Thursday, January 19, 2023

Daniel Scharpenburg | Tâm Quảng Nhuận lược thuật: Martin Luther King Jr. & Đạo Phật | Martin Luther King Jr. & Buddhism

 

“Trong thế giới này, sự căm ghét chưa bao giờ xua tan được sự căm ghét. Chỉ có tình yêu mới xua tan được hận thù. Đây là chân lý muôn đời” | ~ Đức Phật

“Bóng tối không thể xua đuổi được bóng tối; chỉ có ánh sáng mới có thể làm được điều đó. Hận thù không thể xua đuổi hận thù; chỉ có tình yêu mới làm được điều đó ”. | Martin Luther King Jr.

Martin Luther King Jr. không phải là một Phật tử. Tuy nhiên, trong hoạt động bất bạo động của mình, rõ ràng là ông đã được truyền cảm hứng từ phong trào phản kháng bất bạo động của Gandhi. Ông cũng được truyền cảm hứng từ các bậc thầy Phật giáo. Tinh thần đấu tranh bất bạo động của ông là điều cần truyền cảm hứng cho tất cả chúng ta.

Hòa bình, bình đẳng, và tình yêu — đây không phải là các giá trị riêng của Cơ đốc giáo hay các giá trị Phật giáo. Đây là những giá trị nhân văn mà chúng ta nên vun đắp vì hạnh phúc của mọi người.

Mọi người đều biết về hoạt động tích cực của Tiến sĩ King trong cuộc đấu tranh vì bình đẳng chủng tộc. Ông cũng là một nhà hoạt động vì hòa bình. Ông ấy phản đối mạnh mẽ cuộc chiến ở Việt Nam — một trong những bài phát biểu “Beyond Vietnam” của ông ấy là truyền cảm hứng nhất.

Ông kết bạn với một thiền sư trẻ tuổi sống lưu vong từ Việt Nam và tham gia hoạt động vì hòa bình. Ngài tên là Thích Nhất Hạnh. Thực sự chúng ta không biết chính xác hai vị này đã học được bao nhiêu điều từ nhau, nhưng chúng ta biết rằng họ đã dành một khoảng thời gian bên nhau và họ đã đưa ra lời khuyên cho nhau.

Tiến sĩ King đã viết một lá thư cho Ủy ban Nobel kêu gọi họ trao giải Nobel Hòa bình cho Thiền sư Thích Nhất Hạnh vì những nỗ lực của ngài trong hoạt động hòa bình.

Ảnh: Internet

Nguyên văn như sau:

Thưa quý ông:

Với tư cách là người từng đoạt giải Nobel Hòa bình năm 1964, bây giờ tôi hân hạnh được đề xuất một người bạn của tôi là Tỳ kheo Thích Nhất Hạnh cho giải thưởng đó năm 1967. Cá nhân tôi không biết có ai xứng đáng với giải Nobel Hòa bình hơn nhà sư Phật giáo Việt Nam hiền lành này.

Đây sẽ là một năm tốt lành đáng chú ý để trao Giải thưởng của mình cho thầy Nhất Hạnh. Đây là một sứ giả của hòa bình và bất bạo động, bị lưu đày một cách tàn nhẫn khiến cách ly khỏi dân tộc của mình đang trong hoàn cảnh bức bách bởi một cuộc chiến tàn khốc đang leo thang và tạo sự bất an cho toàn thế giới.

Bởi vì không có vinh dự nào được tôn trọng hơn Giải Nobel Hòa bình, việc trao tặng Giải thưởng cho thầy Nhất Hạnh tự nó sẽ là một hành động hòa bình ý nghĩa nhất. Nó sẽ nhắc nhở tất cả các quốc gia rằng những người có thiện chí sẵn sàng chuyển hóa các phần tử tham chiến thoát khỏi vực thẳm của hận thù và hủy diệt. Nó sẽ thức tỉnh những người chiến binh về lời dạy của vẻ đẹp và tình yêu được tìm thấy trong hòa bình. Nó sẽ giúp làm sống lại hy vọng về một trật tự công lý và hòa hợp mới.

Tôi biết thầy Thích Nhất Hạnh, và tôi rất hân hạnh được gọi ông là bạn của tôi. Bay giờ hãy cho phép tôi được chia sẻ với bạn một số điều tôi biết về Thầy ấy.

Bạn sẽ tìm thấy trong con người độc đáo này một loạt các khả năng và ý nguyện tuyệt vời.

Tượng kỷ niệm tình bạn của Thích Nhất Hạnh và Tiến sĩ Martin Luther King
tại Nhất Hạnh’s Magnolia Grove Monastery ở Mississippi. | Ảnh: Paul Davis

Thầy ấy là một người thánh thiện, vì khiêm tốn và tín tâm. Thầy là một học giả có trí lực vô biên. Tác giả của mười tập truyện đã xuất bản, Thầy cũng là một nhà thơ của sự trong sáng và lòng nhân ái tuyệt vời. Ngành học của Thầy là Triết học Tôn giáo, từng là Giáo sư tại đại học Vạn Hạnh, một trường Đại học Phật giáo mà thầy đã góp một phần tâm huyết để thành lập ở Sài Gòn. Thầy đảm trách Viện Nghiên cứu Xã hội tại Đại học này. Vị Sư tuyệt vời này cũng là biên tập viên của báo Thiện Mỹ, một ấn phẩm hàng tuần về Phật giáo có ảnh hưởng quần chúng. Đồng thời, thầy còn là Giám đốc Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, một tổ chức của đào tạo những người trẻ tuổi mang tâm nguyện tái lập nền hòa bình cho đất nước của họ.

Thầy Nhất Hạnh bây giờ hầu như vô gia cư và không quốc tịch. Nhưng nếu quay trở lại Việt Nam, tuy là điều mà Thầy hằng mong mỏi, thì cuộc sống của Thầy sẽ rất nguy hiểm. Cho nên Thầy là nạn nhân của một cuộc lưu đày chỉ vì dám mạnh mẽ đề xuất thực hiện chủ trương hòa bình cho dân tộc của mình. Đây là một hoàn cảnh bi thảm hiện tại của Việt Nam và những người gây ra nó.

Lịch sử Việt Nam chứa đầy những trang bóc lột của các thế lực ngoại bang và những kẻ tham tài, cho đến tận bây giờ người Việt Nam vẫn bị cai trị hà khắc, đói kém, nghèo khổ, và gánh nặng bởi tất cả những khó khăn và kinh hoàng của chiến tranh hiện đại.

Thầy Nhất Hạnh đưa ra một giải pháp thoát khỏi cơn ác mộng này, một giải pháp được các nhà lãnh đạo duy lý chấp nhận. Ông đã đi khắp thế giới, tư vấn cho các chính khách, các nhà lãnh đạo tôn giáo, các học giả và nhà văn, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của họ. Những ý tưởng của ông về hòa bình, nếu được áp dụng, sẽ xây dựng một tượng đài cho chủ nghĩa đại kết, cho tình anh em thế giới, cho nhân loại.

Tôi trân trọng đề nghị Hội đồng lưu tâm cho sự nghiệp của Thầy ấy bằng sự thừa nhận của Giải Nobel Hòa bình năm 1967. Thầy Thích Nhất Hạnh sẽ nhận vinh dự này một cách ân cần và khiêm tốn.

Trân trọng,

Martin Luther King, Jr.

Mặc dù bấy giờ Thiền sư Thích Nhất Hạnh không nhận được giải Nobel  — nhưng kể từ đó, Thầy là một nhà hoạt động không mệt mỏi để truyền bá hòa bình và tình yêu.

Thầy vẫn làm việc đó cho đến ngày hôm nay. Không nghi ngờ gì, Thầy Thích Nhất Hạnh và Tiến sĩ King là những Bồ tát giữa cõi đời này.

Chúng ta có thể học hỏi rất nhiều điều từ những hoạt động của họ.

Photo by Paul Davis

Martin Luther King Jr. & Buddhism.

Daniel Scharpenburg | Elephant Journal

“In this world
Hate never yet dispelled hate.
Only love dispels hate.
This is the law,
Ancient and inexhaustible.”
the Buddha

“Darkness cannot drive out darkness; only light can do that. Hate cannot drive out hate; only love can do that.”
Martin Luther King Jr.

I don’t think Martin Luther King Jr. was a Buddhist.

However, in his nonviolent activism, it was clear that he was inspired by Gandhi’s nonviolent resistance movement. He was also inspired by Buddhist teachers. His commitment to nonviolence is something that should be inspirational to all of us.

Peace, equality, love—these aren’t just Christian values or Buddhist values. These are human values that we should all cultivate for the well-being of everyone.

Everyone knows about Dr. King’s activism in the struggle for racial equality. He was also a peace activist. He strongly opposed the war in Vietnam—one of his speeches “Beyond Vietnam” is, to me, the most inspiring.

He befriended a young Zen monk who had been exiled from Vietnam and was involved in peace activism. His name was Thich Nhat Hanh. It isn’t really known exactly how much these two learned from each other, but we know that they spent some time together and they gave each other advice.

Dr. King wrote a letter to the Nobel Committee urging them to award the Nobel Peace Prize to Thich Nhat Hanh for his efforts at peace activism.

Here it is:

  1. “Gentlemen:
  2. As the Nobel Peace Prize Laureate of 1964, I now have the pleasure of proposing to you the name of Thich Nhat Hanh for that award in 1967. I do not personally know of anyone more worthy of the Nobel Peace Prize than this gentle Buddhist monk from Vietnam.
  3. “I hated Journaling until I tried this.” Take the 90-Day Journey, you will not be disappointed. (Get 20% off with code EJ20) >>
  4. This would be a notably auspicious year for you to bestow your Prize on the Venerable Nhat Hanh. Here is an apostle of peace and non-violence, cruelly separated from his own people while they are oppressed by a vicious war which has grown to threaten the sanity and security of the entire world.
  5. Because no honor is more respected than the Nobel Peace Prize, conferring the Prize on Nhat Hanh would itself be a most generous act of peace. It would remind all nations that men of good will stand ready to lead warring elements out of an abyss of hatred and destruction. It would re-awaken men to the teaching of beauty and love found in peace. It would help to revive hopes for a new order of justice and harmony.
  6. I know Thich Nhat Hanh, and am privileged to call him my friend. Let me share with you some things I know about him.
  7. You will find in this single human being an awesome range of abilities and interests.
  8. He is a holy man, for he is humble and devout. He is a scholar of immense intellectual capacity. The author of ten published volumes, he is also a poet of superb clarity and human compassion. His academic discipline is the Philosophy of Religion, of which he is Professor at Van Hanh, the Buddhist University he helped found in Saigon. He directs the Institute for Social Studies at this University. This amazing man also is editor of Thien My, an influential Buddhist weekly publication. And he is Director of Youth for Social Service, a Vietnamese institution which trains young people for the peaceable rehabilitation of their country.
  9. Thich Nhat Hanh today is virtually homeless and stateless. If he were to return to Vietnam, which he passionately wishes to do, his life would be in great peril. He is the victim of a particularly brutal exile because he proposes to carry his advocacy of peace to his own people. What a tragic commentary this is on the existing situation in Vietnam and those who perpetuate it.
  10. The history of Vietnam is filled with chapters of exploitation by outside powers and corrupted men of wealth, until even now the Vietnamese are harshly ruled, ill-fed, poorly housed, and burdened by all the hardships and terrors of modern warfare.
  11. Thich Nhat Hanh offers a way out of this nightmare, a solution acceptable to rational leaders. He has traveled the world, counseling statesmen, religious leaders, scholars and writers, and enlisting their support. His ideas for peace, if applied, would build a monument to ecumenism, to world brotherhood, to humanity.
  12. I respectfully recommend to you that you invest his cause with the acknowledged grandeur of the Nobel Peace Prize of 1967. Thich Nhat Hanh would bear this honor with grace and humility.
  13. Sincerely,
  14. Martin Luther King, Jr.

Thich Nhat Hanh didn’t win the Nobel Prize that year—but, he’s been a tireless activist for spreading peace and love ever since.

He’s still doing it today.

There is no doubt in my mind that Thich Nhat Hanh and Dr. King were Bodhisattvas.

We can learn a lot from their examples.

Sunday, January 15, 2023

Kinrei Bassis | Tâm Quảng Nhuận dịch Việt: Không cần thiết, nhưng hữu ích

 

(trích Tạp chí của Tu viện Shasta, tháng 7-tháng 9 năm 1984)

Đại sư Tendo Nyojo nói, “Học thiền là buông bỏ thân và tâm. Không nhất thiết phải thắp hương, lạy Phật, niệm Phật, sám hối, tụng kinh. Nếu bạn tập trung vào thiền định, mục đích chính của bạn sẽ đạt được”.[1] Hiểu được điều “không cần thiết” trong đoạn trích dẫn này là điều cần thiết nếu một người muốn hiểu được mối quan hệ giữa tất cả các hình thức tôn giáo được sử dụng trong thực hành Phật giáo và chân tâm của Đạo Phật.

Nhiều người trong chúng ta ở phương Tây được nuôi dưỡng trong các tôn giáo dường như thay thế các giáo lý và nghi lễ cứng nhắc để thực hành và trải nghiệm tâm linh thực sự. Do đó, thái độ “không cần thiết” trong Phật giáo, mang giọng điệu bài trừ hình tướng, hấp dẫn người phương Tây, hứa hẹn một trải nghiệm trực tiếp về Chân lý, thay vì tuân thủ nghiêm ngặt các hình thức rỗng tuếch. Tuy nhiên, nhiều người quan tâm đến thánh điển Phật giáo thường thất vọng khi họ đối mặt với thực tế thực hành của tôn giáo.

Khi tôi bắt đầu nghiên cứu về Phật giáo, tôi đã tìm thấy một phương pháp thực hành mà Tendo Nyojo nói là “không cần thiết”. Cuộc sống trong tu viện bao gồm những buổi tụng kinh dài lê thê, nhiều nghi lễ, vô số lạy, và một lịch trình dày đặc. Lúc đầu, tôi bối rối vì tôi đã nghe theo lời khuyên của những bậc thầy như Tendo Nyojo theo đúng nghĩa đen. Tôi không hiểu tại sao lại có những hoạt động khác thay vì chỉ đơn giản là “tập trung vào thiền định”. Tôi tự hỏi tại sao chúng tôi lại dành quá nhiều thời gian cho công việc, nghi lễ tôn giáo, đọc sách, v.v., thay vì chỉ ngồi thiền theo nghi thức. Tôi thậm chí đã gặp những người đánh đồng việc đào tạo chuyên sâu với thời gian dành cho thiền định chính thức. Tuy nhiên, có điều gì đó không ổn, bởi vì nếu bạn nhìn vào cuộc sống thực tế của những bậc thầy như Tendo Nyojo, bạn sẽ thấy rằng họ luôn thực hành, giảng dạy và trao truyền các hình thức lễ lạy, dâng hương, sám hối và trì tụng kinh điển hàng ngày. Vậy tại sao Tendo Nyojo lại dạy rằng chỉ cần bạn tập trung vào thiền định là đủ?

Một trong những vấn đề mà nhiều người gặp phải với Phật giáo là hiểu cách thức linh hoạt trong đó nhiều thuật ngữ chính được sử dụng. Những từ như Pháp, Phật và thiền định có thể có ý nghĩa khác nhau trong các ngữ cảnh khác nhau. Thiền định có thể đề cập đến thực hành chính thức của thiền ngồi, và nó có thể đề cập đến thiền định theo nghĩa rộng hơn nhiều. Trừ khi người ta có thể thấy Phật tánh xuyên suốt mọi hoạt động trần tục của cuộc sống hàng ngày, người ta vẫn còn bị ràng buộc; có sự thực hành thiền định c và sau đó là cuộc sống của ai đó, hai điều riêng biệt. Tuy nhiên, thiền định thực sự của Tendo Nyojo không chỉ là một kỹ thuật biệt lập khác, mà là sự chuyển đổi trọng tâm cuộc sống. “Tập trung thiền định” là không để những vấn đề thế gian hay những vấn đề cá nhân lấn át mục đích tâm linh chân chính của đời sống, nỗ lực tìm kiếm và hợp nhất với Phật Tâm, Bồ đề tâm. Thiền định trong cuộc sống hàng ngày là nỗ lực duy trì sự tĩnh lặng và nhận thức bên trong để một người luôn nuôi dưỡng khả năng tìm thấy mục đích và ý nghĩa tâm linh sâu sắc hơn trong bất cứ điều gì chúng ta đang làm. Đó là cảm nhận những gì thực sự cần thiết và làm điều đó để chúng ta không cản trở Phật Tánh của mình. Thiền định đích thực không chỉ giới hạn ở việc quay mặt vào tường; tuy nhiên, điều này không có nghĩa là thiền định là không quan trọng, vì ở đó người ta ấn định thời gian và địa điểm với mục đích duy nhất là đào sâu việc thực hành Đạo của mình. Thông qua thực hành thiền định, chúng ta có thể học được thái độ của tâm trí mà chúng ta nên trau dồi vào mọi lúc để nó thấm nhuần toàn bộ cuộc sống của chúng ta. Trong “Quy tắc hành thiền”, Đại sư Dogen hướng dẫn rất chi tiết về cách thực hành thiền định vì đó là thực hành chính yếu trong Thiền tông. Tuy nhiên, Đạo Nguyên nói trong những hướng dẫn này, “mọi hoạt động đều thấm nhuần thiền định thuần túy – phương tiện rèn luyện có hàng nghìn lần nhưng thiền định thuần túy phải được thực hiện”. Những hoạt động bất tận của cuộc sống hàng ngày là phương tiện rèn luyện và là nơi thực hiện thiền định thanh tịnh. Vì tâm Phật có thể tìm thấy ở mọi nơi, mọi lúc, và trong mọi tình huống, không có chỗ nào ngoài tâm thiền.

Những mô tả về thiền định thâm sâu mà các Bậc thầy vĩ đại đưa ra cho chúng ta nghe có vẻ tuyệt vời và hấp dẫn, nhưng câu hỏi thực sự đối với hầu hết chúng ta là làm thế nào để chúng ta tự mình trải nghiệm “thiền định thuần túy” này? Mục đích của Phật giáo là giúp chúng ta biến thiền định thuần túy thành một trải nghiệm sống động. Tất cả vô số giáo lý và thực hành của Phật giáo có thể được coi là công cụ hướng chúng ta ra khỏi mê lầm. Mặc dù con đường tìm đến trái tim của Đức Phật không bị ràng buộc vào bất kỳ thực hành hay giáo lý nào, điều đó không có nghĩa là chúng ta nên coi thường giá trị to lớn của việc tuân theo một giáo lý và thực hành tâm linh? Nếu tất cả chúng ta đều có thể “chuyên tâm tu thiền” không chùn bước thì đạo Phật là không cần thiết, nhưng nếu chúng ta thấy cần phải tìm đến đạo Phật, nghĩa là chúng ta thấy mình cần có sự giúp đỡ và hướng dẫn.

Nhiều lễ lạy mà mọi người thực hiện trong một tu viện Phật giáo là một ví dụ về cách các hình thức huấn luyện giúp hướng chúng ta đến tâm thiền định. Một thiền sư vĩ đại đã nói: “Chừng nào lễ lạy còn kéo dài. Đạo Phật sẽ trường tồn…Khi việc lễ lạy chấm dứt. Phật giáo sẽ bị tiêu diệt”. Cúi đầu thực sự là sự mở ra và dâng hiến cái tôi cho cái Vô biên. Cơ thể và tâm trí là một, và rèn luyện cơ thể để thể hiện sự tôn trọng, tôn kính và biết ơn cũng giúp hướng trái tim và khối óc nhận ra những phẩm chất đó. Một khi chúng ta nhận ra giá trị thực sự của việc lễ lạy trong tâm mình, sự phản kháng đối với việc lễ lạy của cơ thể sẽ biến mất. Quỳ xuống và cúi đầu hoàn toàn sẽ giúp phá vỡ các rào cản tinh thần, mang lại niềm vui và sự xác nhận bên trong rằng chúng ta đang thực sự đi trên Con đường.

Cúi đầu (xá, lạy) là một nét đặc trưng chưa từng có trong nghi lễ Đại thừa bởi vì nó cũng tượng trưng cho sự sẵn sàng cống hiến bản thân để phục vụ tất cả chúng sinh. Vì lòng kính trọng và biết ơn Trái tim Phật, chúng ta tìm thấy thiện chí sâu xa để chia sẻ công đức tu tập của chúng ta với người khác. Đây là trọng tâm của tất cả các nghi lễ Phật giáo Đại thừa, hướng chúng ta đến sự thật rằng tất cả chúng ta đều gắn bó với nhau về mặt tinh thần và rằng khi giúp đỡ người khác, mọi người đều được lợi ích, kể cả chính chúng ta.

Kinh điển Phật giáo và các giáo lý bằng văn bản thường bị lạm dụng bởi những người chỉ cố gắng đạt được sự hiểu biết tri thức về giáo lý nhà Phật thay vì chuyển hóa bản thân bằng cách sống cuộc sống của họ phù hợp với Pháp. Tuy nhiên, việc nghiên cứu kinh điển Phật giáo là vô cùng giá trị, vì chúng được viết bởi các Đạo sư vĩ đại, những người đã đạt đến đỉnh cao của đời sống tâm linh. Kinh điển Phật giáo có thể được coi là bản đồ con đường tìm đến Phật quả. Bản đồ không thể leo lên ngọn núi, nhưng nó có thể đưa ra phương hướng để đi theo. Bản đồ không phải là thứ cần thiết khi leo núi; tuy nhiên, đã là con người, chúng ta dễ lạc lối, nản lòng khi gặp phải những trở ngại không lường trước. Tại sao lại khiến một nhiệm vụ khó thậm chí còn khó hơn bằng cách leo lên một vùng đất xa lạ mà không sử dụng bản đồ tốt nhất mà chúng ta có thể tìm thấy?

Một yếu tố đào tạo bị hiểu lầm và thường được coi là không cần thiết khác là hành vi kỷ luật và trật tự trong các ngôi chùa Phật giáo. Tuy nhiên, như lời trích dẫn sau đây của Đạo Nguyên minh họa, ông nhận thấy thực hành này là trọng tâm của sự rèn luyện Phật giáo: Khi, bằng cách sắp xếp đúng thứ tự cuộc sống hàng ngày của chúng ta, chúng ta thể hiện trái tim của Phật giáo, chúng ta thoát khỏi thân và tâm mê lầm. Như vậy, cuộc sống có kỷ luật của người thực tập là hiện thân của cả giác ngộ và thực hành, thuần khiết và không tì vết từ trước khi thời gian bắt đầu.”[2]

Tuy nhiên, nhiều người mới khi tu tập trong tu viện hay chùa chiền có thể thấy thời khóa biểu, sự im lặng và các luật lệ thật đáng sợ và khó hiểu. Một trong những lý do khiến họ bị Phật giáo thu hút là lời hứa về sự tự do hoàn toàn như được mô tả trong các tác phẩm của nhiều Chân sư. Chẳng hạn, Đại sư Keizan đã viết, “Vứt bỏ trời, đất, thánh, quan niệm, chủ thể và đối tượng; bất cứ nơi nào bạn đi, bạn không nên bị quấy rầy bởi bất cứ điều gì, hoàn toàn tự do”.[3] Có vẻ như là một mâu thuẫn khi cho rằng cần phải rèn luyện bản thân để được tự do.

Tự do thường được cho là khả năng có một số lựa chọn hoặc kiểm soát hoàn cảnh bên ngoài của chúng ta. Tuy nhiên, quyền tự do này có một phạm vi rất hạn chế bởi vì, như Phật giáo dạy, “vũ trụ không thể đáp ứng được ý chí cá nhân của chúng ta”.[4] Chúng ta có thể làm việc vì hòa bình, và chiến tranh vẫn xảy ra; hoặc dành nhiều năm xây dựng một doanh nghiệp thành công, và suy thoái kinh tế buộc chúng ta phải phá sản; hoặc tập thể dục và ăn uống lành mạnh mà vẫn bị ung thư. Tất cả chúng ta đều thừa hưởng một dòng nghiệp lực và mặc dù chúng ta có thể tịnh hóa và thay đổi hướng của nó, nhưng chúng ta không thoát khỏi những nghiệp quả của những hành động trong quá khứ của mình. Những hành động tốt trong quá khứ của chúng ta sẽ mang lại hạnh phúc và những hành động sai trái sẽ mang lại đau khổ. Tu tập Phật giáo không dẫn đến hạnh phúc và phúc lạc ngay lập tức; đúng hơn, nó làm trong sạch trái tim của chúng ta, thanh lọc lòng ham muốn của chúng ta đối với Đạo, và cuối cùng mở rộng trái tim của chúng ta với cuộc sống vô biên của Đức Phật. Cuộc sống chứa đầy những nhị nguyên trần tục: niềm vui và đau khổ, sức khỏe và bệnh tật, sự sống và cái chết. Mặt khác, tự do thực sự không phải là bị ép buộc quan tâm đến những vấn đề thế gian này bởi vì chúng ta biết rằng chúng ta ở với Phật Tánh Bất sinh của mình cho dù chúng ta thấy mình ở đâu.

Đời sống kỷ luật của sự tu tập Phật giáo không nuông chiều tất cả những sở thích cá nhân của chúng ta và do đó hướng chúng ta đến tự do thực sự bằng cách buộc chúng ta hướng nội. Điều thực sự quan trọng, và điều mà quá trình rèn luyện đang cố gắng đánh thức, chính là thứ mà tất cả chúng ta đều chia sẻ, Trái tim Phật. Cuộc sống cá nhân của mỗi chúng ta không có ý nghĩa sâu sắc, ngoại trừ đối với chính chúng ta. Khi chúng ta ngừng coi sinh vật tầm thường nhỏ bé này là trung tâm của vũ trụ, như khi chúng ta quan tâm quá mức đến những điều mình thích và không thích, mong muốn và sợ hãi, thì lúc đó chúng ta có thể nhận ra bản chất thực sự của mình là một phần của thân vô lượng của Đức Phật. Nghe điều này, đôi khi người ta sợ hãi, sợ rằng môn tu luyện sẽ tước đi cá tính của họ. Mối quan tâm này là không chính đáng bởi vì sự tu tập Phật giáo không loại bỏ sự khác biệt giữa con người với nhau. Mỗi người chúng ta là người thừa kế của một dòng nghiệp độc nhất và khi chúng ta rèn luyện và chuyển hóa nghiệp của mình, ánh sáng của Đức Phật sẽ trở nên rõ ràng trong cơ thể và tâm trí cá nhân này. Sau đó, sự khác biệt của chúng ta không còn chia rẽ chúng ta nữa, bởi vì mỗi người có thể được xem như một viên ngọc độc nhất vô nhị của Pháp. Một bài học quan trọng mà đạo Phật dạy là không nên phán xét bản thân hay người khác vì sự phán xét đó sẽ làm sai lệch tầm nhìn của chúng ta và ngăn cản việc trải nghiệm ánh sáng của Đức Phật thấm nhuần vạn vật.

Cũng rất hữu ích khi thấy rằng trật tự đúng đắn của cuộc sống hàng ngày là sự phản ánh của Tâm Phật, Pháp thân, và bằng cách cố gắng đối xử với tất cả những hành động thông thường của cuộc sống hàng ngày với thái độ tôn kính và biết ơn, chúng ta đang giúp nhắc nhở chính mình rằng có một mục đích và ý nghĩa thuộc linh trong mọi việc chúng ta làm.

Lời dạy “không cần thiết” thể hiện phẩm chất giải thoát thực sự của giáo lý nhà Phật. Không có một hình thức thực hành nào là hoàn toàn thiết yếu để chúng ta tìm thấy sự giải thoát. Thiền định thuần túy là điều cần thiết duy nhất và theo nghĩa sâu hơn, không có hình thức. Đó là giải thoát bởi vì nó nói rằng các hình thức giảng dạy và thực hành Phật giáo chỉ đưa chúng ta đến Chân lý. Những sự thật tâm linh sâu sắc nhất vượt qua Phật giáo. Tuy nhiên, không nên bỏ qua tất cả các giáo lý và thực hành của Phật giáo vì chúng đều là những phương tiện thiện xảo sâu sắc để đưa con người ra khỏi mê lầm. Nếu trong cuộc sống của chúng ta, chúng ta không nhìn thấy hình tướng vô tướng của Đức Phật, thì tại sao lại từ chối bất cứ thứ gì có thể giúp chúng ta loại bỏ sự biến dạng khỏi tầm nhìn của chúng ta? Tâm thiền dạy chúng ta không lãng phí bất cứ thứ gì, đặc biệt những thứ có thể chứng minh là chìa khóa để chúng ta tìm thấy sự giải thoát không thể lay chuyển và niềm vui sâu sắc nhất.

_______________________________

[1] Xem Đại sư Đạo Nguyên, Shobogenzo: Con mắt và Kho tàng của Pháp chân chính, bốn tập (Tokyo: Nakayama Shobo, 1983) tập 3, tr. 40.
[2] “Bendoho” (Cách rèn luyện trong Phật giáo”), trong Zen Is Eternal Life, dịch. của Rev. Roshi Jiyu-Kennett (Emeryville, CA: Dharma Publishing, 1976), tr. 113.
[3] Denkoroku, sđd, tr. 221.
[4] Xem Từ điển của Jiyu-Kennett, Zen is Eternal Life, s.v. “Năm định luật của vũ trụ”.

Ảnh (Feature image): Hồng Sơn

Not Necessary, but Useful

 (Reprinted from The Journal of Shasta Abbey, July-September,1984. Parts of the article have been rewritten.)

Great Master Tendo Nyojo said, “Learning meditation is to cast off body and mind. It is not necessary to burn incense, prostrate oneself recite the name of the Buddha, perform repentance, or chant sutras. If you concentrate on meditation, your main purpose will be attained”.1 To understand the “not necessary” in this quotation is essential if one is to comprehend the relationship between all the religious forms that are used in Buddhist practice and the true heart of Buddhism.

Many of us in the West were brought up in religions that seemed to substitute rigid doctrines and rituals for true spiritual practice and experience. The attitude of “not necessary” within Buddhism, having an iconoclastic tone, is therefore appealing to Westerners, promising a direct experience of the Truth, rather than strict adherence to hollow forms. Yet many people who have been interested in the literature of Buddhism are often disenchanted when they confront the actual practice of the religion.

When I came to study Buddhism, I found a practice filled with what Tendo Nyojo said to be “not necessary”. The life in the monastery involved long dally scripture recitations, many ceremonies, innumerable bows, and a heavily-structured schedule. At first I was confused because I took the advice of such masters as Tendo Nyojo literally. I did not understand why there were these other activities instead of simply “concentrating on meditation”. I wondered why we spent so much time on work, religious services, reading, and the like, instead of just doing formal sitting meditation. I have even met people who have equated depth of training with the time spent in formal meditation. Yet something is amiss, because if you look at the actual life of such masters as Tendo Nyojo, you see that they always practiced, taught, and transmitted the forms of bowing, incense offering, repentance, and daily recitations of the scriptures. So why did Tendo Nyojo teach that it is enough if you concentrate on meditation?

One of the problems that many people have with Buddhism is understanding the fluid manner in which many of the key terms are used. Words such as Dharma, Buddha, and meditation can have different meanings in different contexts. Meditation can refer to the formal practice of seated meditation, and it can refer to meditation in a much broader sense. Unless one can see the Buddha nature throughout all the mundane activities of daily life, one is still bound; there is one’s meditation practice and then there is one’s life, two separate things. The true meditation of Tendo Nyojo, however, is not just another isolated technique, but the transformation of the focus of one’s life. “To concentrate on meditation” is not to allow worldly matters or personal problems to take precedence over the true spiritual purpose of life, the effort to be find and be one with the Buddha Heart, the Bodhicitta. Meditation in daily life is the effort to maintain an inward stillness and awareness so that one is always nurturing the ability to find a deeper spiritual purpose and meaning in whatever we are doing. It is sensing what is truly needed and doing that so we do not get in the way of our Buddha Nature. True meditation is not limited to facing the wall; yet this is not to say that formal meditation is not important, for it is there that one sets a time and place where the only purpose is to deepen one’s practice of the Way. It is through the formal practice of meditation that we can learn the attitude of mind that we should cultivate at all other times so that it permeates our whole life. In “Rules for Meditation”, Great Master Dogen gives very detailed instructions on how to do formal meditation because it is the key practice in Zen Buddhism. Yet Dogen says within these instructions, “all activity is permeated with pure meditation – the means of training are thousandfold but pure meditation must be done”. The endless activities of daily life are a means of training and the place where pure meditation is done. Since the heart of Buddha can be found in all places, and at all times, and in all situations, there is no place outside of the mind of meditation.

Descriptions of deep meditation given to us by the great Masters may sound wonderful and enticing, but the real question for most of us is how do we experience this “pure meditation” for ourselves? The purpose of Buddhism is to help us make pure meditation a living experience. All the myriad teachings and practices of Buddhism can be seen as tools that direct us out of delusion. Although the path to the finding the heart of Buddha is not bound to any single practice or teaching, that does not mean we should disregard the immense value of following a spiritual teaching and practice? If we were all able to “concentrate on meditation” without faltering, then Buddhism would be unnecessary, but if we feel the need to seek out Buddhism, it means we seeing the need for us to have help and direction.

The many bows that everyone does in a Buddhist monastery are an example of how the forms of training help orient the us toward the mind of meditation. One great Zen Master said, “As long as bowing lasts. Buddhism will last…When bowing ceases. Buddhism will be destroyed”. The true bowing is the opening up and offering of the self to that which is Boundless. Body and mind are one, and disciplining the body to show respect, reverence, and gratitude helps direct the heart and mind to realize those qualities as well. Once we realize the true value of bowing in our hearts, the resistance to the bowing of the body disappears. To get down on our hands and knees and fully bow will help break down the mental barriers, bringing joy and the inner confirmation that we are truly on the Way.

Bowing is an ever present feature of Mahayana ceremonial because it also symbolizes the willingness to offer ourselves in service to all living things. Out of respect and gratitude to the Buddha Heart, we find the deep willingness to share the merit of our training with others. This is central to all Mahayana Buddhist ceremonial, directing us to the truth that we are all bound together spiritually and that in helping others, everyone benefits, including ourselves.

Buddhist scriptures and written teachings are often misused by people who just trying to gain an intellectual understanding of the Buddhist teaching instead using transforming themselves by living their life in accordance with the Dharma. Yet it is of immense value to study the Buddhist scripture, as they were written by great Masters who had reached the summit of spiritual life. The Buddhist scriptures can be seen as maps of the way to find Buddhahood. A map cannot climb the mountain, but it can give the direction to follow. A map is not a necessity in ascending the mountain; however, being human, we can easily become lost or disheartened when we encounter unanticipated obstacles. Why make a difficult task even harder by climbing into unfamiliar ground without using the best map we can find?

Another misunderstood, and often considered unnecessary element of training is the disciplined and ordered behavior within Buddhist temples. Yet as the following quotation of Dogen illustrates, he found this practice to be at the heart of Buddhist training: When, by the correct ordering of our daily life, we exhibit the heart of Buddhism, we are free from delusive body and mind. As this is so, the disciplined life of the trainee is the embodiment of both enlightenment and practice, pure and immaculate since before time began.”2

However, many newcomers when practicing in a monastery or temple, may find the schedule, the silence, and the rules intimidating and confusing. One of the reasons they were attracted to Buddhism was the promise of complete freedom as described in the writings of many of the Masters. For instance, Great Master Keizan wrote, “Throw away heaven, earth, the holy, the mean, subject and object; wherever you go you should be disturbed by nothing, completely free”.3 It seems to be a contradiction that it is necessary to discipline oneself in order to be free.

Freedom is usually thought to be the ability to have some choice in, or control over, our external circumstances. However, this freedom has a very limited sphere because, as Buddhism teaches, “the universe is not answerable to our personal will”.4 We may work for peace, and war still arises; or spend years building a successful business, and an economic depression forces us into bankruptcy; or exercise and eat health foods, and still be stricken with cancer. We all inherit a stream of karma and, although we can purify it and alter its direction, we are not free of the karmic consequences of our past actions. The good actions in our past will bring happiness and the wrong actions will bring suffering. Buddhist training does not lead to instant happiness and bliss; rather it cleanses our hearts, purifies our desire for the Way, and ultimately opens our hearts to the boundless life of Buddha. Life is filled with worldly dualities: joy and suffering, health and illness, life and death. True freedom, on the other hand, is not to be compulsively concerned with these worldly matters because we know that we are with our Unborn Buddha Nature no matter where we find ourselves.

The disciplined life of Buddhist training does not indulge all our personal preferences and thereby points us to true freedom by forcing us to look within. What truly matters, and what training is trying to awaken, is that which we all share, the Buddha Heart. Each of our individual lives does not have deep significance, except to ourselves. When we stop making this little insignificant being the center of the universe, as we do when we are overly concerned about our likes and dislikes, wants and fears, we can then realize our true nature as part of the boundless body of the Buddha. Hearing this, people are sometimes frightened, fearing that the practice will strip them of their individuality. This concern is unwarranted because Buddhist training does not eliminate the differences between people. Each of us is an heir to a unique stream of karma and, when we train and convert our karma, the light of the Buddha becomes apparent within this individual body and mind. Then our differences no longer divide us, because each person can be seen as a unique and singular jewel of the Dharma. An important lesson Buddhism teaches is not to judge ourselves or others because that judgment will distort our vision and prevent the experiencing the light of Buddha permeating all things.

It is also helpful to see that the correct ordering of daily life is a reflection of the Buddha Mind, the Dharmakaya, and by trying to treat all the commonplace actions of dally life with an attitude of reverence and gratitude, we are helping to remind ourselves that there is a spiritual purpose and meaning in everything we do.

The teaching of “not necessary” exhibits the true liberating quality of Buddhist teaching. There is no single form of practice that is absolutely essential in order for us to find liberation. Pure meditation is the only necessity and that, in the deeper sense, has no form. It is liberating because it is saying that the forms of Buddhist teaching and practice only point us to the Truth. The deepest spiritual truths transcends Buddhism. Yet all the teachings and practices of Buddhism should not be ignored for they are all deeply skillful means of leading humans out of delusion. If we, in our lives, are not seeing the formless form of the Buddha, then why discard anything that may help us in clearing the distortion from our vision? The mind of meditation teaches us to waste nothing, particularly that which may prove to be our key to finding unshakable liberation and the deepest joy.

_______________________________

1 See Great Master Dogen, Shobogenzo: The Eye and Treasury of the True Law, four volumes (Tokyo: Nakayama Shobo, 1983) volume 3, p. 40.
2 “Bendoho” (How to Train in Buddhism”), in Zen Is Eternal Life, trans. by Rev. Roshi Jiyu-Kennett (Emeryville, CA: Dharma Publishing, 1976), p. 113.
3 Denkoroku, ibid., p. 221.
4 See the Glossary of Jiyu-Kennett, Zen is Eternal Life, s.v. “Five Laws of the Universe”.

Tuesday, January 3, 2023

CÁO PHÓ và Chương Trình Tang Lễ của HTr. Quảng Quý / OBITUARY of Mr. LAN KIM HUYNH

 


 CÁO PHÓ / OBITUARY

Thuận thế Vô thường, đã mãn phần vào lúc 2:55PM ngày 31 tháng 12, 2022

(Nhằm ngày 9 tháng 12, năm Nhâm Dần) 

tại Thủ phủ Sacramento, CA, Hoa Kỳ.

Hưởng Thọ 75 tuổi

Mr. Huynh passed away at River Bend Nursing Center at 2:55PM

on Saturday December 31, 2022 in the city of Sacramento, CA.  

He was 75 years old.

 

Linh cữu hiện quàn tại Sacramento Memorial Lawn at 6100 Stockton Blvd, Sacramento, CA 95824. Tel. (916) 421-1171. 

Tang lễ được tổ chức vào các ngày: Thứ Sáu, ngày 13 tháng 1, 2023 từ 3 giờ chiều

đến 10 tối và Thứ Bảy, ngày 14 tháng 1, 2023 từ 9 giờ sáng đến 1 giờ chiều.

Memorial Services will be held at Sacramento Memorial Lawn on Friday Jan. 13, 2023 from 3:00PM-10:00PM

and Saturday, Jan. 14 from 9:00AM -1:00PM.

6100 Stockton Blvd, Sacramento CA 95824. Tel. (916) 421-1171

 

Đại diện Ban Tổ Chức Tang Lễ khấp báo

On Behalf of the Memorial Services Organizing Committee

HTr. Đồng Duy - Lê Ngọc Luôn

Châu Đức Nhã (Đại diện Gia quyến - Cháu ruột gọi bằng Cậu)

 

Mọi chi tiết về Tang lễ, xin liên lạc / Contact Information:  

1. HTr. Đồng Duy - Lê Ngọc Luôn, Trưởng Ban Tổ Chức, tại số Điện thoại. 209.623.8344; Email: dong_duy@yahoo.com 

2. HTr. Tâm Thường Định - Bạch Xuân Khỏe, Thư ký BTC, tại số Điện thoại. 916.607.4066 hoặc Email: tamthuongdinh@gmail.com

 

CÁO PHÓ NÀY THAY THẾ THIỆP TANG 

Special OBITUARY Note

 

Mọi phúng điếu, nếu có, sẽ được cúng dường đến Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni

Chứng minh và tham dự Tang lễ của HTr. Quảng Quý hoặc cúng dường vào các Chùa, Tự viện và các công tác từ thiện. 

 

In lieu of flowers, any monetary gifts will be donated to the Venerable Sanghas

who attended, blessed and cared for the memorial services of Mr. Lan Kim Huynh,

and various Temples in Northern California.


 ------------------------------


Chương Trình Tang Lễ

Memorial Service Schedule

Hương Linh Cố Phật Tử thọ Bồ Tát Giới

 Phật tử Huỳnh Kim Lân / LAN KIM HUYNH 

(25.12.1948 – 31.12.2022)

Pháp danh / Dharma Name: Quảng Quý

Sinh ngày 25 tháng 12 năm 1948 tại Khánh Hòa, Việt Nam

Born on December 25, 1948 in province of Khánh Hòa, Vietnam. 

 

Thuận thế Vô thường, đã mãn phần vào lúc 2:55 PM ngày 31 tháng 12, 2022

(Nhằm ngày 9 tháng 12, năm Nhâm Dần) tại Thủ phủ Sacramento, CA, Hoa Kỳ.

Hưởng Thọ 75 tuổi

 

Thứ Sáu, ngày 13 tháng 1 năm 2023 

(Nhằm ngày 22 tháng 12 năm Nhâm Dần) 

Friday, January 13, 2022

03:30PM – Lễ Trị Quan - Nhập Liệm / Blessing Casket Ceremony 

  • Lễ Bạch Phật Khai Kinh / Opening Prayer Ceremony

  • Lễ Tấn Phong Huynh trưởng Cấp Dũng (Có chương trình riêng)

  • Lễ Phục Hồn và Cúng Cơm / Blessing and Offering to the Death

5:00PM – Lễ Cầu Siêu / Prayer Session

6:00PM – Thăm viếng / Visitation

7:30PM - 10:00 PM – Đêm tâm tình cùng với HTr. Quảng Quý -  Huỳnh Kim Lân 

  / Gathering, Sharing and Celebrating the life of Mr. Huynh Kim Lan.

 

Thứ Bảy, ngày 14 tháng 1 năm 2023 

(Nhằm ngày 23 tháng 12 năm Nhâm Dần) 

Saturday, January 14, 2022

09:00AM   – Cúng Trà / Tea Offering / Visitation

10:00AM   – Lễ Tưởng Niệm / Remembrance Ceremony

(Có chương trình riêng / Special program)

11:45AM    – Lễ Khiển Điện - Di Quan / Blessing Casket Ceremony

12:45PM     – Lễ Hỏa Táng / Cremation Ceremony 

01:30PM     – Lễ An Vị Hương Linh tại Chùa Kim Quang 

/ Altar Welcoming Ceremony at Kim Quang Temple

02:00PM      – Hoàn mãn / Conclusion.