Sunday, November 26, 2023

Thông tin về Tang Lễ Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ


Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Ban Báo Chí và Xuất Bản HĐHP xin kính gửi đến chư vị 
Thông Báo Lễ Tưởng Niệm Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ 
và một số thông tin liên quan đến Tang Lễ của Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.

1. Cáo Bạch: Đức Trưởng lão HT Thích Tuệ Sỹ thị tịch
https://hoangphap.org/cao-bach-duc-truong-lao-ht-thich-tue-sy-thi-tich/

2. HT Thích Tuệ Sỹ: Di chúc tang lễ
https://hoangphap.org/ht-thich-tue-sy-di-chuc-tang-le/

3. Tiểu sử Hòa Thượng THÍCH TUỆ SỸ
https://hoangphap.org/tieu-su-hoa-thuong-thich-tue-sy/

4. Chương trình Tang lễ Đức Trưởng lão HT Thích Tuệ Sỹ
https://hoangphap.org/chuong-trinh-tang-le-duc-truong-lao-ht-thich-tue-sy/

5. Thư cung thỉnh Lễ tưởng niệm Trưởng lão HT Thích Tuệ Sỹ
https://hoangphap.org/thu-cung-thinh-le-tuong-niem-truong-lao-ht-thich-tue-sy/

6. Thông bạch truy tán Công hạnh và Tưởng niệm Trưởng lão HT Thích Tuệ Sỹ
https://hoangphap.org/thong-bach-truy-tan-cong-hanh-va-tuong-niem-truong-lao-ht-thich-tue-sy/

7. Thông Báo Lễ Tưởng Niệm Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ
https://hoangphap.org/thong-bao-le-tuong-niem-truong-lao-hoa-thuong-thich-tue-sy/

8. Hoà Thượng Tuệ Sỹ và GHPGVNTN trong dòng sống của dân tộc và hướng đi của thời đại
https://www.voatiengviet.com/a/hoa-thuong-tue-sy-va-ghpgvntn-trong-dong-song-cua-dan-toc-va-huong-di-cua-thoi-dai/7368829.html

Văn Phòng Thư Ký Ban Báo Chí và Xuất Bản

Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia

Website: www.hoangphap.org

Email: hdhp.bbc@gmail.com; Điện thoại: +61 481 169 631
Nguồn: HĐHP

5 Bài thơ song ngữ của Thầy Tuệ Sỹ - Translated by Phe Bach

 

Ảnh: Tâm Nhiên

MỘT THOÁNG CHIÊM BAO


Người mắt biếc ngây thơ ngày hội lớn
Khóe môi cười nắng quái cũng gầy hao
Như cò trắng giữa đồng xanh bất tận
Ta yêu người vì khoảnh khắc chiêm bao.
(Rừng Vạn Giã 1976)


FLEETING GLIMPSE OF A DREAM

Your deep, innocent eyes on that day of gala
And your graceful, smiling lips dim the dazzling rays of the sun
Incarnating the virginal heron in the midst of the endless verdant prairie
In the fleeting glimpse of a dream, I’m in love with thee.
(Vạn Giã Forest, 1976)


QUÁN TRỌ CỦA NGÀN SAO

Mắt em quán trọ của ngàn sao
Ngọt ngất hoang sơ ánh rượu đào
Pha loãng nắng tà dâng cát bụi
Ấm lòng khách lữ bước lao đao.

Mắt huyền thăm thẳm mượt đêm nhung
Mưa hạt long lanh rọi nến hồng
Sương lạnh đưa người xanh khói biển
Bình minh quán trọ nắng rưng rưng.
Trại giam Phan Đăng Lưu,
Sài gòn 79


HOLDER OF THOUSANDS OF STARS

Your deep, innocent eyes are the holder of thousands of stars
So sweet it dissolves in the wild peach wine
Diluting in the sun’s ray, blending in the dust
It is heartwarming for travelers with tottering steps.

Those legendary eyes are deep in the dark, silky night
The glittering raindrops shine like golden candles
Cold mist escorted frontier, saddened ocean mist
In the dawn of this realm of life, the sun shed its tears.

Phan Dang Luu Prison,
Saigon 79


BÌNH MINH

Tiếng trẻ khóc ngân vang lời vĩnh cửu
Từ nguyên sơ sông máu thắm đồng xanh
Tôi là cỏ trôi theo dòng thiên cổ
Nghe lời ru nhớ mãi buổi bình minh.

Buổi vô thủy hồn tôi từ đáy mộ
Uống sương khuya tìm sinh lộ viễn trình
Khi nắng sớm hôn nồng lên nụ nhỏ
Tôi yêu ai, trời rực ánh bình minh.

Đôi cò trắng yêu nhau còn bỡ ngỡ
Sao mặt trời thù ghét tóc nàng xinh?
Tôi lên núi tìm nỗi buồn đâu đó
Sao tuổi thơ không khóc buổi bình minh?


DAWN

The sound of a crying baby resounds words of eternity
In primal times, rivers of blood bathe the green fields
I am the grass swept along the current of antiquity
Listening to the lullaby that reminds always the time of dawn.

At the un-beginning my soul arises from the depths of the grave
Imbibing the wee hours' dew in search for a long-journeyed life path
When the aurora sun places its kiss onto the budding petals
No matter whomever I love, dawn breaks out blazingly.

A pair of virginal herons in love still crestfallen
Why must the sun displace hatred to the innocent, beautiful-haired?
Up the mountain, I go find the sadness here and there
Why don’t the youth cry for the morning dawn?


TÔI VẪN ĐỢI

Tôi vẫn đợi những đêm xanh khắc khoải
Màu xanh xao trong tiếng khóc ven rừng
Trong bóng tối hận thù, tha thiết mãi
Một vì sao bên khóe miệng rưng rưng.

Tôi vẫn đợi những đêm đen lặng gió
Màu đen huyền ánh mắt tự ngàn xưa
Nhìn hun hút cho dài thêm lịch sử
Dài con sông tràn máu lệ quê cha.

Tôi vẫn đợi suốt đời quên sóng vỗ
Quên những người xuôi ngược Thái Bình Dương
Người ở lại giữa lòng tay bạo chúa
Cọng lau gầy trĩu nặng ánh tà dương .

Rồi trước mắt ngục tù thân bé bỏng
Ngón tay nào gõ nhịp xuống tường rêu
Rồi nhắm mắt ta đi vào cõi mộng
Như sương mai, như ánh chớp, mây chiều.

Sài gòn 78


I AM STILL WAITING

In the deep, silent nights with agony, I am still waiting
The pale color, crying on the edge of the forest
In the darkness of hatred, forever earnest
A star shedding salty tears on the mouth’s corner
In the dark night with calm wind, I am still waiting
The mystical, black eyes—
the soul of eyes from the ancient past
Looking deeply for history to prolong its course
Endless rivers of blood spilled on the fatherland
In this lifetime, forgetting the wave’s crashes, I am still waiting
Forgetting those palindromic motions of the Pacific Ocean
Those who stay behind are in the hands of the tyrant
The thin reeds are heavier—the sunset ray
And immediately, the little body resides in the prison
Whose fingers are tapping into the mossed wall
Then, closing his eyes---into the realm of dreams
As morning dew, as lightning, as afternoon clouds.

Saigon 78


TỐNG BIỆT HÀNH


Một bước đường thôi nhưng núi cao
Trời ơi mây trắng đọng phương nào
Đò ngang neo bến đầy sương sớm
Cạn hết ân tình, nước lạnh sao?

Một bước đường xa, xa biển khơi
Mấy trùng sương mỏng nhuộm tơ trời
Thuyền chưa ra bến bình minh đỏ
Nhưng mấy nghìn năm tống biệt rồi

Cho hết đêm hè trông bóng ma
Tàn thu khói mộng trắng Ngân hà
Trời không ngưng gió chờ sương đọng
Nhưng mấy nghìn sau ố nhạt nhòa

Cho hết mùa thu biệt lữ hành
Rừng thu mưa máu dạt lều tranh
Ta so phấn nhụy trên màu úa
Trên phím dương cầm, hay máu xanh
(Nha Trang 1977)

A FAREWELL
Only a step on the road but the mountains are high
Oh, my Gosh! Which direction will the white clouds stall?
The ferry is moored at the dock cloaked in the morning dew
Love ceases as water becomes so cold

A step onto the far-away road, far from the immense ocean
Layers of thin clouds are dying the sky silk
The unmoored ferryboat is eyeing the red dawn
But already bade farewell thousands of years ago

To pass the summer night looking at spectral shadows
In the fading fall of smoke dreams that whiten the Milky Way
Heaven doesn’t stop the wind, waiting for the dew to curdle
But thousands of years later to become dirty and blurry

By the end of Autumn, one no longer sees signs of the traveler
Autumn forest bloody rain devastates the thatch cottage 
I play the pistil on faded color
Of the piano keyboard, or the blue color of blood.



Poem by Thích Tuệ Sỹ / Thơ Tuệ Sỹ
Translated by / Bạch X. Phẻ dịch
Edited by Professor Nguyễn Văn Thái hiệu đính

Friday, November 24, 2023

VÕ ĐÌNH: THƯ CHO MỘT HOẠ SĨ GIÀ

 

THƯ CHO MỘT HOẠ SĨ GIÀ (VÕ ĐÌNH)


Mấy năm trước, dễ hơn chục năm trước, tôi có viết một loạt bài gọi chung là “Thư Cho Một Họa Sĩ Trẻ”. Hồi đó, tôi có người bạn nhỏ hơn đến gần ba chục tuổi, yêu văn học nghệ thuật, đặc biệt thích vẽ tranh. Tôi mượn cớ viết những thư đó (bắt chước nhà mỹ thuật học Anh cát lợi Herbert Read với cuốn Letter to A Young Painter của ông – Horizon Press, New York, 1962)— để chia sẻ một số kinh nghiệm bản thân trong đời cầm cọ.

Năm 198..., tạp chí Làng Văn ở Gia nã đại gọi đùa tôi là “họa sĩ trẻ... lại”. Tôi thưởng thức hai chữ “trẻ... lại” dí dỏm đó tuy biết rằng một khi cái già nó đến với mình rồi có bao giờ nó bỏ mình đâu.

Năm ngoái, qua Paris, gặp một bạn văn bảo nên tiếp tục loạt “Thư Cho Một Họa Sĩ Trẻ”. Phải một năm trôi qua mới thấy là “nên”. Bèn “tiếp tục”. Nhưng ngẫm lại, chưa chắc gì người trẻ họ cần được mình chia sẻ cho bằng người già. Trong giới cầm cọ hiện nay coi mòi người già đông đảo hơn người trẻ đó. Thời buổi này, đặc biệt ở hải ngoại, người trẻ thiếu gì cơ hội, dại gì mà lăn vào cái nghề được coi là “tàn mạt rách nát” (chữ của họa sĩ Khánh Trường). Cho nên có “Thư Cho Một Họa Sĩ Già” này.

...

Bác Th. kính yêu

Nghe tin Bác về hưu. Định nói “sướng nhé” nhưng thôi vì tôi biết với người như Bác “hưu” chỉ là chuyện trên giấy tờ. Đăng ký ở sở An sinh Xã hội để có được cái bảo hiểm sức khỏe rẻ mạt thôi chứ đời cầm bút cầm cọ có bao giờ biết đến chuyện hưu chuyện hiếc.

Tôi nhớ lần trước qua thăm, Bác có cho xem cái giá vẽ cũ. Giá gỗ sồi, mua từ nửa thế kỷ trước bên Pháp; các thứ móc, ốc, nẹp toàn bằng đồng, thật chắc. Tôi thêm hai chữ “thật chắc” để Bác biết rằng tôi đặc biệt để ý đến những bộ phận bằng solid brass của cái giá vẽ cũ. Đồ mới sau này người ta đúc bằng nhôm, bằng nhựa, vừa thô lậu, vừa yếu xìu. Nhớ hơn nữa là chuyện Bác kể .

Vác cái giá vẽ ấy về phòng trọ, dựng lên, gài vào tấm bố mới toanh còn thơm mùi toile de lin Belgique, rồi với những cây cọ tinh khôi Bác đã vẽ một bức... tự họa! Từ Rembrandt đến Delacroix cho đến Cézanne, Picasso, Modigliani, tự họa là việc không thể thiếu. Nhưng Bác không dấu diếm, cho biết rằng bức tự họa đó, Bác không bao giờ trưng bày, không cho ai xem, bởi vì nó quá “dở”. Bố cục, đường nét, màu sắc, tất cả đều xoàng, đều tồi, Bác bảo thế. Tôi vẫn biết Bác “khó”. Đâu biết, nửa thế kỷ trước, Bác đã “khó” với cả bản thân.

Ấy thế mà rồi Bác cứ tiếp tục dùng cái giá vẽ ấy để trong mấy chục năm vẽ ra không biết bao nhiêu là tranh. Nhớ hồi mới ngoài hai mươi, Bác mơ ước mở một phòng tranh, một triển lãm cá nhân – exposition particulière/ one-man show... Mặc bộ đồ lớn, thắt cái cà vạt kẻng nhất, đứng ở ngưỡng cửa, tươi cười chào đón quan khách. Và thỏa mãn nhất là cái giây phút “nàng” xuất hiện với bố mẹ. Đẹp rụng rời. Thơm ngát. Một tay nâng nhẹ cùi chỏ người đẹp, đúng phép lịch sự, một tay hững hờ cầm cái ly sâm banh cao cổ, dìu “nàng” bước nhỏ xem tranh, chốc chốc lả lướt đi một lời bàn vừa cổ kính vừa hào hoa. Ôi, giấc mơ tuổi trẻ, giấc mơ “văn nghệ"...

Cái ngày của phòng tranh ấy, rồi nó cũng đã đến, đã đi, và sau đó Bác cứ tà tà mấy chục cái triển lãm khắp nơi. Đã có nhiều bài báo, tiếng Việt, tiếng Pháp, tiếng Anh, viết về Bác, đăng hình Bác, miệng ngậm ống vố, tay cầm cọ, nét đắm say trong đôi mắt ưu tư. Chao ôi,... “nhà nghề” quá sá. Bác đã vẽ, đã trưng bày, đã bán tranh, đã sống như một họa sĩ. Trong mấy chục năm. Và giờ đây, tuổi hưu nó đâm xầm vào Bác. Bác nghỉ hưu. Cái chữ “hưu”, tiếng Tàu, tiếng ta, nghe dễ chịu: nghỉ, thôi, ngưng. Tôi ngờ rằng Bác không ưa gì cái chữ Anh, chữ Pháp: retirement, retraite. Rút lui, thụt lùi. Tiềm tàng nỗi niềm thua thiệt, co cụm. Ngay cả ẩn nhẫn, yếm thế.

Người khác về hưu loay hoay phác hoạch đời sống tuổi già: khám sức khỏe định kỳ, du lịch theo chương trình, có tổ chức, tí toáy tập lấy một công việc vừa giải trí vừa bổ ích (hobby) thì Bác vẫn ngày ngày cặm cụi với mấy cây cọ. Mấy cây cọ Bác dùng bao năm nay đã quá cùn, xơ như cái chổi cũ. Bác bảo: Vẽ đẹp không cần cọ mới.

Nhớ lần Bác kể cho nghe Bác đã quyết tâm dấn thân vào con đường hội họa như thế nào. Đó là ngày Bác tình cờ được thấy tấm ảnh đen trắng lớn trong cuốn sách về tác phẩm của Georges Braque. Một phía phòng vẽ. Cửa sổ lớn, không màn, không sáo, ánh sáng xám nhạt tràn ngập lên cái bàn gỗ trơn. Trên bàn, một dãy lọ lớn đựng đầy cọ, thứ lọ thô lậu bằng đất nung rắc muối. Những cây cọ đứng dựa vào nhau, dài với dài, ngắn với ngắn, cây nào cũng cùn đến gần tới nẹp (ferrule). Cùn nhưng sạch sẽ, trang trọng, rõ ràng có bàn tay chăm chút săn sóc. Những cây cọ đứng trong những lọ đất thô đặt thành hàng trên mặt bàn gỗ chằng chịt dấu vết thời gian đã thôi thúc, dìu dắt Bác đi tới quyết định một đời.

Bây giờ Bác cũng có những cây cọ cùn như Braque. Có khác gì chăng những năm chưa hưu là Bác cũng đã cho cái giá vẽ về “hưu” với Bác. Cái chevalet Pháp nó hay thật: nhờ những móc, ốc, nẹp bằng đồng đó mà nó có thể được xếp lại vô cùng gọn ghế. Bác không dùng giá vẽ nữa, nghĩa là không đứng mà vẽ nữa, như tuyệt đại đa số họa sĩ Tây phương cổ cũng như kim, Bác đã “hạ thổ". Nghe kể Bác tự tay đóng một cái “bàn cao không tới gang tay, đặt cái thảm nhỏ trước “bàn”, ngồi xuống mà làm việc. Hỏi có phải Bác trở về phương Đông không thì Bác gắt: “Đông Tây gì! Đứng mỏi chân đấy thôi. Ngồi khỏe hơn đứng chứ. Muốn ngồi sao thì ngồi. Xếp bằng ăn cỗ cũng được mà chồm hổm chỏ hỏ kiểu nước lụt cũng xong. Bó gối như Yên Đổ Nguyễn Khuyến cũng hay mà quì hai gối chống hai tay... lối Nhật cũng... O.K. Đó là chưa kể đến chuyện ngồi lối kiết già kiếc giếc". Tôi chịu Bác!

...

Bác đứng hay ngồi, cái quyền và cái thú là của Bác, tôi không dám xía vào. Chỉ xin thưa với Bác về đôi chút lấn cấn trong tôi thôi. Có hỏi Bác lần nào đó và bị Bác “xì” cho một cái dài ý rằng không thèm lưu tâm đến ba cái lẻ tẻ vô bổ. Tôi không có cách nào khác hơn là viết ra đây, xin Bác vài lời để chúng tôi, đồng nghiệp... già của Bác có cơ hội xét lại đôi điều.

Bác bảo Bác không trưng bày nữa: Sau mấy chục cái triển lãm Bác đã chán ngấy. Chuẩn bị tranh triếc, phòng ốc đâu vào đấy, gửi thiệp mời, đón tiếp quan khách, vân vân, Bác cho rằng đời Bác như vậy là quá đủ. Tôi thông cảm và chia sẻ với Bác những phiền hà, vất vả này. Nhưng không trưng bày, không cho ai xem, tại sao Bác vẫn tiếp tục vẽ?

Không trưng bày, không cho ai xem, tức là không “rao hàng" vậy nói cụ thể Bác xoay trở làm sao? Có thể nhu cầu của Bác ít hơn nhiều người khác nhưng ở cái xứ đồng tiền là vạn năng này, nói như chính người Mỹ nói: “You can’t live on air alone!” (Chỉ hít không khí mà thôi, sống sao nổi!”)

Bác tiếp tục vẽ, ngày ngày vẫn vẽ, chẳng hay Bác vẽ cái gì? Hội họa là lãnh vực tạo hình, là nghệ thuật chỉ con mắt mới thấy được, “nói” ra e có điều bất cập, nhưng Bác cố thử xem sao. Tôi hứa sẽ rán hết sức hình dung con đường Bác đang lủi thủi một mình...

Thôi, đã hỏi “vẽ cái gì” thì tôi cũng xin “thừa thắng xông lên” hỏi tiếp: Bác vẽ làm sao? Thuở trẻ dại, Bác đã từng học vẽ bằng cách dùng que than vẽ tượng đá cổ Hy Lạp, dùng sơn dầu vẽ “cóp” những tranh Phục hưng... Sau bao năm luân lạc, Bác rời bỏ những khuôn phép ấy, Bác đã tìm kiếm không nguôi, và bây giờ Bác vẽ ra làm sao?

Trời ơi, gửi Bác những câu hỏi này, lòng tôi không an.

Mong Bác thương mà đừng mắng.

Tiểu đệ bái bút,

D.

...

Và sau đây là “Thư Từ Một Họa Sĩ Già”:

Anh Đ. thân mến,

Cái ông này bày đặt! “Tiểu đệ bái bút”! Làm gì mà ông trịnh trọng dữ vậy? Đã hỏi thì trả lời đây.

Người ta, người bên văn đó, cứ khoe “ngứa” cái này “ngứa” cái nọ. Cứ làm như chỉ vì “ngứa” mới viết và chỉ có họ mới biết “ngứa”. Giới cầm cọ chúng mình cũng “ngứa” như ai vậy. Nói như mấy ông họa sĩ đất thần kinh: ngửa hung! Ngứa quá sức. Đã ngứa phải gãi. Nhưng có phải khi nào gãi cũng sướng đâu. Đau, rát, bật cả máu. Mà vẫn gãi. Cái vẽ lắm khi đau đớn lắm. Nhưng không vẽ chịu không được.

Ông hỏi “vẽ mà không trưng bày, không cho ai xem, tại sao Bác tiếp tục vẽ?"

Giản dị lắm ông ơi. Trưng bày là nghề. Vẽ là nghiệp. Bỏ nghề được. Bỏ nghiệp, sức mấy. “Đã mang lấy nghiệp vào thân” mà.

Tôi vẽ mà không cho ai xem chẳng phải vì ích kỷ hay khinh người đâu. Chỉ là vì cho xem tranh, trong một cuộc triển lãm hay tại nhà riêng, phiền toái lắm. Viết cuốn sách, bà con xa gần tặng một cuốn “lấy thảo”, còn lại nhà phát hành phổ biến, ai mua thì mua. Đọc hay không đọc, hiểu hay không hiểu, thích hay không thích, việc của độc giả mình chỉ đứng xa xa ghi nhận được gì thì ghi nhận thôi. Bức tranh, đâu có giản dị thế, ông cũng là người vẽ, ông biết chán. Dù sao, tôi cũng “hưu” rồi. Đã “hưu” thì ta có quyền (và bổn phận) gạt bỏ bớt những phiền hà của đời “nhà nghề” đi. Chỉ giữ lấy cái nghiệp thôi. Chạy trời không khỏi nắng!

...

“Lấy gì mà sống” à? Những năm còn bán tranh, đóng thuế lợi tức nghề tự do (self-employment tax) dài dài nay nhà nước hoàn lại hàng tháng cho mình thôi. Chẳng xin xỏ ai cái gì cả. Mấy cuốn sách hồi nảo hồi nao, hai ba chục năm về trước, vậy mà vẫn đem lại lai rai tí quà: lâu lâu một cái chi phiếu ở đâu rớt xuống, coi như lộc Trời vậy. Mới hay cái cách làm việc của tư bản “thiếu nhân tính” nó hữu hiệu và công bằng. Chẳng cần biết nó thương hay nó ghét, cứ đến đúng ngày đúng tháng, là máy nó tự động tính toán, phun ra cái chi phiếu cho mình. Cái máy, nó thiếu “tình người” nhưng nó lương thiện. Nói thật với nhau chứ lỡ ra có đứa cà chớn nào đó ở nhà xuất bản cố tình không gửi tiền thì mình cũng chẳng biết vào đâu!.

Từ lâu tôi vẫn nghĩ rằng nhu cầu vật chất của mình ít hơn, thậm ít hơn là người ta cứ khăng khăng bảo rằng mình phải có. Ông có biết câu nói để đời của Henri Ford, vĩ nhân của tư bản Mỹ quốc, cha đẻ của chiếc Ford Model T, gần 100 năm về trước: “Bí quyết buôn bán thành công là làm sao cho người ta quay quắt muốn có những thứ mà thật ra người ta không cần tí nào". Đó là ông Tây dạy dỗ. Còn ông Đông (phương) thì nhắc nhở: “Đời sống tinh thần nên ở trên mức trung bình; đời sống vật chất nên ở dưới mức trung bình”. May mắn thay ông Ford và ông Nguyễn (Hiến Lê) không sống cùng một nơi!

Ở xứ Hiệp chủng quốc này có cái gọi là “poverty line”: Anh phải có lợi tức hàng năm trên mức đó anh mới không bị liệt vào “giới người nghèo". Tưởng gì chứ hạn định như vậy thì tuyệt đại đa số nghệ sĩ (nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, điêu khắc gia, nhạc sĩ khúc tác, nhạc sĩ trình diễn, kịch sĩ, diễn viên...) nghèo mạt rệp là cái chắc. Đã có nhiều công trình nghiên cứu thăm dò trong địa hạt này, ông thừa biết.

“Bác xoay trở làm sao?" Hà, hà, xoay trở làm sao hả? Thì từ lâu tôi đã bắt chước các cụ lẩm cẩm ngày xưa bên ta: Tri túc! Tri túc! Nói cụ thể: Có rất nhiều thứ người ta cho là cần lắm lắm, tôi chỉ thấy là cần sơ sơ, không có cũng được. Lại có những thứ người ta cho là cần sơ sơ, tôi, tôi đếch cần... Ngày xưa, bà cụ tôi hay thở dài: “Tạo ra bao nhiêu thì phiền não bấy nhiêu”. Nhỏ dại, nghe là nghe, không lưu tâm. Khôn lớn, mình cứ thắc mắc không rõ cái chữ “tạo” đó nghĩa là gì. Bây giờ thì tôi biết chắc: “tạo” này nghĩa là bày đặt đây, không phải tạo tác, sáng tạo, cấu tạo gì đâu. Nhện giăng mạng để bắt con này con kia. Người bày ra cho lắm rồi vướng vào mà chết.

Hơn 30 năm trước, ông bạn đàn anh Doãn Quốc Sỹ có viết một câu để đời: “Ở thế giới thực dân cộng sản, người ta phong tỏa vật chất để mua rẻ linh hồn; ở thế giới thực dân tư bản, người ta tung vật chất ra để giam lỏng linh hồn". Ông Doãn đã từ thế giới cộng sản qua đây với chúng ta ở thế giới tư bản mấy năm nay. Dám chắc lắm khi ông đã hả hê thấy rằng câu viết khi trẻ trung vậy mà chỉ lý quá đỗi. Có lần tôi nói với ổng: “Người ta muốn ‘mua rẻ′ mà anh cứng đầu không bán, anh chết! Chứ còn người ta ‘giam lỏng' anh chỉ vì, hoặc anh tự nguyện chui đầu vào rọ, hoặc đã lỡ ở trong rọ, ăn phải bã rồi, anh chẳng muốn thoát ly". Các giới sản xuất, thương mại, họ biết tỏng anh rồi. Ở xứ tự do, pháp luật minh định rõ ràng đâu là bổn phận, đâu là quyền lợi, không ai có quyền bắt anh phải thế này thế nọ một cách tùy tiện. Người ta chỉ được phép mời mọc, rủ rê, dụ khi thôi. Chịu hay không, tùy anh. Chỉ cần biết rằng cái gì cũng có cái giá của nó.

...

Đ. ơi, ông lại hỏi: “Chẳng hay Bác vẽ cái gì?" Nói ra e có người không vừa tai chứ tôi nghĩ rằng viết, dù không viết về cái gì đi nữa vẫn là viết cái gì. Dù chỉ viết cái chữ thôi, cái chữ vẫn là cái gì. Trong khi đó, vẽ là một động tác của thân xác trong không gian. Không nhất thiết vẽ cái gì mới là vẽ. Vẽ thôi. Như thở. Cần không khí cho cơ thể thì hít không khí vào và thả không khí ra. Nhưng hít vào và thả ra không phải là thở tuy rằng thở bao gồm hít vào và thả ra. Có sự phân biệt giữa hít vào thả ra như những động tác có ý thức, vì nhu cầu, và thở như một sự tuần hoàn tự động. Không ai hỏi “thở cái gì?" Vẽ cũng vậy. Có người vẽ cái này cái nọ. Tôi chỉ vẽ thôi. Đ. à, ông quá quắt lắm đấy nhá. Hỏi “vẽ cái gì” còn được đi, chứ hỏi “vẽ làm sao” thì ông chơi khó tôi quá. Xem nào, tôi mới nói chuyện hít và thở. Có phải là chỉ khi nào ông ý thức rõ ràng cái thở của ông, ông mới thấy có hít vào và thả ra không? Còn thường tình, ông chỉ thở thôi, ông không để tâm là mình đang thở. Vẽ cũng vậy.

Thuở còn rất trẻ, khi tôi vẽ bao nhiêu tâm trí dồn về cái tôi vẽ, và, dễ thôi, tôi cứ đi theo đúng nguyên tắc, những khuôn phép đã được học. Đến tuổi trung niên, khi vẽ tâm trí tôi lại dồn về bản thân tôi, tối đa. Cái tôi vẽ chỉ là cái cớ để tôi vẽ tôi. Một thứ tự họa phi chân dung! Bây giờ, “hưu” rồi, tôi chỉ vẽ thôi, bất cần biết đến cái tôi vẽ đã đành, mà ngay tâm tư bản thân tôi cũng mờ nhạt đi, mờ nhạt đến độ mất dạng.

Thuở non dại, tôi ước ao được trưng bày ở chỗ thật “ngon”, bán tranh thật chạy, kiếm được bộn tiền, và có nhiều thì giờ để sáng tác mạnh hơn. Sau đó, thấm lẽ tương đối của danh lợi và nghệ thuật, tôi để cả tâm trí vào việc tìm kiếm, nắm bắt được một cái vẽ viên mãn. Bây giờ, đã “hưu”, “ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch”, vẽ là vẽ thôi. Không ước ao, không tìm kiếm, không đuổi bắt. Vẽ thôi.

Anh Đ. ơi, trả lời vậy, được chưa?

Thân

Th.

VÕ ĐÌNH
(Lại nói chuyện vẽ-1999)

Hình: tranh của hoạ sĩ Võ Đình
Nguồn: FB 

Nguyên Hưng 

Hoà Thượng Tuệ Sỹ và GHPGVNTN trong dòng sống của dân tộc và hướng đi của thời đại

Hòa thượng Tuệ Sỹ biết mình thân đang mang trọng bệnh. Khó khăn duy nhất mà ngài không thể vượt qua là thời gian. Vì không có đủ thời gian để làm hết những điều mình mong muốn nên Hòa thượng ưu tiên hóa những đề án, những công việc phải làm.

Thị Nghĩa Trần Trung Đạo


Dù đứng từ góc cạnh nào, không ai có thể phủ nhận vai trò và sự đóng góp của Phật giáo vào dòng sống của dân tộc Việt. Đạo Phật là một tôn giáo rất đặc biệt trong nền văn minh nhân loại vì đáp ứng được các khao khát của con người theo từng thời đại không phân biệt màu da hay sắc tộc.

Kinh điển giống nhau nhưng đạo Phật mang sắc thái riêng khi đến mỗi quốc độ để từ đó có Phật giáo Nhật Bản, Phật giáo Trung Hoa, Phật giáo Thái Lan, Phật giáo Việt Nam v.v... Nhưng đạo Phật tại Việt Nam rất khác. Đạo Phật Việt Nam hòa tan trong tâm hồn mỗi con người. Tinh thần Phật giáo bàng bạc trong lời ru của mẹ, lời dạy bảo của cha. Một câu thơ, câu văn được các tác giả viết ra đã có tư tưởng Phật giáo dù tác giả không phải là một tín đồ Phật giáo.

Khi dừng chân tại Việt Nam, đạo Phật không chỉ đem lại cho con người những phương tiện cần thiết để đạt đến giải thoát, an lạc như tại nhiều nơi khác mà còn dung hóa và dung hợp một cách hài hòa vào dòng sống dân tộc, góp phần quan trọng trong việc xây dựng nền tảng văn hóa, đạo đức của dân tộc và là thành lũy tinh thần để bảo vệ Việt Nam.

Sau nhiều trăm năm bị đóng khung trong tứ thư ngũ kinh Nho giáo rồi Trịnh Nguyễn phân tranh, dân tộc Việt lại phải đối diện với Thực dân xâm lược. Ông bà chúng ta bàng hoàng trước sức mạnh cơ khí của Thực dân. Việt Nam trở thành một thuộc địa của Pháp nhưng tinh thần Việt Nam được hun đúc suốt nhiều ngàn năm không vì thế mà mất đi. Dòng văn hóa vẫn tiếp tục chảy dù phải chảy qua những vách đá cheo leo và có khi phải nhỏ từng giọt xuống trái tim người yêu nước.

Người Việt quan tâm đứng trước hai chọn lựa, (1) đi vay mượn các chủ thuyết ngoại lai, mượn súng đạn của ngoại bang về để “giải phóng dân tộc”, thực chất là thay một hình thức nô lệ này bằng hình thức nô lệ khác, (2) nâng cao nhận thức văn hóa, xã hội, chính trị phù hợp với hướng đi thời đại kết hợp với phát huy nội lực dân tộc để tự khai hóa chính mình thay vì “bị khai hóa” bởi thực dân.

Để tồn tại, vượt qua và vươn lên, chư tổ Phật giáo chọn con đường thứ hai. Con đường đó không phải tìm đâu khác, không vay mượn của ai khác mà trở về và phát huy những tố chất uyên nguyên của dân tộc. Nội dung của hành trình về nguồn đó chính là phong trào chấn hưng Phật giáo bắt đầu vào những năm cuối của thập niên 1920.

Giống như ngài Anagarika Dharmapala (1864-1933), nhà văn và nhà đấu tranh cho nền độc lập Tích Lan, các tổ Khánh Hòa, Giác Nguyên, Khánh Anh, Giác Tiên, Phước Huệ, Tố Liên, Trí Hải… của Việt Nam cũng đã rời những thiền phòng để chống gậy trúc đi vào lòng đất nước. Các ngài lắng nghe nỗi đau của dân tộc, đánh thức tinh thần yêu nước, độc lập tự chủ trong lòng mỗi người dân Việt để qua đó phục hưng dân tộc bằng phương tiện giáo dục bởi vì chỉ nâng cao nhận thức mới có thể chuyển hóa hai nguồn bạo lực đến từ Tây phương gồm chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa cộng sản.

Con đường chấn hưng Phật giáo như chư tổ vạch ra là một con đường dài, cần nhiều thời gian và đầy khó khăn nhưng là con đường đích thực.

Sau nhiều thăng trầm, gian khó và hy sinh, cuộc hành hương về nguồn cội đó đã dẫn đến sự ra đời của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) vào tháng Giêng, 1964 tại Chùa Xá Lợi, Sài Gòn. “Thống Nhất”, trong ý nghĩa đó không chỉ là một tập hợp mang tính hình thức của 11 giáo phái ký tên trong Hiến chương 1964 mà là bước phát triển cao hơn của một truyền thống đã có từ nhiều ngàn năm.

Được thành lập trong một giai đoạn lịch sử đầy ngộ nhận, GHPGVNTN dễ được hiểu như là kết quả của một biến cố chính trị. Biến cố có thể là “điểm vỡ” để GHPGVNTN được hình thành nhưng các giá trị hàm chứa trong Hiến chương 1964 của GHPGVNTN không đơn giản chỉ là kết quả của việc đổi thay một chế độ.

Từ đó đến nay, GHPGVNTN là nơi giữ gìn các giá trị tinh thần, các truyền thống văn hóa, lịch sử hai ngàn năm và sau này của Phật giáo Việt Nam. Dù bụi phủ, dù rêu phong căn nhà GHPGVNTN vẫn là căn nhà chính danh và chính thống của mọi người con Phật Việt Nam.

Lịch sử của GHPGVNTN từ khi ra đời tháng Giêng, 1964 cho tới khi Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ chính thức đảm nhiệm chức vụ Chánh Thư Ký kiêm Xử lý Thường vụ Viện Tăng Thống đã gần 60 năm với không biết bao nhiêu gian khó.

Đạo Phật tại Việt Nam không chỉ gồm một nhóm nhỏ những tu sĩ bị tha hóa mà chúng ta thường nghe hay thấy tại Việt Nam. Ẩn mình trong đám mây đen là ánh sáng của vầng dương trí tuệ và che giấu dưới lớp rêu xanh là những viên ngọc từ bi nhẫn nhục. Hàng ngàn, hàng vạn tăng sĩ Phật giáo đang âm thầm chuyên tâm tu tập chờ cơ hội đóng góp thiết thực cho đạo pháp và dân tộc. Các bậc Như Lai Trưởng Tử đó đang dâng hiến cuộc đời cho Phật giáo Việt Nam và Dân tộc Việt Nam trong nhiều cách khác nhau trên khắp ba miền đất nước. Họ có thể chưa nghe nhiều về GHPGVNTN hay chưa đứng hẳn về phía GHPGVNTN. Nhưng không sao. Tất cả vẫn còn đó. Một mai khi có điều kiện thuận lợi chư tôn đức tăng ni sẽ gặp nhau trong tinh thần hòa hợp và thanh tịnh tăng đoàn dưới một mái nhà GHPGVNTN.

Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Đệ Ngũ Tăng Thống GHPGVNTN viên tịch ngày 22 tháng 2, 2020. Trong di chúc, ngài ủy thác quyền điều hành Viện Tăng Thống cho Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ: “đứng đầu vào vị trí của Viện Tăng Thống bảo đảm tiếp tục sứ mệnh của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong tương lai. Tôi hoàn toàn tin tưởng và ủy thác trọng trách này cũng như trao toàn quyền cho Hòa thượng Tuệ Sỹ điều hành mọi hoạt động của Giáo Hội.” (Quyết Định Số T4/QĐ/TT/VTT của Đệ Ngũ Tăng Thống GHPGVNTN)

Tinh hoa và trí tuệ bộc phát trong những ngày tháng cuối đời giúp Đệ Ngũ Tăng Thống nhìn lại con đường giáo hội đã đi qua và thấy rõ hơn con đường trước mắt mà đạo Phật Việt Nam phải hướng tới. Ngài trao trọng trách cho Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ bởi vì, ngoài cơ sở pháp lý là Hiến chương GHPGVNTN và bên cạnh sự thông minh, uyên bác nhiều lãnh vực, Hòa thượng Tuệ Sỹ trước hết vẫn là con người văn hóa và có một tầm nhìn rất xa về tương lai Dân tộc và Phật giáo.

Là một bậc cao tăng dâng hiến cả cuộc đời cho Đạo pháp và Dân tộc, Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ biết cuộc vận động chấn hưng Phật giáo từ thập niên 1920 chưa dừng lại mà là một tiến trình liên tục và phải bắt đầu ngay từ nền móng. Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Hòa thượng Tuệ Sỹ một cánh cửa mới sẽ mở ra để GHPGVNTN bước đi cùng thời đại.

Hòa thượng Tuệ Sỹ biết mình thân đang mang trọng bệnh. Khó khăn duy nhất mà ngài không thể vượt qua là thời gian. Vì không có đủ thời gian để làm hết những điều mình mong muốn nên Hòa thượng ưu tiên hóa những đề án, những công việc phải làm. Tất cả chỉ vì một mục đích như ngài viết trong Thông Bạch Thỉnh Cử Hội đồng Hoằng pháp: “mang ngọn đèn chánh pháp đến những nơi tăm tối, cho những ai có mắt để thấy, dựng dậy những gì đã sụp đổ, dựng đứng những gì đang nghiêng ngả.”

Nội dung Phật chất chứa đựng trong Hiến Chương của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (tu chính ngày 12.12.1973) hoàn toàn không thay đổi nhưng đưa đến cho mọi người ở mọi nơi bằng những phương tiện nhanh chóng chưa từng có nhờ kết quả của cuộc cách mạng tin học cuối thế kỷ 20.

Trong “thế giới phẳng” ngày nay, khoảng cách không gian và thời gian không còn là những trở ngại mà là những tiện nghi cần được tận dụng. Kết quả thấy rõ, chỉ trong vòng chưa tới hai năm Tạng Thanh Văn 29 cuốn trong Tam Tạng Kinh Điển đã được ấn hành và công bố. Kỳ diệu thay! Sau gần nửa thế kỷ ngưng trệ vì nhiều lý do nhưng những lời dạy của Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni vẫn tiếp tục chảy vào dòng văn hóa Việt Nam và dòng văn minh nhân loại.

Hòa thượng Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống cũng biết việc mở cánh cửa, dựng lối vào cũng chỉ là phương tiện, đào tạo tăng tài để bước vào cánh cửa đó mới chính là mục tiêu quan trọng của GHPGVNTN hôm nay và mai sau. Một căn nhà đẹp bao nhiêu nhưng không được gìn giữ, sửa sang, một ngày cũng dột nát và sụp đổ. Truyền thống nếu không biết phát huy sẽ sớm trở thành một thói quen lạc hậu.

Sau thời gian bị bệnh Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, Chánh Thư Ký kiêm Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống GHPGVNTN, Chủ Tịch Hội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời, Cố Vấn Hội Đồng Hoằng Pháp GHPGVNTN, đã viên tịch đúng 4 giờ chiều ngày 24 tháng 11 năm 2023 nhằm ngày 12 tháng 10 năm Quý Mão, Phật lịch 2567 tại Phương Trượng Đường Chùa Phật Ân, Long Thành, Đồng Nai, Việt Nam, trụ thế 79 năm, 41 hạ lạp.

Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang, Đại Lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ là ba bậc tôn đức khai sáng một thời đại mới của Phật giáo Việt Nam.

Dù dốc đá cheo leo, dòng Suối Từ vị diệu vẫn chảy dài theo lịch sử dân tộc. Mỗi thời kỳ đều có những bậc cao tăng thạc đức đứng ra chèo lái con thuyền đạo pháp. Công đức của các ngài sẽ không rơi vào quên lãng mà đã nở thành những bông Hoa Đàm làm đẹp con đường hoằng dương Chánh Pháp của đức Thế Tôn.

Nhiều người lo lắng, một mai khi các bậc cao tăng thạc đức của GHPGVNTN viên tịch, các thế hệ tăng sĩ và Phật tử sau này sẽ không biết gì về GHPGVNTN. Xin đừng bi quan. Lịch sử nhân loại đã chứng minh, bạo lực có thể thay đổi một thể chế nhưng không thể xóa đi một nền văn hóa và GHPGVNTN là một phần không thể thiếu của nền văn hóa Việt Nam.

Không một bậc cao tăng thạc đức nào thật sự ra đi. Hành trạng của quý ngài vẫn in dấu sâu đậm trong lòng Dân Tộc và Đạo Pháp. Tác phẩm của các ngài viết, những lời dặn dò của các ngài sẽ còn mãi mãi. Tiếng dương cầm vẫn réo rắt vọng theo dòng Suối Từ Bi. Đời người “như sương mai, như ánh chớp, mây chiều” như Hòa thượng viết trong thơ nhưng ngọn lửa tin yêu và hy vọng không bao giờ tắt cho đến khi nào dân tộc Việt Nam còn tồn tại trên mặt đất này.


Nguồn: VOA

Mạnh Kim: Tuệ Sỹ, buông tay nơi vách núi

 

Tuệ Sỹ, buông tay nơi vách núi

Không có ngôn từ nào đủ để miêu tả chính xác và đầy đủ về chân dung một người nhỏ thó về ngoại hình nhưng quá khổ về tầm vóc của Thầy Tuệ Sỹ. Thầy không chỉ là một nhà tu. Thầy là một nhân vật văn hóa vĩ đại với dấu ấn vĩ đại trong lịch sử văn hóa Việt Nam. Thầy là nhà thơ, Thầy là nhà văn, Thầy là nhà nghiên cứu Phật học, Thầy là triết gia, Thầy là thiền sư, Thầy là giảng sư của nhiều thế hệ…
Thầy là một người rất Việt Nam, một con người phi thường, một nhân vật ngoại hạng. Tất cả những gì được tích lũy trong con người bình dị này đều do tự học. Thầy tự học tiếng Phạn, tự học chữ Hán, tự học dương cầm… Chỉ có một trí tuệ siêu việt khác thường mới có thể lãnh hội ít nhất 12 ngôn ngữ với trình độ thông thạo tuyệt luân…
Đạo Phật được truyền dạy qua Thầy là một môn Phật học cao thâm vượt quá khuôn khổ một tôn giáo với tín ngưỡng thờ phụng dân gian để trở thành một triết lý huyền diệu mà không bao giờ có thể thẩm thấu đến tận cùng nếu chỉ “tu” mà không có “học”.
Thầy Tuệ Sỹ đã cứu tôi, dù tôi không phải là đệ tử của Thầy. Những năm tháng nghèo khổ và hoàn toàn lạc lõng vô định những năm 1990, tôi đã đi tìm những cái phao triết học, đặc biệt Phật học, để dò dẫm bước tới. Và chỉ khi “gặp” được Thầy Tuệ Sỹ, cùng với những trí tuệ trác tuyệt ở thời của Thầy, trong đó có Phạm Công Thiện, Thích Minh Châu, Trí Hải…, tôi mới tự “trị liệu” được cho mình. Tôi vĩnh viễn biết ơn những vị thầy này, đặc biệt Thầy Tuệ Sỹ.
Một số nhân vật xuất hiện trên đời dường như để cho thấy họ vượt ra khỏi và hoàn toàn không bị bất kỳ quy luật thông thường nào có thể khiến họ khuất phục. Cuộc đời của Thầy Tuệ Sỹ không chỉ là tấm gương đồng bóng loáng sáng rực cho trí tuệ minh mẫn và sức làm việc cổ kim hiếm có mà còn là hình ảnh sừng sững đứng vững trước những trận phong ba kinh hồn, từ bản án tử hình đến những năm tháng tù tội.
Từ khi là giảng sư Phật học tại Đại học Vạn Hạnh khi chỉ hơn 20 tuổi, Thầy Tuệ Sỹ đã là một cây cổ thụ. Suốt hơn nửa thế kỷ, cây cổ thụ Tuệ Sỹ không ngừng tỏa bóng mát cho thế gian. Giờ đây cây cổ thụ đã trút hết lá. Thầy phẩy tay áo cà sa, thanh thản, mỉm cười. Nếu những năm tháng sống ở đời không khác gì việc níu vào vách núi để làm những gì phải làm cho chúng sinh, bây giờ Thầy nhẹ nhàng buông tay. Thầy, đứng dậy, đi về với Phật.
___________
PS: Nhân tiện, xin giới thiệu một trang web công phu lưu giữ nhiều bài viết giá trị về Thầy Tuệ Sỹ, tuesy.net. Anh Nguyễn Hoàng Thanh Tâm – một đệ tử của Thầy Tuệ Sỹ - đã mất năm năm trời để xây dựng trang web này.

Thầy Tuệ Sỹ - bậc Thạc đức và Nhà giáo dục lớn

 

Thầy Tuệ Sỹ 

 - bậc Thạc đức và Nhà giáo dục lớn

 

  Theo Từ điển Bách khoa Toàn thư mở (Wikipedia) nói về Thầy Tuệ Sỹ, “... Ông là một học giả uyên bác về Phật giáo, nguyên giáo sư thực thụ của Đại học Vạn Hạnh tại Sài Gòn, nhà văn, nhà thơ, dịch giả và là một người bất đồng chính kiến với Chính phủ Việt Nam. Ông hiện là Xử lý Thường Vụ Viện Tăng Thống của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN). Ông thông thạo tiếng Trung Quốc, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Pali, tiếng Phạntiếng Nhật, đọc hiểu tiếng Đức. Ông được giới học giả Việt Nam đánh giá cao vì đã công bố nhiều tiểu luận, chuyên khảo, thơ và nhiều công trình dịch thuật Phật giáo từ tiếng Phạn, tiếng Trung Hoa và tiếng Nhật.[1] Lúc bị bắt năm 1984, ông và Thích Trí Siêu, được coi là 2 nhà sư uyên bác nhất của Phật giáo Việt Nam, đang soạn thảo quyển Bách khoa Phật học Đại Tự điển.[2][3]

  Vì thế khi viết về một bậc Thầy của Bốn chúng, Hòa Thượng Thích Nguyên Chứng, Pháp hiệu là Thích Tuệ Sỹ, Chánh Thư Ký kiêm Xử Lý Thường vụ Viện Tăng Thống, một bậc “Long Tượng,” một vị thiền sư, một học giả lỗi lạc, một nhà thơ, một bậc Thầy của nhiều vị Thầy, thì cá nhân người viết không có đủ khả năng hay ngôn từ để viết về Ngài. Thôi thì xin chia sẻ nơi đây những lời thô thiển của một kẻ hậu học, bằng tình nghĩa Thầy trò bấy nhiêu năm qua, được học hỏi và làm việc dưới sự chỉ bảo, dìu dắt và nâng đỡ của Thầy. 

  Với rất nhiều người, HT. Thích Tuệ Sỹ, là một nhà thơ, một cao tăng thạc đức, một nhà giáo dục, một nhà lãnh đạo nổi tiếng của GHPGVNTN, v.v... và v.v… Nhưng đối với người viết có thể ca ngợi Thầy là một trong những nhân vật có ảnh hưởng lớn trong lĩnh vực văn hoá và giáo dục tại Việt Nam. Những đóng góp sâu sắc của Thầy cho Phật giáo, triết lý và giáo dục đã để lại nhiều dấu ấn không thể phai mờ. Ở Thầy, người viết học từ Thân, Khẩu Ý của Thầy và trong trong cách tư duy về phương thức học hỏi, giảng dạy, và hành trì giáo lý của Đấng Từ Phụ.


  Là một nhà giáo dục lớn mẫu mực và có tầm nhìn xa rộng, Thầy đã và đang là ngọn hải đăng cho nhiều thế hệ, trong đó có người viết. Đầu thập niên 1970s, Thầy đã được thỉnh cử làm vị giáo sư chính thức của Đại Học Vạn Hạnh nổi tiếng lúc bấy giờ dưới thời Việt Nam Cộng Hòa, cũng như tại Viện Cao Đẳng Phật học Hải Đức Nha Trang. Đầu thập niên 1980s, Thầy đã làm Giáo thọ sư cho những vị Thầy ở Quảng Hương Già Lam, và bắt đầu Thập niên 1990s và 2000s, Thầy tiếp tục nuôi dưỡng và dạy dỗ vô số tăng tài và ủng hộ các cư sĩ tại gia bằng cách gửi học trò của mình xuất ngoại nhằm trau dồi thăng tiến cả hai lãnh vực nội điển và ngoại điển. Trong nước thì Thầy cố vấn, dạy bảo, dìu dắt và nâng đỡ cho tổ chức Gia Đình Phật Tử truyền thống, và các lớp học online xuyên lục địa.

Thầy là một nhà giáo dục lớn mà người viết đã thọ nhận; lối giáo dục của Thầy thông suốt qua thân giáo, khẩu giáo và ý giáo. Từ khi nghe Thầy trở bệnh nặng và có thể không qua khỏi, tâm can người viết cảm thấy bồn chồn, lo lắng và bất định. Tâm chưa tịnh đủ để viết những gì muốn thổ lộ. Giờ đây, chỉ xin viết những đoản văn đứt đoạn như nhắc lại đôi chút kỷ niệm ân cần với Thầy với lòng biết ơn vô hạn.

 

Những Đoản Văn Đứt Đoạn Về Thầy


   Thầy là một người giản dị, thư thái, rất nghệ sĩ và hài hước. Chúng tôi đến với Thầy trước nhất là vì văn học nghệ thuật, với những đoản thơ ngắn nhập đề như “Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn, ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về", và cả một tuyển tập Giấc Mơ Trường Sơn. Sau nữa là những bài học Phật pháp online, những chương trình Tu học hoặc trại Huấn luyện của tổ chức Gia đình Phật tử, sau này là cơ hội làm việc để tiếp nối Thầy trong công cuộc Hoằng dương Chánh pháp và con đường Giáo dục Văn hoá mà Thầy đã vạch ra. Chúng tôi đã dịch một số thơ văn của Thầy và học hỏi rất nhiều điều khi có cơ hội tiếp cận Thầy qua email, phone hay những lần tiếp xúc ngắn với Thầy khi về Việt Nam. 

  Những lần đọc một bài thơ hay, một áng văn đẹp của Thầy, người viết tập tành dịch ra tiếng Anh và gởi Thầy đọc lại. Thầy góp ý và dạy bảo thêm vì có những chỗ người dịch chưa hiểu hết tâm ý của Thầy và người chỉ bảo tận tường. Qua đó mới hiểu được những tư tưởng sâu thẳm của Thầy, cũng như những từ ngữ ẩn dụ, tượng hình phổ thông;  như các từ: ‘Em’, ‘mắt biếc’, ‘quán trọ’ v.v… ‘Quán trọ' trong thơ của Thầy không chỉ là thời gian cho việc ở tù của Thầy mà là một quãng đời của con người trên trái đất này và xa hơn nữa và trong kiếp sống luân hồi của mình. Tinh thần bất khuất của Thầy là bài học thân giáo Thầy dành cho tất cả mọi người con Việt. Trước án tử hình và sau này là tù chung thân với tội là “tuyên truyền lật đổ chính quyền,” Thầy đã chịu tù hơn 10 năm, đến năm 1998 nhà nước bảo Thầy viết giấy “xin khoan hồng”, để được trả tự do, Thầy trả lời: “Chúng tôi đã không công nhận giá trị của phiên tòa này, tính pháp lý của bản án này, các ông không có quyền giam giữ chúng tôi thì sao lại có quyền khoan hồng hay ân xá chúng tôi.” Thầy cũng đã có lần âm thầm tuyệt thực và viết một lá thư gửi cho nhà cầm quyền, nói “một là tôi tự do ở đâu tôi muốn, hai là vào tù trở lại, chứ mấy ông không thể thả tôi ra khỏi nhà tù nhỏ để nhốt tôi vào nhà tù lớn hơn là cả đất nước này.”  Cuối cùng tháng 9 năm 1998, Thầy cũng được trả tự do. Nhưng Thầy vẫn thanh thản, bao dung, tự tại không oán than chi hết. 

Thầy luôn khuyên bảo chúng tôi và những người chung cùng làm việc với Thầy là “Lấy văn hoá và giáo dục làm hành trang cho cuộc đời mình.” Đó là việc dài lâu; chính trị hay các thể chế chỉ là tạm thời. Thầy vẫn thường nhắc đi nhắc lại như thế. 



2

  Nhớ lần đầu tiên gặp Thầy bằng xương bằng thịt tại Hương Tích Phật Việt, nhờ  thầy Hạnh Viên sắp xếp. Buổi gặp gỡ thật đạo vị và thân tình. Thầy hiền từ, gần gũi, đa tài và khôi hài. Nhưng ấn tượng nhất là lần gặp ở một miền quê hẻo lánh. Hôm đó chúng tôi đón xe khách, tài xế chạy suốt đêm từ Saigon đến Dambri thì trời đã quá nửa đêm và hai chúng tôi được bỏ lại ở một ngã ba đường. Thầy Quảng Ngộ, thị giả của Thầy, chạy xe Honda máy ra đón và đưa chúng tôi về Thị Ngạn Am yên ả và trầm mặc. Trời khuya, nên chúng tôi ngủ lại ở nhà chính để sáng hầu chuyện cùng Thầy. Dambri, Bảo Lộc, Lâm Đồng, sáng đó, trời mát dịu, không gian như rỗng lặng và thời gian như chậm lại. Bên Thầy, thăm hỏi và hàn huyên. Sau đó tôi xin Thầy cái tên để gieo duyên làm đệ tử của Thầy và làm bút hiệu để làm việc. Thầy bảo vậy gọi anh bằng “Thiên Nhạn,” nghe hai chữ này, tự nhiên lòng khựng lại vì không dám. Bởi lẽ chữ “Nhạn” là tên của Dì Ba mình và có vẻ con gái, mà mình là đấng mày râu. Không muốn nhận và không dám nhận vì cánh Nhạn Trời này có phải là những điều Thầy muốn gửi gắm như trong bài thơ “Nhạn Quá Trường Không” của Thiền Sư Hương Hải mang tinh thần nhập thế của Phật giáo Đại thừa?

Bài thơ như sau:
“Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm.”

Thiền Sư Thanh Từ đã dịch bài như sau:

“Nhạn bay trên không
Bóng chìm đáy nước
Nhạn không có ý để dấu
Nước không có tâm lưu bóng.”

Nghĩ thế nên con nào dám, xin Thầy cho tên khác. Sau một hồi hầu chuyện qua lại cùng Thầy, Thầy bảo giữ y nguyên như vậy. Và đó cũng là lối giáo dục bằng ý giáo của Thầy, dạy hàng đệ tử của mình–hãy dấn thân theo tinh thần nhập thế. Đem Đạo vào đời để làm cho cuộc đời bớt khổ thêm vui. Tên đặt hay ngôn ngữ cũng chỉ là phương tiện dấn thân của Bồ Tát Hạnh và Bồ Tát Đạo.


3

  Món quà trân quý từ Thầy. Ngoài những biệt tài ưu việt về Phật học, văn chương, triết lý, âm nhạc, v.v… Thầy còn viết những câu đối thật tuyệt vời và chữ thảo thật đẹp. Món quà quý giá đầu tiên mà Thầy tặng cho người viết là một thư pháp chữ Hán. 

Thư pháp là bài kệ tán trong kinh Lăng Già như sau:


“Tri nhân pháp vô ngã

Phiền não cập nhĩ diệm

Thường thanh tịnh vô tướng

Nhi hưng đại bi tâm."

https://lh5.googleusercontent.com/qoS29rbQfW9p1NKKR4dNo1RjIxcih7XH48IQ_2qVxgYgqLoxYvBA8YzxrZ8tnwX90R7Z0eDPzK1CRggGExGFWF5khvYA7I-g-98ci8mmYQRyAiCczgQurwWDZwTXbEQYCFxGsWEhc8-5dFjx8gTVAA

  Và theo chúng tôi hiểu nghĩa bài kệ này như sau: Biết người và pháp đều vô ngã / Phiền não cùng sở tri chướng / Vốn thanh tịnh, vô tướng... / (nên) khởi tâm đại bi. Sau này, chúng tôi được biết, Thầy dạy rất rõ trong bài Dẫn vào Thế giới Văn học Phật giáo, theo đó văn học Phật giáo lấy tư tưởng của Giáo lý Phật đà, lấy “tâm nguyện đại bi, đại trí và đại hùng” để bước.

Món quà kế tiếp là Thầy viết lời giới thiệu cho cuốn sách “Chánh niệm – Chất liệu tỉnh giác trong cuộc sống và học đường” của chúng tôi, trong đó Thầy đã dạy, “Tập sách không phải tập hợp một mớ lý thuyết, mà dẫn dụng những ứng dụng cụ thể và những kết quả đạt được, hoặc lớn hoặc nhỏ, rất đáng khích lệ.

Đối với các huynh trưởng Gia Đình Phật tử, với tâm nguyện, với trách nhiệm tự nhận, ước mong hướng dẫn các đoàn sinh, các đàn em của mình, trưởng thành trong Chánh pháp; bằng nhận thức và hành động được tu dưỡng, được tài bồi, của Phật pháp trong nhiều năm, tập sách này là tư liệu tham khảo cần thiết để tăng trưởng nhận thức, phát huy những tinh hoa trong Phật pháp trao truyền cho các thế hệ đàn em, vì một xã hội hài hòa, an lạc, một dân tộc bao dung nhân ái trong một đất nước thanh bình.

Tiết Nhi đồng Việt Nam 2021”


  Đó là những món quà quý giá Thầy tặng cho chúng tôi, và đó cũng là lời gửi gắm dạy dỗ cho hàng huynh trưởng và đoàn sinh GĐPT nói riêng và tuổi trẻ Phật giáo nói chung là lấy tâm nguyện Đại bi, lấy hạnh nguyện và con đường Bồ Tát mà hành hoạt và hiến dâng cho cuộc đời. Một lối giáo dục đầy từ bi, bác ái, nhân văn, thực tiễn và khai phóng.


4

  Một buổi tối trời se lạnh, khoảng đầu năm 2021, có một cú điện thoại gọi qua Viber app, xa lạ với tên gọi là “Yibo”, đang lưỡng lự là có bắt phone không. Sau một hơi thở sâu và chậm, chúng tôi quyết định nghe điện thoại. Ồ thì ra đó là Ôn Tuệ Sỹ từ bên Nhật gọi qua Hoa Kỳ. Đó cũng là sự bắt đầu cho chuỗi thời gian nối kết Thầy và Chư Tăng Ni tại Hải Ngoại để từ đó dẫn đến sự thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp và các Phật sự quan trọng khác. Làm việc với Thầy mới thấy sự kham nhẫn và khiêm nhường của Thầy. Có những văn bản mà Thầy viết rất hay chí tình chí nghĩa; tình đạo, tình đời viên dung, rất người và ký với những tên tuyệt diệu và khiêm nhượng với vị trí của Thầy. Những lần Thầy ký Thiện thệ tử, Vãn bối Tỳ-kheo, Bỉnh Pháp Tỳ-kheo, v.v… Nhưng có một văn bản, Thầy ký “Tiểu Tăng” Thích Tuệ Sỹ đã làm tôi bật khóc vì thương Thầy, thương cho đại cuộc và thương cho Giáo hội. Mặc dù trên lãnh vực hành chánh, cương vị của Thầy lớn hơn so với những vị Thầy khác, nhưng Thầy vẫn ký là “Tiểu Tăng,” làm chúng tôi càng phục và càng thương Thầy. Có lần lắng nghe Thầy tâm sự, tôi càng thương và đồng cảm với Thầy và nhận chân rằng con đường Thầy đang đi rất lẻ loi, Giáo hội thiếu nhân sự và có rất ít người cùng đồng hành. Tuy nhiên mỗi khi có ai đó có phước duyên gặp gỡ và làm việc cùng Thầy thì những vị đó đều là những người đồng hành, những kẻ cùng tử và trung kiên. 

  Trở lại việc giáo dưỡng của Thầy, có những lúc có vài trắc trở vì không gian và thời gian để đưa đến một vài sự hiểu lầm nhau, Thầy dạy, “chuyện nghi ngờ lặt vặt, ai có ác ý hay thiện ý gì cũng không quan trọng.” Nhiều khi Thầy dạy rất ngắn và chúng tôi lãnh ngộ và thái độ yên lặng–gìn giữ cho thân tịnh tâm an để tiếp tục làm việc. Bậc minh sư đó, lúc nào cũng tận tuỵ và dạy dỗ học trò đúng lúc đúng thời.


5

  Đối với Tăng Ni, Thầy đã viết, hướng dẫn và tạo niềm tin qua các tiểu luận như,  Định hướng tương lai cho Tăng Ni trẻ, Thư gửi các tăng sinh Thừa Thiên-Huế, bao nhiêu Thông điệp, Chúc thư, v.v… Cho hàng cư sỹ Thầy gửi gắm và dạy dỗ qua nhiều tác phẩm như: Du-già Bồ tát giới, Thắng Man giảng luận, Huyền Thoại Duy-Ma-Cật, tiểu luận như Văn minh tiểu phẩm, Trí thức phải nói, Thư Chào mừng Đại hội Cư sĩ Phật giáo Hải ngoại, v.v… Đối với tuổi trẻ, Thầy đã giảng dạy qua Đạo Phật với Thanh niên  – Buddhism & The Youth, Tuổi trẻ Lên Đường, Suy nghĩ về hướng giáo dục đạo Phật cho tuổi trẻ, v.v…

  Với GĐPT thì vô số kể, chúng tôi xin kể một vài câu chuyện khác: Thầy lúc nào cũng thương yêu, động viên và dạy bảo GĐPT bằng Thân, Khẩu và Ý giáo của mình. Năm 2004, Thầy khuyến khích và bảo trợ tài chánh cho Ban huynh trưởng GĐPT Miền Quảng Đức, Sài Gòn tổ chức thi hội hoạ, văn thơ... Năm đó, Thầy đã bảo trợ từ vật chất đến tinh thần, đích thân đến chứng minh. Thầy đã khuyến tấn quý anh chị em lam viên tổ chức và tham dự những hội hè, mở ra một truyền thống đẹp cho tổ chức GĐPT. Ở hải ngoại, Thầy thường xuyên thăm hỏi và để ý đến sự đoàn kết của Tổ chức cũng như những huynh trưởng có trình độ / khả năng hội nhập những hội đoàn quốc tế vì Thầy luôn quan niệm GĐPT cần phải vươn lên theo chiều hướng văn minh và phát triển của xã hội.

https://lh3.googleusercontent.com/45WFYwwJ5w-c3ZGWGnzx6DspyHesgm4Vf96gatOhDQhsBYMwHn-bp5SoC1VgKtkb2JLpeCGXCBZ9w0EbFs5uzmC9pFdJ3ehacSAOxx3qKm25gQeFEW9Vau1q69gVacIMjEaghQDgR1UpjaMtPnfgdA

  Thầy có nhiều niềm tin yêu và hy vọng vào tuổi trẻ. Có một em sinh viên trẻ, Pháp danh Tâm Thuần, viết tiểu luận về thơ Thầy và rất dũng cảm để chia sẻ trên mạng mặc dù có thể bị khó khăn trong việc học của em. Thầy email bảo rằng, “Tôi đã đọc hết Tiểu luận của Cô bé Tâm Thuần. Bài viết rất vững. Trình độ xúc cảm và nhận thức về thơ khá sâu. Dù sao đây cũng chỉ là một Tiểu luận mang tính báo cáo nhiều hơn, nhận thức thơ qua các phê bình của nhiều tác giả chứ chưa thấy được cảm xúc thơ của chính người đọc thơ và người làm thơ. Tôi thật sự cảm động và rất vui về tương lai với một thế hệ mới có tâm hồn cao đẹp như thơ, để cho đất nước này cũng đẹp tình người như những bài thơ.

Có một điều khiến tôi suy nghĩ. Post Tiểu luận của Cô Bé lên thì rất tốt cho nhiều người, gợi hứng niềm tin về một thế hệ trẻ nhiều tình tự dân tộc; nhưng còn đang học, không biết việc phổ biến này sẽ ảnh hưởng đến việc học của Cô Bé hay không. Chế độ không cho phép ai phê bình nó. Điều này tất cả chúng ta đều hiểu rõ. Anh cũng nên nói chuyện với Cô Bé về điều này.”

  Điều muốn nhấn mạnh ở đây, là Thầy đã và đang quan tâm cho giới trẻ, nhất là học sinh, sinh viên cũng như đặt niềm tin vào tuổi trẻ. Dĩ nhiên, em nữ sinh viên này rất vui được Thầy khen và đồng thuận cho đăng trong sự can đảm của mình. Âu đó cũng là những lời gửi gắm của Thầy đến em sinh viên Tâm Thuần nói riêng, cũng như bao nhiêu sinh viên trẻ khác trong đất nước hình chữ S thân yêu và khắp mọi nơi. Thầy luôn tin yêu, hy vọng, bảo vệ và tạo cảm hứng cho giới trẻ Việt Nam.


6. 

  Những lúc làm việc với Thầy, mới thấy sự làm việc nghiêm túc, nhưng phóng khoáng và dân chủ của Thầy. Thầy rất chỉnh chu, tỉ mỉ khi làm việc. Chúng tôi nhớ khi làm cuốn Thiền Định Phật Giáo Khởi Nguyên và Ảnh Hưởng; cuốn Tổng Quan Về Nghiệp với Thầy và anh Nguyên Đạo Văn Công Tuấn bên Đức, càng biết là Thầy làm việc nghiêm túc, tinh cần và rất quy củ; từ góp ý bìa cho đến footnote, Thầy làm việc từ sáng đến chiều và làm việc bất cứ lúc nào Thầy khoẻ. Có lần Thầy bảo vào ngày thứ Bảy (Sat, Sep 18, 2021, 3:57 PM) “Quyết định chọn bìa này đi, bìa không có hình, nếu mọi người vui vẻ chấp nhận. Nếu không đồng ý, có hình Phật cho vui mắt một chút thì cũng được, vui vẻ đồng ý với nhau là được.” Thầy không bảo thủ và nhường quyền quyết định cho số đông. Nhưng nói ở đây là Thầy làm việc luôn cả ngày lẫn đêm, thậm chí vào cuối tuần. Một lần khác, mới vừa ăn sáng xong. Cuốn TQVN đã đọc đi đọc lại đến 6 lần vì Thầy cần sửa những footnote. Thầy dạy, vào ngày thứ Năm, (Thu, Oct 7, 2021), 7:06 giờ sáng, “Thế thì tốt đẹp rồi, có thể ấn hành được rồi. Sách đã làm xong. Sự đóng góp nhiệt tình của các huynh đệ để sách được hoàn chỉnh. Chân thành tán thán công đức của các huynh đệ đã trực tiếp hoặc gián tiếp cho sách.”

Thầy cũng thực sự thân mật với những người làm việc cùng Thầy. Thầy luôn gọi nhau là “anh” như tình pháp hữu. Chúng tôi nhớ là chưa có bao giờ Thầy gọi chúng tôi là “con”; lúc nào cũng gọi là “anh” hoặc tên Phẻ mặc dù chúng tôi có lúc gọi Thầy là “Thầy”, là “Hòa Thượng”, là “Ôn”, nhưng Thầy cứ gọi chúng tôi là “anh” hoặc “quý anh”. Âu đó cũng là một lối giáo dục từ khẩu giáo và thân giáo của Thầy.

7.

  Trong cuốn sách đầy ảnh hưởng “Du Già Bồ Tát Giới” (2010), Thầy đã nêu rõ tầm nhìn của mình về giáo dục, lấy nền tảng Bồ Tát Hạnh, Bồ Tát Đạo và Bồ Tát Hành làm kim chỉ nam cho một thế giới ngày càng tốt đẹp hơn, an bình và thịnh vượng. Thầy tin rằng, văn hoá và giáo dục không những chuẩn bị cho cá nhân trở thành công dân tích cực, thăng tiến mà còn nuôi dưỡng các giá trị nhân văn, dân chủ, tương đồng, khoan dung và trách nhiệm xã hội. Ý tưởng của Thầy tiếp tục định hình các cuộc thảo luận về vai trò của giáo dục trong việc thúc đẩy tâm từ, hoà bình, các khía cạnh xã hội dân chủ nhân văn.


  Nói tóm lại, những đóng góp của Thầy, Hoà thượng Thích Tuệ Sỹ, cho nền giáo dục Phật giáo còn kéo dài hơn cả cuộc đời Thầy qua công trình đồ sộ phiên dịch Đại Tạng Kinh bằng tiếng Việt. Đó là một di sản tâm linh, một di sản giáo dục rất lớn và từ trước đến nay của Phật Giáo Việt Nam. Sự hành trì nghiêm mật, sự trải nghiệm và trí tuệ vô biên của Thầy tiếp tục truyền cảm hứng cho hàng đệ tử xuất gia và tại gia, các nhà giáo dục Phật Giáo, cũng như các giới văn nghệ sĩ đến các nhà hoạt động xã hội. Tam giáo của Thầy có thể là định hình cho các hoạt động giáo dục hoặc những người tự cho mình là nhà giáo dục / giáo viên trên toàn thế giới có tầm nhìn chung để nương vào và hành hoạt. Ý tưởng và hoài bão của Thầy đặc biệt phù hợp trong bối cảnh giáo dục ngày nay, trong đó nhấn mạnh đến nhân bản, dân tộc, và sự dấn thân của giới trẻ để tư duy, phê phán và phát triển đạo đức và tâm linh theo đà phát triển kỹ thuật và khoa học của thế kỷ 21 này.

  Cuối cùng, chúng tôi có niềm tin sâu sắc là Thầy vẫn còn với chúng ta. Có lần chúng tôi nói với Thầy rằng là hàng đệ tử tứ chúng cần Thầy phải sống thêm 10 năm nữa để cho Công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh được thành tựu viên mãn. Thầy cười bảo, “10 năm thì không dám, nhưng chắc 3 năm thì được.” Nhưng đến giờ này thì chỉ hơn 1 năm thôi. Vậy mong Thầy tiếp tục sống để làm điểm tựa cho hàng hậu học. Chúng con cũng xin nguyện sẽ “tái sinh” và đồng hành cùng Thầy tiếp tục công việc phiên dịch Đại Tạng Kinh còn dang dở. 


Thầy ơi! 

Tháng 10 mưa rơi

Thuyền từ Giáo hội

Chỉ còn Thầy thôi! 


Nam Mô Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai.


Đầu tháng 10, Sacramento, California

Xin cúi đầu

Tâm Thường Định Bạch Xuân Phẻ


Tài liệu cần tham khảo:


1. “Amnesty International, ASA 41/010/1998, December 1998”. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 5 năm 2003. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2003.


2. “Niên Biểu Phật giáo Việt Nam”. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2007.


3. Bách khoa toàn thư mở wikipedia. Tiểu Sử Thích Tuệ Sỹ https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%ADch_Tu%E1%BB%87_S%E1%BB%B9. Tải xuống ngày 30 tháng 9, 2023.


4. Thích Tuệ Sỹ: Dẫn Vào Thế Giới Văn Học Phật Giáo - https://hoangphap.org/tue-sy-dan-vao-the-gioi-van-hoc-phat-giao/ Tải xuống ngày 1 tháng 10, 2023.


5. Thích Tuệ Sỹ: Định hướng tương lai cho Tăng Ni trẻ. https://quangduc.com/a50534/dinh-huong-tuong-lai-cho-tang-ni-tre


6. Thiền Định Phật Giáo: Khởi Nguyên và Ảnh Hưởng (Vietnamese Edition) 

https://www.amazon.com/Thi%E1%BB%80n-%C4%90%E1%BB%8Anh-Nguy%C3%AAn-H%C6%AF%E1%BB%9Eng-Vietnamese/dp/1087924367/ref=sr_1_7


7. Thích Tuệ Sỹ: Văn minh tiểu phẩm - https://quangduc.com/a5113/van-minh-tieu-pham, Tải xuống ngày 2 tháng 10, 2023.



8. Thích Tuệ Sỹ: Thư gửi các tăng sinh Thừa Thiên-Huế, https://sentrangusa.com/2020/09/09/thich-tue-sy-thu-gui-cac-tang-sinh-thua-thien-hue-cua-thay-tue-sy/ Tải xuống ngày 1 tháng 10, 2023.


9. Thích Tuệ Sỹ: Đạo Phật với Thanh niên – Buddhism & The Youth https://hoangphap.org/ht-thich-tue-sy-dao-phat-voi-thanh-nien-buddhism-the-youth/ Tải xuống ngày 1 tháng 10, 2023.


10. Thích Tuệ Sỹ: Trí thức phải nói,

https://saigonnhonews.com/nhin-lai-lich-su/thich-tue-si-tri-thuc-phai-noi/ Tải xuống ngày 1 tháng 10, 2023.


11. Thích Tuệ Sỹ: Thư Chào mừng Đại hội Cư sĩ Phật giáo Hải ngoại, https://bodhimedia.net/reading_Thu-Chao-Mung-%C3%90ai-Hoi-Cu-Si_ccqttdgt.html Tải xuống ngày 1 tháng 10, 2023.


12. Thích Tuệ Sỹ: Du-già Bồ tát giới. Sách phát hành trên hệ thống Amazon vào ngày 12 tháng 10, 2019. https://www.amazon.com/DU-GI%C3%80-T%C3%81T-GI%E1%BB%9AI-Vietnamese/dp/1087809150 


13. Thích Tuệ Sỹ: Thắng Man giảng luận. Sách phát hành trên hệ thống Amazon vào ngày 6 tháng 3, 2019. https://www.amazon.com/Th%E1%BA%AFng-Man-Gi%E1%BA%A3ng-Lu%E1%BA%ADn-Vietnamese/dp/0359483631/ref=sr_1_1?crid=1XXA57FQYGT4D


14. Thích Tuệ Sỹ: Huyền Thoại Duy-Ma-Cật. Sách phát hành trên hệ thống Amazon vào ngày 18 tháng 6, 2014.

https://www.amazon.com/Huyen-Thoai-Duy-Cat-Vietnamese/dp/1500243086/ref=sr_1_1


15.  Thích Tuệ Sỹ: Tuổi trẻ Lên Đường. https://phatviet.info/tue-sy-tuoi-tre-len-duong/ 


16. Thích Tuệ Sỹ: Suy nghĩ về hướng giáo dục đạo Phật cho tuổi trẻ. https://phebach.blogspot.com/2015/11/suy-nghi-ve-huong-giao-duc-ao-phat-cho.html


Trích: Kỷ yếu tri ân HT Thích Tuệ Sỹ | Hội đồng Hoằng Pháp ấn hành tháng 10/2023