Wednesday, August 4, 2021

Tâm Quảng Nhuận: Vai trò của chính quyền và lòng tin công chúng đối với tiêm chủng COVID-19 | Phần I: 5 yếu tố*

 

Thủ tướng Anh Boris Johnson nhận liều vắc-xin AstraZeneca đầu tiên
do y tá kiêm Trưởng nhóm khám lâm sàng, Lily Harrington tiêm tại Bệnh viện St.Thomas
ở London, Thứ Sáu, ngày 19 tháng 3 năm 2021. (Ảnh AP / Frank Augstein, Pool)

Giới khoa học toàn cầu đã có sự đồng thuận rộng rãi rằng, cách hiệu quả nhất để đánh bại đại dịch COVID-19 phụ thuộc vào chính sách tiêm chủng hàng loạt tại các cộng đồng quốc gia trên thế giới. Sự phát triển vắc-xin COVID-19 là minh chứng hùng hồn cho thấy các nguồn đầu tư và tài trợ công đáng kể, cũng như sự tập trung cao độ và mức hợp tác khoa học chưa từng có nhằm thúc đẩy việc cải tiến kịp thời trước nhu cầu của cộng đồng thế giới chỉ trong một thời gian rất ngắn.

Tuy nhiên, việc phê duyệt và triển khai các loại vắc-xin này vẫn không thể chận đứng đại dịch ngay lập tức, nó đòi hỏi phải tiến hành tiêm phòng cho một tỷ lệ dân số rất đông. Đây là một thách thức vô cùng to tát. Làm sao để thành công trong nỗ lực tiêm chủng toàn cầu cho hàng tỷ người càng nhanh càng tốt, trước hết các chính phủ cần ưu tiên giải quyết những vấn đề về lòng tin. Sự tin tưởng vào vắc-xin, đồng thời tin tưởng các tổ chức chịu trách nhiệm trong nỗ lực tiêm chủng. Chính phủ cần thúc đẩy niềm tin của công chúng về tính hiệu quả và an toàn của vắc-xin, cũng như năng lực của chính phủ trong việc quản lý, dự phòng thành thục.

Ngay sau khi đại dịch bùng phát, các làn sóng biểu tình đã nổi lên, nhiều quốc gia nhận thấy mức độ mất lòng tin của quần chúng vào năng lực của chính phủ trong việc xử lý khủng hoảng và thực hiện các chính sách ngày càng gia tăng. Điều này làm giảm thiểu sự tuân thủ các quy tắc liên quan đến sức khỏe cộng đồng, từ đó cũng gia tăng mối hoài nghi về viễn cảnh phục hồi kinh tế xa vời. Mặt khác, giữa trận đại dịch phát sinh các luồng thông tin sai lệch, lan tràn, khiến giới hạn sự hiểu biết và ủng hộ các bước tiến khoa học đã đạt được cũng như những chính sách công, dẫn đến thái độ khước từ vắc-xin, dẫu đại dịch COVID-19 thật sự là một vấn đề nghiêm trọng cho tất cả mọi người trên toàn cầu.

Thử khảo sát một số dữ kiện, vào tháng 2 năm 2021, trung bình 76% dân số trên 11 quốc gia cho biết sẵn sàng tiêm chủng, tăng từ mức chỉ 66% vào tháng 12 năm 2020. Tuy nhiên, dữ liệu gần đây từ bảy quốc gia cho thấy một phần tư dân số ở Pháp, Đức và Hoa Kỳ có thể từ chối tiêm chủng COVID-19 và tỷ lệ này thậm chí còn cao hơn trong các nhóm dân số trẻ hơn. Hơn 50% người Pháp từ 25 đến 34 tuổi và một phần ba người Hà Lan từ 25 đến 34 tuổi cho biết họ có thể hoặc chắc chắn sẽ không tiêm chủng.

Cũng không có gì đáng ngạc nhiên khi sự tin tưởng về tính an toàn của vắc-xin đã được kiểm tra nghiêm ngặt bằng các báo cáo mới nhất về các tác dụng ngoại ý, mặc dù rất hiếm nhưng thật sự là mối lo ngoại nghiêm trọng như đối với vắc-xin Oxford/AstraZeneca. Cũng từ đó mà chỉ dấu an toàn và các phản ứng bất nhất của các cơ quan quản lý trên toàn thế giới, phần nào là nguyên do làm suy giảm lòng tin của công chúng. Tuy nhiên cũng cùng thực tế khảo sát, đang có nhiều bằng chứng cho thấy người được tiêm chủng ngày nhiều hơn, có nghĩa là xu hướng đón nhận tiêm chủng đã và đang tăng cao. Ở một mức độ nào đó, điều này có thể cho thấy những lo ngại ban đầu về sự an toàn của vắc-xin mới dần dần được xua tan, nó phản ánh việc tiêm vắc-xin trở thành quy chuẩn và từng lúc được chấp nhận như một lối thoát ra khỏi sự vây khổ của trận đại dịch chí ít trong giai đoạn này.

Song, niềm tin vào sản phẩm vắc-xin là một lẽ, bên cạnh đó còn phải được củng cố bằng sự tin tưởng vào các cơ quan chịu trách nhiệm tiêm chủng. Trong rất nhiều trường hợp, việc không chấp nhận tiêm chủng có thể xuất phát từ những thất bại trước đây hoặc đang mắc phải của hệ thống y tế và các tổ chức công.

Nói chung, niềm tin vào các thể chế rất quan trọng đối với sự vận hành hiệu quả của xã hội và sự chấp nhận các chính sách an sinh xã hội, đặc biệt trong thời kỳ khủng hoảng hiện tại. Bấy giờ, niềm tin được định nghĩa là niềm tin của một người đặt vào một cá nhân hay tổ chức sẽ hành động phù hợp với kỳ vọng của họ và, lòng tin vào thể chế, được công nhận là thước đo chính yếu ở tính hiệu quả.

OECD (The Organisation for Economic Co-operation and Development – Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế), là một tổ chức quốc tế hoạt động nhằm xây dựng các chính sách tốt hơn, nhằm tạo dựng đời sống tốt đẹp hơn qua quá trình thu thập dữ liệu, khảo sát, nghiên cứu đã đưa ra khung hướng dẫn cho các chính phủ trong việc phát triển các chính sách cụ thể, nhằm củng cố lòng tin công chúng, xác định trên năm yếu tố: (1) Khả năng đáp ứng, (2) độ tin cậy, (3) tính liêm chính, (4) tính cởi mở và (5) công bằng.

Năm yếu tố này tương ứng với các nhiệm vụ của chính phủ chẳng hạn như cung cấp dịch vụ công, bảo vệ công dân, sử dụng quyền lực và tài nguyên một cách hợp lý,…v.v. Mức độ phù hợp thực nghiệm của khung hướng dẫn này đã được áp dụng ở nhiều quốc gia và kết quả cho thấy cả hai, năng lực cộng với giá trị của chính phủ đều là những yếu tố quyết định tạo dựng và nâng cao lòng tin công chúng.

Bởi lẽ, chỉ số quan trọng về năng lực của chính phủ là khả năng đáp ứng nhu cầu của người dân, thể hiện qua việc cung cấp sản phẩm và dịch vụ chất lượng cao theo yêu cầu của người dân. Nên để thúc đẩy và củng cố sự tin tưởng của công chúng đối với các sản phẩm vac-xin, điều cần thiết là các chính phủ phải chứng minh rằng không có tiêu chuẩn chất lượng hoặc an toàn nào bị xâm phạm vì các thành phần của những phe nhóm lợi ích trong quá trình phát triển và phê duyệt.

(Kỳ tới: Vai trò của chính quyền và lòng tin công chúng đối với tiêm chủng COVID-19 | Phần II: 4 Hành Động)

* Tâm Quảng Nhuận | Tu thư Sen Trắng phỏng và lược dịch theo tài liệu OECD, viết tắt của tên tiếng Anh “The Organisation for Economic Co-operation and Development. OECD – “Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế” là một tổ chức quốc tế có trên 60 năm kinh nghiệm hoạt động nhằm xây dựng các chính sách tốt hơn cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Mục tiêu của tổ chức này là định hình các chính sách thúc đẩy sự thịnh vượng, bình đẳng, cơ hội và phúc lạc cho tất cả mọi người. OECD cùng với các chính phủ, các nhà hoạch định chính sách và người dân, nỗ lực thiết lập các tiêu chuẩn quốc tế dựa trên bằng chứng và tìm ra giải pháp cho một loạt các thách thức xã hội, kinh tế và môi trường. Từ việc cải thiện hiệu quả kinh tế và tạo việc làm cho đến thúc đẩy nền giáo dục mạnh mẽ cũng như chống trốn thuế quốc tế, tổ chức này cung cấp một diễn đàn và là trung tâm kiến thức để phân tích, trao đổi kinh nghiệm, tư vấn các chính sách công trên bình diện toàn cầu… v.v.

Sunday, August 1, 2021

Việt Thạch Nguyễn Thụy Đan: Thơ, ngôn ngữ, triết lý Phật giáo: Những điểm gặp gỡ

 sinh hoat

Tác giả đứng thứ ba từ phải qua.

Việt Thạch Nguyễn Thụy Đan: Thơ, ngôn ngữ, triết lý Phật giáo: Những điểm gặp gỡ

Buổi nói chuyện tại chùa Kim Quang

Kính thưa chư tôn trưởng lão, chư vị thiện nam tín nữ, chư vị khán thính giả có mặt nơi đây, hoặc đang theo dõi trực tuyến. Đầu tiên, tôi xin thú thật và cáo lỗi, vì bản thân tôi không sinh hoạt trong nhà chùa, mà sự hiểu biết hẹp hòi của tôi về văn hóa và văn học Phật giáo chủ yếu chỉ thông qua những phương hướng tiếp cận thuần túy mang tính học thuật và nghiên cứu văn học trung đại nói chung – cho nên, những ghi nhận của tôi về văn hóa và văn học Phật giáo là của một người hoàn toàn ngoại cuộc các tổ chức giáo hội và tín ngưỡng giáo lý liên quan tới nhà chùa. Mặt khác, tôi ít sinh hoạt trong cộng đồng nói chung, lại hết sức vụng về bề nói năng – không được cái khiếu đàm thổ sinh phong, nhả ngọc phun châu như nhiều trưởng lão và anh em nơi đây. Bởi thế cho nên, chẳng may tôi nói chi chi lạ tai hoặc thiếu chính xác, cúi mong chư vị lượng thứ mà mở dạy thêm cho vậy.

Hôm nay, cư sĩ Tâm Thường Định đã có nhã ý mời tôi giới thiệu sơ qua ba tác phẩm văn học của cộng đồng Phật giáo Việt Nam xuất bản tại Hoa Kỳ và phát hành quốc tế trong năm nay và năm ngoái. Tính theo thứ tự phát hành, ba tác phẩm ấy là Giác Hoàng Trần Nhân Tông: Sơ Tổ Thiền Trúc Lâm (2020) của Lê Mạnh Thát, Tuệ Sỹ, và Thích Phước An, Triết lý và Thi ca (2021) của Thích Nguyên Siêu, và số đầu tiên của Phật Việt: Tạp san văn hóa Phật giáo Việt nam (2021), của nhiều tác giả, chủ nhiệm Thích Như Điển, chủ bút Thích Nguyên Siêu. Ba tác phẩm này, nói cụ thể hơn, là sản phẩm tinh thần của những bậc chân tu thiện tri thức, những kẻ sĩ lừng danh ở miền Nam thời trước lẫn ngày nay, và những cây bút già trẻ, cũ mới trong cộng đồng Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất, trong đó có nhiều anh em có thể nói là bậc lương đống trong cộng đồng Việt nam hải ngoại nói chung, chứ không phải riêng gì chỉ trong giáo hội Phật giáo. Xét chung, ba tác phẩm này có điểm gặp gỡ là văn học Phật giáo – trong trường hợp cuốn Trần Nhân Tông của nhóm Lê Mạnh Thát là văn học Phật giáo Việt nam thời trung đại, còn trong trường hợp Thích Nguyên Siêu và tạp chí Phật Việt là văn học Phật giáo Việt nam đương đại, thậm chí là văn học Phật giáo của thế hệ trẻ sinh ra tại Hoa Kỳ như trường hợp Alexandra Huỳnh Thụy An, vốn là một vị huynh trưởng sinh hoạt trong Gia đình Phật tử của ngôi chùa này. Vậy nên, hôm nay tôi xin chia sẻ một số cảm tưởng lặt vặt của tôi khi đọc qua ba tác phẩm này, gọi là góp vui cho buổi đàm thoại hôm nay.

Thiết nghĩ hầu như ai ai có sở thích đọc văn học trung đại Việt nam đều đã đọc qua văn thơ Lý Trần, hoặc nguyên văn chữ Hán, hoặc thông qua những bản dịch tiếng Việt hiện đại. Đọc thơ văn Lý Trần, kỳ thực đồng nghĩa với đọc văn thơ Phật giáo thời Lý Trần, vì, về căn bản, thơ văn Phật giáo có thể nói là thơ văn chủ đạo ở Đại Việt đặc biệt là vào đời nhà Lý, nhưng cũng tiếp tục sang đời nhà Trần, cho dù về mặt giới sĩ phu, thời Trần đã có khuynh hướng sùng Nho và đã sản xuất những bậc sĩ phu như thái bảo Trương Hán Siêu 張漢超 (1274 – 1354) chủ trương bài xích Phật giáo về mặt tư tưởng, về mặt xã hội dường như lại có mong muốn tháo gỡ hoặc hạn chế tối đa ảnh hưởng và quyền lực của các tổ chức Phật giáo. Nói điều này là để minh xác, chúng ta không nên ảo tưởng về một thời đại hoàng kim của Phật giáo trong lịch sử xã hội Việt nam. Thậm chí, xã hội và văn hóa Đại Việt đời Lý, đời Trần cho dù có phải là một thời đại toàn thịnh của Phật giáo ở địa bàn tương đương với miền Bắc Việt nam ngày nay, chúng ta cũng không nên nhận vơ là đồng nghĩa với xã hội và văn hóa Việt nam sau này. Tuy nhiên, việc chúng ta không nhẹ dạ tin vào một quá khứ đã bị lý tưởng hóa qua những giai thoại và nhận định thiếu căn cứ hoặc đã thiên quá nhiều về các diễn ngôn lịch sử đượm dân tộc chủ nghĩa, kỳ thực không hề làm phai mờ đi cái vẻ huy hoàng và vị trí quan thiết của Phật giáo trong xã hội thời Lý Trần nói riêng, và lịch sử Việt nam nói chung. Ngược lại, cái nhìn thực tế và khách quan, tuy có bề phức tạp hơn, nhưng theo tôi cũng là cái nhìn giá trị hơn, cái nhìn có thể gợi lên trong ta nhiều trăn trở và cảm tưởng hơn. Chính vì thế cũng là cái nhìn cần thiết hơn cho việc vun bồi và duy trì những sinh hoạt tri thức, văn học, và nghệ thuật trong một thời đại sự rẻ rúng, sự hời hợt lên ngôi, mà gần như toàn bộ cuộc sống chúng ta đã bị chi phối bởi những khẩu hiệu sáo rỗng và vô nghĩa.

Tôi đọc thơ Trần Nhân Tông từ khá sớm – đến nay có lẽ đã gần mười năm. Thơ Trần Nhân Tông, bài tôi đọc đầu tiên có lẽ cũng là bài tôi yêu nhất, đấy là bài Sơn phòng mạn hứng:

是非念逐朝花落
名利心隨夜雨寒
花盡雨晴山寂寂
一聲啼鳥又春殘

Thị phi niệm trục triêu hoa lạc,
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn.
Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch,
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn.

Nhiều người đã viết về yếu tố Thiền trong thơ Trần Nhân Tông. Tuy nhiên, với tôi – là một người xa lạ đối với tín ngưỡng và thực tiễn Phật giáo, đọc bài tuyệt cú này của Trần Nhân Tông, điều gây ấn tượng và xúc động nhất là cái buồn man mác của nhà thơ trước sự vô thường của vạn vật, trong đó có cả sự vô thường của những khái niệm đúng sai, những trăn trở và lo lắng hơn thua, được mất nội tại tư duy của nhà thơ. Vừa đọc vừa suy gẫm, chúng ta nhận ra bài thơ này không chỉ nói riêng về sự vô thường của hoa ban mai, của mưa đêm khuya, của tiếng chim hót, của mùa xuân tàn. Bản thân trải nghiệm và nhận thức của tác giả – hoặc của độc giả – về sự vô thường ấy, cũng là vô thường. Khi hoa đã hết, khi mưa đã tạnh, khi núi đã vắng, khi chim đã hót, khi xuân đã tàn – chúng ta còn lại gì? Đọc bài thơ này và nhiều bài thơ khác của Trần Nhân Tông, tôi không khỏi liên tưởng đến bối cảnh lịch sử thời nhà Trần – một thời đại hắc ám đầy những áp lực từ phía nhà Nguyên và những bất ổn nội tại xã hội Đại Việt. Chúng ta nên nhớ, nhà Trần đã được sáng lập khi Trần Thủ Độ thí quân Lý Huệ Tông trong chùa Chân giáo, và ngay từ đầu đã mang lời chúc dữ của Lý Huệ Tông, phàm sự gì khởi đầu bằng máu, sẽ phải kết thúc bằng máu. Đọc thơ Trần Nhân Tông, thơ Thiền của các vị hoàng đế nhà Trần, các sĩ phu thời Trần, trong bối cảnh binh hỏa ly loạn liên miên ấy, chúng ta càng cảm phục, càng thấu hiểu sức mạnh của tư tưởng Thiền tông trong việc giúp con người tỉnh dậy và giải thoát khỏi hỏa trạch tam giới – sự giải thoát ở đây không chỉ nói về giải thoát khỏi những cái ưu phiền nhỏ mọn thường ngày của một cá nhân, hay thậm chí những trang bi kịch kinh thiên động địa của một gia đình. Quả thật, chúng ta còn thấy được – cho dù có thể bản thân chúng ta chưa đạt được tới cảnh giới ấy – sự giải thoát khỏi hạo kiếp của cả một đất nước, cả một dân tộc, cả một định mệnh lịch sử, sự giải thoát khỏi bi kịch của bản thân sự hiện hữu. Phải chăng, chúng ta ngày nay, đối diện với những kiếp nạn không tiền khoáng hậu trong lịch sử nhân loại, cũng có thể rút được bài học từ cổ nhân. Phải chăng cái chúng ta ngỡ là vận mệnh đất nước bảy chục năm trở lại, năm chục năm trở lại, hay hai năm trở lại trong thời đại đại dịch Vũ Hán, bất quá là một vẻ “dường như”, cũng như bản chất của chúng sinh có vẻ “dường như” sinh diệt khứ lai, nhưng kỳ thực không hề gia giảm dù cho một cọng tóc.

Hiện tượng đan xen giữa thi ca và triết lý trong văn học Phật giáo đã xuất hiện từ rất sớm trong văn học sử Trung quốc. Thậm chí, chúng ta có thể khẳng định rằng, không có văn học Phật giáo, ắt không có văn học Trung quốc, ít ra là không có văn học Trung quốc như chúng ta vẫn quen hình dung. Tại sao lại thế? Nói đến thi ca Trung quốc và Việt nam, tôi nghĩ ai ai cũng sẽ nêu lên đặc điểm của nhạc tính hai ngôn ngữ này, cụ thể là nhạc tính được tạo nên bởi thanh điệu bằng trắc khiến cho thi ca tiếng Hán và tiếng Việt có âm hưởng trầm bổng du dương ít thấy nơi những ngôn ngữ khác. Tuy nhiên, tiếng Hán vốn không có thanh điệu bằng trắc. Tiếng Việt, đương nhiên, cũng thế. Sự hình thành của thanh điệu bằng trắc trong tiếng Hán là một quá trình dài, trong đó ảnh hưởng của tiếng Phạn thông qua sinh hoạt truyền giáo Phật giáo có thể nói là một nguồn ảnh hưởng chủ đạo, nếu không phải là ảnh hưởng chủ yếu. Cho nên, bản thân ngôn ngữ chúng ta vẫn nói hằng ngày, dù chúng ta dùng ngôn ngữ ấy để hoằng pháp hay để bài Phật, ít nhiều cũng đã mang ảnh hưởng và âm hưởng của nhà chùa. Đã nói đến bằng trắc, thì cũng phải nói đến thơ cận thể, hoặc như người Việt chúng ta vẫn thường gọi là thơ Đường hay thơ Đường luật. Cố nhiên, không có bằng trắc thì không thể nào có thơ Đường. Thế nhưng, ảnh hưởng của Phật giáo không dừng lại ở đấy – bản thân thể tứ tuyệt và bát cú, theo lập luận của một số chuyên gia Hán học, chính là vay mượn và ảnh hưởng từ các thể thi ca trong văn học Phạn ngữ.

Định nghĩa của thơ theo thi học cổ điển có thể tóm tắt bằng câu “thi ngôn chí” 詩言志 trong thiên Thuấn đin 舜典của Thượng thư 尚書. Thi ngôn chí – thơ nói chí. Phần Đại t 大序 trong Thi kinh 詩經giải thích rõ hơn: “Thi gi, chí chi s chi dã. Ti tâm vi chí, phát ngôn vi thi.” 詩者。志之所之也。在心為志。發言為詩。– Thi ấy là cái nơi đi đến của chí vậy. Khi còn ở trong tâm thì gọi là chí, khi phát ra thành lời thì gọi là thi. Thơ, theo cách hiểu này, là một hiện thân bằng ngôn ngữ của cái bản ngã nhà thơ phát ra và hình thành tự nhiên khi chịu tác động từ bên ngoài. Theo Đại t, tác giả và tác phẩm – theo một nghĩa nào đó – là một. Phật giáo truyền sang Trung quốc chính xác từ năm nào thì vẫn gây khá nhiều tranh luận trong học giới. Tuy nhiên, dù đã truyền vào trung nguyên chính xác từ năm nào của triều đại nhà Hán, ảnh hưởng của Phật giáo trong giới sĩ phu thời Hán Ngụy kỳ thực cũng không đáng kể. Phải đến thời Lục triều, Phật giáo mới được đón nhận rộng rãi và bắt đầu ảnh hưởng đến tư tưởng thi học của văn nhân, đặc biệt là ở triều đình Kiến Khang vào thời nhà Lương. Vua tôi nhà Lương nổi tiếng sùng Phật pháp, am tường kinh luật. Thi học và thẩm mỹ thời Lương cũng mang nhiều nét đặc sắc của Phật giáo thời bấy giờ. Phải chăng, Tiêu Cương 蕭綱 (503 – 551), tức Lương Giản Văn đế 梁簡文帝, đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo, khi định nghĩa thơ khác với Đại t. Theo Tiêu Cương, thơ không đơn thuần chỉ nói chí. Thơ còn là suy gẫm, là phản tỉnh, là quan sát – “Thi gi, tư dã, t dã.” 詩者。思也。辭也。Thơ, theo cách hiểu này, đã mất đi ít nhiều phần tự nhiên – nếu trước kia thơ đơn thuần chỉ là tiếng buột miệng kêu than trong lúc bị quá xúc động, theo Tiêu Cương thơ còn có phần nhân vi – vỏ bọc ngôn ngữ chúng ta tiếp cận khi đọc một bài thơ kỳ thực chỉ là sản phẩm sau cùng của một quá trình suy gẫm, ấp ủ, và trăn trở. Cái gọi là thơ, đúng ra, là một phương tin để gửi gắm cái thông điệp nội tâm kia. Ngôn ngữ của thơ, nếu chỉ hiểu theo nghĩa đen, chưa chắc đã là một hiện thân của con người đích thực của nhà thơ. Quả thật, khi nói đến thơ văn anh em nhà Lương, chúng ta đều liên tưởng tới thơ Cung th 宮體, một thể loại thi ca bề ngoài đầy rẫy những hình ảnh nhục dục và khêu gợi, nhưng có lẽ cũng thể hiểu được là một phương tin quan sát và trải nghiệm sự vô thường của xác thịt và ham muốn.

Sự phối hợp giữa thi ca và triết lý Phật giáo, cụ thể là tư tưởng Thiền tông, trong văn học sử Trung quốc đã phát triển mạnh vào thời Đường, để rồi đạt tới cảnh giới toàn thịnh vào thời nhà Tống. Đối với nhiều nhà thơ thời Đường, trong đó có nhiều vị “thi tăng” 詩僧, thơ và Thiền chỉ là một. Thậm chí, khái niệm trì luật 持律 trong thơ một số tăng nhân thời Đường, vừa nói đến việc giữ luật trong việc sáng tác thơ, vừa nói đến việc giữ lut (Vinaya) trong cuộc sống tu trì. Thời Đường, chúng ta lại thấy sự phối hợp chính thức của thơ và Thiền qua danh xưng thi thiền 詩禪. Thi thiền cụ thể là gì, chúng ta không biết. Có khi thi thiền là cách gọi chung thơ và Thiền như hai phạm trù riêng biệt. Có khi là nói đến một bài thơ bao hàm thiền lý, hoặc cái thiền lý được cất giấu vào trong thơ. Ít ra là trong một số trường hợp thời Đường, chúng ta có thể nói đến sự hợp nhất giữa thơ và Thiền. Thi thiền trong những trường hợp này, đích xác là thiền qua thơ, thiền bằng thơ. Sang đời Tống, đặc biệt là vào thời Nam Tống, có những nhà phê bình như Nghiêm Vũ 嚴羽 (1191 – 1241) với tác phẩm nổi tiếng của ông, Thương Lang thi thoi 滄浪詩話, chính thức đưa tư tưởng Thiền tông vào phê bình thi học Trung quốc. Ảnh hưởng của Thương Lang thi thoại xuyên suốt các đời Nguyên, Minh, Thanh – chưa kể ở Đại Việt thời Lê và Việt nam thời Nguyễn – không thể nói hết. Cùng thời điểm, chúng ta thấy trong thơ các danh gia thời Nam Tống như Lục Du 陸遊 (1125 – 1209) những khái niệm như “thi gia Tam mui” 詩家三昧, Tam mui (Samādhi) của nhà thơ. Tuy nhiên, chúng ta nên phân tích – khuynh hướng này đã không còn tính hợp nhất giữa thơ và Thiền như vào thời Đường. Thiền định và giác ngộ, theo thi học thời Tống, là những ngụ ngôn để nói về thơ và sáng tác. Hoặc nói cách khác, thơ và Thiền không còn hợp nhất. Thơ và sáng tác, chính xác hơn là những thực tiễn tu dưỡng, thậm chí là những thực tiễn tôn giáo, tuy vẫn song song với Thiền, nhưng đã tách riêng khỏi Thiền.

Tóm lại, triết lý, ngôn ngữ, và mỹ học Phật giáo – dù có nguồn gốc ngoại lại – đã trở nên một yếu tố hầu như thuộc về căn tính văn học Trung quốc từ thời trung đại về sau. Tôi nói văn học Trung quốc, nhưng cũng nói về văn học Việt nam, vì chúng ta không thể nào hiểu văn học sử trung đại của Việt nam tách riêng khỏi văn học sử Trung quốc. Văn học Đại Việt thời Lý Trần, nếu không chịu ảnh hưởng sâu đậm từ Đường Tống, chưa kể nhà Lương trước kia, chắc chắn đã không có những tác phẩm văn học Phật giáo tầm cỡ như thơ Trần Nhân Tông hay Thiền uyển tập anh 禪苑集英. Nói cách khác, khi nói về văn hóa và triết lý Đông phương, dù theo Phật hay không, chúng ta không thể không đối thoại với văn hóa và triết lý Phật giáo. Chẳng hạn như trường hợp Thiên Chúa giáo. Thiên Chúa giáo kỳ thực đã truyền sang Trung quốc từ đời Đường, thậm chí có thể là trước đó nữa. Tuy nhiên, kinh văn Thiên Chúa giáo sớm nhất còn hiện tồn đều mang niên đại nhà Đường. Trong quá trình phiên dịch kinh văn, các tu sĩ Thiên Chúa giáo thời Đường đã mượn rất nhiều thuật ngữ Mật tông để diễn đạt giáo lý Thiên Chúa giáo, đến nỗi mãi về sau người ta đọc kỹ lại mới nhận ra không phải là kinh Phật. Trong trường hợp Tống Nho, các nhà lý học tuy cực lực chống đối Thiền tông, nhưng đã không ngại vay mượn một số thuật ngữ từ Thiền tông, chưa kể bản thân văn thể ngữ lục của Tống Nho, có lẽ cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều từ ngữ lục Thiền tông.

Điều tôi muốn nói ở đây là tính nhập thế, đi vào lòng đại chúng của văn học Phật giáo qua những giai đoạn lịch sử và văn học khá dài. Riêng nói về ngữ lục Thiền tông, ngữ lục Thiền tông viết bằng Hán văn, dù là của Trung quốc, Đại Việt, hay Triều Tiên, đều mang một đặc điểm chung là văn phong cố tình thiên về phong cách văn nói, còn gọi là bạch thoại 白話. Tôi đã không khỏi liên tưởng đến điều này khi đọc những bài ca từ của Thích Nguyên Siêu trong Triết Lý và Thi Ca, hay những bài thơ và những bài luận trong tạp chí Phật Việt. Từ lâu nay, Hán văn đã mất vị trí tôn nghiêm và thực dụng trong đời sống của người Việt. Có lẽ vào thời điểm này, Hán văn không phải là phương tiện tối ưu để hoằng pháp hay để đem giáo lý và tinh hoa văn hóa Phật giáo đến với đại chúng. Những nỗ lực vượt qua rào cản ngôn ngữ được thể hiện trong ba tác phẩm được giới thiệu ngày hôm nay, phải nói là đáng khâm phục. Đặc biệt trong trường hợp tạp chí Phật Việt, độc giả cầm sách lên có thể tiếp cận tư tưởng và văn học Hán, Phạn, Việt, Anh qua những bài viết đa dạng về nội dung lẫn hình thức – cứ ngu ý, ở hải ngoại hiện nay, hiếm có tạp chí nào tương tự. Hệ thống chùa chiền Phật giáo đã có vai trò độc nhất vô nhị trong văn hóa in ấn mộc bản ở Trung quốc và Việt nam thời lịch đại. Phải chăng, như một định mệnh lịch sử, giáo hội Phật giáo sẽ là cứu tinh văn đàn Việt nam hải ngoại, kế thừa và hưng phục một nền văn hiến đang gặp nguy cơ ngưng trệ và lão hóa trầm trọng. Phải chăng, vấn nạn rào cản ngôn ngữ giữa các thế hệ người Việt hải ngoại, sẽ tìm được một nơi hòa giải và hóa giải trong các tác phẩm văn học như ba tác phẩm chúng ta được tiếp cận ngày hôm nay.

Ba tác phẩm này, và sự quan tâm, sự ưu ái chư vị nơi đây dành cho tác giả lẫn tác phẩm, cho thấy tri thức và cây bút của Phật giáo Việt nam hải ngoại sinh khí hãy còn mạnh, tiềm lực hãy còn nhiều, tiền đồ hãy còn dài. Đó là điều đáng mừng, không những cho chư vị thiện tri thức, chư vị thiện nam tín nữ, mà còn đáng mừng cho tất cả những ai ai còn quan tâm đến đời sống tri thức và tinh thần của cộng đồng Việt nam hải ngoại chúng ta. Trong đó có những người độn căn vô minh như tôi, tuy không hiểu biết mấy về Phật pháp, nhưng vẫn được chư vị hạ cố đến mà mời tham dự để cùng vui cái vui của người. Hạnh thậm, hạnh thậm.

Việt Thạch Nguyễn Thụy Đan
Sacramento, Tiết Đại Thử, Tháng 7, 2021


Xin xem Chương trình ở đây: https://www.youtube.com/watch?v=HgpuhtW9Zxc

Wednesday, July 21, 2021

THƯ MỜI : Tham Dự Chương Trình CÓ MẶT CHO NHAU 14 - Sinh hoạt bàn tròn

THƯ MỜI
Tham Dự Chương Trình 
CÓ MẶT CHO NHAU 14  - Sinh hoạt bàn tròn

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật 
Kính thưa chư vị Thức giả, quý Thiện hữu Tri thức Phật tử, 

Thay mặt Cội Nguồn Tổ Việt Foundation, Ban Tổ Chức xin được trân trọng kính mời: 
_______________________________________________________
Vui lòng đến tham dự chương trình Giới thiệu Tập San Phật Việt, Sách Phật Giáo và Ra Mắt Sách: Triết Lý và Thi Ca (Song Ngữ Việt Anh) Hoà thượng Thích Nguyên Siêu.

Buổi sinh hoạt CÓ MẶT CHO NHAU 14 là cơ hội để tâm tình cùng nhau qua sinh hoạt bàn tròn, được tổ chức tại Chùa Kim Quang, 
Địa chỉ 3119 Alta Arden Expwy, Sacramento, CA 95825. 
Phone: (916) 481-8781

Thời gian: vào lúc 6:30-8:30 chiều
Thứ Tư, ngày 28 tháng 07, 2021.

Sinh hoạt bàn tròn có Hoà thượng Thích Nguyên Siêu, Chùa Phật Đà (San Diego, CA). Thượng toạ Thích Thiện Duyên, Trụ trì Chùa Kim Quang (Sacramento, CA), Htr. Tâm Thường Định và học giả Việt Thạch - Nguyễn Thuỵ Đan, cùng quý quan khách tham dự.

Thành kính cung thỉnh Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni và trân trọng kính mời chư thiện tri thức, quý vị cư sĩ, và đồng hương hoan hỷ quang lâm chứng minh và tham dự để cho buổi sinh hoạt thiền vị thân thương trong tình thân hữu Phật Việt. 

Sự hiện diện của Quý Quan Khách, Chư vị Thiện hữu tri thức Phật tử là niềm khích lệ lớn lao cho Ban tổ chức.  Mọi sự liên lạc, ủng hộ hay đóng góp xây dựng, xin gọi số (916)-607-4066, email: tamthuongdinh@gmail.com hoặc Htr. Tâm Định: (619) 488-7279.  Nếu ủng hộ tịnh tài để mua sách, xin Venmo @PheBach, Zelle số trên hoặc PayPal @tamthuongdinh@gmail.com

Kính chúc quý vị an lạc cát tường. 
Trân trọng kính cung thỉnh và kính mời.
Sacramento, CA. Ngày 15. 07. 2021

Thay mặt Ban Tổ Chức
Htr. Tâm Thường Định - Bạch Xuân Phẻ
Htr. Tâm Định - Nguyễn Xuân Hiệp

Tuesday, July 20, 2021

Nguyễn Khánh Tiến: XỨ VŨNG (Nhơn Lý, Quy Nhơn, Bình Định)

Toàn cảnh Xứ Vũng - Photo: Internet

XỨ VŨNG  

Nguyễn Khánh Tiến

 

Quê tôi là Vũng Bấc, Vũng Nồm. Hai làng nhỏ ven biển, cách nhau một bãi tha ma, phía tây có nhiều động cát tiếp nối nhau mênh mông như sa mạc, phía đông có núi cao chắn sóng tạo nên nhiều thắng cảnh biển đẹp, hùng vĩ mà Eo Gió là một điển hình…

Ngay tên làng cũng là “phong thổ”, vì mặt làng đất trũng nước lớn thường lấn sát vào bờ, khi ấy trông biển giống như một cái vũng bao la, nên bên này hứng ngọn gió bấc được gọi là Vũng Bấc, còn bên kia hứng ngọn gió nồm được gọi là Vũng Nồm… Ngày xưa đó là thôn Hưng Lương và thôn Xương Lý thuộc xã Phước Lý, quận Tuy Phước. Còn từ 75 đến nay thì trên bản đồ hành chính ghi là xã Nhơn Lý, thành phố Qui Nhơn, tỉnh Bình Định...!

Sẵn đây tôi xin nói thêm: Ngày xưa, những thương lái ghe bầu, trong hải trình Bắc-Nam của mình, họ đã có một trường ca để dễ nhớ khi chỉ những địa danh dọc biển. Khi đến quê tôi, họ đã mô tả như sau:

                  “…Vũng Nồm, Vũng Bấc xa khơi

                    Trong vịnh, ngoài vời có CỎ cùng CÂN…”

Như vậy Hòn Cỏ, Hòn Cân là máu thịt của quê tôi, nó đã mang cái tên đó từ rất xa xưa lắm rồi, có khi đồng thời với các Chúa Nguyễn nam tiến nữa hổng chừng, chứ không phải mới có từ thời Pháp thuộc đâu. Nên không ai được quyền đổi tên Hòn Cân thành “hòn ông căn” như đã ghi trong hải đồ nhé, người dân của quê tôi sẽ không đồng tình với cái tên lạ hoắc đó đâu nghen..!

Thuở nhỏ, ngoài tiếng võng đong đưa à ơi ru em của mẹ, trong những đêm trăng tôi còn được nghe những câu hò mộc mạc : “Ngó lên hòn núi chóp vung/ Ngó xuống dưới Vũng tám cô chưa chồng…”, hay “Năm Minh người đã nên người/ Lời ăn tiếng nói miệng cười có duyên/ Bảy Dữ phận gái thuyền quyên/ Dăm ba chỗ nói chưa yên chỗ nào…”của một nghệ sĩ vô danh nào đó, mà cái hồn của họ dường như còn mãi trong tôi.

Núi chóp vung là núi Bà vọng phu ở Kẻ Thử, Cát Chánh. Người có tên Năm Minh là cô năm Trợ, cô chỉ có duy nhất một người con trai, khi tôi biết thì cô tuổi đã xế chiều rồi và rất thương con cháu. Cô có một cá tính đặc biệt là những ngày rằm hay đầu tháng, cô thường mặc áo dài lên chùa lấy nước về cúng Phật, và cô luôn đội bình nước ấy trên đầu, từ chùa về đến nhà một cách thành kính, mặc kệ người cười. Còn Bảy Dữ là cô bảy Từ Thế Lai, cô đã theo chồng là một Hoa kiều vào Sài Gòn lập nghiệp. Nghe nói chồng cô làm ăn rất phát đạt, đã thành chủ nhân của một công ty xuất nhập cảng lớn, nên cô đã bỏ xứ ra đi biền biệt, chỉ chút dư âm thời con gái là còn ở lại cùng quê hương trong những câu hò... Năm (1982), tôi có hai lần gặp cô tại Sài Gòn, lúc này cô đã già lắm rồi nhưng vẫn còn nét quí phái, nghe nói cô chuẩn bị đi xuất cảnh để đoàn tụ cùng con cháu, nên đường về quê của cô chỉ còn trong mộng mà thôi…

Những tháng hè, buổi trưa trời nắng chói chang, chúng tôi thường trốn cha mẹ rủ nhau đi tắm trộm. Sau khi lặn bắt cua ghẹ thỏa thích, lại đào giếng lấy nước ngọt xối, rồi mới về nhà luộc cua ghẹ ăn. Đó là chuyện chỉ bên Bấc (còn gọi là bên Giếng) mới có, vì khi nước cạn chỉ cần ra cách mé sóng chừng vài ba mét, moi cát sâu chừng vài ba tấc là sẽ có một giếng nước ngọt, uống và tắm thoải mái… Theo tôi nghĩ, thế nào nơi đây cũng được đoàn binh thuyền của chúa Nguyễn Ánh, đã có lúc phải dừng chân lấy nước ngọt rồi. Vì trong những cuộc chinh chiến Nam-Bắc hằng năm theo ngọn gió mùa, là cứ vào mùa gió nồm chúa Nguyễn Ánh cho chiến thuyền căng buồm ra Bắc đánh phá Tây Sơn, rồi đến mùa gió bấc ông lại xuôi chiến thuyền về Nam dưỡng quân. Đường dài và trường kỳ như thế, thì phải có điểm cung cấp nước ngọt dọc theo biển. Mà như thế thì quê tôi là nơi vô cùng thuận lợi, để tiếp nước cho đoàn binh thuyền của ông..! 

Khi chiều về thì chúng tôi lại chơi trò đánh củi, đánh trổng, thả diều. Rồi lại đi theo những ông già say sưa rất dễ thương ở trong làng : chòm trên Trị An có ông Tồn, chòm giữa Long Bình có ông Nhẫn và ông Thiệu, chòm dưới Sơn Hải có ông Mẫu (cha anh Nhìn). Đó là những ông già mỗi chiều sau khi uống rượu, các ông thường kéo theo một bầy trẻ nhỏ ra bãi, hát hò, ca lý mọi… hoặc nói những câu bông đùa thật vui nhộn. Mà lúc đó chúng tôi mê các ông, giống như mê mấy ông hề hát bội, đã về làng hát trong những dịp cúng tế lăng đình, vì các ông đã cho chúng tôi những nụ cười thật sảng khoái, hồn nhiên…

Rồi tối đến, chúng tôi lại tiếp tục chơi bịt mắt bắt dê, cưỡi ngựa ném khăn hay trò u quạ. Cứ thế tôi đã lớn lên bằng tình thương của nội bên Bấc và ngoại bên Nồm, nhưng cái bãi tha ma huyền bí ấy đã làm cho tình tôi cách trở…

Vì tuổi thơ tôi luôn bị ám ảnh bởi những câu chuyện kể ma mị hoang đường, mà về ngoại hay trở lại nội tôi đều phải đi giữa lòng tha ma hoang vắng, chung quanh mình chỉ toàn là bụi lùm và mồ mả âm u. Nếu về ngoại, thì khởi đầu tôi phải đi ngang qua một trường học bỏ hoang cạnh đình làng, gần đó là một gốc bàng cổ thụ, cành lá che phủ nhiều mảng tường rong rêu hoang phế của một ngôi miếu cổ, mà người ta đồn rằng đã có người nhìn thấy một bóng ma áo trắng, ngồi trên cây bàng xõa tóc dài phơ phất, than khóc nỉ non. Cái khung cảnh rùng rợn lạnh người ấy, cứ bắt tôi phải liên tưởng đâu đây có những oan hồn đang gục đầu bên nấm mộ, hay miên man lo sợ bầy ma gà Hời luẩn quẩn theo chân…

Cái cảm giác sợ hãi ấy, cứ đeo mãi theo tôi cho đến khi khôn lớn. Sau này, có một lần vào khoảng 03 giờ sáng, bận việc nhà gấp tôi phải một mình đi từ ngoại bên Nồm về nội bên Bấc, dưới ánh trăng bàng bạc tôi dặn lòng mình là không sợ. Nhưng khi qua khỏi ngõ ấp, tôi bắt đầu lo lắng và đi thêm chút nữa, đến gần khu gò mả tôi thấy hơi run, nên đã bắt ấn và luôn miệng niệm chú “Án ba ni…”. Có lẽ tự tin hơn nhờ câu chú, nên tôi vẫn mạnh dạn bước chân, mặc dù cái sợ vẫn còn đó. Cho đến khi vào giữa bãi tha ma, qua khỏi ngôi mộ nội ông A và gần đến khu mộ ông Quề. Thì tôi gần như bị ngợp thở vì tim đập loạn xạ, một luồng khí lạnh ngắt từ đầu chạy dọc xuống sống lưng, rồi chạy ra cả hai tay hai chân làm người tôi tê cóng, bước đi không còn vững nữa. Lúc này tôi có ý định quay lui nhưng đường đã khá xa, nên đành cắn răng cắm đầu hổn hển loạng choạng bước tới, tai tôi lúc đó ù vang nhiều âm thanh mơ hồ ghê rợn, mồ hôi đổ ra như tắm và khi về tới trường học rồi mà tôi vẫn chưa hoàn hồn… Đó cũng là lần sợ ma khủng khiếp nhất đời tôi..! 

Thuở còn học trường làng, cũng bãi tha ma này, tôi đã trốn học theo bạn bè lang thang tìm hái cò ke, dủ dẻ, lữ long hoặc “ra oai” rượt đuổi những chú bê con, hay chận bắt những con giông đang tìm đường lẩn trốn. Rồi cũng nơi đây trẻ hai làng đã hung hăng chơi trò giặc giã, cũng xung phong ném đá, tấn công giành từng ụ đất bụi gai. Cũng lỗ đầu, mẻ trán, trầy vai… để cha mẹ phải rầy la vì tội dám tạo cảnh “tương tàn” với bà con nội ngoại… Khi chúng tôi lớn hơn một chút, thì cũng chính giữa lầu nơi đây, là vận động trường bóng đá chân đất “đỉnh cao”, mà cầu thủ của cả hai bên, cứ mỗi trận đá là một phen “trống mái”..! 


Quê tôi có hai bãi biển cát trắng, nước xanh trong tuyệt đẹp. Mỗi bên một bãi, tha hồ mà phơi nắng, châm sóng hoặc thả diều. Ngoài ra bên kia núi còn có Eo Gió, là một thắng cảnh với non xanh nước biếc, đã làm cho biết bao du khách ngày xưa và cả hôm nay, phải ngỡ ngàng khi đứng ngắm cảnh trời nước mênh mông. Và ngoài khơi xa, trên Biển Đông còn có ba hòn Cân, Cỏ, Sẹo như ba chàng lính ngự lâm sừng sững, đứng bảo vệ và trang điểm cho thắng cảnh thiên nhiên này… 

Bãi biển bên Nồm ngắn, nước sâu nằm dưới chân Dốc Cá cao vời vợi. Ngày xưa, dốc cao ít nhất là 50m, muốn đi từ xóm Cũ lên xóm Mới hay lên Dốc Cá chơi, người ta phải leo lên theo một đường nghiêng như bậc thang tam cấp và phải nghỉ một, hai chặp mới lên được tới dốc. Nơi đây là chốn hẹn hò lý tưởng của đôi lứa, cũng là nơi gặp gỡ của những nhóm bạn bè thân. Vào những đêm trăng thanh gió mát, ngồi nghe tiếng sóng vỗ thì thào như những lời tự tình dưới chân mình, thì không còn thú vị nào hơn.

Hồi đó, trên đỉnh Dốc Cá này, từng có một ngôi nhà thờ Thiên Chúa, mái ngói đỏ au và đỉnh cao Thánh Giá nhọn hoắt, như muốn vươn lên chọc thủng cả trời xanh. Nhưng vào khoảng năm (1964-66), khi đó quê tôi là vùng tranh chấp và chính quyền Cách Mạng (CM) đang kiểm soát, (lúc ấy ở thôn quê gọi là CM chứ không gọi là VC hay CS). Nên ngôi nhà thờ ấy đã bị đập phá, tháo dỡ ra từng cái đòn tay rui mè rồi chất đống đốt, mặc cho một ít giáo dân ngơ ngác đứng nhìn…

Ngồi trên đỉnh Dốc Cá này, chúng ta sẽ thấy rõ nó nối liền với dãy núi có bãi tắm Kỳ Co, nơi mà khách du hôm nay thường về đây nghỉ dưỡng. Kề đó là Vũng Bầu có hang yến sào, mà mỗi năm đã mang lại lợi tức rất lớn cho tỉnh nhà. Còn xa hơn nữa là Hòn Khô và xa tít tắp là Cù Lao Xanh mờ ảo. Trên mặt biển, ban ngày thì lưới đăng, lưới cao vây bủa. Còn những đêm tối trời thì đèn câu, đèn mành sáng cả một vùng trời, như một thành phố nổi lung linh…

Bãi biển bên Bấc dài hơn, lài hơn nên nước cạn hơn. Nếu từ trên núi, đứng chỗ nổng An Tông nhìn xuống, thì trông nó như một tấm lụa bạch khổng lồ, trải dài từ Vũng Bấc lên đến Kẻ Thử. Nó là mặt tiền của những động cát trắng mênh mông giáp biển, mà phần hậu của những động cát chập chùng đó là giáp đầm Thị Nại. Trong giữa những động cát ấy là những cái trảng cằn cỗi, nhưng vẫn trang điểm được chút màu xanh cây lá, nên chúng tôi một thời đã lùng hái chiêm chiêm, dủ dẻ, cam đường… chẳng biết mỏi chân.

Vào thời ông Diệm bãi biển này là nơi buôn bán cá, mực rất nhộn nhịp. Nó cũng là con đường huyết mạch, nối liền với các xã thuộc Phù Cát, Tuy Phước. Và nếu vào Khe Đá vượt đầm Thị Nại, thì sẽ tới Qui Nhơn rất gần. Thời đó xe cộ và người lên, kẻ xuống dập dìu. Với những người đi bộ thường là gánh gạo hay ngô, khoai về biển. Còn người đi xe đạp thường là những nậu rổi, từ trên quê xuống biển mua cá, mực chở về đồng. Thỉnh thoảng cũng có vài chiếc xe “máy dầu”, của những người quảng cáo thuốc sơn đông mãi võ, với những màn xiếc và ảo thuật rất tài tình. Rồi lại có những xe nước mía hoặc xe bán cà-rem đến, đã làm cho chúng tôi vô cùng thích thú…

Tôi nhớ có một lần ông Thanh ở Xóm Chuối hay Bến Đò gì đó, dùng ngựa chở hai canh rượu ra làng tôi bán. Bữa đó cùng đi với ông còn có chú ngựa con lon ton theo mẹ, còn chúng tôi thì lon ton theo chú ngựa con. Khi ông Thanh vào quán thím Nhân giao hàng xong, ông cột chặt con ngựa mẹ vào cột và ông lên nhà chú Nhân. Thế là chúng tôi cùng nhau reo hò rượt đuổi chú ngựa con, làm chú sợ hãi chạy xuống tận dưới gành. Chú ngựa con vừa chạy vừa hí kêu mẹ, ngựa mẹ thấy vậy cũng lồng lộn và hí vang trời. Thế rồi ngựa mẹ dựt đứt được dây cột, vừa hí vừa phi nước đại xuống gành. Lúc ấy tôi thấy nó phi nhanh về hướng con nó, tôi đã chạy lại đứng chận đầu và dang hai tay ra cản đường. Không ngờ, đã bị nó phi thẳng vào người và bay qua luôn, còn tôi thì bị té ngã ngửa nằm dài trên bãi biển, nhưng may quá chẳng sao. Chứ chỉ cần nó chọt hoặc đạp trúng một móng chân vào bụng, thì chắc là xanh cỏ từ ngày ấy rồi, đúng là tuổi thơ chơi dại, giờ nghĩ lại vẫn còn hú hồn..!

Biển bên Bấc những đêm không trăng, thì đèn măng-xông của ghe câu ghe mành sáng chói chi chít, tạo thành một hàng dài ngút mắt như dải Ngân Hà từ trời cao rụng xuống… Sáng ra thì thuyền ghe tấp nập đánh bắt. Ngay góc Bãi Dứa với Bờ Lầu là nơi hành nghề của lưới đăng, chỗ hòn Cao là lưới thưa, trong hòn Câu là lưới chù. Ở đầu xóm thì lưới tai, lưới quát đang gạn kéo. Còn ngoài khơi xa là những chiếc mành chà, những đôi lưới cao đang nỗ lực chèo để bủa lưới khi thấy cá hồ (bởi thời điểm này máy nổ chưa phổ biến).

Vào khoảng xế trưa vì gió nồm săn, nên những chiếc ghe câu dễ ở quê, cũng như những ghe An Dũ (đi lựa trọ ở Vũng Bấc, chuyên nghề câu cá nhám), không thể đi thẳng vào bến được. Nên phải lần lượt dong buồm lên hướng gò muốn xanh, rồi mới trở lèo xuôi buồm về bến cuối làng, giữa những cánh chim nhạn đang bay lượn, đã tạo nên một khung cảnh thanh bình nên thơ tuyệt đẹp...!


XỨ VŨNG (Phần 4)
Cũng như bao nhiêu làng biển khác, quê tôi có đủ cả lăng và đình, để thờ ông Thành Hoàng và ông Nam Hải. Hai đình thờ hai ông Thành Hoàng cho hai làng, là biết ơn tiền nhân đã khai khẩn đất đai, đã thành truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, nên làng quê VN nào cũng có. Mỗi năm cúng đình thường có hát bội, tôi còn nhớ (1972) là năm đình bên Nồm cúng rất lớn, cúng rất kỹ lưỡng. Vì năm đó, các sĩ tử quê tôi đậu tú tài rất đông…

Còn hai lăng thờ ông Nam Hải thì chỉ những làng biển mới có, ông Nam Hải vốn là cá voi, nhưng tùy theo loại cá voi, mà người ta phân biệt gọi là ông hay là cô (thường thì Ông hơi nhỏ còn Cô thì rất lớn). Người dân biển tin và tôn kính ông Nam Hải là thần linh, vì mỗi khi ông lỵ (chết rồi trôi vào bờ hoặc vào bờ rồi mới chết) ở đâu, thì sẽ đem lại may mắn, ấm no cho vùng biển ở đó. Ngoài ra người ta còn tin ông thường cứu mạng những ngư dân không may gặp bão tố, dẫu chìm ghe ngoài biển khơi thì ông vẫn đưa được nạn nhân vào bờ bình an. Nên khi ông lỵ người ta tổ chức đám táng cho ông rất tử tế, qui mô và chu đáo. Chẳng hạn như người gặp ông đầu tiên và ông chánh đầm (trưởng vùng biển đó), thì phải có bổn phận và vinh hạnh được để tang cho ông ba năm. Còn hàng năm cúng lăng ông Nam Hải, là thường vừa có hát bội, vừa có chèo bã trạo.

Chèo bã trạo là một loại hình dân ca miền biển, một đoàn chèo gồm có : một tổng lái, một tổng thương, hai ông lồng đèn, hai ông tàu hổ, cùng hàng chục tay chèo (con trạo), xếp thành hai hàng. Nội dung vở diễn là những người đi biển chẳng may gặp nạn, cầu xin ơn trên và được phù hộ. Tôi nhớ hồi đó, thường lần nào cũng vậy là ông Hải hay đóng vai tổng lái, còn ông Danh thì đóng vai tổng thương. Trong cách hát, ngoài lời hát của tổng lái và tổng thương ra, thì các tay chèo thường lập lại điệp khúc là “nghi nghí nga, hố hộ phang…” rất mộc mạc, dân dã mà cảm động.

Tôi nhớ khoảng năm (1966-67) gì đó, lúc này quê tôi chính quyền VNCH đã kiểm soát lại rồi. Có một Cô lỵ vào bờ vô cùng lớn, ban đầu Cô lỵ vô chỗ lưới chù, dân làng tưởng Cô bị lạc hướng, nên cố sức dìu Cô ra biển trở lại. Nhưng Cô cứ lòng vòng một hồi lâu, rồi cuối cùng Cô lỵ vào bãi, ngay chính ngõ lăng. Đó là một Cô dài khoảng 12m, bề ngang chừng 1,5m và cao cỡ 0,8m. Nghe người lớn nói, Cô lỵ lần đó là to nhất từ trước đến nay. Nên đám táng của Cô rất lớn và linh đình. Ngư dân các nơi đến viếng, chiêm bái và phúng điếu đông nườm nượp, kéo dài cả tuần lễ mà vẫn chưa ngớt. Tiếp đó là chèo bã trạo và rước hát bội (đoàn : ông Chinh, ông Cá, ông Trọng, bà Xiềng…) về hát, như một lễ hội dân gian tưng bừng, vui vẻ ngất ngây …

Quê tôi cũng có hai miếu Bà, riêng làng tôi có một miếu Bà rất linh, miếu nằm gần chùa Phước Hưng, cạnh miếu có một cây bàng quỳ cành lá sum suê. Lúc nhỏ chính mắt tôi thấy, trong một cái hốc trên cây bàng quỳ ấy có những con rắn, mà người ta đồn đó là cặp rắn thần nên ai cũng sợ. Người ta thường viếng lễ Bà để xin keo, mỗi khi muốn hỏi “trên trước” về một vấn đề “tế nhị” nào đó. Thỉnh thoảng lại có cầu Bà để hỏi những điều lớn lao huyền diệu hơn, hoặc để trị bệnh tà ma cho những người trong làng, hổng may mắc phải.
Cầu Bà, thường có ba người mặc áo dài đội khăn đóng, tay cầm cơ và miệng đọc kinh là những người cầu chính, đó thường là ông Trong, ông Ngữ, ông Học, ông Ngàn... Họ gồm hai người ngồi hai bên cây cơ đối diện nhau và một người ngồi giữa chính diện là cốt nhập, có phủ tấm vải điều lên đầu che luôn cả mặt. Ngoài ra xung quanh còn có nhiều người khác nữa, trong đó có ông Khâm chuyên hỏi và diễn dịch chữ nghĩa của Bà cho. Cây cơ làm bằng gỗ dài cỡ 1,2m gồm hai phần, phần ngọn cơ có hình cổ cò dài chừng 0,7m có lỗ cắm nhang mặt trên và cắm bút lông ở mặt dưới, để viết chữ Hán bút đàm với thần linh. Còn phần cán cơ giống như một cái nón úp lớn hình tròn chóp thấp, được đan bằng mây rất khéo, để ba người ngồi cầu đủ chỗ nắm giữ cơ. Khi Bà nhập cây cơ sẽ chuyển động mạnh, ngọn cơ sẽ vỗ đập xuống miếng ván bom bóp và viết chữ truyền thánh ý…
Từ đó chúng tôi cũng bắt chước cầu cơ, nhưng con cơ được làm bằng ván hòm hoặc làm bằng giấy cac-tôn cứng. Cách cầu cũng có đọc kinh, nhưng đơn giản hơn cầu Bà nhiều, nên chỉ cầu được phần đông là ma quỷ, buộc phải đốt đít cơ cho thăng. Thỉnh thoảng mới gặp được thần thánh, chúng tôi lại giành nhau hỏi linh tinh, nào là tình yêu nào là thi cử, vừa vui nhộn mà cũng vừa hồi hộp…
Ở quê tôi còn có thêm nhiều thầy khác nữa, mà thời đó những vị thầy này là cực kỳ quan trọng, họ đã làm nên sự yên ổn và an tâm cho xóm làng, họ là những người lấy sự giúp đỡ cho người khác làm niềm vui… Bên Bấc có ông già Vuông ở Trị An, là một thầy chuyên lễ trúng gió và trị ban bằng thuốc nam rất giỏi. Năm (1968) có lần tôi đã đến nhà ông, xin mài thuốc cặt-đá là một loại san hô, để đem lên chùa cho ông nội tôi uống, nhưng bệnh ông tôi đã quá ngặt nghèo. Sau ông Vuông mất, con của ông là ông Vấn lại tiếp tục theo nghề cha. Bà Dừa ở Long Bình là một cô mụ vườn rất mát tay, lúc nhỏ tôi có theo mẹ đến nhà bà đi tết bà mụ, tôi thấy trên trang thờ Bà Mụ của bà, chỉ có một cây kéo (của thợ rèn đã sét cũ) là đồ nghề đỡ đẻ, vậy mà bà đã cho không biết bao đứa bé trong làng chào đời, an toàn khỏe mạnh trong đó có tôi. Còn Ông già Gió là một thầy địa lý rất được dân làng tin tưởng, ông chuyên coi hướng chôn cất huyệt mộ cho người chết trong làng và coi giúp ngày tốt, giờ tốt cho ghe thuyền xuống nước. Rồi bà Bốn Trâu, chuyên trị nhặm mắt bằng xông lá trầu nguồn rất hay, mà lúc nhỏ tôi đã từng lên nhà bà nằm để chờ bà điều trị…
Nếu không kể thêm người này thì sẽ vô cùng thiếu sót, đó là “bác sĩ” Tùng, ông không học nghề y nhưng lại được dân quê tôi gọi triều mến là bác sĩ. Số là thế này, vào khoảng giữa thập niên 60 quê tôi mất an ninh, nên không có thầy thuốc tây y. Nhờ sáng trí ông đã tự học cách chích và tự nghiên cứu cách điều trị bệnh bằng tân dược. Rồi năm đó bỗng dưng bệnh dịch hạch lại nổ ra, ban đầu trong làng ngày nào cũng có vài ba người chết, dịch bệnh lây lan rất nhanh, xóm làng lo lắng sợ hãi. Ông đã chạy ngược chạy xuôi, hết chòm trên xuống chòm dưới, hết Xóm Cũ lên Xóm Mới để chích thuốc trụ sinh, kháng dịch cho những người bệnh. Chích đến nỗi hết nước cất, nghe nói là phải chặt lấy nước dừa xiêm thay “nước cất” pha thuốc để mà chích. Nhờ thế số người chết dừng hẳn và sau hàng tháng trời, thì bệnh dịch hạch đã được đẩy lùi. Nên từ đó về sau, những người dân lớn tuổi ở quê tôi, ưu ái gọi ông là bác sĩ..! Sau này ông không làm thuốc nữa, thì lại có anh Mười (Tơ), anh Trợ, chị Xuyến, Cảnh (Cựu)… là những người tiếp tục làm nghề y tá rất được tin tưởng. Riêng anh Mười (Tơ) về sau có làm thêm đông y nữa, và chị Xuyến là một cô mụ mát tay trong làng.
Ở bên Nồm có ông Ba Thùy ở Xóm Cũ, rất giỏi chữ hán, sau (75) đã dạy chữ hán cho các thầy tu trẻ, ở các chùa tại Qui Nhơn. Ông là một thầy chuyên coi bói và coi ngày giờ tốt xấu, để giúp xuống nước nghề hoặc khai trương rất được tin tưởng. Ông còn bấm độn chỉ hướng tìm của quý bị mất, hay tìm người bị ma dấu rất chính xác, trong đó có vụ tìm ông Phật Lồi, đã bị bọn trộm lấy cắp ra khỏi chùa và đem dấu.
Tôi còn nhớ khoảng năm (1976), làng tôi có cô gái tên Đ, ở Sơn Hải đang thời kỳ hậu sản, bỗng dưng khoảng gà gáy gia đình cô phát hiện cô mất tích. Người nhà tìm cô hoài hổng được mới qua nhờ ông Ba Thùy coi giúp, sau khi bấm độn ông bảo về tìm ở hướng tây (từ đầu xóm đến gò muốn xanh). Nhưng tìm hoài hổng có, nên người nhà cô ấy lại qua nhờ coi lần nữa, thì lúc này ông bảo là nó đã chuyển xuống hướng đông rồi. Thế là họ về tìm ở phía gành và ao Bà Quí cũng hổng có, cuối cùng họ trèo núi qua bên đông tìm, thì đã gặp được cô ở bên Lở, đang ngồi trên tảng đá mặt nhìn ra biển, hướng mặt trời sắp mọc.
Sau đó tôi nghe người làng nói là cô Đ khi tỉnh táo, đã kể lại như sau : “Khuya hôm ấy có một bà già vào nhà dẫn cô ra bãi, rồi dẫn lên trên đầu xóm và xô cô ra biển để nhận nước, nhưng cô đã chống đối quyết liệt. Xong bà ta lại dẫn cô xuống gành, lội ra chỗ ao Bà Quý để nhận nước cô lần nữa, mà cũng hổng được. Bực tức bà ta chỉ mặt cô và mắn “mày đừng ỷ mạng lớn, mà mày to gan…”, sau đó bà ta dẫn cô lên núi và đi qua bên đông bằng đường xuống Lở, rồi bắt cô ngồi trên tảng đá nhìn ra biển, chắc là trời gần sáng nên mới bỏ đi, thì lúc này người làng mới tìm gặp được cô”. Nghĩa là, đúng như những gì ông đã bấm độn và nói…
Bên Nồm còn có ông già Dìa, mà lúc nhỏ mỗi lần gặp ông là tôi sờ sợ. Bởi ngoại hình ông không giống như người dân ở quê tôi, trông ông rất kỳ dị : đầu trọc, mày rậm, da nâu, râu rìa bạc phết, mình trần lầm lũi dưới nắng... Nghe nói ngày xưa, ông là một thầy hời hay thầy pháp gì đó cao tay ấn. Nhưng về già hết thời, đã bị bùa hành…
Ở Xóm Cũ còn có một gia tộc lớn, ba đời làm nghề thuốc bắc, đó là gia tộc ông đại hào Khôi. Tướng ông đạo mạo, da dẻ hồng hào, râu tóc bạc trắng và thường mặc bộ đồ trắng, nên trông ông giống như một vị tiên ông bốc thuốc. Về sau có ông chánh bộ Nhung là con của ông, cũng là một thầy đông y rất giỏi, rồi ông chánh bộ Nhung đã truyền lại cho con trai là thầy Tám Cương hành nghề, cũng rất được dân quê tôi mến mộ.
Ngoài ra Xóm Cũ còn có ông Mười (Dũng), ông Mẹo, anh Từ và ở Xóm Mới có ông Giảng là những người làm nghề y tá khá giỏi. Nhưng về sau ông Mẹo lại có thêm nghề đông y nữa, còn anh Từ lại bỏ luôn nghề. (còn tiếp)