Trại Huấn luyện Anoma - Ni Liên Tuyết Sơn - GĐPT MLQ. Photos: BXK |
Nhật Ký Giáo Dưỡng: TỨ TẤT ĐÀN - MỘT PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC TRONG PHẬT
GIÁO
Trước tiên, sứ mệnh và mục
đích của giáo dục luôn thay đổi theo không gian, thời gian, quốc độ và niềm tin
của mỗi người. Nhưng quan trọng hơn, “Học để làm gì?” Theo Tổ chức Giáo dục,
Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp (United Nations Educational, Scientific and
Cultural Organization - UNESCO), có Bốn trụ cột trong việc học (The Four
Pillars of Learning)[1]. Học để biết; Học để làm; Học
để tự khẳng định chính mình/học để làm người; và Học để cùng chung sống.
Riêng ở quốc độ này, “Mục đích
chính trong trường học tại Hoa Kỳ là để cung cấp cho sự phát triển tiềm năng trọn
vẹn của từng học sinh để sống đạo đức, sáng tạo, và có hiệu quả trong một xã hội
dân chủ." (“The main purpose of the American school is to provide for the
fullest possible development of each learner for living morally, creatively,
and productively in a democratic society”)[2]. Còn thời Việt Nam Cộng
Hoà thì triết lý giáo dục được đặc trên nền tảng: nhân bản, dân tộc, và khai
phóng[3]. Ngày nay, không biết nền
tảng Giáo dục Việt Nam của chúng ta đang đặc ở đâu?
Riêng trong Phật Giáo, thiển
ý của chúng tôi là sứ mệnh và mục đích tối hậu vẫn là “Tự
giác, giác tha, giác hạnh viên mãn.”
Nói cách khác là Tự mình tìm ra chân lý, giúp người thấy
ra chân lý, và tất cả đều giác ngộ ra sự thật/chân lý. Còn tổ chức Gia Đình Phật Tử
thì lấy Bi-Trí-Dũng làm nên tảng. Ngoài Đức dục, trí dục, và thể dục, chủng tử và huân tập là những phương tiện thiện xảo để giáo dục tuổi trẻ ngày nay. Tuy nhiên chúng tôi muốn đề cập đến Tứ Tất Đàn trong việc sự Giáo dục
trong Phật Giáo.
Theo Hoà thượng
Thích Thái Hòa, trong bài Tứ Tất Đàn Và Sự Ứng Dụng Trong Cuộc Sống, Thầy giải
thích như sau:
Tứ
Tất Đàn, tiếng Phạn là catvari siddhanta; catvari có nghĩa là tứ và siddhanta
phiên âm là tất đàn, có khi còn được phiên âm là “Tất Đàm”, và dịch là “Tác
Thành Tựu”, có nghĩa là làm cho công việc thuyết pháp của Đức Phật được thành tựu.
Chữ siddhanta, Hán dịch là "thành tựu", nghĩa là nhờ dựa vào bốn
phương pháp này, mà Đức Phật thuyết pháp và thành tựu được sự nghiệp hoằng hóa,
giáo hóa chúng sinh, đưa chúng sinh từ mê lầm đến giác ngộ, từ sinh tử đến Niết
Bàn, từ phàm lên Thánh, từ mê lầm đến sự hiểu biết cao thượng.
Nội dung Tứ tất đàn gồm có: 1. Thế giới tất đàn; 2. Vị nhân tất
đàn; 3. Đối trị tất đàn; và 4. Đệ nhất nghĩa tất đàn. Đây là bốn phương pháp mà
Đức Phật đã tùy
duyên và bất biến,
giảng dạy và thành tựu viên mãn mà chúng ta có thể áp dụng ngày nay. Vì tính
chất tùy duyên
ở trong đạo Phật, chúng ta cũng tùy duyên sinh hoạt, giảng dạy, và hoằng Pháp cho
thế hệ kế thừa những phép kỉnh sau:
1) Thế giới tất đàn: Vì sự an lạc và hạnh phúc của
chúng sanh, đức Phật đã dùng phương tiện tùy thuận chúng sinh mà thuyết
pháp và giảng dạy.
2) Vị nhân tất đàn: Ngài vì tùy vào căn cơ
trình độ cao hay thấp, tâm lý, chủng tử của mỗi người mà dùng phương tiện này, phương tiện khác để
họ dễ tiếp thu, mau tiến hóa hầu sống hài hoà an lạc.
3) Đối trị tất đàn: Ngài vì tùy thuận chỗ mê
lầm và tâm bệnh của chúng sinh mà nói Pháp đối trị, như một vị Bác sỹ giỏi
tùy bệnh cho thuốc để hồi phục.
4) Đệ nhất nghĩa tất đàn: Khác với 3 tất đàn trước, chỉ
là phương tiện, thì Đệ nhất nghĩa tất đàn là cứu cánh và là mục đích giáo dục của đạo
Phật. Khi đức Phật
thấy cơ duyên của chúng sinh đã thuần thục Ngài không dùng phép tương
đối mà khai thị con đường Trung đạo và Nhị đế (hai sự thật), thật tướng của các
Pháp, để thuyết cái thật tướng của vạn pháp để
cho chúng sanh sớm giác ngộ.
Như huynh trưởng Tâm Minh Vương Thuý Nga chia
sẻ, “Đây là nét đặc sắc của Giáo dục Phật Giáo nói
chung hay giáo dục của đức Thế Tôn nói riêng. Trong một thời
Pháp của đức Thế tôn lúc Ngài còn tại thế, Ngài thường vận dụng
4 tiêu chuẩn hay 4 nguyên tắc để trình bày một vấn đề (một sự
thật, một chân lý…)” Hoà thượng Thích Thái Hoà còn căn dặn:
Quý
vị phải biết rằng, trong Thế gian tất đàn có Đệ nhất nghĩa tất đàn, nên
nói theo thế gian mà không sai với chính nghĩa; nói thuận theo với thế gian mà
không sai với Niết bàn; ở trong sinh tử mà không sai với Niết bàn giải thoát.
Cũng
vậy, trong Vị nhân tất đàn có Đệ nhất nghĩa tất đàn, trong Đối trị tất đàn có Đệ
nhất nghĩa tất đàn.
Chúng
ta phải tùy căn cơ, tùy từng hoàn cảnh của con người, từng hoàn cảnh xã hội mà
giáo hóa, chúng ta tùy thuận mà không tùy thuộc. Vì sao? Vì trong Đối trị tất
đàn, trong Vị nhân tất đàn, trong Thế gian tất đàn, mỗi cái đều có Đệ nhất
nghĩa tất đàn. Cho nên, trong cái tùy duyên có tính chất bất biến bên trong.
Đây
là điều mà các anh/chị/em cần phải học tập, chiêm nghiệm để có thể hành đạo được
ở bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào.
Nói tóm lại, Tứ tất-đàn là bốn phương tiện
thiện xảo trong giáo dục mà Đức Từ phụ Thích Ca Mâu Ni đã thực hành và giảng
dạy. Theo gót chân Ngài, chúng ta cũng nên tùy theo căn cơ trình độ và bối cảnh
xã hội khác của đoàn sinh / học sinh / đối tượng v.v… để thích nghi làm lợi lạc
cho quần sanh và xã hội. Tuy nhiên, chúng ta cần phải nhớ cho rằng sự ra đời
của Đức từ phụ vẫn là mang lại sự giác ngộ và giải thoát cho tất cả chúng sanh.
Mà muốn thành tựu
được sự giác ngộ giải thoát này, chúng sanh, mà nhất
là chúng ta, cần phải huân tập, tu dưỡng và chuyển hoá thân lẫn tâm từ khổ đau thành
cuộc sống an vui, hạnh phúc và thanh thản cho mình và cho người, ngay bây giờ
và cho cả tương lai.
Reference:
1. Tâm Minh Vương Thuý Nga, Phương Pháp
Truyền Đạt Trong Giáo Dục Phật Giáo Và Trong Môi Trường GĐPT, Trang nhà Thư Viện Hoa
Sen.
2. Thích Hạnh Bình, Đạo Phật Xưa Và Nay,
Trang nhà Quảng Đức.
3. Thích Thái Hoà, Tứ Tất Đàn Và Sự Ứng
Dụng Trong Cuộc Sống, Trang nhà Thư Viện Hoa Sen. http://thuvienhoasen.org/a13153/tu-tat-dan-va-su-ung-dung-trong-cuoc-song
http://www.unesco.org/new/en/education/networks/global-networks/aspnet/about-us/strategy/the-four-pillars-of-learning/
The four pillars of learning are fundamental principles
for reshaping education:
Learning to know: to provide the cognitive tools required
to better comprehend the world and its complexities, and to provide an
appropriate and adequate foundation for future learning.
Learning to do: to provide the skills that would enable
individuals to effectively participate in the global economy and society.
Learning to be: to provide self analytical and social
skills to enable individuals to develop to their fullest potential
psycho-socially, affectively as well as physically, for a all-round ‘complete
person.
Learning to live together: to expose individuals to the
values implicit within human rights, democratic principles, intercultural
understanding and respect and peace at all levels of society and human relationships
to enable individuals and societies to live in peace and harmony.
[3] Nguồn – Wikipedia.org.
Giáo dục Việt Nam Cộng hòa. Chính sách văn
hóa giáo dục, trang 5, Hội đồng Văn hóa Giáo dục Việt Nam Cộng hòa (1972)