Wednesday, August 11, 2021

THƯ MỜI Tham Dự Chương Trình CÓ MẶT CHO NHAU 15 - Ra Mắt Sách Phật Giáo


Buổi Lễ

Giới thiệu Tập San Phật Việt, Sách Phật Giáo

và Ra Mắt Sách: Triết Lý và Thi Ca

cũng như Các Tác Phẩm của Nhiều Tác Giả

THƯ MỜI

Tham Dự Chương Trình CÓ MẶT CHO NHAU 15  - Ra Mắt Sách Phật Giáo


Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật 

Kính bạch chư tôn đức Tăng Ni,

Kính thưa chư vị Thức giả, quý Thiện hữu Tri thức Phật tử, 

 

Thay mặt Cội Nguồn Tổ Việt Foundation, Ban Tổ Chức xin được trân trọng kính mời: 

_______________________________________________________

 

Vui lòng đến tham dự Chương Trình CÓ MẶT CHO NHAU 15: Giới thiệu Tập San Phật Việt và Ra Mắt tác phẩm Triết Lý và Thi Ca, cũng như các tác phẩm của nhiều tác giả khác, tiêu biểu như: 

  1. Tập San PHẬT VIỆT 

  2. Triết Lý và Thi Ca (Song Ngữ Việt Anh) Nguyên Siêu, chuyển ngữ Diệu Kim & Nguyên Đức. 

  3. Đứng Vững Ngàn Năm - Ngô Nhân Dũng (Chân Văn - Đỗ Quý Toàn)

  4. Viết Từ Phương Xa (Tuyển tập) - Nguyên Giác - Phan Tấn Hải. 

  5. Từ Mảnh Đất Tâm (Tiểu luận tư tưởng văn hóa Phật Việt) - Tâm Huy Huỳnh Kim Quang. 

  6. Lời Ca Của Gã Cùng Tử (Tuyển tập 100 lá thư chủ bút Nguyệt San Chánh Pháp) - Vĩnh Hảo. 

  7. Thong Dong Khắp Mọi Nẻo Đường (Giáo Dục Quê Hương - Đạo Pháp - Văn Học Nghệ Thuật) - Tâm Thường Định - Bạch Xuân Phẻ. 

Và còn nhiều tác phẩm của nhiều tác giả khác sẽ đóng góp cho buổi chiều CÓ MẶT CHO NHAU 15. 

 

Buổi sinh hoạt sẽ được tổ chức tại Sangha Center (Huntington Beach Center for Spiritual Living) địa chỉ 7641 Talbert Ave, Huntington Beach, CA 92648. Phone: (714) 596-0900. Thời gian: vào lúc 2:00-5:00 chiều, Thứ Bảy, ngày 11 tháng 09, 2021.

 

Thành kính cung thỉnh Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni và trân trọng kính mời chư Tôn đức Tăng Ni, chư thiện tri thức, quý vị cư sĩ, và đồng hương hoan hỷ quang lâm chứng minh và tham dự để cho buổi lễ tăng thêm ý nghĩa, và giá trị đậm đà, thân thương trong tình thân hữu Phật Việt. 

 

Sự hiện diện của chư liệt vị là niềm khích lệ lớn lao cho Ban tổ chức.  Mọi sự liên lạc, ủng hộ hay đóng góp xây dựng, xin gọi số (916)-607-4066, email: tamthuongdinh@gmail.com hoặc Htr. Tâm Định: (619) 488-7279.  Nếu ủng hộ tịnh tài để mua sách, xin Venmo @PheBach, Zelle số trên hoặc PayPal @ tamthuongdinh@gmail.com

 

Kính chúc quý liệt vị vô lượng an lạc, vô lượng cát tường.

Trân trọng kính cung thỉnh và kính mời.

Sacramento, CA. Ngày 15. 07. 2021

Thay mặt Ban Tổ Chức

Htr. Tâm Thường Định - Bạch Xuân Phẻ 

Htr. Tâm Định - Nguyễn Xuân Hiệp



Xem sinh hoạt và hình ảnh của chương trình Có Mặt Cho Nhau - 14 tại đây.


Friday, August 6, 2021

Buổi sinh hoạt CÓ MẶT CHO NHAU 14 tại Chùa Kim Quang




 

Buổi sinh hoạt CÓ MẶT CHO NHAU 14 tại Chùa Kim Quang


Chương trình Có Mặt Cho Nhau lần thứ 14 nhằm giới thiệu Tập San Phật Việt 1, Sách Phật Giáo và Ra Mắt Sách: Triết Lý và Thi Ca (Song Ngữ Việt Anh) của Hoà thượng Thích Nguyên Siêu. Sinh Hoạt Bàn Tròn. Tại Chùa Kim Quang - Sacramento, Cali. July 28, 2021

Lần này còn có các tập sách mới xuất bản năm 2021 như cuốn “YẾT MA YẾU CHỈ” của Hòa Thượng Thích Trí Thủ và Hoà Thượng Thích Tuệ Sỹ biên soạn. “PHÁP DIỆT TRÁNH” của Thích Nguyên Chứng (Tuệ Sỹ) và “Triết học và Thi ca” của Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu, Viện chủ Chùa Phật Đà tại thành phố San Diego, miền nam California. Và nhiều tác phẩm Văn học Phật giáo do chư Tăng Ni soạn giải và các Cư sĩ khắp nơi. 

Có thể nói, tham dự CÓ MẶT CHO NHAU lần này là để nghe những dòng tâm tư trải nghiệm tu học và hoằng dương chánh pháp của Chư  tôn đức Tăng Ni cùng những vị Cư sĩ. Những khát khao của từng thế hệ mãi truy tìm để khám phá sự ứng nghiệm thực hành như những hành giả ẩn sâu trong núi thẳm, thiền định quán chiếu hoặc thong dong giữa chốn ba đào để vui đời cảm tác thi văn trong từng sát na hơi thở thành thi vị ngọt đắng xuyên thẩm thấu ánh mây hồng.

  Dòng văn chương từ suối nguồn tâm thức chảy tận biển cả dòng đời tồi hóa thành bọt nước vào ra đùa với cát bụi.  Thiền thơ văn cú vẫn không sao thổ lộ hết với dòng đời vạn biến.  Chữ nghĩa vô cùng và tâm bao dung vô tận của chư vị thức giả Tăng Ni và Cư sĩ cống hiến đến các giới qua nhiều ngỏ phương tiện nhằm giúp mỗi người ở nơi đâu cũng có từng trang kinh để đọc, từng thi văn chiêm nghiệm cuộc đời và tiêu dao như cánh nhạn giữa bầu trời xanh.

Ra mắt sách lần này, các độc giả gặp gỡ một học giả rất trẻ - Nguyễn Thụy Đan, hiện tại đang học tiến sĩ về lịch sử Việt Nam tại đại học Columbia University, New York; Đan đã có nhiều năm nghiên cứu trong lãnh vực Hán nôm, thơ văn trung đại từ đời nhà Trần. Bên đó sự đồng hành của chư Tăng Ni cũng như Nam Nữ Cư sĩ có mặt tại chùa và yểm trợ trên trực tuyến trên hệ thống Facebook đến thính chúng khắp nơi tham dự buổi ra mắt sách lần thứ 14 tại Chùa Kim Quang thủ phủ Sacramento, California. 

Giữa biển pháp mênh mông, kinh sách chính là phương tiện dẫn đến bờ giải thoát. Tâm huyết của người yêu nghệ thuật như người làm về Văn hóa Giáo dục, không sợ mất thời giờ và tài chánh mà chỉ sợ mất sự tiếp nối Văn hóa Phật Việt đến các thế hệ tương lai. Bởi vì lẽ đó, HTr Tâm Thường Định- Bạch Xuân Phẻ yêu sách như con ruột của mình, cùng Htr. Tâm Định Nguyễn Xuân Hiệp tổ chức để giới thiệu sách và nhiều sinh hoạt văn hoá Phật giáo với chủ đề “Có Mặt Cho Nhau”. Việc làm lợi đạo ích đời, gia đình HTr. Tâm Thường Định có Cha Mẹ, vợ con, anh chị em luôn đồng hành trong tinh thần hộ chư tôn thiền đức Tăng Ni hoằng pháp.

Những tác phẩm giá trị Văn học Nghệ thuật Phật giáo từ trước và mới sau này hội đủ yếu tố hỗ trợ và xuất bản do Cội Nguồn Tổ Việt Foundation, Phật Việt Tùng Thư, Bodhi Media, và Lotus Media chịu trách nhiệm ấn hành. Năm 2021 đánh dấu bước liên kết hoằng pháp hiệp nhất của các Châu lục có hiệu quả và thiết thực trong thời đại khoa học kỹ thuật, mạng mạch của Tăng già là ngọn đuốc dẫn đường, Hội Đồng Hoằng Pháp đã ấn hành 2 tác phẩm giành cho giới Xuất sĩ nghiên cứu hành trì. Bộ luật “Yết Ma Yếu Chỉ” của Hoà Thượng Thích Trí Thủ và Hoà thượng Thích Tuệ Sỹ biên soạn, cuốn "Pháp Diệt Tránh" tác giả Thích Nguyên Chứng (Tuệ sỹ), những quyển sách này do Phật Việt Tùng Thư do phần kỹ thuật. Gia sản Văn hóa Phật giáo không chỉ trong sách quý mà nơi các hành giả ứng nghiệm thực chứng sống động trong nghệ thuật thiền, thi - văn phẩm Phật giáo trở nên phong phú đa dạng của chư Tăng Ni và các Cư sĩ cống hiến.

Thực hiện việc giới thiệu sách trở thành chất liệu của tâm hồn, cho đến nay đã lần thứ 14 trong ngoài các thành phố nơi gần cũng như xa. Bí quyết đọc sách để mở rộng tâm hồn và là món quà giá trị nuôi dạy con cháu hiểu ngôn ngữ, đạo đức và thực hành Phật Việt sống an vui hạnh phúc.

 

Tông Trú 

July 28, 2021.


Xem video here.

Youtube: Có Mặt Cho Nhau 14. Jully 28, 2021 tại Chùa Kim Quang.

https://www.youtube.com/watch?v=HgpuhtW9Zxc


Bai thuyet trinh cua

Việt Thạch Nguyễn Thụy Đan: Thơ, ngôn ngữ, triết lý Phật giáo: Những điểm gặp gỡ

https://hoangphap.org/viet-thach-nguyen-thuy-dan-tho-ngon-ngu-triet-ly-phat-giao-nhung-diem-gap-go/


Sharing some pictures via our eldest son’s lens with his new iPhone. We had a warm gathering. May all be well. Photo Credits: Khang

Wednesday, August 4, 2021

Tâm Quảng Nhuận: Vai trò của chính quyền và lòng tin công chúng đối với tiêm chủng COVID-19 | Phần I: 5 yếu tố*

 

Thủ tướng Anh Boris Johnson nhận liều vắc-xin AstraZeneca đầu tiên
do y tá kiêm Trưởng nhóm khám lâm sàng, Lily Harrington tiêm tại Bệnh viện St.Thomas
ở London, Thứ Sáu, ngày 19 tháng 3 năm 2021. (Ảnh AP / Frank Augstein, Pool)

Giới khoa học toàn cầu đã có sự đồng thuận rộng rãi rằng, cách hiệu quả nhất để đánh bại đại dịch COVID-19 phụ thuộc vào chính sách tiêm chủng hàng loạt tại các cộng đồng quốc gia trên thế giới. Sự phát triển vắc-xin COVID-19 là minh chứng hùng hồn cho thấy các nguồn đầu tư và tài trợ công đáng kể, cũng như sự tập trung cao độ và mức hợp tác khoa học chưa từng có nhằm thúc đẩy việc cải tiến kịp thời trước nhu cầu của cộng đồng thế giới chỉ trong một thời gian rất ngắn.

Tuy nhiên, việc phê duyệt và triển khai các loại vắc-xin này vẫn không thể chận đứng đại dịch ngay lập tức, nó đòi hỏi phải tiến hành tiêm phòng cho một tỷ lệ dân số rất đông. Đây là một thách thức vô cùng to tát. Làm sao để thành công trong nỗ lực tiêm chủng toàn cầu cho hàng tỷ người càng nhanh càng tốt, trước hết các chính phủ cần ưu tiên giải quyết những vấn đề về lòng tin. Sự tin tưởng vào vắc-xin, đồng thời tin tưởng các tổ chức chịu trách nhiệm trong nỗ lực tiêm chủng. Chính phủ cần thúc đẩy niềm tin của công chúng về tính hiệu quả và an toàn của vắc-xin, cũng như năng lực của chính phủ trong việc quản lý, dự phòng thành thục.

Ngay sau khi đại dịch bùng phát, các làn sóng biểu tình đã nổi lên, nhiều quốc gia nhận thấy mức độ mất lòng tin của quần chúng vào năng lực của chính phủ trong việc xử lý khủng hoảng và thực hiện các chính sách ngày càng gia tăng. Điều này làm giảm thiểu sự tuân thủ các quy tắc liên quan đến sức khỏe cộng đồng, từ đó cũng gia tăng mối hoài nghi về viễn cảnh phục hồi kinh tế xa vời. Mặt khác, giữa trận đại dịch phát sinh các luồng thông tin sai lệch, lan tràn, khiến giới hạn sự hiểu biết và ủng hộ các bước tiến khoa học đã đạt được cũng như những chính sách công, dẫn đến thái độ khước từ vắc-xin, dẫu đại dịch COVID-19 thật sự là một vấn đề nghiêm trọng cho tất cả mọi người trên toàn cầu.

Thử khảo sát một số dữ kiện, vào tháng 2 năm 2021, trung bình 76% dân số trên 11 quốc gia cho biết sẵn sàng tiêm chủng, tăng từ mức chỉ 66% vào tháng 12 năm 2020. Tuy nhiên, dữ liệu gần đây từ bảy quốc gia cho thấy một phần tư dân số ở Pháp, Đức và Hoa Kỳ có thể từ chối tiêm chủng COVID-19 và tỷ lệ này thậm chí còn cao hơn trong các nhóm dân số trẻ hơn. Hơn 50% người Pháp từ 25 đến 34 tuổi và một phần ba người Hà Lan từ 25 đến 34 tuổi cho biết họ có thể hoặc chắc chắn sẽ không tiêm chủng.

Cũng không có gì đáng ngạc nhiên khi sự tin tưởng về tính an toàn của vắc-xin đã được kiểm tra nghiêm ngặt bằng các báo cáo mới nhất về các tác dụng ngoại ý, mặc dù rất hiếm nhưng thật sự là mối lo ngoại nghiêm trọng như đối với vắc-xin Oxford/AstraZeneca. Cũng từ đó mà chỉ dấu an toàn và các phản ứng bất nhất của các cơ quan quản lý trên toàn thế giới, phần nào là nguyên do làm suy giảm lòng tin của công chúng. Tuy nhiên cũng cùng thực tế khảo sát, đang có nhiều bằng chứng cho thấy người được tiêm chủng ngày nhiều hơn, có nghĩa là xu hướng đón nhận tiêm chủng đã và đang tăng cao. Ở một mức độ nào đó, điều này có thể cho thấy những lo ngại ban đầu về sự an toàn của vắc-xin mới dần dần được xua tan, nó phản ánh việc tiêm vắc-xin trở thành quy chuẩn và từng lúc được chấp nhận như một lối thoát ra khỏi sự vây khổ của trận đại dịch chí ít trong giai đoạn này.

Song, niềm tin vào sản phẩm vắc-xin là một lẽ, bên cạnh đó còn phải được củng cố bằng sự tin tưởng vào các cơ quan chịu trách nhiệm tiêm chủng. Trong rất nhiều trường hợp, việc không chấp nhận tiêm chủng có thể xuất phát từ những thất bại trước đây hoặc đang mắc phải của hệ thống y tế và các tổ chức công.

Nói chung, niềm tin vào các thể chế rất quan trọng đối với sự vận hành hiệu quả của xã hội và sự chấp nhận các chính sách an sinh xã hội, đặc biệt trong thời kỳ khủng hoảng hiện tại. Bấy giờ, niềm tin được định nghĩa là niềm tin của một người đặt vào một cá nhân hay tổ chức sẽ hành động phù hợp với kỳ vọng của họ và, lòng tin vào thể chế, được công nhận là thước đo chính yếu ở tính hiệu quả.

OECD (The Organisation for Economic Co-operation and Development – Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế), là một tổ chức quốc tế hoạt động nhằm xây dựng các chính sách tốt hơn, nhằm tạo dựng đời sống tốt đẹp hơn qua quá trình thu thập dữ liệu, khảo sát, nghiên cứu đã đưa ra khung hướng dẫn cho các chính phủ trong việc phát triển các chính sách cụ thể, nhằm củng cố lòng tin công chúng, xác định trên năm yếu tố: (1) Khả năng đáp ứng, (2) độ tin cậy, (3) tính liêm chính, (4) tính cởi mở và (5) công bằng.

Năm yếu tố này tương ứng với các nhiệm vụ của chính phủ chẳng hạn như cung cấp dịch vụ công, bảo vệ công dân, sử dụng quyền lực và tài nguyên một cách hợp lý,…v.v. Mức độ phù hợp thực nghiệm của khung hướng dẫn này đã được áp dụng ở nhiều quốc gia và kết quả cho thấy cả hai, năng lực cộng với giá trị của chính phủ đều là những yếu tố quyết định tạo dựng và nâng cao lòng tin công chúng.

Bởi lẽ, chỉ số quan trọng về năng lực của chính phủ là khả năng đáp ứng nhu cầu của người dân, thể hiện qua việc cung cấp sản phẩm và dịch vụ chất lượng cao theo yêu cầu của người dân. Nên để thúc đẩy và củng cố sự tin tưởng của công chúng đối với các sản phẩm vac-xin, điều cần thiết là các chính phủ phải chứng minh rằng không có tiêu chuẩn chất lượng hoặc an toàn nào bị xâm phạm vì các thành phần của những phe nhóm lợi ích trong quá trình phát triển và phê duyệt.

(Kỳ tới: Vai trò của chính quyền và lòng tin công chúng đối với tiêm chủng COVID-19 | Phần II: 4 Hành Động)

* Tâm Quảng Nhuận | Tu thư Sen Trắng phỏng và lược dịch theo tài liệu OECD, viết tắt của tên tiếng Anh “The Organisation for Economic Co-operation and Development. OECD – “Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế” là một tổ chức quốc tế có trên 60 năm kinh nghiệm hoạt động nhằm xây dựng các chính sách tốt hơn cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Mục tiêu của tổ chức này là định hình các chính sách thúc đẩy sự thịnh vượng, bình đẳng, cơ hội và phúc lạc cho tất cả mọi người. OECD cùng với các chính phủ, các nhà hoạch định chính sách và người dân, nỗ lực thiết lập các tiêu chuẩn quốc tế dựa trên bằng chứng và tìm ra giải pháp cho một loạt các thách thức xã hội, kinh tế và môi trường. Từ việc cải thiện hiệu quả kinh tế và tạo việc làm cho đến thúc đẩy nền giáo dục mạnh mẽ cũng như chống trốn thuế quốc tế, tổ chức này cung cấp một diễn đàn và là trung tâm kiến thức để phân tích, trao đổi kinh nghiệm, tư vấn các chính sách công trên bình diện toàn cầu… v.v.

Sunday, August 1, 2021

Việt Thạch Nguyễn Thụy Đan: Thơ, ngôn ngữ, triết lý Phật giáo: Những điểm gặp gỡ

 sinh hoat

Tác giả đứng thứ ba từ phải qua.

Việt Thạch Nguyễn Thụy Đan: Thơ, ngôn ngữ, triết lý Phật giáo: Những điểm gặp gỡ

Buổi nói chuyện tại chùa Kim Quang

Kính thưa chư tôn trưởng lão, chư vị thiện nam tín nữ, chư vị khán thính giả có mặt nơi đây, hoặc đang theo dõi trực tuyến. Đầu tiên, tôi xin thú thật và cáo lỗi, vì bản thân tôi không sinh hoạt trong nhà chùa, mà sự hiểu biết hẹp hòi của tôi về văn hóa và văn học Phật giáo chủ yếu chỉ thông qua những phương hướng tiếp cận thuần túy mang tính học thuật và nghiên cứu văn học trung đại nói chung – cho nên, những ghi nhận của tôi về văn hóa và văn học Phật giáo là của một người hoàn toàn ngoại cuộc các tổ chức giáo hội và tín ngưỡng giáo lý liên quan tới nhà chùa. Mặt khác, tôi ít sinh hoạt trong cộng đồng nói chung, lại hết sức vụng về bề nói năng – không được cái khiếu đàm thổ sinh phong, nhả ngọc phun châu như nhiều trưởng lão và anh em nơi đây. Bởi thế cho nên, chẳng may tôi nói chi chi lạ tai hoặc thiếu chính xác, cúi mong chư vị lượng thứ mà mở dạy thêm cho vậy.

Hôm nay, cư sĩ Tâm Thường Định đã có nhã ý mời tôi giới thiệu sơ qua ba tác phẩm văn học của cộng đồng Phật giáo Việt Nam xuất bản tại Hoa Kỳ và phát hành quốc tế trong năm nay và năm ngoái. Tính theo thứ tự phát hành, ba tác phẩm ấy là Giác Hoàng Trần Nhân Tông: Sơ Tổ Thiền Trúc Lâm (2020) của Lê Mạnh Thát, Tuệ Sỹ, và Thích Phước An, Triết lý và Thi ca (2021) của Thích Nguyên Siêu, và số đầu tiên của Phật Việt: Tạp san văn hóa Phật giáo Việt nam (2021), của nhiều tác giả, chủ nhiệm Thích Như Điển, chủ bút Thích Nguyên Siêu. Ba tác phẩm này, nói cụ thể hơn, là sản phẩm tinh thần của những bậc chân tu thiện tri thức, những kẻ sĩ lừng danh ở miền Nam thời trước lẫn ngày nay, và những cây bút già trẻ, cũ mới trong cộng đồng Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất, trong đó có nhiều anh em có thể nói là bậc lương đống trong cộng đồng Việt nam hải ngoại nói chung, chứ không phải riêng gì chỉ trong giáo hội Phật giáo. Xét chung, ba tác phẩm này có điểm gặp gỡ là văn học Phật giáo – trong trường hợp cuốn Trần Nhân Tông của nhóm Lê Mạnh Thát là văn học Phật giáo Việt nam thời trung đại, còn trong trường hợp Thích Nguyên Siêu và tạp chí Phật Việt là văn học Phật giáo Việt nam đương đại, thậm chí là văn học Phật giáo của thế hệ trẻ sinh ra tại Hoa Kỳ như trường hợp Alexandra Huỳnh Thụy An, vốn là một vị huynh trưởng sinh hoạt trong Gia đình Phật tử của ngôi chùa này. Vậy nên, hôm nay tôi xin chia sẻ một số cảm tưởng lặt vặt của tôi khi đọc qua ba tác phẩm này, gọi là góp vui cho buổi đàm thoại hôm nay.

Thiết nghĩ hầu như ai ai có sở thích đọc văn học trung đại Việt nam đều đã đọc qua văn thơ Lý Trần, hoặc nguyên văn chữ Hán, hoặc thông qua những bản dịch tiếng Việt hiện đại. Đọc thơ văn Lý Trần, kỳ thực đồng nghĩa với đọc văn thơ Phật giáo thời Lý Trần, vì, về căn bản, thơ văn Phật giáo có thể nói là thơ văn chủ đạo ở Đại Việt đặc biệt là vào đời nhà Lý, nhưng cũng tiếp tục sang đời nhà Trần, cho dù về mặt giới sĩ phu, thời Trần đã có khuynh hướng sùng Nho và đã sản xuất những bậc sĩ phu như thái bảo Trương Hán Siêu 張漢超 (1274 – 1354) chủ trương bài xích Phật giáo về mặt tư tưởng, về mặt xã hội dường như lại có mong muốn tháo gỡ hoặc hạn chế tối đa ảnh hưởng và quyền lực của các tổ chức Phật giáo. Nói điều này là để minh xác, chúng ta không nên ảo tưởng về một thời đại hoàng kim của Phật giáo trong lịch sử xã hội Việt nam. Thậm chí, xã hội và văn hóa Đại Việt đời Lý, đời Trần cho dù có phải là một thời đại toàn thịnh của Phật giáo ở địa bàn tương đương với miền Bắc Việt nam ngày nay, chúng ta cũng không nên nhận vơ là đồng nghĩa với xã hội và văn hóa Việt nam sau này. Tuy nhiên, việc chúng ta không nhẹ dạ tin vào một quá khứ đã bị lý tưởng hóa qua những giai thoại và nhận định thiếu căn cứ hoặc đã thiên quá nhiều về các diễn ngôn lịch sử đượm dân tộc chủ nghĩa, kỳ thực không hề làm phai mờ đi cái vẻ huy hoàng và vị trí quan thiết của Phật giáo trong xã hội thời Lý Trần nói riêng, và lịch sử Việt nam nói chung. Ngược lại, cái nhìn thực tế và khách quan, tuy có bề phức tạp hơn, nhưng theo tôi cũng là cái nhìn giá trị hơn, cái nhìn có thể gợi lên trong ta nhiều trăn trở và cảm tưởng hơn. Chính vì thế cũng là cái nhìn cần thiết hơn cho việc vun bồi và duy trì những sinh hoạt tri thức, văn học, và nghệ thuật trong một thời đại sự rẻ rúng, sự hời hợt lên ngôi, mà gần như toàn bộ cuộc sống chúng ta đã bị chi phối bởi những khẩu hiệu sáo rỗng và vô nghĩa.

Tôi đọc thơ Trần Nhân Tông từ khá sớm – đến nay có lẽ đã gần mười năm. Thơ Trần Nhân Tông, bài tôi đọc đầu tiên có lẽ cũng là bài tôi yêu nhất, đấy là bài Sơn phòng mạn hứng:

是非念逐朝花落
名利心隨夜雨寒
花盡雨晴山寂寂
一聲啼鳥又春殘

Thị phi niệm trục triêu hoa lạc,
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn.
Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch,
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn.

Nhiều người đã viết về yếu tố Thiền trong thơ Trần Nhân Tông. Tuy nhiên, với tôi – là một người xa lạ đối với tín ngưỡng và thực tiễn Phật giáo, đọc bài tuyệt cú này của Trần Nhân Tông, điều gây ấn tượng và xúc động nhất là cái buồn man mác của nhà thơ trước sự vô thường của vạn vật, trong đó có cả sự vô thường của những khái niệm đúng sai, những trăn trở và lo lắng hơn thua, được mất nội tại tư duy của nhà thơ. Vừa đọc vừa suy gẫm, chúng ta nhận ra bài thơ này không chỉ nói riêng về sự vô thường của hoa ban mai, của mưa đêm khuya, của tiếng chim hót, của mùa xuân tàn. Bản thân trải nghiệm và nhận thức của tác giả – hoặc của độc giả – về sự vô thường ấy, cũng là vô thường. Khi hoa đã hết, khi mưa đã tạnh, khi núi đã vắng, khi chim đã hót, khi xuân đã tàn – chúng ta còn lại gì? Đọc bài thơ này và nhiều bài thơ khác của Trần Nhân Tông, tôi không khỏi liên tưởng đến bối cảnh lịch sử thời nhà Trần – một thời đại hắc ám đầy những áp lực từ phía nhà Nguyên và những bất ổn nội tại xã hội Đại Việt. Chúng ta nên nhớ, nhà Trần đã được sáng lập khi Trần Thủ Độ thí quân Lý Huệ Tông trong chùa Chân giáo, và ngay từ đầu đã mang lời chúc dữ của Lý Huệ Tông, phàm sự gì khởi đầu bằng máu, sẽ phải kết thúc bằng máu. Đọc thơ Trần Nhân Tông, thơ Thiền của các vị hoàng đế nhà Trần, các sĩ phu thời Trần, trong bối cảnh binh hỏa ly loạn liên miên ấy, chúng ta càng cảm phục, càng thấu hiểu sức mạnh của tư tưởng Thiền tông trong việc giúp con người tỉnh dậy và giải thoát khỏi hỏa trạch tam giới – sự giải thoát ở đây không chỉ nói về giải thoát khỏi những cái ưu phiền nhỏ mọn thường ngày của một cá nhân, hay thậm chí những trang bi kịch kinh thiên động địa của một gia đình. Quả thật, chúng ta còn thấy được – cho dù có thể bản thân chúng ta chưa đạt được tới cảnh giới ấy – sự giải thoát khỏi hạo kiếp của cả một đất nước, cả một dân tộc, cả một định mệnh lịch sử, sự giải thoát khỏi bi kịch của bản thân sự hiện hữu. Phải chăng, chúng ta ngày nay, đối diện với những kiếp nạn không tiền khoáng hậu trong lịch sử nhân loại, cũng có thể rút được bài học từ cổ nhân. Phải chăng cái chúng ta ngỡ là vận mệnh đất nước bảy chục năm trở lại, năm chục năm trở lại, hay hai năm trở lại trong thời đại đại dịch Vũ Hán, bất quá là một vẻ “dường như”, cũng như bản chất của chúng sinh có vẻ “dường như” sinh diệt khứ lai, nhưng kỳ thực không hề gia giảm dù cho một cọng tóc.

Hiện tượng đan xen giữa thi ca và triết lý trong văn học Phật giáo đã xuất hiện từ rất sớm trong văn học sử Trung quốc. Thậm chí, chúng ta có thể khẳng định rằng, không có văn học Phật giáo, ắt không có văn học Trung quốc, ít ra là không có văn học Trung quốc như chúng ta vẫn quen hình dung. Tại sao lại thế? Nói đến thi ca Trung quốc và Việt nam, tôi nghĩ ai ai cũng sẽ nêu lên đặc điểm của nhạc tính hai ngôn ngữ này, cụ thể là nhạc tính được tạo nên bởi thanh điệu bằng trắc khiến cho thi ca tiếng Hán và tiếng Việt có âm hưởng trầm bổng du dương ít thấy nơi những ngôn ngữ khác. Tuy nhiên, tiếng Hán vốn không có thanh điệu bằng trắc. Tiếng Việt, đương nhiên, cũng thế. Sự hình thành của thanh điệu bằng trắc trong tiếng Hán là một quá trình dài, trong đó ảnh hưởng của tiếng Phạn thông qua sinh hoạt truyền giáo Phật giáo có thể nói là một nguồn ảnh hưởng chủ đạo, nếu không phải là ảnh hưởng chủ yếu. Cho nên, bản thân ngôn ngữ chúng ta vẫn nói hằng ngày, dù chúng ta dùng ngôn ngữ ấy để hoằng pháp hay để bài Phật, ít nhiều cũng đã mang ảnh hưởng và âm hưởng của nhà chùa. Đã nói đến bằng trắc, thì cũng phải nói đến thơ cận thể, hoặc như người Việt chúng ta vẫn thường gọi là thơ Đường hay thơ Đường luật. Cố nhiên, không có bằng trắc thì không thể nào có thơ Đường. Thế nhưng, ảnh hưởng của Phật giáo không dừng lại ở đấy – bản thân thể tứ tuyệt và bát cú, theo lập luận của một số chuyên gia Hán học, chính là vay mượn và ảnh hưởng từ các thể thi ca trong văn học Phạn ngữ.

Định nghĩa của thơ theo thi học cổ điển có thể tóm tắt bằng câu “thi ngôn chí” 詩言志 trong thiên Thuấn đin 舜典của Thượng thư 尚書. Thi ngôn chí – thơ nói chí. Phần Đại t 大序 trong Thi kinh 詩經giải thích rõ hơn: “Thi gi, chí chi s chi dã. Ti tâm vi chí, phát ngôn vi thi.” 詩者。志之所之也。在心為志。發言為詩。– Thi ấy là cái nơi đi đến của chí vậy. Khi còn ở trong tâm thì gọi là chí, khi phát ra thành lời thì gọi là thi. Thơ, theo cách hiểu này, là một hiện thân bằng ngôn ngữ của cái bản ngã nhà thơ phát ra và hình thành tự nhiên khi chịu tác động từ bên ngoài. Theo Đại t, tác giả và tác phẩm – theo một nghĩa nào đó – là một. Phật giáo truyền sang Trung quốc chính xác từ năm nào thì vẫn gây khá nhiều tranh luận trong học giới. Tuy nhiên, dù đã truyền vào trung nguyên chính xác từ năm nào của triều đại nhà Hán, ảnh hưởng của Phật giáo trong giới sĩ phu thời Hán Ngụy kỳ thực cũng không đáng kể. Phải đến thời Lục triều, Phật giáo mới được đón nhận rộng rãi và bắt đầu ảnh hưởng đến tư tưởng thi học của văn nhân, đặc biệt là ở triều đình Kiến Khang vào thời nhà Lương. Vua tôi nhà Lương nổi tiếng sùng Phật pháp, am tường kinh luật. Thi học và thẩm mỹ thời Lương cũng mang nhiều nét đặc sắc của Phật giáo thời bấy giờ. Phải chăng, Tiêu Cương 蕭綱 (503 – 551), tức Lương Giản Văn đế 梁簡文帝, đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo, khi định nghĩa thơ khác với Đại t. Theo Tiêu Cương, thơ không đơn thuần chỉ nói chí. Thơ còn là suy gẫm, là phản tỉnh, là quan sát – “Thi gi, tư dã, t dã.” 詩者。思也。辭也。Thơ, theo cách hiểu này, đã mất đi ít nhiều phần tự nhiên – nếu trước kia thơ đơn thuần chỉ là tiếng buột miệng kêu than trong lúc bị quá xúc động, theo Tiêu Cương thơ còn có phần nhân vi – vỏ bọc ngôn ngữ chúng ta tiếp cận khi đọc một bài thơ kỳ thực chỉ là sản phẩm sau cùng của một quá trình suy gẫm, ấp ủ, và trăn trở. Cái gọi là thơ, đúng ra, là một phương tin để gửi gắm cái thông điệp nội tâm kia. Ngôn ngữ của thơ, nếu chỉ hiểu theo nghĩa đen, chưa chắc đã là một hiện thân của con người đích thực của nhà thơ. Quả thật, khi nói đến thơ văn anh em nhà Lương, chúng ta đều liên tưởng tới thơ Cung th 宮體, một thể loại thi ca bề ngoài đầy rẫy những hình ảnh nhục dục và khêu gợi, nhưng có lẽ cũng thể hiểu được là một phương tin quan sát và trải nghiệm sự vô thường của xác thịt và ham muốn.

Sự phối hợp giữa thi ca và triết lý Phật giáo, cụ thể là tư tưởng Thiền tông, trong văn học sử Trung quốc đã phát triển mạnh vào thời Đường, để rồi đạt tới cảnh giới toàn thịnh vào thời nhà Tống. Đối với nhiều nhà thơ thời Đường, trong đó có nhiều vị “thi tăng” 詩僧, thơ và Thiền chỉ là một. Thậm chí, khái niệm trì luật 持律 trong thơ một số tăng nhân thời Đường, vừa nói đến việc giữ luật trong việc sáng tác thơ, vừa nói đến việc giữ lut (Vinaya) trong cuộc sống tu trì. Thời Đường, chúng ta lại thấy sự phối hợp chính thức của thơ và Thiền qua danh xưng thi thiền 詩禪. Thi thiền cụ thể là gì, chúng ta không biết. Có khi thi thiền là cách gọi chung thơ và Thiền như hai phạm trù riêng biệt. Có khi là nói đến một bài thơ bao hàm thiền lý, hoặc cái thiền lý được cất giấu vào trong thơ. Ít ra là trong một số trường hợp thời Đường, chúng ta có thể nói đến sự hợp nhất giữa thơ và Thiền. Thi thiền trong những trường hợp này, đích xác là thiền qua thơ, thiền bằng thơ. Sang đời Tống, đặc biệt là vào thời Nam Tống, có những nhà phê bình như Nghiêm Vũ 嚴羽 (1191 – 1241) với tác phẩm nổi tiếng của ông, Thương Lang thi thoi 滄浪詩話, chính thức đưa tư tưởng Thiền tông vào phê bình thi học Trung quốc. Ảnh hưởng của Thương Lang thi thoại xuyên suốt các đời Nguyên, Minh, Thanh – chưa kể ở Đại Việt thời Lê và Việt nam thời Nguyễn – không thể nói hết. Cùng thời điểm, chúng ta thấy trong thơ các danh gia thời Nam Tống như Lục Du 陸遊 (1125 – 1209) những khái niệm như “thi gia Tam mui” 詩家三昧, Tam mui (Samādhi) của nhà thơ. Tuy nhiên, chúng ta nên phân tích – khuynh hướng này đã không còn tính hợp nhất giữa thơ và Thiền như vào thời Đường. Thiền định và giác ngộ, theo thi học thời Tống, là những ngụ ngôn để nói về thơ và sáng tác. Hoặc nói cách khác, thơ và Thiền không còn hợp nhất. Thơ và sáng tác, chính xác hơn là những thực tiễn tu dưỡng, thậm chí là những thực tiễn tôn giáo, tuy vẫn song song với Thiền, nhưng đã tách riêng khỏi Thiền.

Tóm lại, triết lý, ngôn ngữ, và mỹ học Phật giáo – dù có nguồn gốc ngoại lại – đã trở nên một yếu tố hầu như thuộc về căn tính văn học Trung quốc từ thời trung đại về sau. Tôi nói văn học Trung quốc, nhưng cũng nói về văn học Việt nam, vì chúng ta không thể nào hiểu văn học sử trung đại của Việt nam tách riêng khỏi văn học sử Trung quốc. Văn học Đại Việt thời Lý Trần, nếu không chịu ảnh hưởng sâu đậm từ Đường Tống, chưa kể nhà Lương trước kia, chắc chắn đã không có những tác phẩm văn học Phật giáo tầm cỡ như thơ Trần Nhân Tông hay Thiền uyển tập anh 禪苑集英. Nói cách khác, khi nói về văn hóa và triết lý Đông phương, dù theo Phật hay không, chúng ta không thể không đối thoại với văn hóa và triết lý Phật giáo. Chẳng hạn như trường hợp Thiên Chúa giáo. Thiên Chúa giáo kỳ thực đã truyền sang Trung quốc từ đời Đường, thậm chí có thể là trước đó nữa. Tuy nhiên, kinh văn Thiên Chúa giáo sớm nhất còn hiện tồn đều mang niên đại nhà Đường. Trong quá trình phiên dịch kinh văn, các tu sĩ Thiên Chúa giáo thời Đường đã mượn rất nhiều thuật ngữ Mật tông để diễn đạt giáo lý Thiên Chúa giáo, đến nỗi mãi về sau người ta đọc kỹ lại mới nhận ra không phải là kinh Phật. Trong trường hợp Tống Nho, các nhà lý học tuy cực lực chống đối Thiền tông, nhưng đã không ngại vay mượn một số thuật ngữ từ Thiền tông, chưa kể bản thân văn thể ngữ lục của Tống Nho, có lẽ cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều từ ngữ lục Thiền tông.

Điều tôi muốn nói ở đây là tính nhập thế, đi vào lòng đại chúng của văn học Phật giáo qua những giai đoạn lịch sử và văn học khá dài. Riêng nói về ngữ lục Thiền tông, ngữ lục Thiền tông viết bằng Hán văn, dù là của Trung quốc, Đại Việt, hay Triều Tiên, đều mang một đặc điểm chung là văn phong cố tình thiên về phong cách văn nói, còn gọi là bạch thoại 白話. Tôi đã không khỏi liên tưởng đến điều này khi đọc những bài ca từ của Thích Nguyên Siêu trong Triết Lý và Thi Ca, hay những bài thơ và những bài luận trong tạp chí Phật Việt. Từ lâu nay, Hán văn đã mất vị trí tôn nghiêm và thực dụng trong đời sống của người Việt. Có lẽ vào thời điểm này, Hán văn không phải là phương tiện tối ưu để hoằng pháp hay để đem giáo lý và tinh hoa văn hóa Phật giáo đến với đại chúng. Những nỗ lực vượt qua rào cản ngôn ngữ được thể hiện trong ba tác phẩm được giới thiệu ngày hôm nay, phải nói là đáng khâm phục. Đặc biệt trong trường hợp tạp chí Phật Việt, độc giả cầm sách lên có thể tiếp cận tư tưởng và văn học Hán, Phạn, Việt, Anh qua những bài viết đa dạng về nội dung lẫn hình thức – cứ ngu ý, ở hải ngoại hiện nay, hiếm có tạp chí nào tương tự. Hệ thống chùa chiền Phật giáo đã có vai trò độc nhất vô nhị trong văn hóa in ấn mộc bản ở Trung quốc và Việt nam thời lịch đại. Phải chăng, như một định mệnh lịch sử, giáo hội Phật giáo sẽ là cứu tinh văn đàn Việt nam hải ngoại, kế thừa và hưng phục một nền văn hiến đang gặp nguy cơ ngưng trệ và lão hóa trầm trọng. Phải chăng, vấn nạn rào cản ngôn ngữ giữa các thế hệ người Việt hải ngoại, sẽ tìm được một nơi hòa giải và hóa giải trong các tác phẩm văn học như ba tác phẩm chúng ta được tiếp cận ngày hôm nay.

Ba tác phẩm này, và sự quan tâm, sự ưu ái chư vị nơi đây dành cho tác giả lẫn tác phẩm, cho thấy tri thức và cây bút của Phật giáo Việt nam hải ngoại sinh khí hãy còn mạnh, tiềm lực hãy còn nhiều, tiền đồ hãy còn dài. Đó là điều đáng mừng, không những cho chư vị thiện tri thức, chư vị thiện nam tín nữ, mà còn đáng mừng cho tất cả những ai ai còn quan tâm đến đời sống tri thức và tinh thần của cộng đồng Việt nam hải ngoại chúng ta. Trong đó có những người độn căn vô minh như tôi, tuy không hiểu biết mấy về Phật pháp, nhưng vẫn được chư vị hạ cố đến mà mời tham dự để cùng vui cái vui của người. Hạnh thậm, hạnh thậm.

Việt Thạch Nguyễn Thụy Đan
Sacramento, Tiết Đại Thử, Tháng 7, 2021


Xin xem Chương trình ở đây: https://www.youtube.com/watch?v=HgpuhtW9Zxc