Lời dẫn: Nhân ngày Giỗ lần thứ 14, để tưởng nhớ công đức sâu dày của Cố Hòa Thượng Thích Thiện Trì (Đệ nhất Trụ trì Chùa Kim Quang - Sacramento California), xin được đăng lại Tiểu sử của Ngài trích trong Kỷ Yếu Tượng Niệm Hoà Thượng Thích Thiện Trì mà Chùa Kim Quang đã làm 14 năm về trước. Thầy Thích Thiện Duyên, đương kim Trụ trì Chùa Kim Quang quyết định lấy ngày Chủ Nhật cuối cùng của Tháng Bảy làm Lễ Tưởng Niệm của Hoà Thượng và GĐPT Kim Quang làm Lễ Tưởng Niệm trước đó một ngày vào cuối thứ Bảy của tháng 7 để tưởng nhớ Hoà thượng Ân Sư.
Hòa Thượng Thích Thiện Trì thế danh Nguyễn Duy Hiến, Pháp danh Như Phụng, Pháp tự Thiện Trì, Pháp hiệu Ấn Đạo thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ bốn mươi hai, Ngài sanh ngày 19 tháng 02 năm 1934 tại xã Nhơn Khánh, quận An Nhơn, tỉnh Bình Định.
Ngài xuất thân từ một gia đình thuần túy Phật Giáo, thân phụ của Ngài là cụ ông Nguyễn Hàn, Pháp danh Như Đà. Thân mẫu của Ngài là cụ bà Bùi Thị Thiệp, Pháp danh Như Cảnh. Ngài có tất cả 10 anh em, 5 trai và năm gái. Trong đó có 3 người con trai đã xuất gia đầu Phật, là bản thân Ngài, Thượng Tọa Thích Thiện Hữu, và Đại Đức Thích Viên Mãn.
Nhờ túc duyên thù thắng nên khi vừa tròn 17 tuổi, ý thức được lẽ vô thường sinh diệt và thực trạng khổ đau của cuộc đời, Ngài đã phát tâm thế phát xuất gia để noi theo hạnh xuất trần thượng sĩ. Khởi đầu, Ngài xuất gia với Cố Hòa Thượng thượng Huệ hạ Chiếu trụ trì Tổ Đình Thập Tháp, Bình Định. Sau thời gian tu học tại Tổ Đình Thập Tháp, nhận thấy Ngài là bậc thông minh dĩnh duệ, nên Hòa Thượng bổn sư đã gởi Ngài đến tu học tại Tổ Đình Sơn Long, Tuy Phước. Sau khi Hòa Thượng Bổn Sư viên tịch năm 1965, Ngài cầu pháp y chỉ với Hòa Thượng thượng Kế hạ Châu là sư thúc của Ngài và được ban cho Pháp hiệu Thích Ấn Đạo. Hòa Thượng thọ Đại Giới năm 1968 tại Phật Học Viện Trung Phần Hải Đức, Nha Trang. Sau khi tốt nghiệp ưu hạng chương trình Phật Học Chuyên Khoa Liễu Quán tại Tổ Đình Linh Quang, Huế, năm 1971, Ngài được Giáo Hội bổ nhiệm làm Giảng Sư và Giáo Thọ cho nhiều Phật Học Viện tại các tỉnh miền Trung và miền Nam như Giám Thị và Giáo Thọ Phật Học Viện Trung Phần Hải Đức, Nha Trang; Giáo Thọ Phật Học Ni Trường Diệu Quang, Nha Trang; Giám Học Phật Học Viện Nguyên Hương tại Phan Thiết; Giảng Sư tại Tu Viện Quảng Hương Già Lam Sài Gòn v.v.... Do đạo hạnh khả kính, Ngài được cung thỉnh làm Trụ Trì chùa Kim Quang tại Phan Thiết. Dù Phật sự đa đoan, Hòa Thượng vẫn cố gắng đầu tư thì giờ và tâm lực để phiên dịch và trước tác.
Những kinh điển mà Ngài đã dịch gồm có:
· Kinh Kim Quang Minh
· Kinh Dược Sư
· Kinh A-Di-Đà
· Kinh Di-Lặc
· Kinh Bát Đại Nhân Giác
· Phật Thuyết Phân Biệt Kinh
· Bát Nhã Tâm Kinh
Ngoài những dịch phẩm trên, Hòa Thượng còn biên soạn nhiều bài nghiên cứu lịch sử Phật Giáo hết sức giá trị. Đã từng là Chủ Nhiệm Tạp Chí Nguồn Sống và còn là một nhà thơ với những bài thơ đầy thiền vị.
Sau thời gian gặp khó khăn dưới chế độ Cộng Sản và vì chí nguyện hoằng pháp lợi sanh, Hòa Thượng đã vượt biển tìm tự do năm 1980 để tiếp tục lý tưởng phụng sự chánh pháp và dân tộc. Suốt thời gian tạm cư tại trại tỵ nạn Galang, Nam Dương, Ngài đã thành lập chùa Kim Quang, chùa Quan Âm và tận lực hướng dẫn đồ chúng tu học và đã trở thành một biểu tượng ngời sáng làm nơi quy hướng của những người con Phật đang bơ vơ lạc lõng tại xứ người. Sau khi định cư tại Hoa Kỳ năm 1981 Hòa Thượng càng nổ lực hơn nữa trong vai trò của một Trưởng Tử Như Lai, tác Như Lai sứ, thừa Như Lai sự. Những chức vụ mà Ngài đã đảm nhiệm theo thời gian là:
· Hội Trưởng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Sacramento và Trụ Trì Chùa Kim Quang
· Phó Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam Tại Hoa Kỳ
· Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Tăng Sự của Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam Tại Hoa Kỳ
· Thành Viên Hội Đồng Đại Diện của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Tại Hoa Kỳ - Văn Phòng II Viện Hóa Đạo
· Chủ Tịch Hội Đồng Giám Luật Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Tại Hoa Kỳ - Văn Phòng II Viện Hóa Đạo
· Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Tăng Sự của Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Tại Hoa Kỳ - Văn Phòng II Viện Hóa Đạo đồng thời lãnh đạo tinh thần các Hội và Chùa:
· Chùa Vạn Hạnh, Rochester, NY.
· Chùa Từ Hiếu, Buffalo, NY.
· Chùa Quan Âm, Binghamton, NY.
· Chùa Phổ Quang, Salt Lake City, UT.
Năm 1985, Hòa Thường cùng với chư tôn Thiền Đức trong Giáo Hội đã tổ chức Đại Giới Đàn Đại Nguyện tại chùa Kim Quang, Sacramento. Hòa Thượng là trưởng ban Kiến Đàn trong Giới Đàn đó.
Ngoài việc xiển dương Chánh Pháp cứu độ quần sanh, Ngài còn sát cánh với Giáo Hội tích cực vận động cho sự tự do, bình đẳng, dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam.
Ngài là bậc Thầy đặc biệt thương yêu, hết lòng quan tâm nâng đỡ, giáo dưỡng và xây dựng tổ chức Màu Lam của Gia Đình Phật Tử Việt Nam.
Cuộc đời của Ngài là một tấm gương ngời sáng, một bài học sống vô giá qua nhiều khía cạnh nhất là thời gian Hòa Thượng thị bệnh để độ chúng. Dù trải qua thời gian dài với bệnh duyên đầy thử thách nhưng Hòa Thượng vẫn giữ được đạo phong tự tại, uy nguy, thanh thoát của mình và chứng tỏ được đạo hạnh khả kính của một bậc Tôn túc giáo phẩm thạc đức. Đây là thời gian mà đại chúng học ở Hòa Thượng những bài Pháp không lời đầy khế cơ, khế lý.
Thuận thế vô thường Hòa Thượng đã an tường xả bỏ báo thân lúc 8 giờ 20 tối ngày 31 tháng 7 năm 2003, nhằm ngày mồng 3 tháng 7 năm Quý Mùi tại thủ phủ Sacramento, California, Hoa Kỳ. Thế thọ 69, Đạo lạp 52, Hạ lạp 36. Dù xác thân tứ đại huyễn hóa của Hòa Thượng không còn nữa nhưng những lời dạy cao quý nhất là những hành hoạt đầy vị tha vô ngã của Ngài đối với Dân Tộc và hình ảnh dấn thân tận tụy hy hiến cho Đạo của Hòa Thượng vẫn còn mãi trong trái tim của hàng triệu người con Phật.
Vô thường thị thường, tịch diệt phi diệt, nhất tâm cầu nguyện giác linh Hòa Thượng thượng phẩm thượng sanh, bất vi bổn thệ, hồi nhập ta bà để Hòan thành hạnh nguyện độ sanh cao cả.
Nam Mô Tự Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Nhị Thế húy thượng Như hạ Phụng, tự Thiện Trì, hiệu Ấn Đạo giác linh Hòa Thượng thùy từ chứng giám.
Tiểu sử HÒA THƯỢNG THÍCH THIỆN TRÌ
(Feb. 19, 1934 to July 31, 2003)
Hòa Thượng Thích Thiện Trì thế danh Nguyễn Duy Hiến, Pháp danh Như Phụng, Pháp tự Thiện Trì, Pháp hiệu Ấn Đạo thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ bốn mươi hai, Ngài sanh ngày 19 tháng 02 năm 1934 tại xã Nhơn Khánh, quận An Nhơn, tỉnh Bình Định.
Ngài xuất thân từ một gia đình thuần túy Phật Giáo, thân phụ của Ngài là cụ ông Nguyễn Hàn, Pháp danh Như Đà. Thân mẫu của Ngài là cụ bà Bùi Thị Thiệp, Pháp danh Như Cảnh. Ngài có tất cả 10 anh em, 5 trai và năm gái. Trong đó có 3 người con trai đã xuất gia đầu Phật, là bản thân Ngài, Thượng Tọa Thích Thiện Hữu, và Đại Đức Thích Viên Mãn.
Nhờ túc duyên thù thắng nên khi vừa tròn 17 tuổi, ý thức được lẽ vô thường sinh diệt và thực trạng khổ đau của cuộc đời, Ngài đã phát tâm thế phát xuất gia để noi theo hạnh xuất trần thượng sĩ. Khởi đầu, Ngài xuất gia với Cố Hòa Thượng thượng Huệ hạ Chiếu trụ trì Tổ Đình Thập Tháp, Bình Định. Sau thời gian tu học tại Tổ Đình Thập Tháp, nhận thấy Ngài là bậc thông minh dĩnh duệ, nên Hòa Thượng bổn sư đã gởi Ngài đến tu học tại Tổ Đình Sơn Long, Tuy Phước. Sau khi Hòa Thượng Bổn Sư viên tịch năm 1965, Ngài cầu pháp y chỉ với Hòa Thượng thượng Kế hạ Châu là sư thúc của Ngài và được ban cho Pháp hiệu Thích Ấn Đạo. Hòa Thượng thọ Đại Giới năm 1968 tại Phật Học Viện Trung Phần Hải Đức, Nha Trang. Sau khi tốt nghiệp ưu hạng chương trình Phật Học Chuyên Khoa Liễu Quán tại Tổ Đình Linh Quang, Huế, năm 1971, Ngài được Giáo Hội bổ nhiệm làm Giảng Sư và Giáo Thọ cho nhiều Phật Học Viện tại các tỉnh miền Trung và miền Nam như Giám Thị và Giáo Thọ Phật Học Viện Trung Phần Hải Đức, Nha Trang; Giáo Thọ Phật Học Ni Trường Diệu Quang, Nha Trang; Giám Học Phật Học Viện Nguyên Hương tại Phan Thiết; Giảng Sư tại Tu Viện Quảng Hương Già Lam Sài Gòn v.v.... Do đạo hạnh khả kính, Ngài được cung thỉnh làm Trụ Trì chùa Kim Quang tại Phan Thiết. Dù Phật sự đa đoan, Hòa Thượng vẫn cố gắng đầu tư thì giờ và tâm lực để phiên dịch và trước tác.
Những kinh điển mà Ngài đã dịch gồm có:
· Kinh Kim Quang Minh
· Kinh Dược Sư
· Kinh A-Di-Đà
· Kinh Di-Lặc
· Kinh Bát Đại Nhân Giác
· Phật Thuyết Phân Biệt Kinh
· Bát Nhã Tâm Kinh
Ngoài những dịch phẩm trên, Hòa Thượng còn biên soạn nhiều bài nghiên cứu lịch sử Phật Giáo hết sức giá trị. Đã từng là Chủ Nhiệm Tạp Chí Nguồn Sống và còn là một nhà thơ với những bài thơ đầy thiền vị.
Sau thời gian gặp khó khăn dưới chế độ Cộng Sản và vì chí nguyện hoằng pháp lợi sanh, Hòa Thượng đã vượt biển tìm tự do năm 1980 để tiếp tục lý tưởng phụng sự chánh pháp và dân tộc. Suốt thời gian tạm cư tại trại tỵ nạn Galang, Nam Dương, Ngài đã thành lập chùa Kim Quang, chùa Quan Âm và tận lực hướng dẫn đồ chúng tu học và đã trở thành một biểu tượng ngời sáng làm nơi quy hướng của những người con Phật đang bơ vơ lạc lõng tại xứ người. Sau khi định cư tại Hoa Kỳ năm 1981 Hòa Thượng càng nổ lực hơn nữa trong vai trò của một Trưởng Tử Như Lai, tác Như Lai sứ, thừa Như Lai sự. Những chức vụ mà Ngài đã đảm nhiệm theo thời gian là:
· Hội Trưởng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Sacramento và Trụ Trì Chùa Kim Quang
· Phó Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam Tại Hoa Kỳ
· Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Tăng Sự của Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam Tại Hoa Kỳ
· Thành Viên Hội Đồng Đại Diện của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Tại Hoa Kỳ - Văn Phòng II Viện Hóa Đạo
· Chủ Tịch Hội Đồng Giám Luật Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Tại Hoa Kỳ - Văn Phòng II Viện Hóa Đạo
· Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Tăng Sự của Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Tại Hoa Kỳ - Văn Phòng II Viện Hóa Đạo đồng thời lãnh đạo tinh thần các Hội và Chùa:
· Chùa Vạn Hạnh, Rochester, NY.
· Chùa Từ Hiếu, Buffalo, NY.
· Chùa Quan Âm, Binghamton, NY.
· Chùa Phổ Quang, Salt Lake City, UT.
Năm 1985, Hòa Thường cùng với chư tôn Thiền Đức trong Giáo Hội đã tổ chức Đại Giới Đàn Đại Nguyện tại chùa Kim Quang, Sacramento. Hòa Thượng là trưởng ban Kiến Đàn trong Giới Đàn đó.
Ngoài việc xiển dương Chánh Pháp cứu độ quần sanh, Ngài còn sát cánh với Giáo Hội tích cực vận động cho sự tự do, bình đẳng, dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam.
Ngài là bậc Thầy đặc biệt thương yêu, hết lòng quan tâm nâng đỡ, giáo dưỡng và xây dựng tổ chức Màu Lam của Gia Đình Phật Tử Việt Nam.
Cuộc đời của Ngài là một tấm gương ngời sáng, một bài học sống vô giá qua nhiều khía cạnh nhất là thời gian Hòa Thượng thị bệnh để độ chúng. Dù trải qua thời gian dài với bệnh duyên đầy thử thách nhưng Hòa Thượng vẫn giữ được đạo phong tự tại, uy nguy, thanh thoát của mình và chứng tỏ được đạo hạnh khả kính của một bậc Tôn túc giáo phẩm thạc đức. Đây là thời gian mà đại chúng học ở Hòa Thượng những bài Pháp không lời đầy khế cơ, khế lý.
Thuận thế vô thường Hòa Thượng đã an tường xả bỏ báo thân lúc 8 giờ 20 tối ngày 31 tháng 7 năm 2003, nhằm ngày mồng 3 tháng 7 năm Quý Mùi tại thủ phủ Sacramento, California, Hoa Kỳ. Thế thọ 69, Đạo lạp 52, Hạ lạp 36. Dù xác thân tứ đại huyễn hóa của Hòa Thượng không còn nữa nhưng những lời dạy cao quý nhất là những hành hoạt đầy vị tha vô ngã của Ngài đối với Dân Tộc và hình ảnh dấn thân tận tụy hy hiến cho Đạo của Hòa Thượng vẫn còn mãi trong trái tim của hàng triệu người con Phật.
Vô thường thị thường, tịch diệt phi diệt, nhất tâm cầu nguyện giác linh Hòa Thượng thượng phẩm thượng sanh, bất vi bổn thệ, hồi nhập ta bà để Hòan thành hạnh nguyện độ sanh cao cả.
Nam Mô Tự Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Nhị Thế húy thượng Như hạ Phụng, tự Thiện Trì, hiệu Ấn Đạo giác linh Hòa Thượng thùy từ chứng giám.
Chùa Kim Quang - Photo: BXK |
THE BIOGRAPHY OF THE MOST VENERABLE
THICH THIEN TRI
The Most Venerable Thich Thien Tri, named Nguyen Duy Hien, belonged to the Lam Te Chanh Tong lineage of the forty-second generation. He was born on February 19, 1934 in Nhon Khanh commune, An Nhon District, Binh Dinh Province.
He came from a purely Buddhist family. His father was Mr. Nguyen Han and his mother was Mrs. Bui Thi Thiep. He has 10 siblings, 5 brothers and 5 sisters. Of which, there were 3 sons who have dedicated their life as Buddhist monks, Himself, Venerable Thich Thien Huu, and Venerable Thich Vien Man.
When he was just 17 years old, awared of the impermanence of death and the reality of suffering in his life, he began his journey to pursue ‘enlightenment’. In the beginning, he practiced at Thap Thap Temple in Binh Dinh, and then at Son Long Temple, Tuy Phuoc. After his Venerable Master passed away in 1965, he studied at Hai Duc Buddhist Institute in Nha Trang. He graduated at a Buddhist School in Hue in 1971, after which he was appointed as Dharma Teachers for many Buddhist Schools in the Central and Southern Provinces. He taught widely in the southern part of Vietnam and because of his virtuous conduct, he was also invited to be the abbot of Kim Quang Pagoda in Phan Thiet. Even with his busy schedule, he still invested his time and energy in translating and composing.
He translated quite a few Buddhist texts in his lifetime that included:
- Kim Quang Minh Sutra
- Medicine Sutra
- Amitabha Sutra
- Maitreya Sutra
- The Sutra of Eight Awakenings of Great Beings
- Prajna Heart Sutra
He was also a writer and a poet.
In 1980, after a difficult time under the Communist regime and for the sake of spreading Buddhism, the Venerable escaped Vietnam as a Boat person, to find freedom and to continue the ideal of serving the Dharma and the nation. During his stay at the Galang Refugee Camp, Indonesia, he founded Kim Quang Temple, Quan Am Pagoda and devoted himself to the cultivation of the monastic discipline and became a symbol of brightness as the direction of the people. After resettling in the United States in 1981, he was the first Abbot of our Kim Quang Temple and he held many great leadership positions. To name a few:
· President of Vietnamese Buddhist Association in Sacramento and Abbot of Kim Quang Pagoda
· Vice President of United Vietnamese Buddhist Association in the United States
· Director of the General Department of Sangha of the Unified Buddhist Church of Vietnam in the United States.
He also found the following centers:
· Van Hanh Pagoda, Rochester, NY.
· Tu Hieu Temple, Buffalo, NY.
· Quan Âm Temple, Binghamton, NY.
· Pho Quang Pagoda, Salt Lake City, UT.
In addition to promoting the Dharma as the salvation of sentient beings, he stood side by side with the Unified Buddhist Church and actively advocated for freedom, equality, democracy and human rights in Vietnam.
He was a special teacher in love who was devoted to supporting, educating and building the Blueprint of the Vietnamese Buddhist Youth Association in America.
His life is a shining example and a lesson that is invaluable in many respects. For example, the time the Venerable Master was ill. Despite the long period of challenging conditions, the Venerable Master retained his self-esteem, prestige and serenity, and he demonstrated the respectable virtue of a devout Buddhist monk. This was the time when the students studied in the Venerable Master's teachings which were not full of words, but experience and actions.
Venerable Thich Thien Tri passed away at 8:20 pm on July 31, 2003. He was 70 years old. Although he is no longer illuminated, his most noble teachings are his selfless acts towards the Nation and to leading by example. His devotions still live on in the hearts of many Buddhists who met him.
The lesson of impermanence is real but yet we share our sorrow and pray for his return to this earthly realm to continue his vows of spreading the Dharma.
Translated by Tâm Thường Định