Showing posts with label Thích Tuệ Sỹ. Show all posts
Showing posts with label Thích Tuệ Sỹ. Show all posts

Friday, October 24, 2025

Hội Đồng Hoằng Pháp: Thông bạch Lễ Đại tường Trưởng lão Hòa thượng THÍCH TUỆ SỸ

 

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
HỘI ĐỒNG HOẰNG PHÁP


THÔNG BẠCH

LỄ ĐẠI TƯỜNG TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH TUỆ SỸ

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Kính bạch chư tôn Thiền Đức Tăng, Ni,
Kính thưa quý Thiện Nam, Tín Nữ Phật tử,

Trưởng Lão Hòa Thượng Húy thượng Nguyên hạ Chứng, Hiệu Thích Tuệ Sỹ, đời thứ 44 Dòng Lâm Tế đã viên tịch vào ngày 24 tháng 11 năm 2023 tại Chùa Phật Ân, Việt Nam.

Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ là bậc Cao Tăng, Thạc Đức của Phật Giáo Việt Nam trong thời hiện đại. Ngài là nhà giáo dục lớn của nhiều thế hệ Tăng, Ni và Phật tử Việt Nam từ Viện Đại Học Vạn Hạnh cho đến các Viện Cao Đẳng Phật Học như Hải Đức-Nha Trang và Quảng Hương Già Lam-Sài Gòn. Ngài là nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh Điển với các Kinh, Luận như Kinh Duy-ma-cật Sở Thuyết, Kinh Thắng Man, bốn bộ Kinh A-hàm, Luận Câu-xá, Luận Thành Duy Thức, v.v…, đặc biệt là vào cuối năm 2021 Ngài đã phục hoạt công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam do Viện Tăng Thống GHPGVNTN thành lập vào năm 1973. Ngài là nhà nghiên cứu Phật Học với nhiều tác phẩm giá trị như Huyền Thoại Duy-ma-cật, Thắng Man Giảng Luận, Triết Học Về Tánh Không, Tổng Quan Về Nghiệp, Thiền Định Phật Giáo, v.v… Ngài là nhà văn, nhà thơ với nhiều thi phẩm đặc sắc như Tô Đông Pha Những Phương Trời Viễn Mộng, Giấc Mơ Trường Sơn, Thiên Lý Độc Hành, v.v… Ngài là nhà lãnh đạo đã có công duy trì mạng mạch của GHPGVNTN trong hoàn cảnh khó khăn và bế tắc. Ngài là người đặc biệt quan tâm đến việc truyền bá Phật Pháp đến thế hệ con em mà cụ thể là tổ chức Gia Đình Phật Tử Việt Nam.

Để tưởng niệm một bậc Thạch Trụ Tòng Lâm đã có nhiều cống hiến to lớn đối với Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam, Hội Đồng Hoằng Pháp GHPGVNTN sẽ tổ chức Lễ Đại Tường của Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ vào Thứ Bảy và Chủ Nhật, ngày 29 và 30 tháng 11 năm 2025 tại Tu Viện Đại Bi, 13852 Newland St, Garden Grove, CA 92844. Chương Trình gồm:

– Thứ Bảy, ngày 29-11-2025, từ 4:30 đến 7:30 giờ chiều: Chiều thơ nhạc thiền và tọa đàm để tưởng niệm về những đóng góp của Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ trong lãnh vực tư tưởng, văn học, văn hóa, dân tộc và Phật Giáo Việt Nam.

– Chủ Nhật, ngày 30-11-2025, từ 10 đến 11 giờ sáng: Cử hành nghi thức Lễ Đại Tường, tuyên đọc tiểu sử Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, và giới thiệu công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam đã ấn hành Thanh Văn Tạng đợt 3.

Mọi chi tiết, xin liên lạc TT. Thích Hạnh Tuệ tại số (619) 278-9837; Cư sỹ: Thị Nghĩa Trần Trung Đạo tại số (781) 424-6811 và Htr. Tâm Thường Định – Bạch Xuân Phẻ tại số (916) 607-4066 hoặc Email là hdhp.bbc@gmail.com 

Thay mặt Hội Đồng Hoằng Pháp GHPGVNTN, nhất tâm cung thỉnh chư tôn Thiền Đức Tăng, Ni từ bi quang lâm chứng minh và hộ niệm; đồng thời thành tâm kính mời quý Thiện Nam, Tín Nữ Phật tử và các anh chị em Gia Đình Phật Tử Việt Nam hoan hỷ tham dự đông đủ để tỏ lòng tri ân công hạnh cao dày của bậc Đại Sĩ đã vì chúng sinh mà hiện thân vào cõi đời này để hoằng dương Phật Pháp.

Nam Mô Thập Phương Thường Trú Tam Bảo tác đại chứng minh.

San Diego, California, Ngày 20 tháng 10 năm 2025
TM. Hội Đồng Hoằng Pháp GHPGVNTN, Trưởng Ban Tổ Chức
Phó Thư Ký HĐHP
(Ấn ký)
Tỳ-kheo Thích Nguyên Siêu
Viện Chủ Chùa Phật Đà, San Diego, CA.

Thursday, December 19, 2024

HT Thích Tuệ Sỹ tâm tình với GĐPT Việt Nam tại Hải Ngoại

HT Thích Tuệ Sỹ tâm tình với GĐPT Việt Nam tại Hải Ngoại


https://www.youtube.com/watch?v=fyasm5_pDWY


Lời Dẫn: Trong tinh thần tri ân và tưởng nhớ, chúng con xin được chia sẻ lại một kỷ niệm quý báu với Cố Trưởng lão Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ. Đây là lần đầu tiên các Huynh trưởng cao cấp của tổ chức Gia Đình Phật Tử Việt Nam tại hải ngoại có duyên lành được tiếp xúc và thăm hỏi Hoà thượng. Cuộc hầu chuyện đầy ý nghĩa này đã diễn ra vào tối ngày 29 tháng 4 năm 2021, lúc 8:30 giờ tối qua hệ thống Zoom.

Sau buổi hội ngộ, chúng con đã trân trọng gửi những lời dạy của Thầy đến quý Ban Hướng Dẫn các cấp Hải Ngoại, Quốc Gia, và các Huynh trưởng có thẩm quyền. Tuy nhiên, với thời gian, chúng con nhận thấy rằng những lời thương yêu và chỉ dạy của Thầy không chỉ dành riêng cho tổ chức GĐPT Việt Nam mà còn là món quà quý giá cho số đông. Vì vậy, với lòng biết ơn sâu sắc đối với tình thương bao la của Thầy và Giáo Hội, chúng con xin mạn phép chia sẻ những ý chính của cuộc hầu chuyện này đến toàn thể đại chúng.

Lời Thầy không chỉ là những lời dặn dò mà còn là nguồn cảm hứng lớn lao, nhắc nhở chúng ta luôn sống trong tinh thần từ bi và trí tuệ, phụng sự cho sự nghiệp hoằng pháp và lợi lạc của số đông. Kính mong đại chúng cùng lắng nghe với tất cả sự trân trọng và lòng biết ơn. Chúng con xin được tóm lược những ý chính từ cuộc hầu chuyện và những lời dạy bảo đầy trí tuệ và từ bi của cố Trưởng lão Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ.

Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát

  1. Tầm quan trọng của giáo dục thế hệ trẻ: Hòa thượng nhấn mạnh rằng việc giáo dục Gia Đình Phật Tử, đặc biệt là thế hệ đoàn sinh trẻ (thế hệ Z và thế hệ Alpha), cần phải thích ứng với những thay đổi liên tục của thời đại. Thế hệ trẻ hiện nay rất quan tâm đến những vấn đề như môi trường và xã hội, vì vậy, cách giáo dục cũng cần phù hợp với những mối quan tâm này.

  2. Khế lý và khế cơ: Giáo lý Phật giáo luôn phù hợp với mọi thời đại, nhưng cần phải tìm cách truyền đạt sao cho phù hợp với thực tế và nhu cầu của từng thế hệ. Khế cơ (phù hợp với căn cơ) là điều cần được đặc biệt chú ý khi giáo dục lớp trẻ. Chúng ta chỉ có khoảng 5 năm để hướng dẫn và dìu dắt các em.

  3. Sử dụng công nghệ và phương tiện hiện đại: Hòa thượng chỉ ra rằng thời đại công nghệ đã thay đổi cách con người giao tiếp và sinh hoạt. Các hoạt động Phật giáo, kể cả giáo dục và truyền bá giáo lý, cần tận dụng những phương tiện truyền thông hiện đại để kết nối và hướng dẫn thế hệ trẻ.

  4. Vai trò của Huynh trưởng: Hòa thượng nhắc đến tầm quan trọng của việc có một thế hệ huynh trưởng trung gian (giữa lớp người lớn tuổi và thế hệ trẻ) để chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm Phật giáo. Những huynh trưởng này cần năng động, hiểu rõ giáo lý Phật Đà và biết cách kết nối với lớp trẻ.

  5. Phát triển Phật giáo trong xã hội: Hòa thượng khuyến khích Gia Đình Phật Tử không chỉ giới hạn sinh hoạt trong chùa, mà còn tham gia đóng góp cho xã hội, nâng cao tinh thần Phật giáo qua những hoạt động xã hội hữu ích. Hòa thượng nhấn mạnh rằng Phật giáo cần được đưa vào thực tế đời sống, chứ không chỉ là lý thuyết hoặc học thuyết.

  6. Tầm quan trọng của nghiên cứu và thích ứng: Hòa thượng cũng khuyến nghị các tổ chức Phật giáo cần có nghiên cứu chuyên sâu về xã hội học để hiểu rõ hơn những thay đổi trong tâm lý và nhu cầu của người trẻ. Điều này sẽ giúp tổ chức Gia Đình Phật Tử thích ứng và phát triển phù hợp với thời đại, (ví dụ… đơn giản hoá vấn đề hành chánh trong tổ chức).

Lời dặn dò của cố Trưởng lão Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ xoay quanh việc tìm phương hướng, cách chuyển giao, truyền bá giáo lý Phật Đà đến với tuổi trẻ–trong tổ chức GĐPT là tối ưu quan trọng–một cách sáng suốt, linh hoạt và phù hợp với từng thế hệ, đồng thời phải luôn mở lòng để học hỏi, nghiên cứu và phát triển theo nhịp bước của xã hội hiện đại.

Xin cảm ơn Phật tử Diệu Danh đã bỏ thời giờ đánh máy lại nguyên văn cuộc đàm thoại này.


Hoà Thượng Thích Tuệ Sỹ nói chuyện với Huynh trưởng cao niên và thâm niên của tổ chức Gia đình Phật Tử

    

Huynh trưởng Tâm Thường Định Bạch Xuân Phẻ (BXP)

  Nam Mô A Di Đà Phật. Kính bạch Ôn, chúng con rất là vui, hôm nay được hầu chuyện cùng Ôn. Chúng con được biết những Tâm Thư của Ôn đã gửi ra và chúng con đã lắng nghe, nhiều anh chị em rất là quan tâm với sự dạy dỗ của Ôn. Chúng con được biết sắp tới đây, những Ban Hướng Dẫn đang sắp có những buổi sinh hoạt để chuẩn bị cho Đại Hội cũng như có những sinh hoạt “Tình Lam dành cho huynh trưởng cấp Dũng” sắp đến. Đây là lần đầu tiên có khoảng 20 huynh trưởng cấp Dũng đang sinh hoạt online, là lần đầu tiên sinh hoạt chung ở Mỹ cũng như tại Hải ngoại.

     Nhân đây chúng con cũng kính Ôn cho chúng con vài lời như một lời chỉ dạy để chúng con lấy đó làm cương lĩnh mà sinh hoạt. A Di Đà Phật, chúng con cung kính mời Ôn.

    Hoà Thượng Thích Tuệ Sỹ: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Kính chào các anh chị, có lẽ đây là lần đầu tiên tôi được nói chuyện với các anh chị. Có những điều tâm sự nói chuyện với nhau thì tốt hơn, các anh chị có nhiều người lớn hơn hoặc nhỏ hơn tôi nhưng phần lớn cùng thế hệ. Những người đã trải qua một giai đoạn chiến tranh, rồi qua một thời kỳ của Cộng sản, qua thời kỳ thay đổi bản chất Cộng sản, qua rất nhiều thời kỳ, cái đó qua rồi thì không trở lại nữa, chắc chắn thay đổi. Thay đổi quan trọng nhất là qua cái thời kỳ đại dịch này, sẽ có rất nhiều thay đổi giáo dục của chúng ta đối với Gia đình Phật tử, đối với đoàn sinh là chính, giáo dục họ là chính, mà đoàn sinh nhắm đến thế hệ tương lai, gọi là thế hệ sắp đến, cách mà các nhà xã hội học của Mỹ, Âu Châu hiện tại áp dụng ở Mỹ và Úc nhiều nhất nên ta gọi là thế hệ Z, thế hệ Alpha.

     Thế hệ Z là thế hệ trẻ em đang trưởng thành, thế hệ các em đang vận động vấn đề môi trường, môi sinh tạo tiếng vang cả thế giới. Đây là điều chúng ta phải suy nghĩ lớp trẻ. Tuy rằng nó mang tính chất là phong trào cho môi trường, không có mang tính cách chính trị, nhưng mà chúng ta thấy rằng, lớp trẻ đang đòi hỏi ở lớp già cái gì? Rồi qua lớp Alpha là lớp của tuổi đang nhỏ mới lớn lên nữa, sự giáo dục hướng lên những cái đó đòi hỏi phải có điều kiện, phải suy nghĩ, Tôi cũng đang suy nghĩ nhiều, thực ra chúng ta không bao giờ nói rằng giáo lý Phật không phù hợp thời đại, luôn luôn hợp thời đại, vì rằng cái khổ là cơ bản của con người. Khổ là một cái chính, xã hội nào con người cũng mong xã hội hòa bình và đem lại sự an lạc. Cái an lạc tuyệt đối giải thoát Niết Bàn mình không thể đạt ra được. An lạc trong một xã hội mình có thể đạt được, nhưng làm cách nào ta gọi là khế lý và khế cơ. Khế cơ là khế cơ thế nào trong lớp trẻ họ lên? Nên ngày nay chúng ta thấy rồi: ngồi nói chuyện với nhau qua mạng, liên hệ với nhau qua mạng, không cần gặp nhau, sinh hoạt qua mạng. Nhất là các anh phải để ý rằng trong các nghiên cứu hiện tại, từ các giáo sư tại các trường đại học, các nhà nghiên cứu về kinh tế và xã hội, ngay cả các nhà tư bản, chủ các xí nghiệp. Cái họ đặt ra là vấn đề sản xuất, sản xuất những gì thế hệ tới họ tiêu thụ hợp và phát triển trí tuệ và cả nhân cách nữa, tức là người ta lấy kinh tế, sản xuất và phân phối hai cái là chính, Trong mình, mình phải để ý tới cho hợp với thời đại. Đây là điều nghiên cứu.

     Cái khó của chúng ta là các anh cũng như chúng tôi thôi, mình sống từ kinh nghiệm của mình, và kinh nghiệm sống, có khác là trong thời buổi chiến tranh, mình nghĩ cái quản lý xã hội, quản lý đoàn thể theo cái mẫu mực của thời buổi chiến tranh và cũng là hành chánh, hành chánh không có giấy tờ. Bây giờ là quản lý xã hội, thông qua, tức là nói chuyện trực tiếp với nhau. Bây giờ tôi nói chuyện với anh cũng qua online không hà và ngay cả các Giáo hội cần công chuyện gì như là bổn đạo đi tới nhà thờ, đền thờ. Như là Thiên Chúa và Hồi Giáo bây giờ người vẫn làm lễ ban phép qua online cũng làm trực tiếp được, cái đó là cái điều mình phải suy nghĩ. Cái thế hệ chúng ta không có kinh nghiệm về cái điều này, có biết thì biết theo đuôi vậy thôi, ngay cả như tôi cũng vậy, tôi chạy rất nhanh theo cái thời đại, nhưng mà có những cái mình thấy thua con nít bây giờ mình thấy thua nó, nó sáu bảy tuổi mà đã hơn mình, nhờ nó mở máy ra, nó mở một cách dễ dàng quá, mình nhiều khi mò không ra.

     Thành ra bây giờ mình phải giáo dục thế nào? Mình phải cần một thế hệ trung gian, đây là điều cần thiết. Tức là tôi đã đặt hồi xưa, tôi đặt vấn đề rồi, tôi đặt vấn đề một gia đình ba thế hệ, thế hệ ông, đó là gia đình các anh là huynh trưởng cấp Dũng là một, gia đình thứ hai là gia đình bố mẹ, cô bác gia đình đó là cấp Tấn. Và cuối cùng các đoàn sinh là con cháu. Thì cấp Tấn bây giờ là giới trẻ còn lớn lên còn hoạt động, cấp Tấn bây giờ xuống 40, 30 trở lên cho hoạt động qua trung gian lớp đó năng động. Thực sự ra tôi thấy cấp Tấn bây giờ có nhiều anh đã năm sáu chục tuổi còn đỡ, 50 đến 60 đã hơi lạc hậu rồi. 60 đến 70 lạc hậu rồi, thì qua trung gian họ, họ sẽ trực tiếp xuống dưới đó, mình nắm vững giáo lý mình sinh hoạt, mình sống từ nhỏ tới lớn mình sinh hoạt, giáo lý của Phật nằm trong lòng rồi, cái đạo đức của Phật nằm trong đó thì mình giữ cái cang thường tới mức đó, truyền kinh nghiệm đó cho thế hệ đàn em đó là thế hệ gọi là cấp Tấn. Nhưng cấp Tấn phải chia làm hai phần là phần già và trẻ ở trong đó. Tiếp đó họ trực tiếp với đàn em dưới này, lớp thanh niên từ 18, 19 cho đến 14, 15, họ truyền xuống, đây là phải tìm cách tiếp nối thế hệ này qua thế hệ khác, vấn đề đặt ra rất nặng mình không thể làm một lần được, tôi hy vọng là sẽ có nhiều lần nói chuyện với các anh có điều kiện chung thì góp ý kiến, chứ bây giờ nói rằng hiểu biết thế giới thì tôi cũng chịu thua rồi! mặc dù tôi theo dõi, nhưng mà cái theo dõi nó hạn chế là vì ở Việt Nam sách vở không có thể trực tiếp như bên Mỹ được. Phần lớn là qua Internet hay qua Google, Bác Google bác giới thiệu cho chứ không có gì hết. Thực sự bác Google cho các trường đại học nhưng làm vẫn hạn chế, chẳng nghiên cứu đầy đủ.

     Phật giáo mình nhất là Việt Nam mình qua thời kỳ chiến tranh, cái giáo hội mình cũng chia năm xẻ bảy, thành ra không có một trung tâm nghiên cứu nào có tầm cỡ để chỉnh yếu được. Ở Việt Nam nhiều lần tôi nói với các anh trẻ cố gắng làm thế nào để đạt được một cái ban để nghiên cứu. Thực sự ra theo dõi sinh hoạt tâm lý để hướng dẫn chứ mình không thể nào cứ tới chùa rồi theo sách học như hồi xưa được. Phải theo dõi rằng khi họ đi chùa phải thay đổi như thế nào, họ suy nghĩ như thế nào? Trong tương lai như thế nào? Rồi một lớp học từ gia đình phật tử ra trường làm việc, họ thay đổi như thế nào, phải kiểm soát được. Đây là vấn đề nghiên cứu xã hội học, mình không thể làm nổi, chắc chắn không làm nổi, trừ khi có một giáo hội lớn, một tổ chức lớn.

     Hồi xưa có Tổng vụ Thanh Niên, nhưng mà thanh niên trong thời chiến tranh, ngoài chuyện đi chùa phần lớn dồn nỗ lực vào đấu tranh cho hòa bình, dân tộc, thì mình có điều kiện nào tổ chức cho thế hệ trẻ, Mà thế hệ trẻ hồi đó lớn lên có một khúc quanh nhất là làm thế nào cho sống còn qua cơn chiến tranh, tương lai tùy thuộc chiến tranh, thành ra không nghĩ gì tới chuyện giáo lý khế lý, khế cơ cho nhiều. Nhưng bây giờ đòi hỏi rất nhiều, từng thế hệ đi qua nó có thay đổi. Thực ra 10 năm. Hồi xưa người ta đặt ra một thế hệ 20 năm mới có thay đổi. Hai chục năm mới có một sự thay đổi, nhưng bây giờ chỉ mười năm thôi, mình mới thấy đó là cái cô bé Greta Thunberg ở Thụy Điển gọi là thế hệ G, nhưng bây giờ cô đã lên 18 tuổi rồi là còn thế hệ nhỏ khác lên, đó là cô bé Greta mà Tổng thống Biden đề nghị cô đứng đầu trong phong trào tuổi trẻ vận động cái môi sinh này.

      Ngoài môi sinh ra mình sẽ có nhiều vấn đề cho tuổi trẻ, mình huấn luyện cho một gia đình Phật tử đủ trình độ, đủ khả năng mà để ra ứng phó ngoài đời chứ không thể là ở trong chùa, đóng khung chùa chỉ biết niệm Phật, tụng kinh và hiểu giáo lý, đọc Duy Ma Cật vanh vách, đọc Thắng Man vanh vách mà ra đời không biết làm gì để áp dụng. đạo đức Phật giáo thì có thể giữ được nhưng mà cũng áp dụng được, thì đây là thiếu sót, Trong vấn đề kinh tế, trong vấn đề giáo dục phải có những gia đình Phật tử để hỗ trợ, họ đi vào, họ đưa Phật Giáo vào, không nói rằng tôi dạy theo Phật Giáo, mình đem tinh thần Phật giáo giáo dục cho xã hội, mình đóng góp xã hội. Xã hội Việt Nam ở Việt Nam, ở Tây thì xã hội Tây mình đóng góp tất cả cho xã hội nâng cái tầm mức của Phật Giáo lên, không nói Phật Giáo Việt Nam mình đóng góp trên cái sự nghiệp nâng tầm mức Phật Giáo lên tầm cỡ thế giới. Chứ bây giờ Phật Giáo vẫn là một tôn giáo lớn chỉ giới hạn trong vấn đề trí thức, chứ không bằng các Tôn Giáo khác, chưa có thể nói rằng là mình đem cái tâm nguyện từ bi, đại bi của Phật mà gieo rắc khắp cả cái thế giới này được, chưa được, mới có một phần nhỏ hà, số đó quá ít, chưa xứng đáng cái tầm vóc của giáo lý Đức Phật. Thì bây giờ thì nói nhiều, lui tới cũng chừng đó, tại vì chúng ta nói cụ thể hơn, tôi cũng cần cái cụ thể hơn, và tôi mong rằng có điều kiện sẽ gặp lại các anh chị, với anh cũng chuẩn bị đi, mình tiếp xúc với một thế hệ trẻ, thế hệ mới, thế hệ của anh Bạch Xuân Phẻ, và thế hệ học trò của anh nữa hiểu biết, rồi chúng ta sẽ nói chuyện rõ ràng hơn và góp ý để biết cho rõ ràng hơn, chừng đó sẵn chúng ta là thế hệ này sẽ nắm vững cái đường lối giáo dục thanh niên và truyền cái ý nghĩa đó, lớp trẻ họ sẽ làm cách nào. Phương cách họ làm. Làm cách nào để đưa xuống tuổi trẻ. Và tuổi trẻ lớp đoàn sinh, lớp tuổi trẻ này từ Oanh Vũ cho tới Thanh thiếu niên, những người này sắp bước vào đời, đã bước vào đời họ sẽ làm cái gì bằng kinh nghiệm mà họ tự làm lấy. Nói chung mình ở trên này bằng trí tuệ, xuống dưới lớp dưới đó bằng phương tiện. Cái lớp mà chịu cả phương tiện và trí tuệ là lớp đoàn sinh. Đây là nói trong giáo lý đó.

      Từ đại trí, mình không phải là đại trí nhưng mình đã sinh hoạt, đã hiểu Phật Giáo rồi, hiểu nằm lòng trong đó rồi, đem cái hiểu biết dó mình gọi là trí tuệ. Trí tuệ dù hạn hẹp nhưng vẫn có thể vận dụng được đưa xuống lớp trẻ, và lớp trẻ đó mình sẽ làm thế nào để họ có một phương tiện biết từ giáo lý để mà khai thác những phương tiện. Bằng phương tiện mình áp dụng cho đoàn sinh và đoàn sinh họ tự phát triển từ thế hệ này tiếp thế hệ khác. Đoàn sinh cỡ 18, 19 tuổi thì khi họ lớn lên rồi thì lớp sau nó kế  tiếp. Bây giờ thử ra chỉ 5 năm là kế tiếp rồi.

      Lớp Oanh vũ từ 13, 18 tuổi vô đại học rồi, cứ như vậy cứ 5 năm thay đổi, Năm năm thay đổi, Oanh vũ thay đổi, không phải Oanh vũ năm năm đầu giống nhau, đó là điều cần thiết. 

      Thì bây giờ tôi chỉ nói được chừng đó, tôi chỉ hiểu biết chừng đó, không nói gì thêm nhiều được, mong anh chị thông cảm, có điều kiện cho tôi nhiều thông tin tôi bàn tiếp, Tôi nằm tôi suy nghĩ thế nào cho nó tốt hơn, chứ bây giờ tôi chả biết gì hết đó. Cái nước Việt Nam này nó lạc hậu, tôi cũng lạc hậu theo rồi.

     Huynh trưởng Tâm Thường Định Bạch Xuân Phẻ (BXP): A Di Đà Phật, chúng con kính cảm ơn Ôn rất là nhiều và chúng con sẽ chuyển lời lại của Ôn cho đến những anh chị có cấp ở đây, hay ở Hoa Kỳ cũng như ở hải ngoại  những lời của Ôn đã dặn dò. Xin hẹn Ôn trong một thời gian tới rất là ngắn, để tất cả các huynh trưởng có thể ngồi lại để lắng nghe Ôn dạy bảo chi tiết hơn. Thưa Ôn để mà nói tiếp, không biết là Ôn có những đường hướng hành hoạt cụ thể mà như Ôn vừa đề cập không, để cho mình làm thế nào cho Gia đình Phật tử  trong cũng như ngoài nước ngày càng tiến vững lên?

    Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ: Có hai phần, một phần hình thức tổ chức, cái cơ cấu là quan trọng, cái này phải suy nghĩ lại. Cái cơ cấu mình vừa kể thì nó lạc hậu, quá lạc hậu rồi. Với lại tôi thấy hành chánh mình quá rườm rà, hành chánh giấy tờ thời kỳ chiến tranh bây giờ nó khác, mình làm nó khác, tôi nói với anh con nít làm gì “chiếu này chiếu nọ" chi cho mất công vậy? Có gì chiếu đâu, nhưng mà anh phải làm, không thể thay đổi được. Cái nguyên tắc hành chánh tồn tại như vậy được, mà lớp trẻ lên nhiều khi nó phiền cái đó lắm. Tôi không biết anh có phiền không? tôi thấy nhiều người lên mà cứ ngồi chờ đọc cho xong lệnh chiếu này, chiếu kia phiền lắm.

  Sau đó, chúng tôi kính cảm ơn Hoà Thượng Thích Tuệ Sỹ đã dành thời giờ cho chúng quý Huynh trưởng cao niên và thâm niên của tổ chức và cầu chúc Người pháp thể khinh an và chúng sanh dị độ. Cuộc hầu chuyện với Hoà Thượng Thích Tuệ Sỹ kết thúc vì đã đến giờ cơm trưa của Người.


                            Tâm Thường Định


                                            Phiên tả lại từ video clip: PT Diệu Danh


Thursday, January 11, 2024

Người Ôm Đại Dương


Người Ôm Đại Dương

Kính tiễn Giác Linh Thầy

Hôm nay thân xác tro bụi của Thầy được hoà vào đại dương mênh mông. Ôi Thái Bình Dương sâu thẳm. Cổ mộ của những con người yêu quê hương dân tộc da diết; cõi của sự sống; sinh tử tử sinh–sự tiếp nối nhiệm mầu. Trời Nam se nắng, mây trắng bay, Thầy thong dong huyễn hóa. Trời Tây mưa gió, buồn hiu. Nhìn về bên kia Đại dương, nhớ thương Thầy, nhớ luôn lời nói giọng thơ của Người.
“Giăng mộ cổ
Mưa chiều hoen ngấn lệ
Bóng điêu tàn
Huyền sử đứng trơ vơ
Sương thấm lạnh
Làn vai hờn nguyệt quế
Ôm tượng đài
Yêu suốt cõi hoang sơ.”
Ôm đại dương
Đến đi huyễn mộng
Tình thương bạt ngàn
Ôm đại dương
Mặt trời chói chang
Gió đùa cùng sóng
Lệ rơi đôi hàng
Ôm đại dương
Ngôi mộ cổ
Cõi tịnh
Bình yên
Ôm đại dương,
tình sâu nghĩa rộng
thênh thang tâm Thầy.
Ôm đại dương,
Từ thiên cổ
đến vô cùng
Trời mây hội tụ
Pháp Hoa muôn trùng.

Ngày Chung Thất của Thầy
Sacramento, CA. Jan.10.24
Tâm Thường Định khế thủ

Saturday, November 25, 2023

Tiểu sử Hòa Thượng THÍCH TUỆ SỸ - Biography of The Most Venerable Thích Nguyên Chứng; Dharma / Pen Name: Tuệ Sỹ

 

ON TUE SY 2

TIỂU SỬ

HÒA THƯỢNG THÍCH NGUYÊN CHỨNG
Hiệu: Tuệ Sỹ

 

Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, thế danh Phạm Văn Thương, sinh ngày 15-2-1943 theo khai sanh (gia đình khai tăng tuổi để thầy đi học), tuổi thật sinh ngày 05 tháng 4 năm 1945 (nhằm ngày 23 tháng 02 năm Ất dậu), tại tỉnh Paksé, Lào;

Thân phụ: Cụ ông Phạm Văn Phận, Pháp danh Trung Thảo, Thân mẫu: Cụ bà Đặng Thị Chín, Pháp danh Diệu Chánh,

Đồng nguyên quán xã Nghĩa Ninh, Đồng Hới, Quảng Bình, Trung phần Việt Nam.

Thuở nhỏ Thầy thường được theo mẹ đi chùa làng gần nhà, là nhân duyên để đến lúc Thầy chỉ muốn ở chùa không về nhà nữa. Năm 1952, do chạy giặc, Thầy được cha mẹ gởi lên chùa hành điệu hầu sư phụ là Hòa thượng khai sơn chùa Trang Nghiêm, làng Tân An, tỉnh Paksé, Lào. Năm 1954, 9 tuổi, Thầy chính thức được thế phát xuất gia tại chùa này. Đến năm 12 tuổi, vị Trụ trì chùa nhận thấy khả năng và thiên tư đặc biệt của người học trò này, đã khuyên gia đình nên đưa Thầy về Việt Nam để rộng đường tu học. Năm 1960 Thầy trở về Việt Nam, sống xa gia đình tại chùa Bồ đề, một ngôi chùa nhỏ gần cầu Gia Hội, Huế. Hành trang Thầy lúc đó là bộ Diệu Pháp Liên Hoa Kinh chữ Hán Thầy luôn giữ bên mình, đến năm 1968 do biến cố Tết Mậu thân mới bị lạc mất ở chùa Từ Đàm, Huế. Chú của Thầy là Hòa thượng Thích Trí Quang, một nhà lãnh đạo nổi danh của Phật Giáo trong thập niên 1960, lúc ấy cũng đang sống tại Huế.

Tuy vậy với bản tính độc lập, Thầy đã một mình giong ruổi qua các địa phương: Huế, Nha Trang, Sài Gòn, Tiền Giang và các tỉnh miền Nam, tự lập và sống nương nhờ các tự viện lớn nhỏ. Năm 1961, 16 tuổi, Thầy thọ giới Sa-di với Hòa thượng Thích Hành Trụ tại Sài Gòn. Năm này, Thầy thọ an cư Sa-di giới đầu tiên tại chùa Phật Ân, tỉnh Tiền Giang cùng với thầy Trí Minh. Sau cùng Thầy được Hòa thượng (viết tắt là HT) Thích Trí Thủ nhận về thiền viện Quảng Hương Già-lam ở Gò Vấp, Sài Gòn. Thầy tốt nghiệp Viện Cao Ðẳng Phật Học Sài Gòn năm 1964, học tại Viện Ðại Học Vạn Hạnh, Phân khoa Phật học niên khóa 1965. Với các bài viết về Thế Thân (Vasubandhu), về A-tỳ-đạt-ma câu-xá luận, HT Thích Đức Nhuận là người đầu tiên phát hiện tài năng của người tu sĩ trẻ, đã giới thiệu Thầy vào Viện ĐH Vạn Hạnh. HT Thích Mãn Giác phó Viện trưởng lúc đó đã đề nghị Viện trao bằng Cử nhân cho Thầy, nhưng Thầy xin phép được từ chối.

Thầy được đặc cách bổ nhiệm Giáo sư thực thụ Viện Ðại Học Vạn Hạnh từ năm 1970 nhờ những công trình nghiên cứu Phật học và những khảo luận Triết học có giá trị cao như Ðại Cương Về Thiền Quán, do Đại lão HT Thích Đôn Hậu giới thiệu, Liên Hoa ấn quán in 1967, Triết Học về Tánh Không (An Tiêm xuất bản, Saigon 1970), v.v… Sau đó Thầy kiêm Xử lý Khoa trưởng Phân khoa Phật học tại Đại học này (niên khóa 1972-1973). Thầy tinh thông chữ Hán, biết nhiều ngoại ngữ như Anh, Pháp, Lào, Thái, Nhật, Tây Tạng, thông thạo hai cổ ngữ Pali và Sanskrit. Thầy cũng đọc hiểu tiếng Ðức, nghiên cứu kỹ về Heidegger và Hoelderlin. Cuốn Thiền Luận nổi tiếng của D.T. Suzuki bản Việt ngữ tập 2 và 3 là do Thầy dịch, in và tái bản nhiều lần từ 1972 đến 1975.

Năm 1973, HT. Thích Trí Thủ thấy Thầy mãi lo việc nghiên cứu và giảng dạy, Ngài đã đốc thúc Thầy chuẩn bị thọ Đại giới Tỳ-kheo, và Sa-di Tuệ Sỹ đã chính thức thọ giới Cụ túc tại Đại giới đàn Phước Huệ tổ chức tại Phật học viện Trung phần, Nha Trang năm 1973, với HT. Đàn đầu Thích Phúc Hộ, HT. Yết-ma Thích Giác Tánh, Giáo thọ sư HT. Thích Trí Nghiêm, Thích Huệ Hưng.

HT. Tuệ Sỹ không chỉ uyên bác về Phật Giáo Nguyên Thủy và Ðại Thừa, Thầy còn tinh thông triết học Tây phương, văn chương, thơ, âm nhạc. HT nghiên cứu thẳng từ nguyên tác của các văn nhân, thi sĩ nổi tiếng của Trung quốc như Tô Đông Pha, Lý Hạ, Đỗ Phủ… Ngoài những khảo luận Triết học và Phật học, HT đã viết tác phẩm đầy thi vị: ‘Tô Ðông Pha, Những Phương Trời Viễn Mộng’ (Ca Dao xb, Sài Gòn, 1973). Về âm nhạc, HT chơi đàn guitar, violon, piano, thổi sáo. Thầy tìm hiểu âm nhạc dân tộc, lại rất am tường nhạc cổ điển Tây phương. HT làm nhiều thơ, viết một số truyện ngắn và các tiểu luận triết học, phê bình văn học đặc sắc, phần lớn đăng trên các tạp chí Khởi Hành (1969-1972) và Thời Tập (1973-1975) tại Sài Gòn. Đồng thời HT cũng là Tổng thư ký tòa soạn Tạp chí Tư Tưởng của Ðại học Vạn Hạnh. Tập thơ đặc sắc bằng chữ Hán, ‘Ngục trung mị ngữ’ được HT làm trong tù sau năm 1975, và các tập thơ ‘Giấc mơ Trường sơn’, ‘Những điệp khúc cho dương cầm’, ‘Thiên lý độc hành’ sau này đã được dịch ra Anh, Pháp, Nhật ngữ, phát hành rộng rãi tại hải ngoại.

Từ trẻ HT đã thuộc lòng các bộ Kinh Pháp Hoa, Kim Cang, Thắng Man, Duy-ma- cật… Duy-ma-cật sở thuyết là bộ kinh nêu cao tinh thần sống đạo mà chẳng cần y áo hay sự suy tôn kiểu cách. Có thể nói, tư tưởng Bồ-tát đạo trong kinh này và bộ kinh Pháp Hoa đã ảnh hưởng suốt cuộc đời tu học và hành Đạo của Thầy. Với kiến thức Phật Học uyên thâm, HT đã viết giảng luận “Huyền thoại Duy-ma-cật”, và đi theo hình mẫu lý tưởng này, HT đã không ngại dấn thân phụng sự, và ngài đã trở thành biểu tượng của sự đấu tranh ôn hòa cho các giá trị nhân quyền và tự do tôn giáo tại Việt Nam.

Năm 1973 HT về Nha Trang làm Giám học Phật học viện Trung phần (tức Viện Cao Đẳng Phật Học Hải Đức), do HT Thích Trí Thủ làm Giám Viện.

Năm 1975, HT Tuệ Sỹ đang phụ trách giảng dạy tại Phật học viện Trung phần, Nha Trang. Sau biến cố 30/4/1975, cơ sở này bị đóng cửa, HT về ẩn cư tại một miếng rẫy chùa ở ven rừng Vạn Giã, cách Nha Trang chừng 60 km.

Ðến năm 1977, HT vào Sài Gòn lánh nạn ở chùa Tập Thành quận Bình Thạnh. Năm 1978, HT bị nhà cầm quyền bắt giam 3 năm không xét xử (tội cư trú bất hợp pháp), cuối năm 1980 thì được phóng thích.

Do hoàn cảnh mấy năm lang thang và ở tù, nhận thấy giới thể bị ảnh hưởng, có thể không thanh tịnh (*), HT được thọ lại Đại giới Cụ túc tại Quảng Hương Già-lam năm 1982 do HT. Thích Trí Thủ làm đàn đầu, HT. Thích Trí Quang làm tôn chứng, HT. Thích Trí Tịnh làm tuyên luật sư.

Từ năm 1980 đến 1984, HT làm Giáo thọ sư cho khóa đào tạo đặc biệt tại Tu Viện Quảng Hương Già-lam do Trưởng Lão HT Thích Trí Thủ làm Giám Viện.

Tháng 4/1984, HT lại bị bắt cùng Giáo sư Trí Siêu Lê Mạnh Thát và 17 tăng ni, cư sĩ Phật tử. Trong phiên tòa kéo dài nhiều ngày vào cuối tháng 9 năm 1988, không chấp nhận luật sư chỉ định biện hộ mà hai thầy tự biện hộ cho mình, nhà cầm quyền đã kết án TỬ HÌNH hai Thầy Tuệ Sỹ và Trí Siêu vì tội “âm mưu lật đổ chính quyền”.

Do sự tranh đấu tích cực của các nhân sĩ trong và ngoài nước, cùng sự can thiệp của các cơ quan nhân quyền quốc tế, Hà Nội phải vội vã giảm án hai Thầy xuống còn 20 năm khổ sai, đem giam HT tại Xuân Lộc, Đồng Nai, sau đó chuyển riêng HT ra trại A-20 tỉnh Phú Yên. Tháng 10/1994, với sự phản kháng trong tù, HT bị nhà cầm quyền tách đưa ra trại giam Ba sao, miền Bắc. Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ đã được Tổ chức Human Rights Watch trao giải thưởng tranh đấu nhân quyền (Hellman-Hammett Awards) cùng với 7 nhà đấu tranh khác vào ngày 03/8/1998.

Năm 1998, Hà Nội trả tự do cho Hòa thượng, cùng với một số người khác. Trước đó, HT đã tuyệt thực trong tù. Vì trước khi thả, nhà cầm quyền áp lực buộc HT ký vào lá đơn gửi ông Chủ tịch nước “xin khoan hồng”, HT đã trả lời nội dung: “Chúng tôi đã không công nhận giá trị của phiên tòa này, tính pháp lý của bản án này, các ông không có quyền giam giữ chúng tôi thì sao lại có quyền khoan hồng hay ân xá chúng tôi.” Công an thuyết phục: không viết đơn thì không có lý do để thả được. HT đã khẳng khái đáp: “Đó là việc của các ông; nhưng nếu các ông cứ áp lực buộc chúng tôi ký đơn, tôi sẽ tuyệt thực phản đối.” Và Hà Nội đã phải trả tự do cho HT vào ngày 01/9/1998, sau 10 ngày Thầy không ăn và tiếp theo cả không uống, tổng cộng 14 ngày. Hòa thượng Tuệ Sỹ tuyệt thực một mình, không có tổ chức, bên ngoài không biết. Thấy sức khoẻ HT suy sụp nhanh chóng, chính quyền đã vội đưa bác sĩ vào xin điều trị, và đưa Thầy ra khỏi trại giam.

Ngày 02/9/1998, lúc 10 giờ 45, Hòa thượng Tuệ Sỹ được đưa lên xe lửa về Nam. Ngồi suốt 36 tiếng đồng hồ trên xe với sức khỏe rất yếu sau khi tuyệt thực trong tù, HT không chịu nổi nên được đưa xuống ga Nha Trang, về tạm ở Phật học viện Hải Ðức. Ít lâu sau công an lại ra lệnh HT phải về chùa Già Lam ở Sài-gòn, không được phép ở Nha Trang. Hòa thượng từ chối, viết một lá thư gửi cho nhà cầm quyền, nói “một là tôi tự do ở đâu tôi muốn, hai là vào tù trở lại, chứ mấy ông không thể thả tôi ra khỏi nhà tù nhỏ để nhốt tôi vào nhà tù lớn hơn là cả đất nước này”. Tin này lập tức được loan truyền trên báo chí hải ngoại thời đó.

Trước sau, Hòa thượng đã lãnh một án tử hình, 17 năm tù đày và ba lần bị quản thúc, trải qua các nhà tù khắc nghiệt khắp nam trung bắc. Tuy nhiên điều đó vẫn không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn, và vẫn giữ được lòng thanh thản bao dung không chút oán hận của Thầy.

Tháng 4 năm 1999, Hòa thượng Thích Quảng Ðộ đề cử Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ làm Tổng Thư Ký Viện Hóa Ðạo GHPGVNTN.

Năm 2002, với trách nhiệm Đệ Nhất Phó Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ là một trong những nhà lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, là người đóng góp rất nhiều cùng với nhị vị Hòa Thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Ðộ trong công cuộc đấu tranh đòi hỏi quyền tự do tôn giáo tại Việt Nam, nhất là quyền phục hoạt của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

Những lời tuyên bố của người tù lương tâm tôn giáo Thích Tuệ Sỹ tại tòa án, cũng như khí phách kiên cường lúc trong tù, là tấm gương sáng, là niềm tự hào của Phật giáo và của dân tộc: “Lập trường của chúng tôi là lập trường của Phật giáo, là lập trường của toàn khối dân tộc.” Ðối với Hòa thượng Tuệ Sỹ, sức mạnh của Phật giáo không phải là Chính trị, mà là Văn hóa và Xã hội, trong đó Giáo dục có vai trò rất quan trọng. Nhưng công cuộc giáo dục này phải do Giáo hội độc lập đề ra, không thể chịu sự kiểm soát hay áp đặt của bất cứ thế lực nào, thì mới mong đào tạo ra những thế hệ tăng ni có tài đức để phụng sự xã hội, xứng danh trong hàng Tăng Bảo.

Tiếp đến, đầu tháng 3/2003, Hòa thượng Tuệ Sỹ khâm lệnh Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang, từ nơi bị quản thúc tại Quảng Hương Già-lam, Thầy đã tháp tùng Hòa thượng Thích Huyền Quang ra Hà Nội chữa bệnh và chuẩn bị gặp Thủ tướng đương thời là ông Phan Văn Khải, để yêu cầu ngài Thủ tướng giải quyết việc đã đình chỉ sinh hoạt của GHPGVNTN từ sau năm 1975, cũng như sự cấm đoán, quản chế không xét xử bản thân Hòa thượng cùng với HT. Thích Quảng Độ và một số Tăng ni, Phật tử khác. Trong dịp này, đại diện ngoại giao của 6 nước thành viên Khối Liên Âu và Hoa Kỳ tại Hà Nội đã chủ động tìm gặp Hòa thượng Tuệ Sỹ, mời Hòa thượng đến thăm, làm việc tại trụ sở ngoại giao của phái bộ Liên Âu ở Hà Nội. Họ đón Hòa thượng đi một mình, không có thị giả, người phiên dịch.

Ngày 01/10/2003, Hòa thượng đã cùng nhị vị Hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ tổ chức Đại hội bất thường GHPGVNTN tại Tu viện Nguyên Thiều, Bình Định. Sau Đại hội này, hai vị Đại lão Hòa thượng cũng như Hòa thượng Tuệ Sỹ và một số Tăng ni tham dự đã bị nhà cầm quyền quản chế mỗi người một nơi, giám sát chặt chẽ. Tuy nhiên với tinh thần ‘uy vũ bất năng khuất’, Hòa thượng đã sát cánh cùng nhị vị HT Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ ủy thác cho các GHPGVNTN Hải ngoại tổ chức Đại hội bất thường GHPGVNTN tại Tu Viện Quảng Đức, Melbourne, Úc Châu trong cùng năm 2003. Chính Đại hội này đã công bố đầy đủ nhân sự lãnh đạo Giáo hội trong nước và hải ngoại, và toàn thể Tăng ni Phật tử đã suy tôn Đại lão HT Thích Huyền Quang lên ngôi vị Đệ tứ Tăng thống GHPGVNTN.

Năm 2008, đức Đệ Tứ Tăng thống GHPGVNTN Thích Huyền Quang viên tịch. Ngôi vị được trao lại cho Đại lão HT Thích Quảng Độ truyền thừa, là Đệ Ngũ Tăng thống GHPGVNTN.

Từ đây, Hòa thượng Tuệ Sỹ được yên tâm dành hết thời gian và sức lực cho công việc trước tác, phiên dịch Phật ngôn, và đào tạo từng nhóm tăng ni đủ trình độ nghiên cứu Phật học, phiên dịch kinh điển sau này. Trong thời gian này HT đã hoàn thành phiên dịch, hiệu đính 4 bộ kinh A-hàm, kinh Duy-ma-cật sở thuyết, bộ Luật Tứ phần, các bộ Luận Thành Duy Thức, A-tì-đạt-ma Câu-xá, và nhiều trước tác khác…

Tháng 03/ 2019, Đại lão HT Đệ Ngũ Tăng thống GHPGVNTN dự tri thời chí, biết sức khỏe không còn nhiều, Ngài đã mời HT Thích Tuệ Sỹ đến gặp tại chùa Từ Hiếu, quận 8, Sài Gòn để phú chúc di ngôn và ấn tín của Viện Tăng thống GHPGVNTN, ủy nhiệm Hòa thượng Tuệ Sỹ lãnh đạo, xử lý thường vụ Viện Tăng thống sau khi Ngài viên tịch.

Đến tháng 02/2020 Đại lão HT Đệ Ngũ Tăng thống GHPGVNTN thuận thế vô thường, an nhiên thị tịch tại chùa Từ Hiếu. Lúc này, HT Thích Tuệ Sỹ đang chữa trọng bệnh tại Nhật Bản và bị mắc kẹt tại đây do đại dịch Covid, không thể về nước.

Tháng 10/2020 ngay khi có lại các chuyến bay thương mại, Hòa thượng là một trong số người đầu tiên về nước, dù lúc đó các bác sĩ Nhật Bản khuyên nên ở lại chữa trị, nếu không thì cuộc sống không thể kéo dài quá 6 tháng.

Qua năm 2021, đại dịch Covid bùng phát trở lại ở châu Á trong đó có Việt Nam, mà nặng nhất là Sài-gòn. Với sự phong tỏa chống dịch nghiêm ngặt của chính quyền, mọi dịch vụ y tế lúc đó bị đình trệ ngoại trừ việc chữa bệnh Covid, tuy nhiên Hòa thượng vẫn kiên trì mạnh mẽ chống chọi cơn bạo bệnh để hàng ngày vẫn ngồi bên bàn dịch Kinh, hiệu đính các tác phẩm, tổ chức sắp xếp thư mục cho công trình phiên dịch Đại tạng kinh Việt Nam được thực hiện theo đúng tiêu chuẩn học thuật quốc tế.

Tháng 11/2021 Ngài chủ trì Đại hội lần thứ nhất của Hội đồng Hoằng pháp, quyết định thành lập Hội đồng Phiên dịch Tam tạng Lâm thời để kế thừa Hội đồng Phiên dịch Tam tạng do chư tôn Trưởng lão Hội đồng Giáo phẩm Trung ương – Viện Tăng thống GHPGVNTN đã thành lập từ năm 1973 nhưng sau đó bị gián đoạn do chiến tranh và nhiều chướng duyên khác.

Ngày 03/12/2021 Hội đồng Phiên dịch Tam tạng Lâm thời chính thức được thành lập theo Thông bạch số 11/VTT/VP. Từ đây, công việc phiên dịch, hiệu đính, chứng nghĩa chuyết văn và tổ chức in ấn được đẩy mạnh, thảy thảy đều theo quy củ đã định, để cuối cùng hình thành 29 tập đầu tiên được khởi in trong năm 2022, với công đức dự phần của các bậc Tôn túc cho đến Tăng ni, Phật tử trong và ngoài nước, đặt nền móng cho công trình Đại Tạng Kinh VN chính thức được tiếp nối từ Hội nghị Toàn thể Hội đồng Phiên dịch Tam tạng tháng 10/1973.

Qua năm 2022:

Ngày 21/8, tại chùa Phật Ân, Long Thành, Đồng Nai, Hội đồng Giáo phẩm Trung ương GHPGVNTN đã suy cử HT. Thích Tuệ Sỹ đảm nhiệm trách vụ Chánh thư ký kiêm Xử lý thường vụ Viện Tăng Thống.

Tiếp ngày 22/8 tại chùa Từ Hiếu, quận 8, Sài-gòn, đã cử hành lễ truyền trao ấn tín và khai ấn Viện Tăng Thống cho Hòa thượng.

Từ đó, Hòa thượng đã dành hết thời gian và sức khỏe còn lại để chuyên tâm phiên dịch kinh tạng, hiệu đính, chứng nghĩa cho các dịch phẩm của hàng hậu bối.

Những ngày cuối đời, từ giường bệnh, Hòa thượng đã cẩn thận sắp xếp, dặn dò những việc cần làm của GHPGVNTN cũng như công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam cho các Hội đồng, sau đó đã thuận thế vô thường thâu thần thị tịch tại chùa Phật Ân, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, Việt Nam, vào lúc 16:00 giờ, ngày 24 tháng 11 năm 2023, nhằm ngày 12 tháng 10 năm Quý Mão, trụ thế 79 năm, giới lạp 46[*].

Sự ra đi của Hòa thượng không chỉ là mất mát lớn lao của GHPGVNTN mà còn là niềm đau chung của Phật giáo Việt Nam, cũng như là sự khuất bóng đáng tiếc của một anh tài tinh hoa Dân tộc; nhưng di sản Văn hóa, Giáo dục to lớn mà Hòa thượng để lại xứng đáng làm tư lương tối thiết cho hành giả và học giả muôn đời sau.

Nam mô Từ Lâm Tế Chánh tông tứ thập tứ thế, Việt Nam Phật Giáo Thống Nhất Giáo Hội, Tăng Thống Viện Chánh Thư Ký Xử lý Thường Vụ, húy thượng NGUYÊN hạ CHỨNG, hiệu TUỆ SỸ, Trưởng lão Hòa thượng Giác linh thùy từ chứng giám.

Sài Gòn ngày 24/11 năm 2023.
Môn đồ Pháp quyến

[*] Giới lạp là lấy số năm thọ Cụ túc làm tuổi; hạ lạp là lấy số năm an cư kết hạ làm tuổi. Giới lạp của Hòa thượng Tuệ Sỹ nếu tính từ khi thọ đại giới (1973) đến khi viên tịch (2023) là 50 năm; nhưng khi còn sinh tiền, Hòa thượng có căn dặn là trừ bớt 4 năm lang thang bất định và ở tù mà Hòa thượng tự xét là “giới thể có thể bị ảnh hưởng, không thanh tịnh.” Vì lẽ đó, môn đồ pháp quyến phụng mệnh ân sư, chỉ ghi 46 giới lạp.

DSC00128

Biography of The Most Venerable Thích Nguyên Chứng
Dharma / Pen Name: Tuệ Sỹ

 

The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ (TTS), birth name Phạm Văn Thương, was born on February 15, 1943, as per his birth certificate (his family increased his age for schooling). His real birth date was April 5, 1945 (February 23 of the Year of the Rooster) in Paksé province, Laos.
Father: Mr. Phạm Văn Phận, Dharma name Trung Thảo.
Mother: Mrs. Đặng Thị Chín, Dharma name Diệu Chánh.
Both parents were originally from Nghĩa Ninh, Đồng Hới, capital city of Quảng Bình province, Central Vietnam. 

When he was young he used to accompany his mother to the village Buddhist pagoda close to their house, which was what eventually led him to the point where he wanted to spend all of his time at the pagoda and not return home. During wartime in 1952, his parents sent him to the Trang Nghiêm pagoda in Tân An village, Pakse province, Laos, to assist the founding Venerable.  In 1954 he was ordained as a Novice at this pagoda at the age of nine. At 12 years old he was encouraged to return to Vietnam to continue his studies when the pagoda’s Abbot recognized his special qualities and abilities. In 1960 he returned to Vietnam by himself and lived at Bồ đề Pagoda, close to the Gia Hội Bridge in Hue. His main possession at the time was the Diệu Pháp Lotus Sutra, written in Chinese. That Sutra was lost in the Từ Đàm Pagoda in Huế as a result of the 1968 Tết Offensive. His uncle was The Most Venerable Thích Trí Quang, a well-known Buddhist leader from the 1960s who lived in Huế at the time.

However, due to his independent nature, he traveled alone through places like Huế, Nha Trang, Saigon, Tiền Giang, and other southern provinces. He lived and studied in both big and small pagodas. In 1961, at 16, he was ordained as a novice monk with The Most Venerable Thích Hành Trụ in Saigon. Eventually, he was accepted by The Most Venerable Thích Trí Thủ into the Quảng Hương Già-lam Zen Monastery in Gò Vấp, Saigon. TTS graduated from the Saigon College of Buddhist Studies in 1964 and from the Faculty of Buddhist Studies at Vạn Hạnh University in 1965. After his research on Câu-xá luận, The Most Venerable Thích Mãn Giác, then the Vice-President, proposed to grant him a Bachelor degree from Vạn Hạnh University, but he respectfully declined. 

In 1970, he was appointed as a professor at Vạn Hạnh University due to the excellence of his Buddhist research works and philosophical treatises. Among his contributions, the ‘Outline of Meditation’ (published by Liên Hoa in 1967) and the ‘Philosophy of Emptiness’ (published in Saigon by An Tiêm in 1970) stood out. From 1972-1973, he served as professor and head of the Buddhist Studies department at the same university. He was fluent in classical Chinese and also knew English, French, Lao, Thai, and Japanese. He was also fluent in Pali and Sanskrit, two ancient languages. In addition to reading and comprehending German, he meticulously studied the works of Heidegger and Hoelderlin. Before 1975, he translated, printed, and republished the second and third volumes of D.T. Suzuki’s famous ‘Essays in Zen Buddhism multiple times. 

In 1973, the Most Venerable Thích Trí Thủ noted that Tuệ Sỹ was deeply engrossed in research and teaching. He advised him to prepare for  ordination as Bhikkhu (Upasampada). Consequently, the novice monk Tuệ Sỹ officially received full ordination at the Phước Huệ Great Ordination Platform held at the Buddhist Academy in Central Vietnam in Nha Trang in 1973, led by The Most Venerable Thích Phúc Hộ. Other prominent figures at the ceremony included The Most Venerable (Kammavācācariya – Yết Ma) Thích Giác Tánh, The Most Venerable Acarya Thích Trí Nghiêm, and The Most Venerable Acarya Thích Huệ Hưng.

The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ was well-versed not only in Theravāda Buddhism and Mahayana Buddhism but also in Western philosophy, literature, poetry and music. TTS conducted his research and studies from the original works of renowned Chinese authors and poets, including Su Dongpo (Tô Đông Pha), Li He (Lý Hạ), Du Fu (Đỗ Phủ), and others. Beyond philosophical and Buddhist discourses, TTS authored the intriguing work ‘Tô Đông Pha, The Distant Dreamy Skies’ (1973, Ca Dao, Saigon). TTS was also a musician who played the guitar, violin, piano, and flute. He was well-versed in both traditional Vietnamese music and Western classical. A large volume of his works, poetries, short stories, philosophical essays, and outstanding literary critiques appeared in the Saigon-based magazines “Khởi Hành” (1969-1972) and “Thời Tập” (1973-1975). TTS was the editor-in-chief of Vạn Hạnh University’s “Tư Tưởng—Thought” magazine. His extraordinary poetry publication, written in Chinese, ‘Ngục Trung Mỵ Ngữ,’ was composed during his imprisonment after 1975. His poetry collections ‘Giấc mơ Trường sơn’ (the Trường Sơn Dream [Annamite Mountain Range Dream]), ‘Những điệp khúc cho dương cầm (Refrains for Piano), and Thiên lý độc hành’ (Odyssey Unto Self)  were later translated and extensively published internationally in English, French, and Japanese.

At an early age, TTS memorized the Lotus Sutra, Vajracchedika, Śrīmālā-siṃhanāda-sūtra (The Sutra of Queen Śrīmālā of the Lion’s Roar), and Vimalakirti Sutra, which are filled with tales of Bodhisattvas who self-sacrificed to save suffering sentient beings. The Vimalakirti Sutra emphasizes the spirit of living the path without monk’s robes or other overt religious manifestations. A lay Bodhisattva named Vimalakirti once profoundly stated, “My malady is the ailment of sentient beings. So long as any sentient being suffers, I will continue to suffer to serve them.” Inspired by this ideal, The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ composed the discourse “The Legend of Vimalakirti” using his extensive Buddhist knowledge. TTS devoted himself wholeheartedly to becoming a symbol of the non-violent fight for human rights and religious liberty in Vietnam. 

In 1973, he moved to Nha Trang to take the position of academic coordinator of the Hải Đức College of Buddhist Studies. 

After the event of 30 April 1975, this institution was shut down. TTS retreated to a monastery plot on the fringes of Vạn Giã forest, approximately 60 kilometers from Nha Trang. 

By 1977, he relocated to Saigon and resided in the Gò Vấp district at Già Lam Temple. Beginning in 1978, the government of the Socialist Republic of Vietnam imprisoned him without trial for three years for staying without a registrational permit. His release occurred in early 1981.

Due to the circumstances of several years of wandering and being in prison, realizing that his precepts were affected and possibly impure (*), he was fully re-ordained a  Bikkhu in Quảng Hương Già-lam in 1982 by the Most Venerable Thích Trí Thủ, who led the ceremony, the Most Venerable Thích Trí Quang as Venerable Witness, and the Most Venerable. Thích Trí Tịnh delivered the Upasampadā Precepts.

The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ was a Dharma instructor for a special training course at Quảng Hương Già Lam Monastery from 1981 to 1984, under The Most Venerable Thích Trí Thủ serving as the Director of Institute.

In April 1984, TTS was detained along with Professor Trí Siêu Lê Mạnh Thát and 17 monks and Buddhist lay people. The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ and Professor Trí Siêu Lê Mạnh Thát were sentenced to DEATH for “conspiring to overthrow the government” after a multi-day trial held at the end of September 1988. The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ and Professor Trí Siêu chose to represent themselves and did not take state-appointed defense attorneys. Due to the active intervention of domestic and foreign intellectuals and activists, as well as international human rights organizations, Hanoi swiftly reduced the sentence to 20 years of hard labor, imprisoning TTS in Xuân Lộc, Đồng Nai, and later transferring him to camp A-20 in Phu Yen province. Because of his resistance in prison, TTS was isolated and transferred to the North in October 1994. Human Rights Watch presented the Hellman-Hammett Awards for human rights activism to The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ and seven other activists on August 3, 1998. 

In 1998 Hanoi released TTS along with several others. Before his discharge from prison, TTS had been on a hunger strike. Before releasing him the authorities compelled TTS to submit a petition to the president “requesting amnesty.” “We do not recognize the validity of this trial or the legality of this verdict.” TTS responded: “If you have no right to detain us, how can you have the right to absolve or grant us amnesty?” Without the petition, there would be no grounds for release, according to the police. TTS replied firmly, “That’s your problem, but if you keep pressuring us to sign the petition, I will go on hunger strike in protest.” TTS was released by Hanoi on September 1, 1998, after he had gone ten days without sustenance and four days without water, for a total of fourteen days. The hunger strike of The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ was a solitary act that was unseen by any organization or the outside world.

Seeing TTS’s swift deterioration in health, the authorities immediately dispatched a doctor and released him from prison. 

At 10:45 a.m. on September 2, 1998, The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ was placed on a train bound for the South. After 36 hours of train travel, and with his health severely compromised by the hunger strike, TTS was unable to continue. He was dropped off at the Nha Trang station before lodging temporarily at the Hải Đức Buddhist Institute. The authorities ordered him to return to Già Lam Temple in Saigon and not to remain near Nha Trang. He refused, stating in a letter to the authorities, “You cannot release me from a small prison only to confine me to a larger prison, which is this entire country.” The international press promptly reported this news at the time.

The author of Những Phương Trời Viễn Mộng (“Distant Dreaming Horizons”) confronted the death penalty, 17 years of imprisonment, house arrest three times, and harsh prisons in the country’s South, Center and North. However, such adversity could not deter a person who chose to live in complete accordance with his values.

In April 1999, The Most Venerable Thích Quảng Độ nominated The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ for the position of Secretary-General of the Viện Hóa Đạo of GHPGVNTN (The Institute for the Dissemination of Dharma of the Unified Buddhist Church of Vietnam).

In 2002, as the First Deputy Head of the Institute for the Dissemination of Dharma, The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ played a prominent position within the Unified Buddhist Church of Vietnam. Together with the revered monks The Most Venerable Thích Huyền Quang and The Most Venerable Thích Quảng Độ, he made significant contributions to the promotion of religious freedom in Vietnam, particularly the right to reactivate the Unified Buddhist Church of Vietnam.

The statements of the religious prisoner of conscience The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ in court and his resolute spirit while incarcerated serve as a shining example and a source of national pride for Buddhism and the nation: “Our stance is the stance of Buddhism and the stance of the entire national bloc.” Buddhism’s strength, according to The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ, lies not in politics but in culture and society, where education plays a crucial role. However, this educational endeavor must be initiated by a religious organization that is free from external control or imposition. Only then can they hope to raise generations of monks and nuns endowed with the virtue and talent required to serve society and worthy of ranking in Sangha’s linage.

Subsequently, in early March 2003, The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ accompanied senior monk The Most Venerable Thích Huyền Quang from his house arrest location at Quảng Hương Già-Lam to Hanoi for medical treatment and to prepare for a meeting with Mr. Phan Văn Khải, the then Prime Minister of Vietnam. The purpose of this meeting was to request that the Prime Minister address the suspension of the activities of the Unified Buddhist Church of Vietnam since 1975 and the unjust prohibition and control over The Most Venerable Thích Huyền Quang, The Most Venerable Thích Quang Độ, and several other monks and adherents. On this occasion, diplomatic representatives from six member nations of the European Union and the United States met the Venerable and invited him to visit the diplomatic offices of the European Union in Hanoi. They requested that the Venerable come to them alone, without a companion or translator.

On October 1, 2003, The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ, together with the most venerable monks Thích Huyền Quang and Thích Quảng Độ, convened an Extraordinary General Assembly of the Unified Buddhist Church of Vietnam (GHPGVNTN) at Nguyên Thiều Monastery, Bình Định. Following this congress, the two most senior monks, The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ, and several participating monks were placed under house arrest and subjected to strict government surveillance. However, with an undeterred spirit, The Most Venerable stood with his two most senior leaders, The Most Venerable Thích Huyền Quang and The Most Venerable Thích Quảng Độ, entrusting overseas branches of GHPGVNTN to convene a congress abroad at Quảng Đức Monastery in Melbourne, Australia, in the same year, 2003.  This congress formally proclaimed the Church’s domestic and international leadership. The most Senior Monk, Thích Huyền Quang was elevated to the Fourth Supreme Patriarch of the GHPGVNTN by the congregation.

In 2008, The Most Venerable Thích Huyền Quang, the fourth supreme patriarch of GHPGVNTN, demised. Senior Monk Thích Quảng Độ, who became the Fifth Supreme Patriarch of GHPGVNTN, assumed his position.

The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ subsequently devoted his time and energy to literary labor, the translation of Buddhist scriptures, and the instruction of monks in the study and translation of Buddhist classics. During this time, he completed translations and revisions of four sets of scriptures: Āgama (A-hàm), Vimalakirti Sutra, the Four-Part Vinaya, and numerous other works, including Discourse on the Perfection of Consciousness-only and Abhidharmakośa (A-tì-đạt-ma Câu-xá) and other verses.

In March 2019, the Fifth Supreme Patriarch of GHPGVNTN invited The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ to meet him at the Từ Hiếu temple in District 8, Saigon, to confer the final words and seal of the Supreme Central Council Sangha (Sangharaja Institute) of GHPGVNTN, entrusting The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ with the leadership and daily operations of the Sangharaja Institute after his passing.

In February 2020, the Fifth Supreme Patriarch of the GHPGVNTN passed away peacefully at the Từ Hiếu Temple. At the time, The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ was receiving intensive medical treatment in Japan and was unable to return home due to the COVID pandemic.

As soon as commercial flights resumed in October 2020, TTS was among the first to return to Vietnam, despite doctors in Japan advising him to remain for treatment and warning that he might not live beyond six months if he left.

The COVID-19 pandemic reemerged in 2021 in Asia, including Vietnam, with the most severe outbreak occurring in Saigon (Ho Chi Minh City). Due to the authorities’ stringent lockdowns, almost all medical services were suspended, except for COVID-19 treatment. Despite these obstacles and his health condition, the Venerable battled his grievous illness with fortitude and resolve. Every day, he sat at his desk translating scriptures, revising works, and organizing the catalog for the translation project of the Vietnamese Buddhist Canon to meet international academic standards.

In November 2021, The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ presided over the first meeting of the Dharma Council and decided to form a Provisional Tripitaka Translation Council. This council would replace the Tripitaka Translation Council, which was established in 1973 by senior monks of the Central Religious Council—the Supreme Central Council Sangha (Sangharaja Institute) of the Unified Buddhist Church of Vietnam. However, the original council’s operations were, later on, interrupted by the conflict and other obstacles.

According to Order No. 11/VTT/VP, the Provisional Tripitaka Translation Council was formally constituted on December 3, 2021. Translation, revision, textual verification, and printing duties were subsequently expedited per established procedures. Ultimately, 29 volumes were scheduled for publication in 2022. This endeavor received contributions and support from senior monks to ordinary monks and Buddhists domestically and internationally, laying the groundwork for the current Council to continue the Vietnamese Buddhist Canon project initiated by the Tripitaka Translation Council General Assembly in October 1973.

On August 21, at Phật Ân Temple in Long Thành, Đồng Nai, the Central Religious Affairs Council of the Unified Buddhist Church of Vietnam (UBCV) elected Venerable Thích Tuệ Sỹ to assume the responsibilities of the Chief Secretary cum Standing Chief Executor and handle the regular duties of the Supreme Central Council Sangha.

On August 22 at Từ Hiếu Temple in District 8, Saigon, a ceremony was held to confer the seal to the Venerable and inaugurate the Supreme Central Council Sangha.

Since then, the Venerable has devoted all his remaining time and energy to focusing on translating Buddhist scriptures, editing, and validating the translations of works by younger generations.

In his final days, from his sickbed, the Venerable meticulously arranged and instructed the necessary tasks for the UBCV and the Vietnamese Buddhist Canon translation project for the Councils. He serenely passed away at Phật Ân Temple, Long Thanh district, Đồng Nai province, Vietnam, at 16:00 on November 24, 2023, corresponding to the 12th day of the 10th month in the Year of the Cat, at the age of 79, having devoted 46 vassas to monastic life.

The departure of The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ is not only a great loss for the UBCV but also a shared sorrow for Vietnamese Buddhism, as well as the regrettable loss of a national intellectual and cultural treasure. However, the Venerable left behind a vast cultural and educational legacy that legitimately provides essential nourishment for both scholars and present-day and future practitioners.

Homage to the 44th generation of the True Lam Te Sect, the Unified Buddhist Church of Vietnam, the Chief Secretary of the Supreme Central Council Sangha (Sangharaja Institute), ordained under Dharma name: first (name) NGUYÊN, last (name) CHỨNG, and titled TUỆ SỸ, The Most Venerable Elder.

Saigon, November 24, 2023
Compiled by the Dharma disciples and relatives.

(*) In Buddhist monastic tradition, the seniority of a monk, often referred to in terms of ‘Observing the Precepts Age’ (Giới lạp), is determined by the number of years since their complete ordination. On the other hand, ‘Hạ Lạp’ refers to the number of summer retreats a monk has completed. The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ, who was fully ordained in 1973, has accumulated fifty years of precepts by the time of his passing in 2023. However, during his youth, The Most Venerable  Thích Tuệ Sỹ chose to reduce the four years he spent wandering and in imprisonment. He believed these years did not contribute to his spiritual purity and monastic discipline, as he felt that “his observing precepts entity can be affected and not pure” during such times. Respecting their teacher’s perspective, his Dharma disciples officially recorded forty-six precepts for The Most Venerable Thích Tuệ Sỹ, aligning with his expressed intentions.