Friday, January 21, 2022

Thích Nhất Hạnh (1926-2022): Người đánh khẽ tiếng chuông tỉnh thức cho thế giới

Photo: từ Langmai.org

Thích Nhất Hạnh (1926-2022)

Người đánh khẽ tiếng chuông tỉnh thức cho thế giới

(Để tưởng niệm Thầy, xin đăng lại bài nầy)

Trong suốt quá trình lịch sử Việt, trên bình diện triết và đạo học, trí thức Việt chỉ có giao lưu với thế giới Âu Mỹ trên con lộ một chiều. Văn hóa Việt chỉ du nhập và tiếp thu những sản phẩm tư tưởng từ Tây phương - chứ chưa hề có nhân vật nào có khả năng khai mở một giòng tri thức từ Việt Nam để đem gieo giống tư duy ra hải ngoại. Thiền sư Thích Nhất Hạnh (Nhất Hạnh) có lẽ là người đầu tiên và duy nhất đã làm dược chuyện nầy.
Đó không phải là một đánh giá chủ quan quá cao – mà là một sự thể học thuật khách quan.
Hãy đi vào Wikipedia, trang tự điển bách khoa trên mạng, gõ tìm “Thich Nhat Hanh”, để đọc danh sách những cuốn sách bằng Anh ngữ mà Nhất Hạnh là tác giả. Hầu hết các tác phẩm trên đều đã được chuyển ngữ ra các ngôn ngữ lớn trên thế giới.
Hãy đi vào các hiệu sách ở Âu Mỹ, trên những kệ sách về tôn giáo và triết học, để nhìn thấy hàng loạt sách Nhất Hạnh được trưng bày ngang với tầm nhìn của khách hàng.
Hãy đi vào các phòng sách giáo khoa của các đại học ở Hoa Kỳ và Âu châu để thấy những tác phẩm Nhất Hạnh là các đầu sách bắt buộc phải đọc cho sinh viên về các khoa tâm lý, triết học, tôn giáo và văn hóa.
Ở các phân khoa triết học và tôn giáo tổng hợp Đông Tây, tư tưởng Nhất Hạnh đứng vị trí cao trọng hàng đầu - có lẽ chỉ có đứng đằng sau Đức Đạt Lai Lạt Ma của Tây tạng trong giòng triết học Phật giáo và Á Châu.
Hạt giống tư tưởng mà Nhất Hạnh gieo cho khối nhân loại Tây phương là hai ý niệm Từ bi và Tỉnh thức. Có thể nói rằng, phong trào Chánh Niệm – Mindfulness – vốn đang lan tỏa trên nhiều bình diện văn hóa và tâm lý hiện nay ở Âu Mỹ được khởi động và phát huy bởi Nhất Hạnh.
Đây là một hiện tượng văn hóa không mang nội dung hay hình thái tôn giáo – dù rằng gốc rễ của hai ý niệm về Tỉnh thức và Từ bi mang nội dung Phật giáo Đại thừa và truyền thống Thiền định Đông phương. Nhất Hạnh đã khai mở nền móng ý niệm Tỉnh thức từ gốc rễ Thiền của đạo Phật qua lăng kính và truyền thống Thiền của Việt Nam. Do đó, ta có thể nói rằng, tư tưởng và thực hành Chánh Niệm mà Nhất Hạnh khởi xướng và rao giảng khắp thế giới chính là tư tưởng Việt Nam.
Tính ưu việt của tư duy đạo học và triết học Chánh niệm mà Nhất Hạnh truyền bá là khả thể vươn thoát khỏi tư tưởng nhà Phật truyền thống vốn đã từng mang nhiều sắc thái tôn giáo huyền bí. Nhất Hạnh - không những chỉ là một tu sĩ Phật giáo, mà là một triết gia Tỉnh thức - đã thành công trong việc kiến tạo một hệ thống tư tưởng tâm lý học và đạo học mới. Bằng một hệ quy chiếu và tiêu chuẩn tư duy hiện đại, với một thể loại ngôn từ cập nhật, mang bản sắc thực nghiệm, tư tưởng Nhất Hạnh đã thẩm thấu sâu sắc vào tâm lý cũng như ý thức con người Âu Mỹ hiện nay.
Chìa khóa thành công của Nhất Hạnh nằm nơi sự khai mở được lớp vỏ huyền bí của ý niệm Thiền định và tâm Từ Bi để chỉ thẳng vào trái tim Đạo lý mà trong đó đức tin thần học nay đã được chuyển hóa và nâng cao thành khả thể khai sáng cho tri thức và hành động.
Từ đó, với Nhất Hạnh, phong trào Chánh niệm đang lan tỏa ở Âu Mỹ hiện nay là cả một trào lưu Hiện sinh mới cho các tầng lớp quần chúng ưu tú và trẻ trung nơi các khối nhân loại Tây Âu. Đây là một con lộ sinh thức thực tiễn trên nền tảng Tiếp-Hiện (Inter-Being) cho một đời sống Tinh thần không Tôn giáo – Spirituality without Religion.
Khi các thế hệ trí thức trẻ cấp tiến Âu Mỹ từ bỏ tôn giáo truyền thống cha ông, họ đã đi vào một khoảng trống sâu và lớn ở năng lực Tinh thần; khi mà triết học Tây Âu nay đã khô cạn hết niềm hứng khởi siêu hình mà chỉ còn loay hoay với phân tích ngôn ngữ, thì Nhất Hạnh đã mang đến cho khối nhân loại đó - vốn đang khao khát một đời sống Tinh thần - một bát nước Chánh niệm đơn giản và tươi mát nhưng không thiếu chiều sâu về bản thể và nhận thức luận.
Nhất Hạnh không nhân danh Chân lý, không tự cho mình là bậc Thầy để trao truyền kiến thức. Mà khác đi. Như là một người đánh khẽ tiếng chuông Tỉnh thức, Nhất Hạnh chỉ là người hướng dẫn cộng đồng nhằm khơi mở một câu chuyện bình dị, bắt đầu một cuộc đối thoại đơn giản – tất cả đều nhằm nhắc nhở nhân loại rằng, mọi sự Thật hay Ảo tưởng, Giác ngộ hay Vô minh, tất cả chỉ là hiện thân cho một tầm mức khai sáng nơi trình độ Tự ý thức và bản sắc sinh hiện trong Chánh niệm của từng cá nhân.
Nếu một ngày nào đó, bạn đi về một làng quê xa xôi ở miền Trung Việt Nam, bạn có thể sẽ thấy một em bé chăn trâu, ngồi bên ngôi mộ vắng giữa cánh đồng trơ trọi, chăm chú đọc Thả một bè lau của Nhất Hạnh, hay bạn bước vào một tiệm sách ở phố xá đông đúc Hà Nội hay Đà Nẳng, hay Tokyo, hay Madrid, bạn sẽ thấy độc giả đang đứng nhìn từng bìa sách của Nhất Hạnh – thì bạn nên nhớ rằng, ở cùng thời điểm ấy, trong một căn hộ nhỏ ở Paris, hay nơi một ghế đá công viên ở Munich, hay là trong thư viện đại học Stanford, California, một sinh viên tâm lý học nào đó đang nghiên cứu The Miracle of Mindfulness (Phép lạ của Tỉnh thức), hay là một phụ nữ trung niên, một nhà giáo đã nghỉ hưu ở San Diego, Mexico City, đang đọc và thưởng thức về một bản sắc ý nghĩa của Chánh niệm với Understanding Our Mind (“Để hiểu về tri thức”). Khi đó, bạn sẽ thấy câu chuyện gieo hạt giống Tỉnh thức của Nhất Hạnh đã được lan truyền và phổ cập hóa trên thế giới như thế nào.
Và cũng lúc ấy, bạn cũng sẽ hiểu tại sao khối nhân loại cấp tiến tiền phong Tây phương đang đón nhận Nhất Hạnh với vòng tay lớn. Từ Jack Cornfield, nhà văn nổi tiếng, đến Jim Yong Kim, nguyên chủ tịch Ngân Hàng Thế giới, đến Marc Benioff, nhà sáng lập công ty Salesforce… là những học trò lừng danh của Nhất Hạnh. Họ không phải là những đệ tử theo truyền thống thầy-trò cũ. Họ đến với Nhất Hạnh trong tinh thần tư duy và đạo học duy lý và tỉnh thức. Như bà Elizabeth Gilbert, một nhà văn Mỹ, được trích trong Wikipedia tiếng Việt, đã phát biểu về Nhất Hạnh rằng:
Nhà sư vĩ đại người Việt Nam, nhà thơ và sứ giả hòa bình, người đàn ông Việt Nam nhỏ nhắn này đã thu hút chúng tôi từng người một vào tĩnh lặng của ông. Hay có lẽ chính xác hơn nếu nói Thầy đã đưa từng người chúng tôi vào trong yên tĩnh chính mình, vào trong an tịnh mà mỗi người chúng tôi vốn đã sở đắc nhưng chưa khám phá hay khẳng định. Khả năng Thầy đã phát khởi trạng thái này trong tất cả chúng tôi, chỉ bằng sự hiện diện của Thầy - đây là một năng lực thiêng liêng. Và đấy là lý do ta tìm đến một Sư phụ: Với hy vọng là công đức của Thầy sẽ soi rạng cho ta sự cao quý khuất lấp nơi chính mình.
Đến với từng người, từng cá nhân, từng nhóm nhỏ, hay với những khóa giảng cho cả ngàn người, từ hơn nửa thế kỷ qua, Nhất Hạnh đã đi khắp địa cầu, gõ nhẹ từng tiếng chuông, gieo hạt giống Tỉnh thức cho nhân loại.
Từ nay, lịch sử tư tưởng và triết học Tây phương và Thế giới đã ghi thêm tên một triết gia quen thuộc, một nhà đạo học tiên phong – một con người đến từ Việt Nam: Thích Nhất Hạnh.
Nguyễn Hữu Liêm
California ngày 5 tháng 12, năm 2019.

Tâm Quảng Nhuận: “Hiểu và thương,” nền tảng của sự Lãnh đạo | The Foundation of Communication and Leadership

 

 “Hiểu và thương,” nền tảng của sự Lãnh đạo
The Foundation of Communication and Leadership

Dr. Ernest Chi-Hin Ng | Tâm Quảng Nhuận lược thuật

Trong một thế giới đầy biến động, khủng hoảng và bất an, phức tạp và mơ hồ, hơn bao giờ hết chúng ta cần có sự lãnh đạo để hướng dẫn và dẫn dắt chúng ta thoát khỏi mọi sự đau đớn và khổ sở. Tuy nhiên, nhiều vấn đề và thách thức này trên thực tế là kết quả từ việc đánh giá kém của chính những nhà lãnh đạo mà chúng ta dựa vào, đã gây thêm sự tuyệt vọng và bất lực.

Một nghiên cứu năm 2016 của chuyên gia đổi mới cấp tiến –  Sunnie Giles – khảo sát 195 nhà lãnh đạo ở 15 quốc gia thuộc 30 tổ chức trên toàn thế giới, cho thấy yếu tố hàng đầu của năng lực lãnh đạo là đạo đức và khả năng thiết lập một môi trường an toàn, cũng như đáng tin cậy. Phẩm chất lãnh đạo này là “cam kết về sự công bằng, tạo niềm tin rằng cả họ và thành viên sẽ tôn trọng các quy tắc chung.” Theo báo cáo, việc tạo dựng một môi trường an toàn cho tất cả mọi người có thể nuôi dưỡng hiệu suất tổng thể mạnh mẽ hơn.

Nghiên cứu về lãnh đạo và quản trị hiện đại có phạm vi bao quát phong phú về các khía cạnh kỹ thuật của lãnh đạo, chẳng hạn như kỹ năng giao tiếp và thuyết phục, kỹ năng truyền bá và huy động, cũng như cấu trúc tổ chức và ghi nhận thành quả. Thậm chí còn có nhiều nghiên cứu hơn về các cơ chế lựa chọn khác nhau đối với các nhà lãnh đạo, nhưng tại sao các nhà lãnh đạo được lựa chọn như vậy dường như vẫn còn quá xa so với mong muốn và kỳ vọng của chúng ta?

Nếu mức độ TRÍ TUỆ  và lòng TỪ BI của các nhà lãnh đạo có thể phản ánh trí tuệ và lòng từ bi của những người chịu trách nhiệm đã lựa chọn hoặc bầu cử họ, thì chúng ta sẽ đưa ra lựa chọn lãnh đạo đúng đắn như thế nào?

Trong lịch sử, nhiều nhà lãnh đạo được lựa chọn dựa trên các đặc điểm như thể lực, khả năng quản trị nhân sự và tài nguyên, năng lực trí tuệ, v.v. Các nhà lãnh đạo hiện đại có xu hướng được lựa chọn dựa trên sự lôi cuốn, tài hùng biện hoặc khả năng tiếp cận hay dữ liệu mà họ đang có. Thông thường, các nhà lãnh đạo được chọn nếu quan điểm và hành động của họ phổ biến.

Tuy nhiên, trong thời đại của trí tuệ nhân tạo, nhiều phẩm chất lãnh đạo truyền thống này được cho là sản phẩm và có thể thay thế được. Không còn thích hợp để lựa chọn các nhà lãnh đạo chỉ dựa trên các kỹ năng kỹ thuật.

Theo quan điểm của Phật giáo, các nhà lãnh đạo chân chính phải là hiện thân của sự lãnh đạo đạo đức. Giá trị đạo đức không phải là những lý tưởng viển vông, mà là những kỷ luật sống cụ thể áp dụng cho tất cả mọi người liên quan đến cách chúng ta hành động, giao tiếp và suy nghĩ. Những nguyên tắc này dựa trên sự khôn ngoan thực tế mà chúng ta nên cư xử để chúng ta có thể sống trong một cộng đồng một cách hài hòa.

Quyền và sự sai quấy, hay những điều nên làm và không nên không có nghĩa là chỉ tuân theo mệnh lệnh của cấp trên, phong tục tập quán, quan điểm phổ biến hoặc quy định của pháp luật mặc dù chúng là những hướng dẫn cơ bản có thể đóng góp vào sự hạnh phúc của chúng ta. Hạnh phúc của chúng ta cuối cùng được điều chỉnh bởi phẩm chất của tâm trí của mình: các hành vi của chúng ta là khéo léo nếu chúng phù hợp với việc thực hành bố thí, từ bi, trí tuệ; sẽ không khéo léo nếu tâm chúng ta bị ô uế bởi tham, sân, si. Sự rèn luyện ba mặt của kỷ luật đạo đức, sự tập trung tinh thần và trí tuệ tương ứng với sự rèn luyện thân và tâm: trong cách chúng ta hành xử thông qua Chánh ngữ, Chánh hành động và Chánh mạng trong Bát Chánh đạo; theo cách chúng ta nhận thức và quan niệm thông qua Chánh tinh tấn, Chánh định và Chánh niệm; và cuối cùng là cách mà ý thức của chúng ta vận hành thông qua Chánh kiến ​​và Chánh tư duy.

Mặc dù hành động bằng lời nói và thái độ bản thân của chúng ta là biểu hiện của các hoạt động tinh thần, nhưng tâm trí và suy nghĩ của chúng ta rất khó phát hiện hoặc theo dõi. Một khi suy nghĩ của chúng ta được thể hiện ra bên ngoài thành lời nói hoặc chữ viết, chúng có thể được nhìn nhận. Mặc dù cả hai đều có thể gây ra tổn thương, nhưng lời nói có hại tương đối ít gây hủy hoại hơn hành động bởi vì tổn thương thể chất phần nào không thể đảo ngược và trải nghiệm giác quan liên quan có thể để lại dấu ấn lâu dài trong tâm trí chúng ta. Thông thường, trải nghiệm của chúng ta có thể tạo ra một vòng xoáy đi lên, thúc đẩy các hành động và phản ứng trở lại quan niệm và nhận thức của chúng ta. Vì các hành động thể chất dễ theo dõi và kiểm soát hơn so với hoạt động tinh thần, chúng được coi là biên giới của kỷ luật đạo đức.

Chúng ta phải nhận ra rằng tâm trí của chúng ta không thể tự do thực sự nếu các hành động, nhận thức và hoạt động tinh thần của chúng ta không nằm trong tầm kiểm soát của chúng ta mà bị nô lệ và vướng vào bởi tham, sân, si. Đau khổ của chúng ta sẽ không bao giờ chấm dứt nếu chúng ta bị ràng buộc bởi những hiểu biết ảo tưởng về bản thân, người khác và thế giới. Nếu chúng ta không trau dồi sự hiểu biết thực sự về bản thân, làm sao chúng ta có thể hiểu được người khác? Nếu chúng ta không hiểu người khác, làm sao chúng ta có thể hy vọng hiểu được sự phức tạp của thế giới này?

Một trong những hình thức hành động cực đoan nhất chống lại loài người là hành động chiến tranh. Trong khi cả hai bên của bất kỳ cuộc đối đầu nào sẽ đòi hỏi quyền lực đạo đức và công lý, cả hai bên đều phải gánh chịu những hậu quả to lớn không thể đảo ngược. Do đó, nó đặc biệt hấp dẫn bởi phản ánh từ những bình luận của Ben Ferencz, một công tố viên và điều tra viên những vụ thảm sát, vụ xét xử giết người lớn nhất từng được tổ chức tại phòng xử án Nuremberg. Thay vì buộc tội những tên tội phạm chiến tranh đó, ông đã nói, “Bây giờ tôi sẽ nói với các bạn một điều rất sâu sắc, mà tôi đã học được sau nhiều năm. Chiến tranh biến những người tử tế thành những kẻ giết. Vâng, tất cả các cuộc chiến tranh và đối với tất cả những người tử tế… ”

Và trong sự lựa chọn giữa hòa bình và chiến tranh, đối với Ben Ferencz, người đã chứng kiến ​​và chịu đựng quá nhiều bất công và bạo lực, ông chọn hòa bình: “Vâng, nếu dẫu cho đó là sự ngây thơ khi muốn hòa bình thay vì chiến tranh, hãy để thiên hạ cho rằng tôi là đứa ngây thơ, vì tôi muốn hòa bình thay vì chiến tranh. Nếu họ nói với tôi rằng họ muốn chiến tranh thay vì hòa bình, tôi sẽ không nói họ ngây thơ, tôi nói họ si mê. Si mê đến mức khó tin khi phái những người trẻ tuổi đi giết những người trẻ tuổi khác mà họ thậm chí không biết, những người chưa bao giờ làm hại ai, chưa bao giờ làm hại họ. Đó là hệ thống hiện tại. Tôi thật ngây thơ? Và thật là điên rồ!”

Làm thế nào mà bất kỳ người tử tế nào có thể nhìn nhận rằng họ phải căm thù kẻ thù của họ đến mức ngay cả những tội ác chiến tranh cũng là chính đáng? Có lẽ, như Thiền sư  Thích Nhất Hạnh đã từng nhắc “Sự sợ hãi, tức giận và tuyệt vọng được sinh ra trên nền tảng của nhận thức sai lầm. Chúng ta có những nhận thức sai lầm về bản thân và người khác… và đó là nền tảng của xung đột và chiến tranh và bạo lực…”

Không thể phát triển sự hiểu biết đúng đắn và quan điểm đúng đắn về bản thân và người khác nếu không giao tiếp tốt dưới hình thức lời nói yêu thương và lắng nghe sâu sắc; Không thể trau dồi lời nói yêu thương và sự lắng nghe sâu sắc nếu không có các giá trị đạo đức làm nền tảng: vì nếu không có sự tin tưởng, thì không có cơ sở để hiểu biết lẫn nhau. Với các giá trị đạo đức, chúng ta có thể phát triển nền tảng của giao tiếp, trau dồi lòng từ bi và trí tuệ cần thiết để xây dựng sự hiểu biết lẫn nhau, phát triển trí tuệ để đánh giá cao hoàn cảnh của nhau.

Quan trọng nhất, chúng ta có thể bắt đầu đánh giá cao rằng cả hai phía của bất kỳ cuộc xung đột nào đều phụ thuộc lẫn nhau – chúng ta cùng ở trên cùng một con tàu. Nếu không có sự phụ thuộc lẫn nhau, không có cơ sở cho cả xung đột lẫn hòa hợp.

Chúng ta sai lầm khi áp dụng quan điểm rằng hạnh phúc của người khác không ảnh hưởng đến hạnh phúc của chính chúng ta, hoặc đau khổ của người khác không ảnh hưởng đến đau khổ của chính chúng ta.

Nếu chúng ta thực sự có thể đánh giá cao sự phụ thuộc lẫn nhau của mình, chúng ta sẽ có thể thấy rằng hạnh phúc của mỗi chúng ta không giống nhau và cũng không độc lập.

Chúng tôi khác biệt nhưng chúng ta cũng liên kết với nhau. Chúng ta có trách nhiệm đối với hạnh phúc của cá nhân chúng ta cũng như của cộng đồng.

Con đường hòa bình và hòa giải không bao giờ là một con đường dễ dàng. Nó cần sự bền bỉ, kiên trì, từ bi và trí tuệ.

_________________________

Tham khảo

Xem thêm

  • Điều mà Công tố viên Nuremberg muốn thế giới biết (CBS News)

The Foundation of Communication and Leadership

By Dr. Ernest Chi-Hin Ng | BDG | July 25, 2019

In this VUCA world of volatility, uncertainty, complexity, and ambiguity, we need leadership more than ever to guide and lead us out of pain and suffering. Yet many of these problems and challenges are in fact the results of poor judgment by the very leaders we rely on, causing further desperation and helplessness. A 2016 study by radical innovation expert Sunnie Giles surveyed 195 leaders in 15 countries over 30 global organizations, revealing that the top theme of leadership competencies is strong ethics and the ability to develop a safe and trusting environment. This leadership quality is “a commitment to fairness, instilling confidence that both they and their employees will honor the rules of the game.” It is reported that providing a safe environment for employees can nurture stronger overall performance.

Modern leadership and management research has ample coverage of the technical aspects of leadership, such as communication and persuasion skills, marketing and mobilization skills, and the organizational and reporting structures required to lead. There is even more research on various selection mechanisms for leaders, yet why do the leaders so selected still seem to be so far removed from our wishes and expectations?

If the level of wisdom and compassion of our leaders could reflect the wisdom and compassion of those responsible for selecting or electing them, how would we make the right leadership choice? Historically, many leaders have been chosen based on traits such as physical strength, their ability to manage human and natural resources, intellectual capabilities, and so on. Modern leaders tend to be chosen based on their charisma, eloquence, or access to capital or data. Very often, leaders are chosen if their views and actions are popular. In the era of artificial intelligence, however, many of these traditional leadership qualities are arguably commodified and replaceable. It is no longer sufficient to select leaders based on technical skills alone.

From the Buddhist perspective, true leaders must also embody moral leadership. Moral values are not far-fetched, unrealistic ideals but concrete living disciplines applicable to everyone concerning the way we act, communicate, and think. These principles are founded on the practical wisdom that we should behave so that we can live in a community harmoniously. The rights and wrongs, or the dos and don’ts, do not mean simply obeying orders from higher authorities, customs, popular views, or the rule of law; they are fundamental guidelines that can contribute to our well-being. Our well-being is ultimately governed by the quality of our mind: our behaviors are skillful if they are consistent with the practice of generosity, compassion, wisdom; they are not skillful if our mind is defiled by greed, hatred, and ignorance. The threefold training of moral discipline, mental concentration, and wisdom corresponds to the training for our body and mind: in the way we behave through Right Speech, Right Action, and Right Livelihood in the Noble Eightfold Path; in the way we perceive and conceive through Right Effort, Right Concentration, and Right Mindfulness; and ultimately in the way our consciousness operates through Right Understanding and Right Thought.

Even though our verbal and bodily actions are manifestations of our mental activities, our minds and thoughts are difficult to detect or monitor. Once our thoughts are expressed outwardly into speech or writing, they can be observed. While both can cause damage, harmful speech is comparatively less destructive than bodily action because physical damage is somewhat irreversible, and the associated sensory experience can leave a long-lasting imprint on our mind. Often our experiences can drive an upward spiral propelling further actions and reactions back to our conceptions and perceptions. Since physical actions are easier to monitor and control than mental activity, they are considered the frontier of moral discipline.

We must realize that our mind cannot be truly free if our actions, perceptions, and mental activities are not under our control but are enslaved and entangled by our greed, hatred, and ignorance. Our suffering will never cease if we are bound by illusionary understandings of ourselves, others, and the world. If we do not cultivate a true understanding of ourselves, how can we understand others? If we do not understand others, how can we hope to understand the complexities of this world?

One of the most extreme forms of bodily action against humanity is the act of war. While both sides of any confrontation will claim moral authority and justice, both sides suffer tremendous irreversible consequences. It is therefore particularly intriguing to reflect on the comments of Ben Ferencz, a prosecutor and investigator of the holocaust, the biggest murder trial ever held in the courtroom of Nuremberg. Instead of accusing those war criminals, he said, “Now I will tell you something very profound, which I have learned after many years. War makes murderers out of otherwise decent people. All wars and all decent people.”

And in the choice between peace and war, even for someone like Ben Ferencz, who witnessed and suffered so much injustice and violence, he would rather choose peace: “Well, if it’s naive to want peace instead of war, let ’em make sure they say I’m naive. Because I want peace instead of war. If they tell me they want war instead of peace, I don’t say they’re naive, I say they’re stupid. Stupid to an incredible degree to send young people out to kill other young people they don’t even know, who never did anybody any harm, never harmed them. That is the current system. I am naive? That’s insane.”

How could any decent person take the view that they should hate their enemy so badly that even war crimes are justifiable? Perhaps, as Thich Nhat Hanh reiterates, “The fear, the anger, and the despair are born on the ground of wrong perception. We have wrong perceptions concerning ourselves and the other person . . . and that is the foundation of conflict and war and violence . . .”

It is impossible to develop the right understanding and right perspective on ourselves and others without good communication in the form of loving speech and deep listening; it is impossible to cultivate loving speech and deep listening without moral values as the foundation: for if there is no trust, there is no basis for mutual understanding. It is with moral values that we can develop the foundation of communication, cultivate the compassion and wisdom necessary to build mutual understanding, develop the wisdom to appreciate each others’ circumstances. Most importantly, we may begin to appreciate that both sides of any conflict are interdependent—we are together on the same ship. If there is no interdependence, there is no basis for either conflict or harmony. We mistakenly adopt the view that others’ happiness has no bearing on our own happiness, or others’ suffering has no influence on our own suffering. If we can truly appreciate our interdependence, we should be able to see that the well-being of each of us is neither the same nor independent. We are different but we are also interconnected. We are responsible for our own individual happiness as well as that of the community.

The path of peace and reconciliation is never an easy one. It takes persistence, perseverance, compassion, and wisdom. Ferencz reminded us: “People get discouraged. They should remember, from me, it takes courage not to be discouraged.”

References

See more

  • What the Last Nuremberg Prosecutor Alive Wants the World to Know (CBS News)

Thursday, January 20, 2022

Vườn Mai Trắng Nở

 Lời dẫn: Đây là bài hát thứ ba tưởng niệm anh Tâm Kiểm Bạch Hoa Mai - cảm thán về công hạnh của anh trên dòng Phật Việt và Lam sử Việt Nam

Vườn Mai Trắng Nở

Nhạc phẩm VƯỜN MAI TRẮNG NỞ  

Tưởng niệm cố huynh trưởng Tâm Kiểm Bạch Hoa Mai 

Lời: Tâm Thường Định; Nhạc: Đức Quảng 

Hòa âm: Hưng Việt - Ca sĩ: Lâm minh Ngọc



https://youtu.be/iSM_19u3Mwo
https://vannghe.nhacgdpt.com/nhac-phat-giao-karaoke-643-vuon-mai-trang-no-tam-thuong-dinh/



Wednesday, January 19, 2022

The 5 Ws (and 1 H) that should be asked of every project!

The 5 Ws (and 1 H) 

that should be asked of every project!

Occasionally, I'll find myself partway into a project before I step back and consider what the real goals are and what I'm really trying to accomplish. However, when I think about my work in connection with the fundamentals of project management, I am always more successful.  This post is a great reminder about project management basics and reminds us to keep in mind the questions we should ask when taking on a new project.  


When your project starts to get complicated it's time go to back to the fundamentals. With all the methods, practices, principles, tool and techniques out there at the disposal of the project manager, you can often forget the fundamental principles of project management.

What are the 5 Ws?

The Five Ws, Five Ws and one H, or the Six Ws are questions whose answers are considered basic in information-gathering. They include Who, What, When Where, and Why. The 5 Ws are often mentioned in journalism (cf. news style), research, and police investigations. They constitute a formula for getting the complete story on a subject. According to the principle of the Five Ws, a report can only be considered complete if it answers these questions starting with an interrogative word:[3]

  • Who is it about?
  • What happened?
  • When did it take place?
  • Where did it take place?
  • Why did it happen?

Some authors add a sixth question, "how", to the list, though "how" can also be covered by "what", "where", or "when":[3]

  • How did it happen

Each question should have a factual answer — facts necessary to include for a report to be considered complete.[4] Importantly, none of these questions can be answered with a simple "yes" or "no".

It's the kind of inquiry that is taught to children when they're about to embark on a writing assignment and much like children, we must demonstrate the same kind of dogged persistence and determination that they often exhibit when they are trying to learn something new.

The 5 Ws Example in Project Management

So without further ado, think about answering these 5 Ws before you start any project:

  1. Why - though it seems so obvious, I've often been part of projects where the why question was never asked! I think sometimes you get so used to being assigned projects with little to no evaluation let alone business case justification, that the fundamental question of "Why are we doing this project" does not get asked. Really delving into this question will allow you to get at the drivers and benefits that the project is to deliver which will allow you to deliver a project your customer and stakeholders' satisfaction.
  2. What – this is really the first question you ask when you're trying to gather requirements for your project to define the scope. It gets no simpler than "What do we do?"
  3. Who – who are your stakeholders, team, customer that will work on, sponsor and ultimately benefit from when your project is completed?
  4. When – sometimes this question gets asked before all the question we discussed above get answered. You need to know why, what and who will be part of your project before you can adequately answer when it will get completed.
  5. Where – then after all is said and done, where will your project be done? Where will it be delivered? With today's global and dispersed environments, this question is not as simple as it may seem!

Now that all your core questions have been answered can you answer the question of "how" you will complete your project. This is really where the methods, practices, tools and techniques get deployed... but not until you have answered in detail the 5 Ws first!

Source: https://www.workfront.com/blog/project-management-101-the-5-ws-and-1-h-that-should-be-asked-of-every-project

Saturday, January 15, 2022

Dr. Alexander Berzin | Tâm Quảng Nhuận dịch Việt: Nghiên cứu Phật giáo trong thời đại kỹ thuật số | Studying Buddhism in the Digital Age


Đức Đạt Lai Lạt Ma đã kêu gọi Phật giáo thế kỷ 21 không tập trung vào nghi lễ, cầu nguyện và lòng sùng kính, mà là nghiên cứu, đặc biệt là các tác phẩm của mười bảy đạo sư đáng trọng của Nalanda.

Để phù hợp với kỹ năng về phương pháp của Đức Phật, việc học tập cần phù hợp với hoàn cảnh của thế kỷ 21 và phù hợp với các phương pháp giao tiếp của Thời đại Kỹ thuật số. Để giáo dục Phật giáo duy trì hiệu quả, nó cần phải thích ứng với nhu cầu hiện tại, như đã làm trong quá khứ. Đặc biệt để truyền thống giáo dục Phật giáo vĩ đại của Nalanda tiếp tục, nó cần phải thích ứng với các phương pháp giáo dục hiện đại, nhằm cung cấp khả năng tiếp cận trí tuệ cho thế hệ trẻ.

Hãy ôn lại một số bối cảnh lịch sử để chứng minh rằng việc thích nghi với thời đại, là phù hợp với truyền thống Phật giáo.

Đức Phật Thích Ca là một bậc thầy. Theo thánh điển, điều khiến Ngài trở nên siêu việt là trí tuệ toàn giác, lời nói giác ngộ và kỹ năng hướng dẫn người khác đến giải thoát giác ngộ. Điều này có nghĩa là Ngài biết đầy đủ tất cả các phương pháp hiệu quả nhất để truyền đạt giáo lý của mình cho mỗi chúng sinh khi các điều kiện, nhu cầu của thời đại thay đổi.

Để ngôn ngữ trở thành một phương tiện giao tiếp hiệu quả, cần phải có một phương tiện. Trước khi những lời dạy của Đức Phật được viết ra, cũng đã từng được truyền khẩu. Các môn đồ đã học những lời dạy thông qua việc nghe ai đó lặp lại chúng. Họ nghiên cứu chúng thêm bằng cách ghi nhớ, và lặp lại, lặp lại.

Sau vài thế kỷ, những lời khai sáng của Đức Phật đã được viết thành văn bản để bảo tồn cho tương lai. Chữ viết giờ đây đã trở thành một phương tiện bổ sung để học và nghiên cứu lời dạy của Đức Phật. Theo thời gian, ngôn ngữ phát triển và các ngôn ngữ khác nhau trở nên phổ biến hơn. Điều này không gây trở ngại gì cho người nghe và hiểu được bài phát biểu giác ngộ của Đức Phật. Rốt cuộc, Phật dạy rằng nhân quả không vận hành trong chân không; chúng bị ảnh hưởng bởi các điều kiện và hoàn cảnh. Vì thực tế duyên sinh đó, và vì những phần khác nhau trong giáo lý của Đức Phật được viết ra vào những thời điểm khác nhau, một số lời khai sáng của Ngài đã được ghi lại bằng tiếng Pali và một số bằng tiếng Phạn. Nhờ phương tiện khéo léo này, mọi người có thể đọc và hiểu những lời của Đức Phật bằng ngôn ngữ viết vào thời đại của họ.

Photo: Internet

Khi những lời dạy của Đức Phật được truyền bá ra ngoài tiểu lục địa Ấn Độ đến các vùng xa hơn của Châu Á, đã được dịch và ghi lại bằng nhiều ngôn ngữ và chữ viết hơn nữa, bao gồm nhiều loại ngôn ngữ Trung và Đông Á, nổi bật nhất là tiếng Trung và tiếng Tây Tạng. Xu hướng truyền tải này đã tiếp tục theo thời gian, do đó hiện nay những lời dạy của Đức Phật đã có sẵn dưới dạng văn bản trong hầu hết các ngôn ngữ và chữ viết hiện đại. Bằng cách này, các dịch giả vĩ đại đã tăng cường hoạt động khai sáng trong bài diễn thuyết của Đức Phật để truyền đạt cho mọi người theo từng ngôn ngữ của họ.

Tuy nhiên, ngôn ngữ viết yêu cầu một phương tiện để tiếp cận khán giả. Do đó, để phù hợp với điều kiện về thời gian và địa điểm, những lời của Đức Phật đã được viết trên lá cọ hoặc giấy, và được đóng thành sách. Các văn bản được viết tay hoặc in từ mộc bản hoặc loại có thể di chuyển được. Tất cả những phát triển này đều phù hợp với nguyên tắc của các phương tiện khéo léo để truyền đạt tốt hơn những lời khai sáng của Đức Phật cho những người sẽ học chúng.

Thế kỷ 21 đã chứng kiến buổi bình minh của Kỷ nguyên kỹ thuật số. Ngày càng có nhiều người nhận được thông tin của họ ở dạng kỹ thuật số thông qua Internet. Họ đọc thông tin đó trên máy tính hoặc ngày càng nhiều hơn trên điện thoại di động hoặc máy tính bảng. Kiến thức của họ không chỉ đến từ các trang web mà còn ở phạm vi rộng hơn bao giờ hết thông qua mạng xã hội. Hơn nữa, xu hướng hiện nay, đặc biệt là ở thế hệ trẻ, là mọi người thích nhận thông tin dưới dạng video hơn là thông qua văn bản. Nhiều người thậm chí còn thích hoạt ảnh hơn trình chiếu trực tiếp và hơn nữa, thông tin của họ cần phải mang tính giải trí. Điều này đã tạo ra một phương tiện thậm chí còn mới hơn, được gọi là “thông tin giải trí”, một phương tiện kết hợp giữa thông tin và giải trí.

Trong lĩnh vực giáo dục đại học, nhiều trường đại học đã bắt đầu cung cấp các Khóa học trực tuyến mở rộng tương tác, được gọi là MOOC’s (Massive Open Online Courses), nơi sinh viên theo đuổi phương pháp học trực tuyến bằng cách xem và nghe các bài giảng trên lớp trực tuyến. Tuy nhiên, các khóa học giáo dục trực tuyến phổ biến nhất đã thích ứng với xu hướng sử dụng Internet hiện đại. Do tốc độ nhanh chóng của nguồn cấp dữ liệu trên mạng xã hội và khoảng thời gian thu hút sự chú ý của mọi người bị rút ngắn, thời lượng lý tưởng của video giáo dục giờ đây đã trở thành dăm ba phút, không phải là chín mươi phút của các bài giảng được quay video mà chỉ những sinh viên tận tâm nhất mới xem đến hết. Thích ứng với xu hướng này, các kênh giáo dục, chẳng hạn như Coursera và Lynda, cung cấp các khóa học thông qua chuỗi video clip dài ba phút trực tuyến, một số có các bài nói chuyện trực tiếp và một số có hình ảnh động. Họ nhận thấy đây là độ dài và phương tiện tối ưu để mọi người học, tiêu hóa và ghi nhớ tài liệu phức tạp. Đây là thực tế của Kỷ nguyên kỹ thuật số.

Hãy để tôi trình bày dự án mà tôi đã tham gia như một ví dụ về một cách để thúc đẩy và phát triển hơn nữa truyền thống Nalanda trong thời đại hiện nay. Dự đoán được nhu cầu của thế kỷ 21, tôi thành lập một tổ chức phi lợi nhuận của Đức, Berzin Archives, và chúng tôi đã xuất bản phiên bản đầu tiên của trang web giáo dục, đa phương tiện, berzinarchives.com, vào tháng 12 năm 2001. Đã nhận bằng Tiến sĩ từ Đại học Harvard về Ngôn ngữ Viễn Đông và Nghiên cứu tiếng Phạn và Ấn Độ, sau đó tôi đã dành 29 năm ở Ấn Độ. Ở đó, tôi đã học với một số bậc thầy vĩ đại nhất của thế kỷ trước từ cả bốn truyền thống của Phật giáo Tây Tạng, bao gồm cả Đức Đạt Lai Lạt Ma và những người kề cận của ngài, và đã dịch cho nhiều người trong số họ. Trong nhiều năm, tôi đã xây dựng một kho lưu trữ lớn các bản dịch các văn bản tiếng Tây Tạng và tiếng Phạn và bản ghi các bài giảng mà tôi đã dịch từ các giáo viên của mình. Giảng về các chủ đề Phật giáo trên khắp thế giới, tôi cũng đã xây dựng một kho lưu trữ lớn các bản ghi các bài giảng và bài viết của chính tôi, truyền tải thêm những gì tôi đã được dạy. Tôi cũng đã viết nhiều sách và bài báo giải thích những lời dạy sâu sắc và rộng lớn này. Thông qua trang web của Berzin Archives, tôi đã cung cấp miễn phí kho tàng kiến ​​thức khổng lồ này cho thế giới và tiếp tục bổ sung vào đó các bản ghi âm và ghi âm các bài giảng tiếp theo của mình.

Đến năm 2015, trang web đã phát triển hơn 1200 mục bằng tiếng Anh, với nhiều mục được dịch sang 20 ngôn ngữ châu Âu và châu Á khác, trong đó có sáu mục từ thế giới Hồi giáo. Nó đã tiếp cận hơn 5000 người dùng mỗi ngày. Nhưng xu hướng giáo dục hiện đại đã thay đổi nhanh chóng trong mười năm trước đó và đã đến lúc cần phải nâng cấp.

Thực hiện lời kêu gọi của Đức Đạt Lai Lạt Ma đối với Phật giáo thế kỷ 21 với trọng tâm là nghiên cứu, chúng tôi đã chấp nhận thử thách. Mặc dù Đức Pháp Vương khuyên nên nghiên cứu các tác phẩm của mười bảy đạo sư Nalanda, những văn bản này vượt ra ngoài phạm vi của những người mới bắt đầu. Những người mới đến với Phật giáo cần những giáo lý cơ bản hơn để tiếp cận với Giáo Pháp có trong những kinh văn nâng cao đó. Họ cần được hướng dẫn từng bước và để phù hợp với sự phát triển của Kỷ nguyên kỹ thuật số, hướng dẫn này trước tiên cần được cung cấp thông qua Internet, đặc biệt là cho những người trẻ tuổi, sau đó, khi những sinh viên này đã chuẩn bị, thông qua nghiên cứu cá nhân với đội ngũ giáo viên có năng lực. Nhiệm vụ của chúng tôi tại Berzin Archives là cung cấp khả năng tiếp cận truyền thống Nalanda cho những người mới đến của thế kỷ 21, phù hợp với sự nhấn mạnh của Đức Phật về việc sử dụng các phương tiện thiện xảo.

Với giao diện dễ điều hướng hơn, kiến trúc thông tin gần gũi với người dùng hơn và thiết kế hiện đại hơn, ưu tiên thiết bị di động hơn, chúng tôi đã đổi tên trang web studybuddhism.com để những người mới đến và Google sẽ dễ dàng xác định nó là gì. Chúng tôi đã đưa ra bản nâng cấp trang web của mình vào tháng 5 năm 2016. Tự động điều chỉnh kích thước để hiển thị phù hợp trên tất cả các thiết bị kỹ thuật số, từ điện thoại thông minh đắt tiền nhất đến điện thoại di động rẻ nhất, mọi người ở mọi nơi hiện có thể truy cập trang web mọi lúc, mọi nơi. Điều này rất quan trọng vì hơn một nửa việc sử dụng Internet hiện nay là thông qua điện thoại di động và tỷ lệ phần trăm này đang tăng nhanh hơn bao giờ hết.

Tuy nhiên, làm cho một trang web hiện đại có thể truy cập được trên tất cả các thiết bị là chưa đủ. Mọi người cần tìm trang web. Điều này không dễ dàng. Có hơn một tỷ trang web trên Internet, với hơn 150.000 trang web được thêm vào mỗi ngày, tất cả đều tranh giành thời gian và sự chú ý của mọi người. Do đó, để cải thiện thứ hạng của Google để người dùng tiềm năng có thể tìm thấy chúng tôi, chúng tôi đã sử dụng các kỹ thuật tối ưu hóa công cụ tìm kiếm mới nhất, bao gồm cả việc làm cho một số phương tiện tư liệu bằng văn bản của chúng tôi trở nên phong phú với ảnh, minh họa và âm thanh và video clip.

Ngay cả khi người dùng có thể tìm thấy trang web của bạn, nếu mục đích của trang web là giáo dục người dùng, thì cần phải thu hút người dùng của bạn và khuyến khích họ quay lại. Để đáp ứng nhu cầu này, chúng tôi đã mở rộng sự hiện diện của mình trên mạng xã hội Facebook, chuẩn bị các kênh YouTube và Sound Cloud mới, đồng thời tung ra bản tin hàng tháng cho số lượng người dùng cốt lõi ngày càng tăng của chúng tôi. Chúng tôi cũng đã bắt đầu một loạt các video clip ngắn về nhiều giảng viên Phật giáo, cả Tây Tạng và Tây phương từ cả bốn truyền thống Tây Tạng, trả lời những câu hỏi thường gặp nhất được đặt ra trên Google. Vì tương lai bền vững của Phật giáo, điều quan trọng là các giảng viên phải nỗ lực tham gia vào các dự án như phỏng vấn trực tuyến của chúng tôi, để thúc đẩy một bộ mặt không theo giáo phái của Phật giáo và thu hút nhiều khán giả.

Ngoài ra, chúng tôi đã chuẩn bị khóa học trực tuyến đầu tiên gồm bốn video dài ba phút, “Giới thiệu về Phật giáo”, như một dự án thí điểm để phát triển một chương trình giáo dục trực tuyến hiện đại. Là một dự án thử nghiệm tiếp theo, chúng tôi cũng đã sản xuất video hoạt hình đầu tiên của mình, “Làm thế nào để đạt được sự bình yên trong tâm trí”.

Kế hoạch nghiên cứu vẫn đang trong giai đoạn phát triển. Chúng tôi vẫn đang trong quá trình phát triển tất cả các phần ngôn ngữ từ định dạng cũ sang định dạng mới. Sau khi hoàn thành, chúng tôi có kế hoạch thêm các diễn đàn thảo luận để tranh luận và các tính năng tương tác khác. Chúng tôi cũng có kế hoạch phát triển một chương trình đầy đủ về các khóa học giáo dục bằng video trực tuyến, dưới dạng clip dài ba phút, sẽ bao gồm thêm tài liệu hoạt hình. Dần dần, chúng tôi sẽ cung cấp tất cả các tài nguyên này bằng 21 ngôn ngữ hiện tại trên trang web của chúng tôi và tất cả sẽ vẫn miễn phí.

Chúng tôi hy vọng rằng những nỗ lực của chúng tôi sẽ truyền cảm hứng cho những người khác noi theo tấm gương của chúng tôi và phát triển nó hơn nữa. Nhiều giáo viên Phật giáo đã có sự hiện diện trực tuyến và do đó họ có các phương tiện để sử dụng đầy đủ các phương pháp giáo dục trực tuyến mới nhất. Ví dụ, Geshe Jampa Dagpa ở Moscow đã bắt đầu một diễn đàn trực tuyến dành cho Geshe Lharampas từ khắp nơi trên thế giới để tranh luận về các chủ đề khác nhau mà bất kỳ thành viên nào cũng có thể đề xuất. Đây là một cách sử dụng tuyệt vời của công nghệ thế kỷ 21 để tiếp tục truyền thống nghiên cứu Phật giáo của Nalanda thông qua tranh luận. Nhưng để đào tạo sinh viên đạt đến trình độ Phật học này thì cần phải tiếp cận với thế hệ trẻ.

Trên thực tế, tương lai của Phật giáo thế kỷ 21 và truyền thống Nalanda nằm trong tay thế hệ trẻ. Để cung cấp một nền giáo dục Phật giáo cho thế hệ mới này và những người sẽ tiếp theo đòi hỏi phải có kỹ năng về phương tiện, như nó luôn luôn có. Trong Kỷ nguyên Kỹ thuật số, điều này có nghĩa là sử dụng toàn bộ các phương pháp giáo dục trực tuyến hiện đại và luôn cập nhật khi những phát triển mới tiếp tục xuất hiện. Bằng cách này, chúng ta có thể noi gương Đức Phật về việc luôn sử dụng các phương tiện thiện xảo phát sinh tùy theo thời thế thay đổi.

Cảm ơn bạn.

_________________________________

Source: Studying Buddhism in the Digital Age

Tuesday, January 11, 2022

Chùm Thơ tiễn bước chân Anh Kính tiễn anh Tâm Kiểm - Bạch Hoa Mai

Chùm Thơ tiễn bước chân Anh

Kính tiễn anh Tâm Kiểm - Bạch Hoa Mai 


1.

Qua Bạch thôn trang

Hoa Mai đã nở

Cả ngoài lẫn trong.


2. 

Anh đi cánh nhạn lưng trời

Thăng trầm ngọt đắng một đời áo lam

Tâm hương lệ chảy hai hàng.


3.

Tình lam vẫn mãi ngàn đời

Mong anh trở lại như lời hẹn xưa.


4. 

Mưa Cali thấm lạnh

Tin Anh mất lạnh thêm

Gió reo rắt quanh thềm

Lăng Cô càng ảo não.


5. 

Anh giỏi hoạt động thanh niên

Tượng đài GĐPT anh thiết kế

Bao cổng trại anh làm

Bao trại mộc anh đến

Bao đơn vị dựng xây

Anh đều làm trọn vẹn.


6. 

Anh nhẹ gót thong dong

Buồn vương sầu ở lại

Thút thít mưa trong lòng

Bao tình thương còn lại.


7.

Nhớ lời xưa,“mọi sự nhờ hai em!” 


XIN HÃY CÙNG NHAU! 


Đôi mắt ai cay cay

Chưa bao giờ buồn thế

Và những đều có thể

Ta nói không nên lời


Giữa những nỗi chơi vơi

Tìm về trong cõi vắng

Khi tâm ta tĩnh lặng

Sẽ nhận thấy chính mình


Có những buổi bình minh

Chim líu lo ca hát

Giữa cách đồng Bát ngát

Bao nguồn xanh nhiệm mầu


Ở tận cùng khổ đau

Cũng có mầm hạnh phúc

Người như sông có khúc

Thấy dòng chảy nhân sinh

 

Đời sống bao nghĩa tình

Có gì đâu còn mất?

Giữa cõi đời tất bật

Bi-Trí-Dũng đồng hành!


Cuộc sống quá mong manh

Tấm lòng ta dâng hết

"Và nếu mai ta chết

Nụ cười mỉm trên môi!" *



8.

Anh đi mây qua núi

Hoa Đàm cũng nở rồi

Anh ơi! đừng tiếc nuối

Tự tại ở bến Không.


9.

Tâm Kiểm thoát vòng sanh tử 

Bạch Hoa Mai tọa áng sen vàng.


10.

Uyên nguyên muôn đời tĩnh tịch 

Chân không diệu hữu thong dong.


Kính bái.

Tâm Thường Định

Sacramento. Ngày tiễn Anh đi.

Jan. 11th, 2022.