nước gió lửa. Trong khi niệm vô thường, cũng là niệm vô sinh diệt, vì không có gì sanh và không có gì diệt trong người đang cảm thọ dòng sông vô thường chảy xiết trong toàn thân tâm mình. Một cách khác, bất cứ pháp nào thấy là sinh, liền thấy ngay là diệt. Đó cũng là một pháp niệm sự chết trên toàn thân tâm mình.

Trong Kinh EA 2.10, bản dịch quý Thầy Tuệ Sỹ & Đức Thắng, Đức Phật dạy: “Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn, tự thân đạt đến Niết-bàn. Một pháp ấy là gì? Đó là niệm sự chết. Hãy khéo tu hành. Hãy quảng bá. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn, tự thân đạt đến Niết-bàn. Cho nên, các Tỳ-kheo, hãy tu hành một pháp, hãy quảng bá một pháp. Vì vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này.” (11)

.

Trong khi đó, Kinh Lăng Nghiêm Tông Thông (KLNTT), Quyển 6 [xin dò theo link (8) ở trên], ghi rằng trong các pháp tu, nương vào Tánh Nghe là thù thắng nhất: pháp lắng nghe của ngài Quán Thế Âm là viên thông nhất, là lìa thời gian quá hiện vị lại, là lìa cả sắc hương vị xúc pháp và lìa cả thanh (vì trong cái nghe, các pháp đều bất khả đắc). 

Trước tiên, nói về giới. Trong cái nghe, chỉ thuần nghe, tự thân đã là giới. Khi bạn nghe và không níu kéo bất kỳ cái được nghe nào, khi nghe đúng pháp (không vướng bận quá, hiện, vị lai) tự thân là đã Vô Tâm, tự thân đã xa dục ái. Thí dụ, bạn ngồi trong hội trường nghe hòa tấu nhạc, các âm thanh đàn, sáo, trống xen nhau, Bạn sẽ thấy dục ái rất khó khởi lên khi nghe thực nghe, vì tánh nghe tự thân đã lìa thiên vị, tự thân đã lìa năng sở -- vả năng (người nghe) và sở (cái được nghe) chỉ hiện lên nếu bạn lìa Vô Tâm, nếu bạn khởi tâm so đo về cái được nghe. Do vậy, trong cái nghe đã lìa dục ái, vì dục ái là cái so đo níu kéo của ký ức, của cảm thọ quá khứ. Thêm nữa, căn (tai) và cảnh (cái được nghe) không chướng ngại, không cản nhau, nên tự các pháp khi lắng nghe đã tròn được giới (trừ phi, khi ý thức xen tạp so đo, chọn lựa…).

Trích KLNTT: "Thông rằng : Huân tu theo Tánh Nghe ắt dục ái khô khan. Bởi do nước về căn nguồn, nên lửa chẳng thể đốt vậy. Tiếng trần đã tiêu tan, các trần khác đều thoát. Căn và Cảnh chẳng cướp lẫn nhau, nên hình sắc chẳng mê hoặc được."

Tương tự, trong cái nghe, chỉ thuần nghe, tự thân đã là định. Khi bạn nghe, và không níu kéo bất kỳ cái được nghe nào, khi nghe đúng pháp (không vướng bận quá, hiện, vị lai) tự thân là đã Vô Tâm, tự thân đã là bất động (không dao động ưa/ghét, lành/dữ, thiện/ác, tham/sân…). Vì căn và cảnh đều viên dung (tròn đầy, dung chứa nhau), nên định này là định của tự tánh, không phải định do tu tập hay do mài giũa. Bởi vì Tánh Nghe thường trụ, không phải vì không tiếng là mất nghe (diệt), cũng không phải vì có tiếng mà hiện ra nghe (sinh). Dù có tiếng, hay không tiếng, thì cái nghe vẫn còn đó. Tự thân nghe đã lìa sinh diệt, thì đây là thường định. 

Kinh KLNTT viết: “Không tiếng, đã không diệt / Có tiếng, cũng chẳng sanh / Sanh diệt đều trọn lìa / Đó là Thường Chân Thật / Dầu cho trong mộng tưởng / Không nghĩ nhưng chẳng không / Tánh Nghe ngoài suy nghĩ / Thân tâm không bằng được.” 

Tương tự, trong cái nghe, chỉ thuần nghe, tự thân đã là huệ. Vì trong cái nghe tự thân đã không rơi vào tâm của ba cõi sáu đường, khi toàn thể thân tâm ngộ nhập cái rỗng rang, tịch lặng, chiếu sáng của nghe.

Kinh KLNTT viết: "Thông rằng: Ban đầu, hết quán cái Âm Thanh liền được Giải Thoát là để tiếp bậc thượng thượng căn, chỉ soi thấy năm uẩn đều Không tức vượt hết thảy khổ ách. Dùng cái quán Tự Tánh, nếu chẳng phải là Quán Hạnh vi diệu thì không thể hành được vậy."

Như thế, chính ngay khi lắng nghe như thế, giới định huệ đã tròn đầy, đã viên thông. Cho nên, nói lắng nghe bờ bên kia, chỉ là một cách thơ mộng để nói lắng nghe tự thân cái nghe. Đức Phật và các vị bồ tát trong Kinh Lăng Nghiêm đều ca ngợi rằng pháp lắng nghe của Bồ Tát Quán Thế Âm là pháp Đệ Nhất Nghĩa Đế. Bởi vì không bận tâm giới định huệ mà vẫn tròn đầy giới định huệ.

Do vậy, Kinh Lăng Nghiêm Tông Thông viết:

"Thông rằng: Ở trước nói hai nghĩa quyết định. Một là xét cái Tâm Nhân Địa. Hai là lựa chọn Căn Viên Thông, trở lại cùng tột dòng căn, đến chỗ chẳng sanh diệt; thẳng đến Vô Thượng Bồ Đề, chẳng phải luận gì đến cái học Giới Định Huệ. Đây là một môn siêu xuất, con đường Xa Ma Tha nhiệm mầu của mười phương Như Lai để tiếp người thượng thượng căn vậy. Trong đó nói “Căn và Trần chẳng sánh hợp”, chưa từng không có Giới. “Như lóng nước dơ”, chưa từng không có Định. “Ở trong rực rỡ phát sáng”, chưa từng không có Huệ. Chỉ chẳng dùng Giới Định Huệ tự trói buộc, nên là Đệ Nhất Nghĩa Đế."

Đó là nghĩa của lắng nghe bờ bên kia…

GHI CHÚ:

(1) Kinh MN 41: https://suttacentral.net/mn41/vi/minh_chau 

(2) Kinh AN 10.64: https://suttacentral.net/an10.64/vi/minh_chau

(3) Nhóm kinh SN 55.1-55.10: https://suttacentral.net/sn55-veludvaravagga

(4) Kinh MN 7: https://suttacentral.net/mn7/vi/minh_chau 

(5) Kinh Sn 5.11: https://thuvienhoasen.org/p15a30622/sn-5-11-jatukanni-manava-puccha-cac-cau-hoi-cua-jatukanni 

(6) Nghiệp và Giải Nghiệp theo Chánh Pháp:  https://thuvienhoasen.org/a31624/nghiep-va-giai-nghiep-theo-chanh-phap 

(7) Kinh MN 57: https://suttacentral.net/mn57/vi/minh_chau 

(8) Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tông Thông, Q2: https://thuvienhoasen.org/p17a1223/quyen-ii 

(9) Kinh MN 56: https://suttacentral.net/mn56/vi/minh_chau 

(10) Kinh MN 136: https://suttacentral.net/mn136/vi/minh_chau 

Kinh MA 11: https://suttacentral.net/ma11/vi/tue_sy 

(11) Kinh AN 9.20: https://suttacentral.net/an9.20/vi/minh_chau 

 Kinh EA 2.10: https://suttacentral.net/ea2.10/vi/tue_sy-thang 



.