Góc nhà Nguyên Giác Phan Tấn Hải

Tác giả Nguyên Giác - Phan Tấn Hải. Ảnh Uyên Nguyên



Thiền Tông Bất Lập Văn Tự

Nguyên Giác
Bài viết này sẽ khảo sát một số thắc mắc thường gặp về Thiền Tông, hy vọng sẽ tiện dụng cho một số độc giả còn nhiều nghi vấn. Những chỗ cần tham khảo, xin dò theo ký số kinh bản, hay dò theo các liên kết cuối bài. Một số câu sẽ được ghi kèm tiếng Anh để độc giả thấy ngay trước mắt không phải tạm ngưng để dò bản tiếng Anh trên mạng. Bài này sẽ tập trung vào khía cạnh thực dụng lời Đức Phật dạy, và sẽ viết rất mực đơn giản ở mức có thể có. Trong phần Ghi Chú cuối bài, độc giả sẽ thấy các ký số không bình thường, vì bài này được viết đi, viết lại nhiều lần, và khi cần ghi chú thêm giữa bài, đành chọn cách ghi số xen vào. Bài viết này có vài chỗ sẽ gây suy nghĩ phức tạp, nhưng người viết hoàn toàn không có ý muốn tranh luận, vì tự biết mình tu học chưa tới đâu, và cũng vì chỉ muốn giải thích Phật pháp qua những khía cạnh có thể thực tập tức khắc, để độc giả có thể kinh nghiệm ngay trên thân và tâm trong thời gian nhanh nhất. Mọi sai sót xin được sám hối và chỉ dạy.

Nói giải thoát, chỉ đơn giản là xa lìa tham sân si. Nói Thiền Tông là bất lập văn tự, vì không dùng lời nói hết được, vì lời nào cũng vướng vào nhị nguyên đúng/sai, có/không. Chỉ duy Đức Phật mới đủ biện tài để dùng lời siêu vượt mọi vướng mắc ở ba cõi. Đặc biệt, Thiền Tông  và cả hệ thống Bát Nhã của ngài Long Thọ, đều là từ những lời dạy đầu tiên của Đức Phật trong những năm đầu Thế Tôn hoằng pháp. Lúc đó, các vị sa môn trong những năm đầu đã đọc tụng hàng ngày một số kinh, trong đó hai nhóm kinh nhật tụng sơ thời, khi Đức Phật sinh tiền, là:
- Nhóm kinh nhật tụng thứ nhất là Atthaka Vagga (Kinh Tập trong Tiểu Bộ Kinh, phần thứ tư, còn gọi là 'The Octet Chapter' tức Phẩm Tám).
- Nhóm kinh nhật tụng thứ nhì là Parayanavagga (Kinh Tập trong Tiểu Bộ Kinh, phần thứ năm, còn gọi là 'The Chapter on the Way to the Far Shore' tức Phẩm Qua Bờ Bên Kia).
Dẫn chứng hai nhóm kinh này dùng cho tứ chúng thời Đức Phật làm Kinh Nhật Tụng Sơ Thời đã giải thích trong “Vài Ghi Chú Rời Về Thiền” (1), nơi đây sẽ thảo luận khía cạnh khác.
Sự thật của vũ trụ, hay sự thật của chúng sinh ba cõi (Dục, Sắc, Vô Sắc), là Bốn Sự Thật, hay Tứ Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo), có khi còn tắt là Hai Sự Thật, hay Nhị Đế (Khổ, Diệt Khổ). Phương pháp lìa khổ là Bát Chánh Đạo, hay đường đi có 8 chi, nằm trong Đạo Đế.
Điều ngạc nhiên là, trong hai nhóm kinh nhật tụng sơ thời, không nói gì tới Tứ Đế, mà chỉ nói tới khổ và lìa khổ. Nghĩa là, chúng ta có thể đoán rằng, trong các năm đầu tiên, Đức Phật dạy Nhị Đế (khổ và lìa khổ), và nhiều năm sau mới soạn lại thành Tứ Đế. Cũng có thể vì khi dạy quý tăng chúng trong các năm đầu chủ yếu là đối cơ, tùy căn cơ mà dạy.
Trong hai nhóm kinh nhật tụng sơ thời cũng không nói gì tới Bát Chánh Đạo, nghĩa là, không sắp theo trật tự 8 chi như bây giờ chúng ta học, tuy rằng tất cả nội dung Bát Chánh Đạo đều rải rác, có đầy đủ qua các kinh nhật tụng này. Chủ yếu phương pháp tu là, tùy theo kinh trong hai nhóm kinh này: xa lìa cả Hữu và Vô, xả ly (buông bỏ sắc thọ tưởng hành thức ở cả ba thời, quá, hiện, vị lai), giữ tâm vô sở trụ, thấy các pháp là vô ngã, là vô thường, là Không, là như huyễn… Nghĩa là, hai nhóm kinh nhật tụng sơ thời thuần túy là Thiền Tông (mà chúng ta còn gọi là Thiền Đạt Ma, Thiền Đông Độ, hay tại Việt Nam có khi còn quen gọi là Thiền Trúc Lâm, vì dòng này lớn nhất và ảnh hưởng nhất tại VN). Bài này sẽ khảo sát thêm các ý vừa nói.
Cũng bất ngờ là, hai nhóm kinh nhật tụng sơ thời này không sử dụng chữ A La Hán hay các bậc Thánh, cũng không phân chia thứ bậc Tứ Thánh, như hiện nay chúng ta học là: Sơ quả Tu-đà-hoàn, Nhị quả Tư-đà-hàm, Tam quả A-na-hàm, Tứ quả A-la-hán. Nghĩa là, những năm đầu hoằng pháp, Đức Phật không dùng các chữ vừa ghi.
Lấy thí dụ như ở Phẩm Tám, Kinh Snp 4.2 gồm tám bài kệ, trong đó hai đoạn cuối kinh, bài kệ số 778 và bài kệ 779, có 2 chữ để chỉ người đã giải thoát.
Bản dịch Khantipalo (1) theo thứ tự hai bài kệ 778 và 779, dùng chữ: "the sage" (hiền giả), "the wise" (trí giả).
Bản dịch Thanissaro Bhikkhu (1), tương tự, dùng chữ: "the enlightened person" (người giác ngộ), "the sage" (hiền giả).
Bản dịch Bhikkhu Bodhi (1), tương tự, dùng chữ: "the wise person" (người trí tuệ), "the muni" (người tịch tịnh).
Bản dịch Bhante Varado (1), tương tự, dùng chữ: "the wise person" (người trí tuệ), "the sage" (hiền giả).
Tương tự, đọc toàn bộ gần 40 bài kinh trong hai nhóm kinh nhật tụng sơ thời, không hề thấy chữ “A La Hán”, cũng không thấy dạy về pháp thở, không dạy những gì cần tới con số thứ tự. Chúng ta không biết chính xác vì sao. Có thể suy đoán rằng, Đức Phật yêu cầu tứ chúng hàng ngày đọc tụng hai nhóm kinh đó, vì thời xa xưa chưa có chữ viết, và không nhiều người dân có học – lúc đó, giai cấp thượng lưu là Bà La Môn và Sát Đế Lợi mới được học để cai trị đất nước – nên lời dạy cần trực tiếp, nói thẳng vào tâm người. Có thể, nhiều năm sau, Đức Phật mới sắp xếp theo các pháp số. Chúng ta chỉ tạm suy đoán như thế, vì nghiên cứu này xin để cho các học giả. Điều muốn nói nơi đây rằng, Thiền Tông là phần lớn trực tiếp từ hai nhóm kinh này, trong khi vài trăm năm sau mới có chuyện Nam Truyền và Bắc Truyền.

CÁC PHÁP NHƯ HUYỄN
Đức Phật đã dạy rằng tất cả những gì ý thức chúng ta nhận biết, nghĩ ngợi, tư lường thực ra đều là sản phẩm dựng lên như trò ảo thuật. Trong Tương Ưng Bộ, có Kinh SN 22.95 có thể tóm tắt như sau: Sắc y hệt như đống bọt nước, Thọ như bong bóng nước, Tưởng như tia ráng nắng, Hành như lớp vỏ cây chuối, Thức như ảo thuật gia dựng lên đủ thứ hình ảnh... Hãy tu như lửa đang cháy trên đầu, hãy tỉnh giác đêm ngày nhìn thấy các uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều rỗng rang, và hãy xả ly tất cả các pháp, rồi sẽ chứng được cảnh bất động, bất khả hư hoại. (Bhikkhu Bodhi dịch là: the imperishable state; Thanissaro Bhikkhu dịch: the state with no falling away; Piya Tan dịch: the death-free state). Đó là Kinh SN 22.95. Nghĩa là, thấy trước mắt, bên tai, toàn thân toàn tâm, trong và ngoài, đều rỗng rang, đều như huyễn. Nhưng khi ly huyễn xong, sẽ là cảnh bất động của Niết Bàn.
Kinh rất mực đơn giản, yêu cầu ngày đêm giữ tâm nhìn tất cả các pháp như ráng nắng, như trò ảo thuật, trong đó phần đầu y hệt Bát Nhã Tâm Kinh, phần sau là giữ tâm xả ly, y hệt lời dạy “buông xả cả thân tâm” (thân tâm phóng hạ) trong Thiền Tào Động. Pháp xả ly này cũng có nghĩa là tâm vô sở trụ, nghĩa là, như Kinh Kim Cương để thấy không có chỗ nào cho tâm an trụ, hay như Kinh Tiểu Không ghi lời Đức Phật rằng nhờ an trú Không cho nên an trú rất nhiều.
Trong Bắc Tông, Kinh Viên Giác ghi lời Đức Phật trả lời Bồ Tát Phổ Hiền rằng khi thường trực giữ tâm nhận biết các pháp như huyễn, sẽ không cần phương tiện tu hành gì khác, và biết huyễn là pháp trực tiếp không có thứ bậc, vì tức khắc không tham sân si nào vướng nữa: tri huyễn tức ly, bất tác phương tiện, ly huyễn tức giác, diệc vô tiệm thứ.... biết các pháp hóa hiện như huyễn tức khắc đạt xả ly, chẳng khởi phương tiện gì, xả ly các huyễn tức là tỉnh giác, cũng không có tu tập thứ lớp...
Trong Tạng Pali, Ngài Xá Lợi Phất (Sariputta) để lại bài kệ “Guhatthaka-suttaniddeso: Upon the Tip of a Needle” mô tả rằng tất cả các pháp trong ba cõi, cả thân tâm (sắc thọ tưởng hành thức) đều đang chảy xiết qua các khoảnh khắc thời gian, y như điểm tiếp giáp của một hạt đậu rất nhỏ đặt lơ lửng trên đầu một mũi kim:
Those who have been born are standing
Like a seed upon a needle. (1)
(Dịch: Những người đã sinh ra, đang đứng đây y hệt như một hạt mè lơ lửng trên đầu một mũi kim.)
Hễ cảm nhận các pháp trôi chảy như thế, đó là thấy như huyễn. Trong cái nhìn đó, hễ khởi tâm gì đi nữa, cũng sẽ làm mất cảm nhận về dòng chảy như huyễn. Khi cảm nhận như huyễn trôi chảy qua thân tâm mình như thế, không có gì khác cần làm nữa, vì lập tức là ly nhất thiết pháp. Khi cảm nhận dòng vô thường trôi chảy trên toàn thân như thế, trôi chảy xuyên qua khắp toàn thân mình, cũng có thể gọi đó là “niệm vô thường” và cũng có thể gọi là “niệm toàn thân, và là niệm toàn tâm” vì lúc đó thân và tâm sẽ thấy như là một, nhưng không hề một hay nhiều, không hề có “tôi” hay “người” và tất cả chỉ là dòng thời gian trôi chảy trên toàn thân. Thiền Tào Động Hoa Kỳ thường dùng chữ “body practice” khi diễn giải lời của Thiền sư Dogen (1200 – 1253) rằng: mindfulness of the body is the body’s mindfulness (tỉnh thức niệm về thân cũng chính là niệm tỉnh thức của thân), nghĩa là toàn thân da xương máu thịt đang tự tỉnh thức, tự niệm. Ai cũng có thể tập pháp này, chỉ cần cảm nhận toàn thân lặng lẽ trong khi tất cả vô thường chảy xiết toàn thân, như điểm tiếp giáp của hạt đậu trên đầu mũi kim. Tức khắc tự nhiên ngôn ngữ biến mất, không nghĩ ngợi gì được, dù là nghĩ chuyện hôm qua, ngày mai hay hiện tại, và tất cả nghĩ ngợi vắng bặt, vì hễ nghĩ ngợi là sẽ mất cảm nhận về dòng vô thường trên toàn thân. Nghĩa là, bất tác phương tiện.
Chỗ này nên giải thích thêm, rằng Thiền Tông xem thân và tâm là một thể. Tạng Pali có Kinh SN 12.67ghi lời Đức Phật so sánh với bó cỏ tranh (có sinh tức có danh-sắc, tức có thức, tức có sáu căn, tức có xúc, tức có thọ, tức có tham luyến say mê, tức có già chết đau khổ…). Và khi rút một cọng tranh ra, dù là cọng tranh nào, rồi cả bó cỏ tranh sẽ sụp đổ (If one were to pull away one of those sheaves of reeds, the other would fall; if one were to pull away the other, the first one would fall) dù đó là xả ly và tịch diệt thức (consciousness) hay tịch diệt hành (fabrications). Thiền Tông xem khắp thế giới này (trong và ngoài) đều là kinh nghiệm của thân tâm; không phải là không có thể giới bên ngoài, nhưng, để thí dụ, như “mây xanh, gà gáy” chỉ là  “cái được thấy và cái được nghe”… Và thế thôi. Như thế, Thiền Tông là sống với kinh nghiệm về toàn thể thế giới (trong và ngoài) y hệt như Kinh Bahiya. Ngay khi kinh nghiệm như thế, ngôn ngữ vắng bặt; có nói gì cũng không trúng.
.
EINSTEIN: TẤT CẢ ĐỀU NHƯ HUYỄN
Các nhà khoa học cũng nói sau Đức Phật hơn hai ngàn năm rằng tất cả các pháp đều như huyễn, như mộng.
Nhà khoa học Albert Einstein trong lá thư gửi người bạn thân Robert S. Marcus năm 1950 đã viết rằng “ảo giác quang học của ý thức” đã phóng chiếu ra kinh nghiệm của từng người. (2)
Trong lá thư khác, gửi cho gia đình nhà vật lý Michele Angelo Besso năm 1955, khi Besso từ trần, Einstein an ủi gia đình người bạn thân đó, trích: “Bây giờ, anh bạn tôi đã rời thế giới kỳ lạ này một chút trước tôi. Như thế không có nghĩa gì cả. Những người như chúng tôi, những người tin vào môn vật lý, biết rằng sự phân biệt giữa quá khứ, hiện tại, và tương lai chỉ là một ảo giác cứ mãi không tan.” (2)
Có nghĩa là: Einstein nói rằng phân biệt giữa quá khứ, hiện tại và tương lai là ảo giác. Câu hỏi nơi đây là, Phật Giáo nói gì về thời gian?
Nếu chỉ dựa theo Kinh, sẽ thấy Đức Phật có nói về ba thời, rằng hãy buông bỏ tất cả các uẩn (sắc thọ tưởng hành thức) trong quá khứ, tương lai, và hiện tại. Tích truyện Kinh Pháp Cú, kệ 348, ghi về chàng trai Uggasena trong đoàn xiếc làm trò, đứng trên đỉnh một cây gậy, giữa thị trấn Rajagaha. Đức Phật tới gần, nói với chàng: “Uggasena, người trí nên buông bỏ tất cả dính mắc tới các uẩn, và phải tìm giải thoát ra khỏi vòng luân hồi sinh tử.
Rồi Đức Phật đọc bài kệ 348: “Hãy buông bỏ quá khứ, hãy buông bỏ tương lai, hãy buông bỏ hiện tại. Đạt tới mức cuối của cuộc sinh tồn, với tâm xa lìa tất cả các pháp hữu vi, con sẽ không trở lại sinh tử nữa.” (3)
Tức khắc, Uggasena, trong khi còn đứng trên đầu gậy, đắc quả A La Hán. Chàng trai nhảy xuống, và xin xuất gia theo Đức Phật.
Thời gian thứ tư là “phi thời gian” là khi Đức Phật nói về Niết Bàn. Đó là vĩnh cửu.
Thời gian này là thường hằng, là an lạc, là thanh tịnh -- như ghi trong nhóm Kinh Như Thị Thuyết, Itivuttaka 43, Việt dịch trích như sau:
Giải thoát ra khỏi [sinh tử] là hạnh phúc,
Vượt ngoài lý luận, cái thời gian vĩnh cửu,
Cái không sanh khởi, không tạo tác
Không hề sầu khổ, không hề nhiễm ô
Tịch diệt tất cả những gì liên hệ tới khổ
Vắng tất cả các duyên khởi -- rất mực an lạc. (3)
Cái thời gian vĩnh cữu trong bài kệ trên, Thanissaro Bhikkhu dịch là: The escape from that is calm, permanent; John D. Ireland dịch là: The escape from that, the peaceful, Beyond reasoning, everlasting
Như thế, dựa theo Kinh, sẽ thấy có 4 loại thời gian. Tuy nhiên, trong các bộ luận, như Abhidhamma, thời gian phân chia phức tạp hơn; nhưng đó là chuyện của các luận sư. Như thế, trong khi chúng ta đi đứng nằm ngồi, hãy buông hết tất cả những gì dính tới ba thời.
Tu pháp này cực kỳ hạnh phúc. Sẽ thấy toàn thân, toàn tâm, toàn thế giới như dường là một thể trong dòng phi thời gian, bất kể chúng ta đang đi đứng nằm ngồi. Sách Trung Luận của ngài Long Thọ (Nagaruna), bản Việt dịch của HT Thích Thiện Siêu, ghi bài kệ về “Quán Sát Về Đi Đến” là:
Lúc đã đi thì không có đi, lúc chưa đi thì cũng không có đi, lìa ngoài đã đi và chưa đi, lúc đang đi cũng không có đi.” (3)
Cũng là diễn lại Kinh Pháp Cú, Kệ 348 đã nói trên, khi tất cả các pháp trở thành một hiện thể thực tướng, là vô thường, và là Phật Tánh hiện ra trước mắt, bên tai – trôi chảy, nhưng vẫn là bất động. Bước đi trong cái không đi, cực kỳ hạnh phúc. Trong khi thấy ba thời vắng lặng, tự nhiên tâm sẽ lặng lẽ, sẽ không dấy động, bất kể mình đang bước đi. Ai cũng có thể tập pháp này: buông hết cả ba thời. Cũng có nghĩa là, nói theo Thiền Tông: bên ngoài lìa tướng, bên trong chẳng loạn.
.
BỒ ĐỀ ĐẠT MA: KHÔNG VƯỚNG TRONG NGOÀI
Tới đây, có một thắc mắc: chàng trai Uggasena trong khoảnh khắc trở thành A La Hán, như thế Bồ Đề Đạt Ma, sơ tổ Thiền Tông, theo truyền thuyết ngồi 9 năm nhìn vách đá trên núi Thiếu Thất. Chúng ta thường nghe, thường đọc rằng pháp tu của Thiền Bồ Đề Đạt Ma truyền dạy là không có pháp nào để tu hết, vì là buông nhất thiết pháp… Vậy thì, Ngài ngồi làm gì?
Sáu Cửa Vào Động Thiếu Thất, nơi Cửa Thứ Ba là Nhị Chủng Nhập, phần Xứng Pháp Hạnh có bài kệ, với 4 câu đầu là:
Ngoại tức chư duyên
Nội tâm vô ĐOAN
Tâm như tường bích
Khả dĩ nhập đạo.
(Ghi chú để xin một số trang web và nhà xuất bản dò lại giùm: trong câu thứ nhì nêu trên, chữ "ĐOAN" không có dấu nặng; một số trang web tiếng Việt đánh máy sai chính tả là: nội tâm vô ĐOẠN.)
Tạm dịch:
Ngoài, dứt hết các duyên
Trong, không tư lường dính mắc
Tâm hệt như tường vách
Mới có thể vào đạo.
Khi dạy như thế, Ngài Bồ Đề Đạt Ma đã vâng lời Đức Phật, rằng: hãy để tâm lặng lẽ, không dính gì tới trong hay ngoài, và đó là kết thúc sinh già bệnh chết. Thế nào là “tâm như tường vách”? Vô tướng mới thực là tường vách, vì vô tướng là lìa sanh diệt, bất khả hư hoại.
Trong Trung Bộ, Kinh MN 138, bản tiếng Việt của Hòa Thượng Thích Minh Châu ghi lời Đức Phật dạy ngắn gọn:
"Thế Tôn nói như sau:
—Này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo cần phải quán sát một cách như thế nào để thức của vị ấy đối với ngoại trần không tán loạn, không tản rộng, tâm không trú trước nội trần, không bị chấp thủ quấy rối. Này các Tỷ-kheo, nếu thức đối với ngoại trần không tán loạn, không tản rộng, tâm không trú trước nội trần, không bị chấp thủ quấy rối, sẽ không có tập khởi, sanh khởi của khổ về sanh, già, chết trong tương lai.
Thế Tôn nói như vậy. Nói như vậy xong, Thiện Thệ từ chỗ ngồi đứng dậy rồi bước vào tinh xá." (4)
Bản Anh dịch của Ni Trưởng Uppalavanna, đọc y hệt 4 câu kệ trên của Bồ Đề Đạt Ma:
“…the Blessed One said thus. `Bhikkhus, in whatever manner the bhikkhu examines, he finds his external consciousness is not scattered, internally is not settled and without a holding is not worried. Bhikkhus, when the bhikkhu's external consciousness is not scattered, internally is not settled and without a holding is not worried, there would not be to him future arisings of birth, decay, death and unpleasantness,' The Blessed One said thus, got up from his seat and went to his dwelling...” (4)
Trong khi HT Thích Minh Châu trong đoạn trên dùng chữ “thức” để chỉ hướng ra ngoài và chữ “tâm” chỉ hướng vào trong, các bản Anh văn chỉ dùng một chữ “consciousness” (thức) cho cái biết về cả ngoài và trong.
Bản của Thanissaro Bhikkhu dịch là: “…his consciousness neither externally scattered & diffused, nor internally positioned…” (thức của vị đó không phân tán và phan duyên ra ngoài, mà cũng không trụ bên trong…)
Như thế, Đức Phật nơi kinh này dùng chữ “thức” thay cho chữ chúng ta thường gọi là “niệm” (thought) – tức một đơn vị diễn biến của tâm.
Bài kệ của Bồ Đề Đạt Ma và Kinh MN 138 dẫn trên cho thấy chỉ để tâm lặng lẽ, trong ngoài không vướng như thế thôi, là tròn đầy giới định huệ. Tâm lặng lẽ là định, thấy rõ trong ngoài mà không vướng là huệ. Nếu tâm không được như thế, bấy giờ mới bàn chuyện phải tu cái gì, phải hành cái gì.
Lục Tổ Huệ Năng cũng nói tu pháp vô tướng nghĩa là không vướng gì tới tất cả trong ngoài. Kinh Pháp Bảo Đàn, bản dịch của Thầy Thích Duy Lực, Phẩm Tọa Thiền viết:
Thiện tri thức, nếu người tu theo pháp chẳng động, khi thấy mọi người mà chẳng thấy tất cả thị phi, thiện ác, lỗi lầm của người, tức là tự tánh chẳng động… Thiện tri thức, sao gọi là THIỀN ĐỊNH? Bên ngoài lià tướng là THIỀN, bên trong chẳng loạn là ĐỊNH.” (4)
Thực sự, trong với ngoài chỉ là tạm nói,  vì khắp thế giới trong ngoài chi là những gì hiện ra trong kinh nghiệm của tâm mình thôi.
.
RỖNG RANG, AN TRÚ KHÔNG
Thiền Tông Việt Nam, trong truyền thống, chủ trương pháp đốn ngộ. Trong đó, trước tiên là nhận ra bản tâm chính là tánh không rỗng rang. Và do vậy, lấy Bát Nhã Tâm Kinh làm một phần không thể thiếu vắng trong các kinh nhật tụng. Thiền Tông dạy rằng trước tiên phải ngộ, phải thấy  tánh, tức là thấy cái Không của các pháp, và sau khi biết thì cứ lẳng lặng an trú Không. Không này là gì ở cõi này? Thực sự là Duyên khởi, vì các pháp đều vô ngã. Nhưng đây không phải lý luận, mà phải thấy bằng mắt, nghe bằng tai, cảm bằng toàn thân. Không này là vô thường, là duyên khởi. Nghiêng đầu qua trái, qua phải, nhìn sau, nhìn trước đều thấy nghe hay biết và cảm nhận các pháp rỗng rang trong dòng chảy vô thường. Nói KHÔNG, hoàn toàn không có nghĩa là Không Có. Mà Không này là lìa cả Hữu, Vô.
Kinh SN 35.85, ghi lời Đức Phật dạy: Thế giới rỗng rang không tự ngã, mắt (tai, mũi, lưỡi, thân, ý) đều rỗng rang không tự ngã… Nhãn thức (nhĩ thức…) đều rỗng rang không tự ngã…  (5)
Trong Trung Bộ, Đức Phật dạy chi tiết tuần tự trong Kinh MN 121 (Cula-suññata Sutta: The Lesser Discourse on Emptiness – Kinh Tiểu Không) về An Trú Không. Trước tiên, Đức Phật dạy ngài Ananda rằng chớ tưởng (hình dung) về ngôi làng, chớ tưởng về người, chỉ tưởng về cảnh rừng hoang dã, lúc đó trong tâm chỉ có tưởng là cảnh rừng hoang, rồi từ đây tưởng về mặt đất phẳng (không núi đồi sông hồ gì), từ đây tưởng về không gian vô tận và vào rỗng rang thanh tịnh… tuần tự, hình dung rằng thức trải rộng vô biên… tất cả trở thành không, nếu thấy cái gì còn, thì nghĩ rằng “cái này có hiện diện” vì còn duyên vào thân tâm của mình. Và Đức Phật dặn: “Ananda, you should train yourselves: 'We will enter & remain in the emptiness that is pure, superior, & unsurpassed.'” (Ananda, hãy tự tu thế này: Chúng ta sẽ vào, sẽ an trú trong cái Không, mà cái Không này rất mực thanh tịnh, siêu xuất và không gì cao hơn.) (5)
Nếu chúng ta muốn tìm lời dạy đơn giản và dễ nhớ, Đức Phật cũng dạy ngài Mogharaja trong Kinh Tiểu Bộ, Snp 5.15 (trong Nhóm Kinh Nhật Tụng khi Đức Phật còn sinh tiền):
Luôn luôn tỉnh thức, nhìn thế giới như là RỖNG KHÔNG, Moghraja; gỡ bỏ bất kỳ quan điểm vào về tự ngã; như thế ngươi sẽ vượt qua sự chết. Nhìn thế giới như thế, ngươi sẽ không bị Thần Chết nhìn thấy.” (5)
(Bản dịch Ireland: Look upon the world as empty, Mogharaja, ever mindful; uprooting the view of self you may thus be one who overcomes death. So regarding the world one is not seen by the King of Death. Bản dịch Thanissaro Bhikkhu: Always mindful, Mogharaja, regard the world as empty, having removed any view in terms of self. This way, one is above and beyond death. One who regards the world in this way isn't seen by Death's King.)
.
Tương tự, Kinh Snp 5.14 trong Kinh Tập, Kinh Tiểu Bộ, ghi lời ngài Posala ca ngợi Đức Thế Tôn, theo bản dịch của Thanissaro Bhikkhu:
Tôi thỉnh vấn Đức Thích Ca về kiến thức của người đã xa lìa tưởng về sắc uẩn, người đã buông bỏ toàn bộ thân, tất cả thân, người thấy cả trong và ngoài, ‘Không có gì hết’…”
(I ask the Sakyan about the knowledge of one devoid of perception of forms, who has abandoned all the body, every body, who sees, within & without, 'There is nothing') (5)
Trong ngoài đều thấy là Không… tức là Bát Nhã Tâm Kinh vậy. Thấy trong và ngoài đều không, cũng là bất lập văn tự vậy.
.
Như thế, các Thiền sư Trung Hoa và Việt Nam hiển nhiên là đã tu theo Kinh Nhật Tụng Sơ Thời.
Vì ngài Vô Ngôn Thông (759?-826) là một vị Thiền sư Trung Quốc, đệ tử của Bách Trượng Hoài Hải, sang Việt Nam năm 820, ở tại chùa Kiến Sơ (bây giờ thuộc Hà Nội), truyền pháp, dòng thiền của ngài kéo dài được 17 thế hệ.... Sách kể rằng, ngài Vô Ngôn Thông hốt nhiên triệt ngộ khi nghe Bách Trượng trả lời một vị tăng:
“Tâm địa nhược KHÔNG, huệ nhật tự chiếu.” (Đất tâm nếu rỗng rang, thì mặt trời trí huệ tự chiếu sáng.)
Hai câu, tám chữ này đã tóm gọn Kinh Snp 5.15. Bản dịch của quý Thầy Thích Thanh Từ, Thích Duy Lực, GS Lê Mạnh Thát đều ghi là “tâm địa nhược KHÔNG.” Tuy nhiên, một vị sư Việt Nam nổi tiếng viết là “tâm địa nhược THÔNG,” và ngài giải thích theo nghĩa chữ THÔNG (tức thông suốt), và sách phổ biến khắp nơi. Nơi đây, người viết không tiện ghi links để tránh bị ngộ nhận là đa sự, bất lợi cho việc hoằng pháp. Nhưng không thể không ghi chú nơi đây.
Trong khi đó, sách  Bát Nhã Tâm Kinh Trực Giải, trang 18-19, do ngài Minh Chánh Thiền Sư (Thiền sư Việt Nam thế kỷ 19) viết, bản dịch Thiền Viện Thường Chiếu, trích như sau:
Nay nói Sắc chẳng khác không là lúc nhãn căn thấy sắc, quán sắc cũng như bóng, rõ sắc vốn không nhãn căn như gương sáng trong sáng không có hình tượng, sắc tướng như bóng, bóng tuy hư giả mà toàn bóng là gương, cũng như sắc tuy huyễn vọng mà toàn sắc là tự tánh chiếu kiến của Chân không Như lai tạng, cho nên nói: Sắc chẳng khác không. Câu nầy nhằm phá phàm phu chấp sắc là có, chẳng biết nghĩa sắc tức là không. Chấp thấy là ta có thấy, chẳng biết cái thấy từ nơi sắc hiện, sắc từ nơi thấy mà sanh. Sắc tướng là bóng huyễn hóa như hoa đốm trong hư không, cái thấy là sự mỏi nhọc của con mắt bệnh. Sắc tướng còn không, cái thấy từ đâu mà có. Nên tuy nói sắc tức là không mà gồm trừ luôn cả cái thấy, đó là cái thấy cũng tức là không. Hãy tham!
...Sắc tức là không nghĩa là sắc tuy có tướng mà vốn không. Tại sao vốn không? Vì bốn đại vốn không, năm uẩn chẳng phải có. Cũng như hoa đốm trong hư không, hoặc sóng nắng đều nương vào hư không mà có tướng. Tướng chính là vô tướng, nên nói sắc tức là không.” (5)
Thiền sư Minh Chánh hiển nhiên là siêu xuất tuyệt vời, viết tới như thế quả là thần sầu quỷ khốc. Đọc xong cuốn Bát Nhã Tâm Kinh Trực Giải của ngài, hiển nhiên là không còn chỗ nào ngờ vực trong Kinh Phật nữa.
.
Như thế, sẽ thấy tương hợp bất ngờ khi nghe một Thiền sư Thái Lan, ngài Ajahn Chah, giải thích về Không Tam Muội.
Để gợi nhớ, cũng nên nhắc rằng trong Kinh Pháp Bảo Đàn, kể về chuyện khi gió thổi, lá phướn động, một vị tăng nói gió động, một vị tăng nói phướn động, hai người cãi nhau không thôi. Huệ Năng tiến tới nói: “Không phải gió động, không phải phướn động, tâm nhân giả động.” Chỗ này không có gì bí ẩn đối với người trong cửa Thiền Tông. Điều bất ngờ là một vị sư nổi tiếng của Thái Lan, ngài Ajahn Chah, trong bài thuyết giảng được ghi âm và đánh máy lại, “Bodhinyana: A Collection of Dhamma Talks. Part 4 - The Empty Flag,” đã nhắc chuyện phướng và gió để giải thích:
Đây là pháp tu, rằng chớ [cho là] có bất cứ thứ gì, dù là lá cờ hay gió. Nếu có lá cờ, thì là có gió. Nếu có gió, thì là có lá cờ. Ngươi nên chiêm nghiệm và tư duy chỗ này kỹ càng, cho tới khi người thấy phù hợp với Sự Thật. Nếu suy nghiệm kỹ, thì sẽ không còn gì hết. Nó rỗng rang, nó trống không; rỗng rang không có lá cờ, rỗng rang không có gió. Trong cái Không lớn vô cùng, không có lá cờ, không có gió. Không có sinh, không có già, không có bệnh hay chết. Hiểu biết quy ước của chúng ta về cờ và gió chỉ là khái niệm. Trong thực tại, không có gì hết. Thế thôi. Không có gì hơn các nhãn hiệu rỗng.” (5)
Nghe ngài Ajahn Chah qua lời trên, y hệt như đang dạy tham thoại đầu để trực ngộ Tánh Không. Đúng là ngôn phong Huệ Năng.
.
BẤT NHỊ
Chúng ta thường nghe về Bất Nhị, tức là Không Hai. Tuy nhiên, nên cẩn trọng, vì hai chữ này mang nhiều nghĩa, tùy người sử dụng.
Trong các đạo Cơ Đốc, thường dùng chữ Hiệp Nhất, nghĩa là khi kẻ thụ tạo hiệp thông với Đấng Tạo Hóa. Trong Ấn Độ Giáo cũng tương tự, dùng chữ Bất Nhị là khi Tiểu Ngã hòa vào Đại Ngã. Do Thái Giáo cũng có khái niệm Bất Nhị.
Trong nhà Phật, hoàn toàn không có khái niệm hiệp nhất gì hết, vì tất cả pháp đều vô ngã, vì thực tướng là vô ngã, cho nên nói là bất nhị, nhưng không phải là bất nhị, cũng không phải là phi-bất-nhị. Chỉ muốn nói rằng hễ nó như thế, là nó như thế. Gọi là Như Thị, hay gọi tắt là Như cũng được. Không gọi là một, cũng không gọi là nhiều. Y hệt như Gương Tâm Rỗng Rang Chiếu Sáng, không phải một, không phải nhiều…
Đức Phật giải thích về Bất Nhị trong Kinh SN 12.15 -- Kaccayanagotta Sutta. Có thể tóm lược thế này: Tỳ Kheo Kaccanagotta hỏi thế nào là chánh kiến, Đức Phật nói rằng thế giới được nhìn như là nhị nguyên, đó là Hữu (Có) và Vô (Không). Người có mắt tuệ thấy tập khởi thế giới, sẽ biết thế giới không phải là không hiện hữu (nonexistence), khi thấy tịch diệt thế giới, sẽ biết thế giới không phải là có (existence).
Đức Phật nói, "Do vậy, Kaccana, nói 'Tất cả hiện hữu' là một cực đoan. Nói 'Tất cả không hiện hữu' là cực đoan thứ nhì." (“‘All exists’: Kaccana, this is one extreme. ‘All does not exist’: this is the second extreme.) (6)
Thiền Tông Việt Nam có bài kệ của Thiền sư Tông Diễn (1640-1711), trích: “Hữu vô câu bất lập, nhật cảnh bổn đương bô” (có và không đều không lập, mặt trời trí tuệ sẽ lên cao).
Như thế, Thiền Việt Nam đã dạy pháp Bất Nhị một cách tuyệt vời.
Trong nhóm Kinh Tiểu Bộ, Kinh Snp 3.6, kể rằng du sĩ Sabhiya hỏi Đức Phật rằng thành tựu gì thì được gọi là “bhikkhu” (nhà sư), Đức Phật trả lời bằng pháp Bất Nhị, qua bản dịch của Sư Sujato:
By the path they walked themselves,
Nirvāṇa is realized and doubt is left behind;
Existence and non-existence have been abandoned,
Complete, having ended rebirth: they are a “bhikkhu”.(6)
Dịch:
Bằng con đường [đạo] họ bước đi trên đó
Niết Bàn được chứng nhập, và nghi ngờ được bỏ lại phía sau
Hữu và Vô đã được buông bỏ
Hoàn toàn, kết thúc hẳn tái sinh: họ là một nhà sư.
.
Phật Hoàng Trần Nhân Tông (1258 – 1308), người sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm của Việt Nam, có bài thơ nhan đề “Hữu cú, vô cú” gồm 9 đoạn thơ, mỗi đoạn 4 câu, mỗi câu 4 chữ. Và bắt đầu mỗi đoạn thơ là câu “Hữu cú vô cú”…
Đó là Bất Nhị, là Không Hai, là Sắc Không Bất Dị (Bát Nhã Tâm Kinh), là Trung Luận của Long Thọ, là lời Đức Phật dạy phải buông bỏ cả hai như kinh vừa dẫn, và sẽ kết thúc hẳn tái sinh.
Cũng có thể gọi là Một cũng được (nhà khoa học Albert Einstein ưa nói rằng vũ trụ thế giới này chỉ là Một). Trong nhóm Kinh Tương Ưng, bản Kinh SN 1.62 ghi lời Đức Phật dạy, qua bản dịch của Bhikkhu Bodhi, toàn văn kinh này rất ngắn, chỉ 8 câu, như sau:
Mind
“By what is the world led around?
By what is it dragged here and there?
What is the one thing that has
All under its control?”
.
The world is led around by mind;
By mind it’s dragged here and there.
Mind is the one thing that has
All under its control.” (6)
Có thể dịch như sau: “Bởi cái gì, thế giới này bị xoay chuyển? Bởi cái gì, thế giới này bị lôi kéo nơi đây và nơi kia? Cái gì là một pháp mà kiểm soát hết Tất Cả? Thế giới bị xoay chuyển bởi tâm. Thế giới này bị lôi kéo nơi đây và nơi kia bởi tâm. Tâm là một pháp mà Tất Cả đều dưới sự kiểm soát của nó.”
Nghĩa là, như Kinh Lăng Nghiêm nói: Toàn tướng tức tánh, toàn tánh tức tướng.
Thiền Tông giải thích tất cả pháp đều là Không. Có khi nói toàn sóng là nước, toàn ảnh là gương.
Tuyệt vời. Hiển nhiên, đây là ngôn ngữ Thiền Tông. Thử suy đoán: Nghi vấn rằng, sự thật Đức Phật đã cầm lên bông hoa và truyền pháp “bất lập văn tự” cho ngài Ca Diếp, nhưng rồi sự kiện này vì không dùng ngôn ngữ nên không ai biết cách đọc tụng để nhớ… và rồi bị lãng quên?
.
Nơi này nên nhắc tới Thiền Sư Đạo Hạnh (? - 1115) ghi trong sách Thiền Sư Việt Nam của Hoà Thượng Thích Thanh Từ cũng nói y hệt Kinh SN 1.62.
Trích như sau:
“...tìm đến pháp hội của Thiền sư Sùng Phạm ở chùa Pháp Vân. Đến đây, Sư cũng lặp lại câu hỏi:
- Thế nào là chân tâm?
Sùng Phạm đáp: - Cái gì chẳng phải chân tâm?
Sư hoát nhiên nhận được. Lại hỏi: - Làm sao gìn giữ? (Ghi chú của NG: “gìn giữ”nghĩa là “bảo nhậm.”)
Sùng Phạm bảo: - Đói ăn, khát uống.
Sư liền lễ bái rồi lui.
Sau, Sư trụ trì chùa Thiên Phúc ở núi Phật Tích, (Chùa Thiên Phúc cũng gọi là chùa Thầy ở núi Phật Tích, nay là núi Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây… tăng chúng tìm đến tham vấn. Có vị tăng hỏi:
- Đi đứng nằm ngồi thảy đều Phật tâm, thế nào là Phật tâm?
Sư nói kệ đáp:
Có thì muôn sự có,
Không thì tất cả không.
Có, không trăng đáy nước,
Đừng mắc có cùng không.”(6)
.
Bởi xa lìa cả Hữu và Vô như thế, thái độ người tu tất nhiên là NHƯ THỊ.
Kinh Bahiya ghi lời Đức Phật dạy ngài Bahiya là:
Trong cái được thấy sẽ chỉ là cái được thấy; trong cái được nghe sẽ chỉ là cái được nghe; trong cái được thọ tưởng sẽ chỉ là cái được thọ tưởng; trong cái được thức tri sẽ chỉ là cái được thức tri. Cứ thế mà tu tập đi, Bahiya.” (6)
Lời dạy hãy nhìn các pháp Như Thị là Như Thị còn viết theo chi tiết khác trong Kinh AN 4.24. Trong kinh này, Đức Phật tự gọi là Như Lai. Chữ “Như Lai” trong kinh này, Bhikkhu Bodhi ghi là “the Stable One” trong khi Thanissaro Bhikkhu ghi là “Tathagata.”
Kinh AN 4.24 còn gọi là Kinh Kalaka Sutta, dựa vào bản Thanissaro Bhikkhu, sẽ tóm tắt như sau: Này các sư, khi thấy cái được nhìn thấy, Như Lai không diễn giải  suy lường một vật như cái được nhìn thấy, cũng không diễn giải suy lường cái không được nhìn thấy, cũng không diễn giải suy lường một vật như cái sẽ được nhìn thấy, cũng không diễn giải suy lường có ai đang thấy… Tương tự với nghe… với thức tri… Các sư, do vậy, Như Lai – hệt như thế với tất cả hiện tượng có thể được thấy nghe hay biết – là Như Thị, là Như Thế. Và ta nói với các sư rằng, không có pháp NHƯ nào khác cao hơn hay vi diệu hơn… Bất cứ những gì được thấy nghe hay biết và được người khác gọi là sự thật, một bậc giữ tâm Như Thị -- giữa những người tự phiền não – sẽ không bận tâm bàn thêm gì về đúng hay sai.
(Thus, monks, the Tathagata, when seeing what is to be seen, doesn't construe an [object as] seen. He doesn't construe an unseen. He doesn't construe an [object] to-be-seen. He doesn't construe a seer…When hearing... Thus, monks, the Tathagata — being the same with regard to all phenomena that can be seen, heard, sensed, & cognized — is 'Such.' And I tell you: There's no other 'Such' higher or more sublime… Whatever is seen or heard or sensed and fastened onto as true by others, One who is Such — among the self-fettered — wouldn't further claim to be true or even false.) (6)
.
Trong Kinh SN 12.23, cũng dạy pháp BIẾT NHƯ THỊ & THẤY NHƯ THỊ. Kinh này có nhiều bản Anh dịch. Riêng Ngài Bhikkhu Bodhi có 2 bản Anh dịch, một bản năm 1995 và một bản năm 2000 (bản năm 2000 vừa để ở mạng SuttaCentral, vừa in trên sách giấy, “The Connected Discourses of the Buddha,” trang 553-556). Trong đó, một khác biệt ở 2 bản này là, chữ "duyên để phá hủy phiền não". Cả 2 bản sẽ có links ở ghi chú (6).
Bản 1995 của ngài Bodhi viết: ...with respect to destruction has a supporting condition... (duyên hỗ trợ phá hủy).
Bản 2000 của ngài Bodhi viết: ...in regard to destruction has a proximate cause... (duyên trực tiếp, duyên tức khắc phá hủy).
Thế nào là tức khắc, là trực tiếp phá hủy phiền não? Đức Phật nói tới 15 pháp Như Thị. Có thể gọi là Năm Pháp Như Thị (Sắc như thị, Thọ như thị, Tưởng như thị, Hành như thị, Thức như thị). Cũng có thể gọi là Mười Pháp Như Thị (Thấy sắc khởi như thị, thấy sắc diệt như thị… tương tự với thọ, tưởng, hành, thức). Nếu cộng lại, là 15. Nhưng Thập Như Thị của Kinh 12.23 khác với Thập Như Thị của Kinh Pháp Hoa, nhưng cả hai kinh đều là tuyệt vời. Tức khắc, có nghĩa là không trải qua thời gian.
Kinh SN 12.23 viết: “Như thị sắc, như thị sắc khởi, như thị sắc diệt; như thị thọ… như thị tưởng… như thị hành… như thị thức, như thị thức khởi, như thị thức diệt: với người biết như thế, với người thấy như thế, phiền não sẽ tận diệt.”
Trong khi đó, Thiền Tông Việt Nam cũng tuyệt vời với bài kệ của Ngài Thích Phước Hậu (1862 – 1949) ở tỉnh Thái Bình, như sau:
Kinh điển lưu truyền tám vạn tư,
Học hành không thiếu cũng không dư,
Năm nay nghĩ lại chừng quên hết,
Chỉ nhớ trên đầu một chữ NHƯ.
Trước mắt, bên tai là các pháp hữu vi, đang tập khởi và biến diệt, đang chảy xiết. Nhưng ngay khi chúng ta thấy “như thế là như thế” và thoát khỏi các tâm suy diễn tư lường, lập tức cõi hữu vi trở thành vô vi, tức Niết Bàn. Và ngôn ngữ vắng bặt. Đó là quan điểm Thiền Tông.
Ai dám nói Thiền Việt Nam không phải nguyên gốc. Với chữ Như, đó là tận cội nguồn. Và với pháp này, không cần niệm gì nữa hết. Vì đó cũng là VÔ NIỆM. Tu theo pháp Như Thị, nhìn các pháp thường trực ngày đêm như thế, sẽ một cách tự nhiên, không cần ngồi thiền, sẽ vẫn có định huệ đầy đủ. Nhưng, thường là huệ tới trước; trường hợp này, Kinh gọi là Tuệ Giải Thoát đối với những vị A La Hán chưa đắc định, và cũng không có thần thông.
.
Về quý ngài A La Hán, Đức Phật phân loại, trong Kinh SN 8.7, bản Việt dịch của HT Thích Minh Châu có đoạn vấn đáp:
"—Bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn không có gì chỉ trích con về thân hay về lời nói, vậy bạch Thế Tôn, đối với khoảng năm trăm Tỷ-kheo này, Thế Tôn có gì chỉ trích hay không, về thân hay về lời nói?
—Này Sāriputta, đối với khoảng năm trăm Tỷ-kheo này, Ta không có gì chỉ trích về thân hay về lời nói. Này Sāriputta, trong khoảng năm trăm Tỷ-kheo này, sáu mươi Tỷ-kheo là bậc Tam minh, sáu mươi Tỷ—kheo là bậc chứng được sáu Thắng trí, sáu mươi Tỷ-kheo là bậc Câu giải thoát, và các vị còn lại là bậc Tuệ giải thoát." (6)
Chữ “Câu giải thoát” là giải thoát bằng định và cùng lúc giải thoát bằng huệ. Còn Tuệ giải thoát là chỉ duy đắc Huệ.
.
Tương tự, trong Kinh SN 12.70, tôn giả Susima thắc mắc khi chứng kiến nhiều vị tăng tới trước Đức Phật, thưa rằng "Chúng con biết rõ rằng: 'Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa'” nhưng khi hỏi trực tiếp, quý ngài A La Hán này trả lời tôn giả Susima rằng quý ngài chưa hề có thần thông, không hề nhớ đời quá khứ hay thấy tương lai, chưa hề đắc định nào... nhưng biết chắc rằng đã có Tuệ Giải Thoát. Ngài Susima mới nêu thắc mắc với Đức Phật, và được trả lời rằng đúng như thế, là có các A La Hán Tuệ giải thoát, không thần thông và chưa đắc định. (6)
.
ĐỨC PHẬT DẠY PHÁP THỞ
Vào chùa, bước đầu thường được dạy pháp thở. Bởi vì để an tâm nhanh nhất, không gì hơn pháp thở. Tuy nói rằng bước đầu, nhưng theo hướng dẫn của Đức Phật, pháp thở cũng là tận cùng, vì qua pháp thở sẽ hoàn mãn Tứ Niệm Xứ, Thất Giác Chi, và rồi Niết Bàn. Câu hỏi là, thở như thế nào?
Quý Thầy dạy thở, có khi dựa theo Kinh, có khi dựa theo Luận. Trong bài này, sẽ chỉ nói về pháp thở dựa theo Kinh.
Đức Phật dạy pháp thở khác với nhiều thầy đời sau. Các bộ luận như Thanh Tịnh Đạo, A Tỳ Đàm và nhiều luận khác đã dạy thở đếm số, hay dạy chú tâm vào chóp mũi… Hiển nhiên quý ngài luận sư muốn dùng cách tiện dụng tùy đối tượng. Giả sử, như dân quê mù chữ, không biết đếm số, có lẽ đếm hơi thở có thể không thích hợp (chúng ta chỉ đoán, không có ý chỉ trích, vì rất nhiều người đã vào cửa bằng thiền sổ tức).
Có một lý do nữa, lời dạy của Đức Phật là pháp bảo muôn đời. Trong khi lời dạy của các luận sư có thể chỉ thích hợp vào một thời nào, cho một thành phần nào, và có khi không phù hợp với kinh. Cho nên, nhiều vị sư, kể cả thuộc truyền thống Therevada Thái Lan, không dựa vào luận, mà chủ yếu dựa vào kinh.
Đọc về cuộc đời ngài Ajahn Chah, chúng ta thấy ngài nhiều năm ưa làm du tăng, lang thang tìm nơi rừng xa, hang động để ngồi thiền. Như thế, không có thì giờ bận tâm với các bộ luận phức tạp. Ngài nói: “Học A Tỳ Đàm có thể lợi ích, nhưng quý vị phải học mà không dính vào sách vở.” (Studying the Abhidhamma can be beneficial, but you have to do it without getting attached to the books.) (7)
Do vậy, những vị sư nối pháp của ngài Ajahn Chah dựa vào kinh nhiều hơn luận.
Nhà sư Ajahn Sumedho (tên đời là Robert Karr Jackman, sinh ngày 27/7/ 1934, tại Seattle) đang hoằng pháp ở Anh quốc, từng viết rằng trong đời ngài chưa bao giờ chán như khi học Abhidhamma (bằng tiếng Anh) tại Bangkok, và ngài nghĩ: “Đó không phải là điều mình muốn từ tôn giáo này.” Và chỉ khi học Phật pháp qua phương pháp và cuộc đời của Ajahn Chah, mới cảm thấy đó là tốt đẹp nhất trong đời. (7)
Nhà sư gốc người Úc Ajahn Sujato, cũng từ Thiền phái Lâm Truyền của ngài Ajahn Chah, hiện là một trong các học giả chủ lực của trang Sutta Central, trong một cuộc hội thoại dài về chủ đề “What is the meaning of Nama in Nama Rupa?” (Ý nghĩa của Nama trong Nama Rupa?) với nhiều học giả trên mạng này (tháng 3/2017), đã nhận xét:
Sujato (tháng 3/2017): Đây là một từ ngữ từ A Tỳ Đàm, nghĩa là “hiểu biết về sự phân biệt giữa tâm và thân.” Nó dựa vào sự diễn dịch A Tỳ Đàm chặt chẽ về namarupa như “tâm và thân,” mà [diễn dịch] này không tìm thấy ở kinh nào cả. Cảnh giác: dùng A Tỳ Đàm để hiểu kinh sẽ chỉ dẫn tới mệt mỏi và bực dọc! Quý vị sẽ phải học cả mớ phức tạp, và rồi mất nhiều năm sau để gỡ chúng ra khỏi trí nhớ! Y hệt như tôi đã làm!”
(This is an Abhidhamma term, which means “the knowledge of distinguishing between mind and body”. It relies on the strictly Abhidhamma interpretation of nāmarūpa as “mind and body,” which is not found in the suttas at all. Warning: using the Abhidhamma to understand the suttas will only lead to weariness and vexation! You will have to learn a bunch of complicated stuff, and then spend years unlearning it! Like I did!” (7)
Ngài Sujato viết rằng khi kinh và luận dị biệt, hãy chỉ tin vào kinh; nhưng khi tương hợp, luận sẽ giúp ích.
Ajahn Brahm, một vị sư nối tiếng trong việc hoằng pháp ở Úc châu và Anh quốc, cũng từ truyền thống Ajahn Chah, có lập trường chỉ dùng Kinh Phật, không dựa vào các luận thư. Ngài giải thích qua video nhan đề “Abhidhamma was not taught by the Buddha” (Đức Phật không dạy A Tỳ Đàm): https://youtu.be/LIK3h-UMwaw  (click cc: để xem phụ đề).
Đó là lý do, nơi đây chúng ta chỉ bàn về pháp thở trong Kinh Phật. Pháp niệm hơi thở là niệm thân, nhưng thực sự cũng là sẽ tuần tự niệm thân thọ tâm pháp.
Trích một phần Kinh SN 54.1, bản dịch của Hòa Thượng Thích Minh Châu, như sau:
“…Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi đến rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến chỗ nhà trống, ngồi kiết-già, lưng thẳng, đặt niệm trước mặt; vị ấy chánh niệm thở vô, chánh niệm thở ra.
Thở vô dài, vị ấy rõ biết: “Tôi thở vô dài”. Thở ra dài, vị ấy rõ biết: “Tôi thở ra dài”. Thở vô ngắn, vị ấy rõ biết: “Tôi thở vô ngắn”. Thở ra ngắn, vị ấy rõ biết: “Tôi thở ra ngắn”.
“Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập. “An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập.
“Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập. “Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập..." (ngưng trích -- có thể đọc toàn bộ kinh ở link (7) cuối bài).
Làng Mai của Thầy Nhất Hạnh cũng dạy pháp thở trong kinh.
Đối với người hiểu tiếng Anh, có thể vào YouTube để theo các hướng dẫn thiền về hơi thở của nhiều vị sư. Trong đó, Ajahn Brahm có cả trăm băng video, dài ngắn khác nhau, dạy về thiền hơi thở. Thầy Ajahn Brahm nói tiếng Anh dễ nghe, lại có phụ đề (click cc:) nên tiện dụng. (7)  
.
LỖI IN SAI: DƯ MỘT CHỮ ‘KHÔNG’
Trong Kinh Tăng Chi Bộ, bản Việt dịch của Hòa Thượng Thích Minh Châu, có in nhầm: dư một chữ “không.”
Xin trình bày nơi đây, để Giáo hội khi tái bản, xin đề nghị hiệu đính chỗ này: xóa bớt một chữ “không.”
Kinh AN 2.125-126 “Ghosa Suttas: Voice” Bản Anh dịch của Thanissaro Bhikkhu viết:
"Monks, there are these two conditions for the arising of wrong view. Which two? The voice of another and inappropriate attention. These are the two conditions for the arising of wrong view."
"Monks, there are these two conditions for the arising of right view. Which two? The voice of another and appropriate attention. These are the two conditions for the arising of right view." (8)
Bản tiếng Việt của HT Thích Minh Châu, nguyên văn:
“Có hai duyên này, này các Tỷ-kheo, khiến tà kiến sanh khởi. Thế nào là hai? Tiếng nói của người khác và không như lý tác ý. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai duyên khiến tà kiến sanh khởi.
Có hai duyên này, này các Tỷ-kheo, khiến chánh kiến sanh khởi. Thế nào là hai? Tiếng nói của người khác và không như lý tác ý. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai duyên khiến chánh kiến sanh khởi.” (8)
Lỗi này, do vậy, trên rất nhiều trang web tiếng Việt đều bị vướng.
Khi tái bản Kinh Tăng Chi Bộ, kính xin cắt bỏ chữ “không” ở đoạn thứ nhì.
Bài viết này xin ngưng nơi đây, và xin gửi lời chúc đầu xuân tới tất cả chư tôn đức tứ chúng.
.
GHI CHÚ:
(1) Vài Ghi Chú Rời Về Thiền -  https://thuvienhoasen.org/a27186/vai-ghi-chu-roi-ve-thien
Bản dịch Khantipalo: https://suttacentral.net/en/snp4.2
Bản dịch Bhikkhu Bodhi: không có bản điện tử, trên sách giấy The Suttanipata, ấn bản 2017, trang 293.
Guhatthaka-suttaniddeso: Upon the Tip of a Needle - https://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/nm/nm.2.04.olen.html
(2) Trích lá thư gửi Marcus năm 1950: “He experiences himself, his thoughts and feelings as something separated from the rest — a kind of optical delusion of his consciousness.” (https://thuvienhoasen.org/a29217/khi-einstein-chia-buon)
Trích lá thư gửi gia đình Besso năm 1955: “Now he has departed from this strange world a little ahead of me. That means nothing. People like us, who believe in physics, know that the distinction between past, present and future is only a stubbornly persistent illusion.” (https://en.wikipedia.org/wiki/Michele_Besso)
(3) Pháp Cú. Verse 348: Give up the past, give up the future, give up the present. Having reached the end of existences, with a mind freed from all (conditioned things), you will not again undergo birth and decay. (http://www.tipitaka.net/tipitaka/dhp/verseload.php?verse=348 )
Thời gian vĩnh cửu trong Itivuttaka 43:
The escape from that, the peaceful,
Beyond reasoning, everlasting,
The not-born, the unproduced,
The sorrowless state that is void of stain,
The cessation of states linked to suffering,
The stilling of the conditioned—bliss.
(4) Kinh MN 138, bản Việt: https://suttacentral.net/vn/mn138
Ajahn Chah: This is the practice, not to have anything, not to have the flag and not to have the wind. If there is a flag, then there is a wind; if there is a wind, then there is a flag. You should contemplate and reflect on this thoroughly until you see in accordance with Truth. If considered well, then there will remain nothing. Its empty — void; empty of the flag and empty of the wind. In the great Void there is no flag and there is no wind. There is no birth, no old age, no sickness or death. Our conventional understanding of flag and wind is only a concept. In reality there is nothing. Thats all! There is nothing more than empty labels. (https://www.wisdomlib.org/buddhism/essay/bodhinyana/d/doc1245.html )
HT Thích Thanh Từ. Thiền Sư Việt Nam: https://thuvienhoasen.org/p58a11306/5/phan-04
(Bhikkhu Bodhi. Kinh SN 12.23.
Kinh SN 8.7, HT Thích Minh Châu dịch - https://suttacentral.net/vn/sn8.7
Kinh SN 12.70. Bản Việt dịch của HT Thích Minh Châu - https://suttacentral.net/vn/sn12.70
(7) Ngài Ajah Chah nói về Abhidhamma --  https://www.budsas.org/ebud/ajchah_lib/01_key.htm
Ajahn Sumedho nói về Abhidhamma - https://www.fsnewsletter.org/html/76/sumedho.htm
Kinh SN 54.1, bản dịch của HT Thích Minh Châu: https://suttacentral.net/vn/sn54.1
(8) Kinh AN 2.125. Bản của Thanissaro Bhikkhu: https://www.accesstoinsight.org/tipitaka/an/an02/an02.125-126.than.html

Bản của HT Thích Minh Châu: https://suttacentral.net/vn/an2.118-129


Quà Tặng Trong Mùa Lễ

Nguyên Giác

Bạn đang nhìn thấy mùa Lễ Giáng Sinh khắp nơi, tại Hoa Kỳ, tại Châu Âu -- kể cả tại Trung Quốc và Việt Nam, hai quốc gia có dân số Thiên chúa giáo không đông. Nghĩa là, trong khi Lễ Giáng Sinh, tức Christmas, nơi các quốc gia có đa số theo Ky tô giáo sẽ được đón bằng nghi lễ tôn giáo để đón mừng ngày Đấng Christ ra đời, nơi các quốc gia khác sẽ được nhìn như một ngày lễ văn hóa.
Như thế, trong khi Tổng Thống Obama viết trong thiệp chúc mừng là “Happy Holidays” (Chúc Mừng Ngày Lễ Hạnh Phúc), Tổng Thống Trump viết trong thiệp là “Merry Christmas” (Chúc Mừng Lễ Chúa Giáng Sinh Tưng Bừng). Mỗi người đều có lý do riêng. Nhưng hiển nhiên là về mặt ngôn ngữ, Trump bày tỏ lòng mộ đạo hơn Obama.
Tuy nhiên, khuynh hướng như TT Obama trên toàn cầu đông hơn, vì lễ này phần lớn đã thế gian hóa, trở thành một mùa lễ để mua sắm, để tặng quà cho nhau, và cũng là để có một tuần lễ tiễn đưa năm cũ qua, trước khi đón thêm một tuổi vào đời. Thực tế, cũng nhờ dịp lễ tặng quà, kinh tế Mỹ tăng vọt trong những tuần lễ cuối năm.
Bản khảo sát năm nay của viện Pew Research Center cho thấy:
-- 52% dân Mỹ nói, họ không bận tâm là họ được chúc mừng kiểu Obama hay Trump.
-- 32% nói rằng họ thích hơn, nếu được chúc "Merry Christmas."
-- 15% nói rằng họ thích hơn, khi được chúc bằng ngôn ngữ trần gian như "Happy Holidays."
-- 90% nói rằng họ mừng lễ, nhưng chỉ 51% nói họ sẽ dự nghi lễ Ky tô giáo vào đêm trước Lễ Giáng Sinh hay trong ngày Lễ.
Bản khảo sát trên thực hiện từ ngày 29/11/2017 tới ngày 04/12/2017 trong người thành niên Hoa Kỳ.
Tổng Thống Trump nói rằng thái độ thích ứng chính trị đã dẫn tới một “cuộc chiến về Lễ Giáng Sinh.” Báo The Hill ghi lời Trump rằng nhờ ông thắng cử Tổng Thống, nên bây giờ dân Mỹ sẽ “tiếp tục nói câu ‘Merry Christmas' trở lại.”
Đối với nhiều vị đạo sư Phật giáo, Lễ Giáng Sinh cũng là dịp để tiếp cận với những người tôn giáo dị biệt.
Như trường hợp Thiền Sư Nhất Hạnh, một bài nói chuyện nổi tiếng của Thầy tại Plum Village tựa đề là “Have I Got a True Home?” (Tôi Đã Tới Căn Nhà Chân Thực Chưa?) trong đêm trước Lễ Giáng Sinh (ngày Thứ Ba 24/12/2013), trích dịch từ bản tiếng Anh một đoạn như sau:
“Christmas luôn luôn là một cơ hội để thiền định về căn nhà chân thực của chúng ta. Đức Phật không có một căn nhà khi ngài còn trẻ; ngài không hạnh phúc ngay cả dư thừa với tài sản vật chất. Và Jesus Christ sinh ra trong vị trí người tỵ nạn và cũng đang tìm kiếm một căn nhà. Nhưng cả hai, Đức Phật và Đấng Christ đã thực tập và họ đã tìm ra một Căn Nhà Chân Thực. Tôi đã có một căn nhà chân thực chưa?” (https://tnhaudio.org/tag/christmas/)
Không có bao nhiêu người có cái nhìn cởi mở như Thầy Nhất Hạnh như thế.
Câu hỏi bây giờ của chúng ta là, truyền thống Hoa Kỳ là nhận quà và tặng quà trong dịp lễ này, nên làm thế nào cho thích nghi? 
Dĩ nhiên, chúng ta phải giữ giới luật. Có nghĩa là, không nên tặng rượu, vì như thế là xúi người phạm giới; đó là chưa kể, say rượu là có khi lắm chuyện. Cũng không nên tặng thuốc lá hay xì gà, hay bất kỳ thứ gì làm người ta mất tỉnh giác, lại hại sức khỏe. Cũng không nên tặng thịt hộp, vì thêm phần chay tịnh chút nào, sẽ tốt thêm chừng đó.
Tặng hương trầm cũng được, trà xanh cũng tốt. Nhưng cũng nên đoán, người được tặng có hài lòng với quà mình tặng như thế hay không.
Tuy nhiên, chúng ta có thể hình dung ra kịch bản hai Thiền sư muốn đùa giỡn nhau: họ sẽ làm gì với việc tặng quà (giả sử, hai vị cũng muốn bày trò cho vui).
Thí dụ, Tuệ Trung Thượng Sĩ tặng một hộp quà cho Vua Trần Nhân Tông. Khi vua Trần mở hộp ra, nhìn thấy trong hộp trống trơn, không có gì trong hộp cả, vua mới nói rằng: “Thế đấy, Trẫm luôn luôn muốn thấy Tánh Không của các pháp.” Dĩ nhiên, chúng ta kể chuyện giả tưởng cho vui thôi. Nhưng tinh thần Phật giáo là, không nên mong đợi những gì trong tương lai, trong khi ngay với những gì của bây giờ và ở đây cũng nên nhìn dưới lăng kính như mộng, như huyễn, như bọt nước, như ảnh hiện… và không có gì để nắm giữ.
Có thể tặng Kinh sách… nhưng cũng tùy. Nếu người được tặng thuộc tôn giáo khác, chúng ta nên tránh những suy nghĩ phiền não có thể khởi lên trong tâm của họ. Đối với em, cháu trong nhà, có thể rằng các thiết bị điện tử dùng cho học đường có thể đang cần hơn, để hỗ trợ các em trong việc học thi. Nếu bạn đi một vòng các thương xá Hoa Kỳ tuần này, sẽ thấy phần nhiều là mua áo quần để tặng nhau, vì thiết thực; nhưng sẽ bất tiện, nếu kích thước không phù hợp, người nhận lại mang tới tiệm đổi lại cho đúng kích thước.
Trường hợp không biết người được tặng theo đạo nào, an toàn nhất là bạn nên tặng những gì họ quan tâm, thí dụ sách về lịch sử Biển Đông, hay sách về truyện cổ dân gian Việt Nam, hay một sách về biên khảo văn học.
Đặc biệt, chớ nên nghĩ rằng ai cũng muốn được tặng quà. Có những người rất mực đơn sơ, có khi một thiệp gửi từ xa cũng đã là quá nhiều. Hay một tin nhắn vài chữ qua điện thoại cũng là đủ vui một năm rồi. Đối với một số người đặc biệt, bạn có thể làm một bài thơ bốn câu là đủ, tuyệt vời hơn rất nhiều các thứ quà tặng vật chất.
Đức Phật nói rằng, trong việc cúng dường và bố thí, cúng dường pháp là tối thắng.
Tuy nhiên, thời này phức tạp. Khi chọn sách để tặng, cũng nên suy tính là có thích nghi không. Ngay cả khi cùng là Phật tử, cũng nên tránh chuyện tranh luận bộ phái. Không có cơ duyên, mà để tranh cãi thì chẳng ích lợi gì cho ai.
Tới đây, có thể có một câu hỏi là, trường hợp quá nghèo, làm sao tặng quà? Không lẽ trong mùa lễ, ai cũng tặng quà, mà mình không có gì để tặng?
Trả lời câu hỏi đó, Thiền sư Cheng Yen đã có một bài giảng đăng lại trên mạng Tzu Chi Foundation http://tw.tzuchi.org tựa đề là “How to Give, for the Person Who Has Nothing” (Với Người Không Có Gì Hết, Làm Sao Tặng Quà). Không thấy trang Tzu Chi ghi rằng Kinh này tên gì.
Tóm lược, và dịch như sau.
Một hôm, một người rất nghèo tới vườn Jeta Grove, nơi trú xứ của Đức Phật và chư tăng. Người này tới xin gặp Đức Phật, trình bày rằng người này nghèo đã trọn đời rồi, từ khi sinh ra, nghèo cả những khi làm việc rất cực nhọc.  Bây giờ người này muốn cúng dường Phật-Pháp-Tăng để có phước, nhưng lại không có gì hết.
Đức Phật nói rằng, ngay cả khi một người nghèo mạt hạng, người đó vẫn có thể cúng dường. Đó là 7 cách cúng dường mà không tốn kém gì.
Cách thứ nhất là thái độ khi gặp người khác, hãy mỉm cười, hoan hỷ, thân thiện, từ ái.
Cách thứ nhì là luôn luôn nói lời dịu dàng, lời tử tế, với bất kỳ ai và về ai, dù trước mặt hay vắng mặt họ.
Cách thứ ba là luôn luôn suy nghĩ với tâm từ bi về tất cả những người gặp trong đời.
Cách thứ tư là dùng mắt sáng của mình giúp người mắt kém, hãy dẫn người mắt kém đi đúng hướng.
Thứ năm, giúp người khác với sức khỏe của bạn. Những việc cần thể lực, như mang, vác, xách… bạn có thể giúp người khác.
Thứ sáu, bày tỏ lòng tôn trọng mọi người chung quanh và tất cả những người khác.
Thứ bảy là yêu thương và chăm sóc những người đang cần giúp đỡ, và cả những sinh vật khác.
Trong một nơi khác, Đức Phật giảng về Kinh Metta Sutta. Và hiển nhiên là, khi bạn sống đúng tinh thần bài kinh này, đó chính là quà tặng lớn nhất bạn có thể trao cho tất cả thế giới này. Trích dịch:
“…hãy tu tâm yêu thương vô bờ bến hướng về tất cả chúng sinh, y hệt như người mẹ bảo vệ đứa con duy nhất của bà bằng chính sinh mạng của bà.
“Hãy chiếu sáng ngời tình yêu thương vô bờ bến này hướng về toàn thể thế giới – các cõi trên, coi dưới và khắp các phương hướng cõi này – không ngăn che, không chút sân hận, không chút bực dọc.
“Trong khi đứng, trong khi đi, trong khi ngồi, trong khi nằm, hễ tỉnh thức, hãy luôn luôn quán sát [chiếu sáng] tâm yêu thương này. Như thế là Sống Thánh Hạnh…”
Vâng. Đúng vậy. Sống như thế, chính là món quà đẹp nhất chúng ta có thể tặng, không chỉ trong mùa lễ này, mà cũng là cho trọn năm, trọn tháng, trọn tuần, trọn ngày, và trong từng khoảnh khắc.

Đọc Thêm Vài Ý Về Bát Nhã Tâm Kinh
Nguyên Giác

Bài viết này để nói thêm một số ý trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng có thể xem như nối tiếp bài “Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh” (1), nhưng cũng có thể đọc như độc lập, vì phần lớn sẽ dựa vào đối chiếu với một số Kinh Tạng Pali. Bài viết cũng không có ý tranh luận với bất kỳ quan điểm nào khác, chỉ thuần túy muốn đưa ra một số cách nhìn thiết yếu cho việc tu học và thiền tập. Bài Bát Nhã Tâm Kinh từ nhiều thế kỷ được đưa vào Kinh Nhật Tụng Bắc Tông chủ yếu là để cho mọi thành phần, kể cả bậc đại trí thức và người kém chữ, biết lối thể nhập vào Bản Tâm (nói theo Thiền) hay vào Tánh Không (nói theo Trung Quán Luận). Nghĩa là, để văn, để tư và để tu. Không để tranh biện kiểu thế trí. Bài này cũng sẽ nhìn theo cách truyền thống của Phật Giáo Việt Nam.

KHÔNG PHẢI KHÔNG, KHÔNG PHẢI CÓ
Trước khi đọc chú giải của một số cổ đức, nơi đây xin tóm lược lược bài phân tích kỳ trước. Tất cả các pháp đều duyên khởi, nên gọi là không. Na Tiên Tỳ Kheo nói rằng không có cái gì là Na Tiên, vì sắc thọ tưởng hành thức của Na Tiên đều rỗng rang không tự tánh (chỉ nương gá nhau theo luật duyên khởi); và không có cái gì là cỗ xe, vì gọng xe, trục xe, mui xe… không phải là xe, chỉ tạm gọi là xe (tức, nói theo Kinh Kim Cương: tất cả các pháp đều như mộng, huyễn, bào, ảnh).
Tới đây, chúng ta phải nhắc rằng lý luận (dựa vào ngôn ngữ và suy luận) sẽ không cho thấy thực tướng. Dẫn thí dụ trên, sẽ thấy rằng khi cỗ xe tới, cỗ xe là cái được thấy trước mắt chúng ta, âm thanh cỗ xe chạy là cái được nghe bên tai chúng ta, vân vân… khi xe chạy qua xong, cái được thấy là cái vắng-ảnh, cái được nghe là cái vắng-tiếng, nhưng cái vắng đó vẫn là đối tượng của mắt và tai. Tất cả, dù có hay không, dù có ảnh hay không ảnh, dù có tiếng hay không tiếng, đều được bao trùm trong Gương Tâm Rỗng Rang Vắng Lặng Chiếu Sáng, nghĩa là một sân khấu nơi hữu và vô đóng vai trình diễn kịch nghệ. Chúng ta gọi ảnh là khi có và khi không, gọi tiếng là khi có và khi không, nhưng không gọi Gương Tâm bằng bất kỳ chữ gì được, vì Gương Tâm là bất động, là không tăng và không giảm, là không sạch và không dơ. Tạm gọi là Tánh Không.

VƯỢT NGOÀI LÝ LUẬN, XA LÌA 62 TÀ KIẾN
Đức Phật trong Kinh DN 1 (Kinh Phạm Võng) nói rằng không dùng lý luận mà dò ra được: "Các sư, có những pháp khác, sâu thẳm, khó thấy, khó hiểu, bình an và tối thắng, VƯỢT QUA CẢNH GIỚI CỦA LÝ LUẬN, vi tế, chỉ được nhận ra bởi bậc trí tuệ..." (2)
Có nghĩa là, chúng ta không dùng ngôn ngữ lý luận mà dò được. Kinh này Đức Phật chỉ ra 62 tà kiến để bác bỏ. Và khi nói có, nói không, dù là thường hay đoạn trong quá khứ, hiện tại, vị lai đều trật. Do vậy, nếu có ai tự hào là thông minh, giỏi nhiều ngôn ngữ, giỏi biện luận cũng không thể thấy được. Cách thấy an toàn nhất là: giữ tâm vô sở trụ, không vương vào bất kỳ pháp nào. Vua Trần Nhân Tông còn gọi là “chớ dựng lập có hay không” (hữu, vô câu bất lập). Đức Phật dạy pháp đơn giản nhưng siêu xuất trong Kinh Bahiya là “cái được thấy chỉ là cái được thấy, cái được nghe chỉ là cái được nghe…” như thế, sẽ không vướng vào lưới 62 tà kiến.

KHÔNG HỀ CÓ MẮT TAI MŨI LƯỠI THÂN Ý
Trong Bát Nhã Tâm Kinh có câu:
Không hề có Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý; Không hề có cái được thấy, không hề có cái được nghe, không hề có cái được ngửi…
Câu này trong Tạng Pali nằm trong Kinh Tương Ưng SN 4.19, trích dịch:
“… nhưng, Ác Ma, nơi không có mắt, nơi không có cái được nhìn thấy, nơi không có nhãn xúc và nơi không có chỗ tựa của [nhãn] thức – sẽ không có chỗ cho người nơi đó, hỡi Ác Ma (tương tự với tai, mũi, lưỡi, thân…)… Tâm là cái của ngươi, hỡi Ác Ma, cái đối tượng được tâm nhận ra là cái của ngươi…; nhưng, hỡi Ác Ma, nơi không có tâm, nơi không có đối tượng của tâm, nơi không có xúc chạm của tâm và nơi không có chỗ tựa cho thức của tâm – sẽ không có chỗ cho ngươi nơi đó, hỡi Ác Ma.” (3)
Ngắn gọn, Đức Phật nói rằng trong cảnh giới của người giải thoát, dù là đang đi đứng nằm ngồi, dù là đang thuyết pháp, đang nói cười… vẫn không hề có mắt tai mũi lưỡi thân ý… Nơi này, Đức Phật đã dạy Bát Nhã Tâm Kinh hay tuyệt vời như thế.
Như thế, nơi tất cả mắt tai mũi lưỡi thân ý đều là cửa giải thoát, đều là tức khắc xa lìa Ác Ma. Và đó là ý nghĩa của 84 ngàn pháp môn, tức là 84 ngàn cửa giải thoát. Nhìn đâu cũng thấy giải thoát, nghe đâu cũng thấy giải thoát… Nếu cứ dựa thuần ngôn ngữ lý luận sẽ không bao giờ tới được cửa vào của Tâm Kinh, vì Tâm Kinh này phá gỡ tất cả 62 tà kiến. Than ôi, Bát Nhã Tâm Kinh tuyệt vời như thế, không lo tu đi, sao cứ dựa vào ngôn ngữ lý luận hạn hẹp mà vặn chữ. Lý luận chỉ có thể nhận ra Có và Không, chớ hề nhận ra cảnh giới của xa lìa mọi lý luận, cảnh giới của xa lìa mọi ngôn thuyết.

BÁT NHÃ TÂM KINH LÀ TÂM THƯỜNG ĐỊNH
Tại sao các tổ sư Trung Hoa và Việt Nam gọi rằng Bát Nhã Tâm Kinh là cảnh giới của đại định, của thường định,  của không hề dính tí bụi nào?
Có một số vị nói rằng khi vào Sơ Thiền, Nhị Thiền… sẽ phải ngồi, sẽ không nghe gì dù là 500 cỗ xe chạy trước mặt? Vậy, ý nghĩa đại định của Tâm Kinh ở đâu?
Đức Phật nói trong Kinh AN 3.63 rằng đi đứng nằm ngồi đều có thể ở trong đại định, trong 4 tầng Thiền của chư Thiên, trong định Tứ Vô Lượng Tâm của Phạm Thiên, và trong Trí Tuệ Giải Thoát của bậc Thánh. Tóm gọn kinh này thành ba đoạn như sau.
Đức Phật vào tấng Thiền thứ nhất, vào tầng Thiền thứ hai, vào tầng Thiền thứ ba, vào tầng Thiền thứ tư... "trong trạng thái như vậy, nếu ta đi kinh hành (tuần tự: đứng, nằm, ngồi), thời trong lúc ấy, chỗ kinh hành (đứng, nằm, ngồi) của Ta thuộc chư Thiên..."
Rồi Đức Phật nhập định tuần tự, Từ, Bi, Hỷ, Xả... "trong trạng thái như vậy, nếu ta đi kinh hành (đứng, nằm, ngồi), thời trong lúc ấy, chỗ kinh hành (đứng, nằm, ngồi) của Ta thuộc Phạm Thiên..."
Rồi Đức Phật tuần tự biết rõ, đoạn tâm Tham, đoạn tâm Sân, đoạn tâm Si... "trong trạng thái như vậy, nếu ta đi kinh hành (đứng, nằm, ngồi), thời trong lúc ấy, chỗ kinh hành (đứng, nằm, ngồi) của Ta thuộc bậc Thánh..."
Xin mời xem bản Anh dịch của Bhikkhu Bodhi và bản Việt dịch của Hòa Thượng Thích Minh Châu ở link (4).
Câu hỏi nơi đây: Do duyên nào mà tâm không định? Khi đã thấy vắng bặt mắt tai mũi lưỡi thân ý thì lấy chỗ nào cho tâm động?
Do vậy, Bát Nhã Tâm Kinh là đi đứng nằm ngồi đều ở trong đại định, và thực sự là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú, là hay trừ được hết thảy khổ, là chơn thật không hề hư dối. Tuyệt vời là như thế.

TRƯỚC MẮT, BÊN TAI BẢN NHIÊN THANH TỊNH
Tới đây, một lẽ thường được nêu ra, rằng chúng ta thường được nghe rằng cõi này là cõi khổ, nhìn đâu cũng thấy bất như ý, nghe gì cũng thấy bất toàn, mà hễ khởi tâm thuận nghịch là tức khắc vướng liền. Tức là, Tứ Diệu Đế là bốn sự thật tuyệt vời  được Đức Phật tuyên thuyết để giúp chúng ta tu hành, để vượt bể khổ. Chư Tổ còn gọi đó là Sanh Diệt Tứ Đế.
Do vậy, thắc mắc là, tại sao Bát Nhã Tâm Kinh có câu “Vô Khổ Tập Diệt Đạo”…   
Nghĩa là, tại sao Bát Nhã Tâm Kinh dám viết là “không hề có cái gì gọi là Khổ Đế, không hề có cái gì gọi là Tập Đế, không hề có cái gì gọi là Diệt Đế, không hề có cái gì gọi là Đạo Đế”… bởi vì, không lẽ không vướng vào sắc thanh hương vị xúc pháp?
Có vị Thầy khi giảng Bát Nhã Tâm Kinh đã nói với học trò rằng cái gì trói buộc ngươi, thử nhìn ngó xem… học trò tức khắc thấy được chỗ không bị trói buộc. Tuyệt vời là như thế. Cho nên, Thiền Tông lấy Bát Nhã Tâm Kinh làm kinh nhật tụng vì đây thực sự là pháp qua bờ bên kia. Tức khắc. Đốn ngộ. Đốn nhập. Vượt qua vô số kiếp. Chư Tổ gọi pháp này là Vô Sanh Tứ Đế, hay là Vô Tác Tứ Đế, vì khi đã ngộ nhập Gương Tâm Rỗng Rang Lặng Chiếu xong là không thấy có pháp nào để tu nữa.
Trong Tương Ưng Bộ, Kinh SN 35.191 - Kotthita Sutta có ghi lời của ngài Sariputta giải thích cho ngài Maha Kotthita rằng, trích dịch:
“… mắt không phải là gông xiềng của cái được thấy; cũng vậy, cái được thấy không phải là gông xiềng của mắt. Bất cứ tham ái và mê đắm nào khởi lên dựa vào hai cái đó (mắt và cái được thấy): nơi đó chính là gông xiềng. Tai không phải là gông xiềng của cái được nghe… (tương tự, mũi lưỡi thân ý)… Nếu mắt là gông xiềng của cái được thấy, hay nếu cái được thấy là gông xiềng của mắt, thì đời sống thánh hạnh để kết thúc sầu khổ phiền não không thể nào có được…” (5)

TỪ TƯỞNG TỚI VÔ TƯỞNG
Tới đây, chúng ta chú ý câu: Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức.
Hiểu là: Do vậy trong cái Không này vốn không hề có cái được thấy, không hề có cái được cảm thọ, không hề có cái gì gọi là tưởng, là hành, là thức.
Nơi đây, chúng ta chú ý về “tưởng” – tiếng Anh là “perception,” định nghĩa theo Bhikkhu Bodhi là:
Đặc tính của tưởng là nhận biết các phẩm chất của một vật (hay một pháp, một đối tượng). Chức năng của nó là nhận ra đặc tướng như điều kiện để nhận biết lần nữa rằng “đây cùng là vật đó,” hay là chức năng của nó là nhận biết những gì trước dó đã nhận biết. Nó hiển lộ như sự diễn giải về một vật… bằng các đặc tướng trước đó được nhận biết.” (6)
Ngắn gọn: tưởng là nhận biết các đặc tướng để khi thấy lại ABC sẽ biết đó chính là ABC mà không phải XYZ.
Tới đây, sẽ thấy trong Kinh AN 9.16, Đức Phật dạy phải tu 9 pháp tưởng tất sẽ giải thoát, tất sẽ vào Niết Bàn (ghi chú: tưởng về xả ly món ăn, nên hiểu là 4 loại thực phẩm -- đoàn thực thô hoặc tế, xúc thực, tư niệm thực và thức thực).
Bản dịch của Hòa Thượng Thích Minh Châu như sau, trích toàn văn:
“—Này các Tỷ-kheo, có chín tưởng này được tu tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn, có lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh. Thế nào là chín?
Tưởng bất tịnh, tưởng chết, tưởng ghê tởm đối với các món ăn, tưởng không ưa thích đối với tất cả thế giới, tưởng vô thường, tưởng khổ trên vô thường, tưởng vô ngã trên khổ, tưởng đoạn tận, tưởng ly tham.
Này các Tỷ-kheo, chín tưởng này được tu tập, được làm sung mãn, có quả lớn, có lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh.” (7)
Theo Kinh vừa dẫn, tu bất kỳ pháp nào trong 9 pháp tưởng trên cũng có thể giải thoát, dù là tưởng về vô thường, hay tưởng về vô ngã, hay tưởng về bất tịnh…
Tuy nhiên, tuyệt vời là Bát Nhã Tâm Kinh, nhìn thấy tận gốc của Tánh Không, của Gương Tâm Rỗng Rang Lặng Chiếu, nơi đó tất cả các tưởng đều tan vào biển của Niết Bàn Diệu Tâm. Bởi vì nơi đó, không hề có cái gì gọi là sắc thọ tưởng hành thức nữa.
Chúng ta nơi đây sẽ dẫn ra Kinh Nhật Tụng Sơ Thời Snp 4.9 trong nhóm Kinh Tập của Kinh Tiểu Bộ, trích dịch như sau:
Đối với người đã xa lìa tưởng, sẽ không còn gì trói buộc,
đối với người đã đạt trí tuệ giải thoát, sẽ không còn mê lầm gì,
nhưng những người nắm giữ lấy tưởng và kiến,
họ lang thang trên thế giới này, cứ xung đột mãi.  
.
Bản Anh dịch của Khantipalo là:
For one detached from perception, there exist no ties,
for one by wisdom freed, no delusions are there,
but those who have grasped perceptions and views,
they wander the world stirring up strife. (https://suttacentral.net/en/snp4.9)

Nếu nghi ngờ bản dịch vừa dẫn, chúng ta có thể đối chiếu nhiều bản Anh dịch ở đây (http://www.realbuddhaquotes.com/people-with-opinions-just-go-around-bothering-each-other/) là thấy rõ, trước khi Đức Phật dạy các pháp Thiền Nam Tông, là dạy pháp Thiền của Bồ Đề Đạt Ma.
Trong trường hợp này, Bát Nhã Tâm Kinh là bản kinh có thể được xem là Đức Phật dạy trước rất nhiều bản Kinh khác của Tạng Pali.
NGUYÊN GIÁC 
GHI CHÚ:
(1) Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh. https://thuvienhoasen.org/a28857/suy-nghi-tu-bat-nha-tam-kinh
(2) “There are, bhikkhus, other dhammas, deep, difficult to see, difficult to understand, peaceful and sublime, beyond the sphere of reasoning, subtle, comprehensible only to the wise..." https://suttacentral.net/en/dn1
(3) Kinh SN 4.19, Đức Phật nói: “...but, Evil One, where there is no eye, no forms, no eye-contact and its base of consciousness—there is no place for you there, Evil One.... The mind is yours, Evil One, mental phenomena are yours, mind-contact and its base of consciousness are yours; but, Evil One, where there is no mind, no mental phenomena, no mind-contact and its base of consciousness—there is no place for you there, Evil One.” https://suttacentral.net/en/sn4.19
(4) Kinh AN 3.63. Tiếng Anh: https://suttacentral.net/en/an3.63 và tiếng Việt: https://suttacentral.net/vn/an3.63
(5) Kinh SN 35.191: “…the eye is not the fetter of forms, nor are forms the fetter of the eye. Whatever desire & passion arises in dependence on the two of them: That is the fetter there. The ear is not the fetter of sounds... If the eye were the fetter of forms, or if forms were the fetter of the eye, then this holy life for the right ending of stress & suffering would not be proclaimed.” - https://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sn/sn35/sn35.191.than.html
(6) Bhikkhu Bodhi giải thích về tưởng: The characteristic of perception is the perceiving of the qualities of the object. Its function is to make a sign as a condition for perceiving again that "this is the same," or its function is recognizing what has been previously perceived. It becomes manifest as the interpreting of the object...by way of the features that had been apprehended. (https://en.wikipedia.org/wiki/Sa%E1%B9%83j%C3%B1%C4%81)
(7) HT Thích Minh Châu. Kinh AN 9.16: https://suttacentral.net/vn/an9.16

Vị Ni Sư Giữa Trời Đông-Tây

Khó hình dung rằng một phụ nữ Anh đang phụ trách về kế toán trong một công ty quản trị quỹ đầu tư đa quốc bỗng nhiên trở thành một vị ni sư theo truyền thống Tây Tạng, và rồi lên những rặng núi Hy Mã Lạp Sơn để giúp cho trẻ em nghèo và khuyết tật xứ Bhutan.
Cơ duyên vào đạo của vị Ni sư cũng độc đáo: ngay từ khi chưa tới với Phật giáo, khi rơi vào cương vị nạn nhân của một tay súng, bị bắt cóc, bị cướp, nhưng lòng không hề dấy lên căm thù mà chỉ ý thức về một nỗi khổ trần gian sâu thẳm của đời này để rồi rời bỏ lĩnh vực ngân hàng, để sống bằng nghề dạy yoga và Thiền bên trời Tây phương, cho tới khi sang thăm Bhutan và gặp một vị Lạt ma, được khuyến khích xuất gia.
Khi xuất gia xong, mới nhận ra rằng nếu bà sinh tại xứ Bhutan, hẳn là đã trở thành ni cô từ thuở bé... nhưng vì sinh tại Anh quốc, nên mới trở thành một chuyên gia ngành kế toán ngân hàng để đi khắp thế giới cho công ty và rồi say mê sưu tập các bộ trang phục thời trang cho giới nữ trí thức của khắp trời Tây phương.
Vị ni sư có thế danh là Emma Slade đã không quay nhìn trở lại những ngày tháng cũ của cuộc sống sang trọng từ khi buông hết để chọn lấy nếp sống đơn sơ và an lạc, theo lời bà nói với báo The Independent khi kể về khoảnh khắc biến đổi cuộc đời của bà.
Vào tháng 9/1997, bà Emma Slade hoàn toàn tự biến đổi cuộc đời. Là một kế toán tài chánh tại một công ty quản trị đầu tư làm việc ở Hong Kong – và trước đó là làm việc ở New York và London – thế rồi một chuyến đi công việc cho công ty ở Jakarta đã làm đời bà biến đổi.
Trong khi nghỉ ngơi giữa hai buổi họp tại một khách sạn 4 sao, bà Slade mở cửa phòng ra, bỗng trực diện với một người đàn ông cầm súng. Hung thủ dí súng vào ngực bà, đẩy bà vào phòng, rồi lục soát khắp đồ đạc và nữ trang của bà. Bà trở thành con tin, suốt  ba giờ ở chung phòng với một hung thủ vũ trang, và nghĩ rằng cuộc đời kể như là xong. Cuối cùng, cảnh sát vũ trang xông vào cứu bà. Từ đó, mọi chuyện thay đổi.
Bà kể với báo The Independent rằng từ đó bà bị hội chứng tâm thần hậu chấn, lẫn lộn quá khứ và hiện tại, không phân biệt gì ra được. Bà nói, “Nhưng phần chính lại là, tôi cảm thấy lòng mình từ bi và buồn cho người đàn ông đã bắt tôi làm con tin, bởi vì y đã sống trong một hoàn cảnh tệ hại hơn tôi nhiều, thực thế… ảnh hưởng lớn nhất chính là cảm giác về quan tâm và từ bi đối với hung thủ.”
Sau vụ cướp đó, cảnh sát Indonesia đưa cho bà xem một tấm ảnh chụp hình hung thủ, một phần áo quần xốc xếch nằm giữa một vũng máu lớn, và hình ảnh này khắc sâu vào tâm bà nhiều năm sau đó.
Bà nói, “Tôi không thấy giận dữ hay căm ghét nào đối với y. Tôi chỉ cảm thấy một nỗi buồn lớn cho sự khổ đau trong hoàn cảnh này.”
Báo South China Morning Post (SCMP) hôm 10 tháng 11/2017 cũng viết về bà qua bản tin nhan đề “Một chuyên gia ngân hàng Hong Kong trở thành ni sư, kể về chuyện bị chĩa súng bắt giữ ở Indonesia đã biến đổi cuộc đời của bà.”
SCMP nói rằng bà sinh năm 1966 tại thành phố Whitstable, phía đông nam Anh quốc, là chị cả với hai em. Thời thơ ấu trôi qua bình lặng, với cha đi làm và mẹ nội trợ ở nhà. Năm 16 tuổi, bà chuyển vào trường nội trú. Cuối năm thứ ba ngành mỹ thuật ở đại học Goldsmiths tại London, bà được mẹ báo tin là cha bị chẩn đoán ung thư phổi.
Bà cảm thấy khủng hoảng. Cú chấn động đầu tiên là cái chết của thân phụ khi bà 26 tuổi.  Bà nhớ là hồi mới 10 hay 11 tuổi, thân phụ có nói rằng ông thấy rằng bà có thể nên vào làm trong ngành ngân hàng đầu tư. Cho tới khi thân phụ bệnh, bà vẫn nghĩ là bà sẽ là một họa sĩ hay người giám định nghệ thuật. Nhưng vì thân phụ từ trần, bà nghĩ rằng bà phải thực tế và không dựa vào thân mẫu. Do vậy, bà lần đầu tới Hong Kong là năm 1995, một phần của chương trình hậu cử nhân của một ngân hàng quốc tế.
Thế rồi, trong chuyến đi tới Jakarta vì công việc cho sở hồi tháng 9/1997. Lúc đó, hung thủ xuất hiện, bắt cóc bà. Khi thoát ra, bà bị khủng hoảng hậu chấn (còn gọi là hội chứng PTSD).  Suốt ba tháng sau đó, bà vẫn sống trong cảm giác như đang bị bắt cóc. Thế rồi bà dọn về Anh, và rồi từ nhiệm.
Bà du lịch tới Hy Lạp, nơi đây khám phá ra yoga và Thiền tập. Và rồi bà khám phá ra Phật pháp, chính thức trở thành Phật tử ở Scotland vào năm 2003. Lần đầu tiên bà tới thăm Bhutan là năm 2011, và trở thành phụ nữ Tây phương đầu tiên thọ giới tỳ kheo ni. Như thế (tính tới 2017) bà đã trở thành ni sư được 5 năm.
Trang web của bà, kể rằng từ khi rời ngành tài chánh và say mê với yoga và Thiền, bà đã dạy yoga và Thiền trong hơn 15 năm và say mê nghiên cứu về Phật giáo. Trong chuyến đi đầu tiên tới Bhutan năm 2011, bà gặp một vị sư trong thuyền thống PG Tây Tạng và sau một thời gian học đạo, bà được thọ giới Tỳ kheo ni với pháp danh Pema Deki – có nghĩa là Hoa Sen An Lạc.
Năm 2015, bà thiết lập hội từ thiện có trụ sở bản doanh ở Anh quốc, với tên là “Opening Your Heart to Bhutan” (OYHB)  với mục tiêu giúp trẻ em miền núi hẻo lánh và trẻ em khuyết tật ở Bhutan. Bà tiếp tục tới Bhutan thường xuyên để thực hiện các dự án từ thiện  và để tiếp tục học về Phật giáo.
Cuốn sách đầu tiên bà viết có nhan đề “Set Free: A Life-Changing Journey from Banking to Buddhism in Bhutan” (Giải Thoát: Một Chuyến Đi Đổi Đời từ Ngành Ngân Hàng Tới Phật Giáo tại Bhutan) – kể về những bước đi tới Phật giáo của bà, xuất bản tháng 4/2017, để giúp lợi tức cho hội; sách có thể mua qua mạng Amazon UK.
Bà nói với báo SCMP rằng bà thấy chuyện đi tu rất là tự nhiên: nếu bà sinh ra tại Bhutan, bà tin chắc chắn rằng bà sẽ là ni cô từ thời rất trẻ. Nhưng vì sinh ra tại Anh quốc, nên chuyện cầu kinh y hệt như nghe giọng thân phụ đang hát.  Bà nói, bây giờ ở tuổi 51, bà tin rằng cầu kinh là việc hữu ích nên làm, không hề xưa cổ hay phi lý gì.

Lúc đầu bà do dự: là mẹ đơn thân, có một đứa con chưa trưởng thành, còn cần chăm sóc, làm sao bà có thể xuất gia làm ni được. Tuy nhiên, chính vị Lạt ma khuyến khích bà nên xuất gia. Bà nói, người ta thường nghĩ rằng tu sĩ là phải ở trong tu viện, không gia đình, không tài sản vật chất gì, không liên hệ gì với đời thường. Bà nói như thế không thiệt sự đúng. Bà nói, có nhiều tu sĩ có con, nhưng thường là đàn ông, họ xuất gia, vào tu viện và để con lại cho quý bà mẹ của các đứa trẻ chăm sóc.

Bà kể, bà còn phải chăm sóc đứa con trai tên là Oscar, phải lo giặt đồng phục nhà trường cho cậu nhóc, cũng như phải làm món điểm tâm Weetabix buổi sáng cho cậu nhóc ăn. Bà có cảm giác là nếu làm song song được cả vai trò ni sư, đồng thời là bà mẹ đơn thân như thế, bà mới trở thành một người thực sự tu tập tuyệt vời.
Bà kể, sẽ không có lợi cho Bhutan nếu bà ở toàn thời gian nơi đó; bà phải sống một cuộc đời hai phương trời, đứng một chân ở Tây phương, và đứng một chân ở Đông phương. Bởi vì bà đang sống trong một kiểu đa phương: vừa điều hành một hội từ thiện quốc tế, vừa dạy yoga, vừa nuôi con nhỏ, và vừa là nữ tu sĩ Phật giáo. Rồi còn phải làm việc trên mạng xã hội nữa, đâu có phải như thời 100 năm về trước đâu.

Bà nói, có lẽ cuối cùng rồi cũng sẽ về luôn ở Bhutan. Con trai bà đã tới Bhutan ba lần, và cậu nhóc ưa thích vùng núi này; nhưng thực sự cậu bé vẫn là một cậu bé, và cứ ưa thích phóng chạy, tập dợt với quả bóng đá.

Hiển nhiên, Ni sư Pema Deki là một trường hợp cực kỳ độc đáo trong hàng ni giới thế giới.

Các bản tường trình, hình ảnh và các dự án từ thiện của ni sư hiện lưu trên hai trang web sau:
Phật Giáo đang có những bước đi nhập thế trong thời đại toàn cầu hóa, và Ni sư Pema Deki là một trong các hiện thân như thế.

Ngày Ý Thức Về Căng Thẳng

Chữ “căng thẳng” là dịch sát nghĩa của chữ “stress” trong tiếng Anh. Ai cũng biết rằng căng thẳng là cội nguồn của rất nhiều tai họa. Căng thẳng ở tấm mức quốc tế sẽ dẫn tới, nặng là chiến tranh, nhẹ là cấm vận. Căng thẳng ở tầm mức xã hội là biểu tình, là rút dao, nổ súng. Căng thẳng ở tầm mức gia đình hễ nặng bạo lực gia đình, nhẹ sẽ là bể chén dĩa, và khi bất khả hòa giải là sẽ ly tan, chỉ hại cho đàn con.
Căng thẳng cũng có thể gây nhiều bệnh nguy hiểm. Theo Mayo Clinic, hội chứng căng thẳng có thể tác động vào cơ thể của bạn, vào suy nghĩ của bạn, vào cảm thọ của bạn, và vào cả thái độ của bạn. Căng thẳng không hóa giải được sẽ gây bệnh, như cao huyết áp, bệnh tim mạch, bệnh mập phì và bệnh tiểu đường.
Đó là lý do có một ngày được chọn là Ngày Quốc Tế Ý Thức Về Căng Thẳng. Ngày này trong năm 2017 là mới hôm Thứ Tư ngày 1 tháng 11/2017. Cũng là ngày để các bác sĩ nhắc nhở mọi người cảnh giác về các sát thủ tàng hình đang len lén bước theo các cảm xúc căng thẳng khó đối trị.
Ngày Ý Thức Căng Thẳng theo truyền thống là Thứ Tư đầu tiên trong tháng 11 hàng năm. Do vậy, Ngày này tuần tự trong các năm là ngày 1 tháng 11/2017, sẽ là ngày 7 tháng 11/2018, sẽ là ngày 6 tháng 11/2019, sẽ là ngày 4 tháng 11/2020.
Nhưng ý thức là một chuyện, còn khi căng thẳng tới bằng đôi cánh sát thủ tàng hình dĩ nhiên là khó đối trị. Có biết bao nhiêu chuyện trên đời này làm chúng ta căng thẳng. Thí dụ, ra đường, đụng xe. Chạy nhanh một chút, bị cảnh sát phạt. Buổi sáng nổ máy xe, thấy chết bình điện, phải gọi xe kéo tới tiệm sửa xe. Hay khi nghe tin một người thân từ trần. Hay khi nghe chuông điện thoại, nhấc lên nghe, biết tin quê nhà bão lớn, khu phố mấy đứa em đang ở bị ngập lụt, chờ ghe tới cấp cứu. Và vân vân…  
Cõi này tất nhiên là bất như ý. Vấn đề là, làm sao kham nhẫn?
Đối phó căng thẳng không khéo là sẽ bệnh. Theo trang WebMD, căng thẳng là nguyên nhân hàng đầu dẫn tới bệnh, và rồi bệnh liên hệ căng thẳng đó chiếm tới 90% toàn bộ các chuyến đi tới phòng mạch để khám bệnh của dân Mỹ. Trong đó, căng thẳng tính chung làm kinh tế Mỹ trung bình mất 600 tỷ đôla/năm.
May mắn vô cùng tận, Đức Phật có phương thuốc thần diệu: Đạo Phật là để nhận ra khổ, và bước vào con đường thoát khổ.
Do vậy, sá gì căng thẳng trong xã hội đời thường… Trí thức quốc tế đã nhận ra sức mạnh tuyệt vời của Phật Giáo, và từ đó Thiền tỉnh thức (Mindfulness) được dùng như công cụ hiệu lực để đối trị căng thẳng.
Vâng, cả các chính trị gia cũng nhận ra như thế. Như bên Anh quốc: hẹn nhau dự một hội nghị thượng đỉnh cấp Bộ Trưởng và Dân Biểu, tới ngồi bên nhau, cùng lim dim mắt, thở phì phò…
Báo Anh quốc The Guardian, số báo ngày 13/10/2017, với bài viết nhan đề “'Way ahead of the curve': UK hosts first summit on mindful politics” (Đi trước vòng cung: Anh quốc tổ chức hội nghị thượng đỉnh đầu tiên về chính trị tỉnh thức)…
Một số Bộ Trưởng chính phủ Anh quốc và Sri Lanka (Tích Lan), một dân biểu trong Đảng Likud của Israel, nhiều chính khách từ hai nước trên và Thụy Điển cùng với chính khách từ 15 quốc gia cùng tới tòa nhà Hạ Viện Anh Quốc tuần sau đó để thảo luận xem có Mindfulness có thể giúp được gì cho các nền chính trị quốc tế và cấp quốc gia. Chính khách cao cấp nhất của chính phủ Anh quốc dự thượng đỉnh này là Bộ Trưởng Thể Thao Tracey Crouch.
Đặc biệt, thượng đỉnh về Thiền tỉnh thức này có tham dự của Dân biểu Hoa Kỳ Tim Ryan, người viết sách và tích cực quảng bá Thiền này từ lâu và dự kiến sẽ là ứng cử viên Tổng Thống Hoa Kỳ năm 2020. Và cũng đặc biệt, có tham dự của Giáo sư y khoa Jon Kabat-Zinn, người ứng dụng Thiền Phật Giáo  để trở thành phương pháp Tình thức để giảm căng thẳng MBSR nhằm chữa các bệnh kinh niên.
Thực tế, MBSR khi ứng dụng để giảm đau tại các bệnh viện, rồi dùng  luyện tâm trong quân đội, thư giãn trong công ty, giữ bình lặng trong giáo dục... đã được sửa đổi cho thích nghi với nhiều  thành phần ở nhiều môi trường khác nhau. Và có khi các phiên bản Thiền tập mới lại mang tên khác nhau.
Theo The Guradian thống kê, từ năm 2013, đã có 145 dân biểu Anh quốc tham dự một khóa dài 8 tuần lễ để thực tập Thiền tỉnh thức.
Nếu muốn tu giải thoát, sẽ rất là gian nan, cần tận lực không ngừng. Nhưng sẽ rất đơn giản hơn, nếu bạn chỉ muốn giảm căng thẳng, hay giảm đau, hay chữa một vài bệnh.
Sau đây là một số hướng dẫn thực tập căn bản về Thiền tỉnh thức, tổng hợp từ nhiều trang y tế. Bạn có thể chọn cách nào thích nghi, hay xoay chuyển, hay tuần tự thay đổi. Và nên tập suốt ngày, nghĩa là, bất cứ khi nào nhớ tới. Tới khi quen rồi, chỉ cần vài hơi thở, bạn sẽ thấy nhẹ nhàng và các bực dọc sẽ bay biến rất nhanh. Tuy cội nguồn từ Phật giáo, nhưng khi ứng dụng vào y khoa đã gỡ bỏ các yếu tố tôn giáo để thích nghi cho mọi thành phần.
Nếu bạn đang ngồi làm việc trong hãng, hay đang ngồi học ở bệnh viện, có thể ngồi thẳng lưng, mắt chỉ hé mở hướng về phía trước, hơi thở diụ dàng, hướng tâm vào hai lòng bàn chân đang áp sát mặt đất. Giữ hơi thở như thế vài phút sẽ thấy nhẹ nhàng, giúp tăng trí nhớ, lòng vui hơn. Hướng tâm vào dưới hai lòng bàn chân là lời khuyên của nhiều bác sĩ, hẳn là có diệu dụng về sức khỏe.
Nếu bạn đang nằm, thí dụ, sắp ngủ, có thể nằm duỗi người ra, hình dung bắp thịt từ dưới ngón chân lên đỉnh đầu buông xả hết theo hơi thở nhẹ nhàng, cứ như người chết.
Khi bạn ngồi, hay đang đi bộ ngoài hành lang, hãy hít thở sâu, hơi thở nhẹ nhàng, hơi thở tự nhiên, thư giãn toàn thân, không cố gắng gì, thở dài biết thở dài, thở ngắn biết thở ngắn.
Khi bạn đang đi đứng nằm ngồi, hãy cảm nhận về không khí chung quanh, lạnh hay ấm, có ảnh hưởng làm ấm hay lạnh tới làn da và cơ thể của bạn hay không, hãy đón nhận cảm thọ đó, đừng bực dọc, và đừng ưa thích, chỉ để tự nhiên nhận ra.
Khi bạn đi đứng nằm ngồi, hãy nhận ra các niệm khởi trong tâm, lặng lẽ nhận ra như thể bạn đang lùi ra xa để nhìn về sân khấu, nhận ra khi niệm khởi và nhìn cho tới khi niệm biến mất… và rồi tương tự với tất cả niệm. Dần dần, niệm sẽ giảm, tâm bạn sẽ dịu dàng, lặng lẽ…
Bạn có thể cảm thấy khó chịu nơi nào đó trong thân, hãy chú ý về nơi đó của cơ thể, hãy nhận ra nơi đó cảm thọ (như ngứa, nhức, đau, tê…) khởi lên, nhận ra cảm thọ biến đổi (nhiều hơn, hay giảm bớt) và nhận ra cảm thọ biến mất; và có thể bạn cần có hành động thích nghi, thí dụ gãi nhẹ, hay xoa bóp nhẹ nơi đau nhức đó. Hay đơn giản làm việc khác.
Bạn không nên phản ứng tức khắc khi gặp một tình hình bất chợt xảy ra. Hãy tỉnh thức, ngưng giây lâu, suy nghĩ tìm giải pháp. Thí dụ, nhấc điện thoại lên, bị người bên kia đầu dây mắng xối xả… Bạn chớ phản ứng gấp, hãy tỉnh giác, từ từ nghe và suy tính…
Có những khi căng thẳng, bạn tập thể dục hay chạy bộ vài phút, cũng đủ để bình lặng trở lại.
Hãy giữ tâm tỉnh thức với hiện tại; chớ luyến tiếc hay bực dọc gì về quá khứ; chớ mơ tưởng lạc quan hay bi quan về tương lai.
Đôi khi, hãy lặng lẽ lắng nghe hay ngửi mùi hương, chớ phê phán gì, chỉ nghe là nghe và chỉ ngửi là ngửi. Bạn sẽ nhận ra những giây phút tỉnh thức và hạnh phúc khác lạ, nhưng chớ giải thích gì làm chi, cũng chớ níu kéo hay xua đẩy các cảm thọ buồn/vui, ưa/ghét.
Hãy tỉnh thức với từng cử chỉ đang làm trong hiện  tại, và giữ tâm thư giãn, sống với “tâm đang là” chớ không phải sống với “tâm phải là” và cũng chớ sống với “tâm cần là.”
Hãy ý thức về các thức ăn thích nghi với cơ thể, và khi ăn hãy nhai thật chậm, tỉnh thức.
Có khi bạn ngồi, hay nằm, hãy thở nhẹ nhàng, và hướng tâm scan cơ thể, hướng tâm rất chậm nghĩ về từng nơi trên cơ thể, chậm chậm từ chân hướng lên đầu. Chỉ cảm thọ từng nơi thôi.
Có những ngày, không đối trị được căng thẳng, vì trong đời có khi bạn phải hứng chịu những sân si vô lý từ người khác (kể cả người mà bạn quý trọng hay yêu thương), bạn hãy đứng dậy đi bộ vài phút ngoài trời, quan sát cảm thọ trên từng làn da.
Tập Thiền tỉnh thức một thời gian, bạn sẽ cảm thấy dễ tập trung tư tưởng hơn, dễ giữ tâm bình lặng thư giãn hơn, tự biết cách đối trị căng thẳng. Lúc đó, hãy tìm kinh sách Phật giáo để đọc, để hiểu tận tường hơn về giáo lý giải thoát – và bạn sẽ thấy hạnh phúc vô cùng tận trong từng khoảnh khắc một.

Như thế, trong khi thế giới chỉ có một Ngày Ý Thức Về Căng Thẳng trong một năm, bạn sẽ có trọn năm toàn bộ  tới 365 Ngày Hạnh Phúc Với Tỉnh Thức.

Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh
Nguyên Giác
Bài viết này ghi lại một số suy nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh, một bản kinh phổ biến trong Phật giáo nhiều nước Châu Á, trong đó có Việt Nam. Bài viết hoàn toàn không có ý tham dự vào cuộc tranh luận nào, vì bản thân người viết không giỏi các ngôn ngữ Bắc Phạn, Nam Phạn, Hán Văn… trong khi chỉ được xem là tạm tạm biết Anh ngữ và tương đối khá Việt ngữ. Bài này cũng sẽ không phân tích theo sử liệu, cũng không dựa vào các luận sư đời sau. Nghĩa là, những suy nghĩ trong bài này khởi từ một vốn học quê mùa, được nghe bản văn từ những ngày thơ ấu, hiểu theo những trực giác ấu thơ, thêm một phần từ lời dạy của các vị hòa thượng đã quá cố tại quê nhà và lớn lên với các sách tiếng Việt gặp được trong những năm tìm học, và rồi đọc lại nhiều thập niên sau khi ra nước người.
Bài này sẽ viết ngắn gọn, chỉ nói về một vài câu (đúng ra, vài chữ) trong Tâm Kinh. Bài viết cũng không có đủ mức học thuật, và chỉ là những suy nghĩ riêng để ứng dụng trong đời thường. Nếu bài viết có lợi ích với bất kỳ ai, xin hồi hướng công đức tới khắp pháp giới chúng sinh; nếu sai sót, xin trọn lòng sám hối trước ba đời chư Phật.

…o…

TÂM KINH DÙNG CHO MỌI TRÌNH ĐỘ
Bài này sẽ suy nghĩ dựa vào bản của Ngài Huyền Trang, bản văn nằm trong Kinh Nhật Tụng của đa số Phật Tử Trung Hoa, Việt Nam, Đại Hàn, Nhật Bản… Khi đưa vào Kinh Nhật Tụng, chư Tổ sư Trung Hoa hẳn là nghĩ rằng Tâm Kinh cần được nghe với già trẻ lớn bé, với cả học giả lẫn người mù chữ, với cả người đã tu nhiều thập niên cho tới người mới đặt chân vào cổng chùa. Có nghĩa là, kinh này không để riêng cho giới học giả, và người tụng đọc và hành trì không cần phải uyên bác thiên kinh ngàn quyền.
Tuy nhiên, khi gọi rằng kinh này đưa qua bờ bên kia, nghĩa là kinh này dạy pháp giải thoát thích nghi cho tất cả Phật Tử. Và do vậy, nên học thuộc và nghiền ngẫm từng chữ.
CHỮ “SẮC” CÓ 2 NGHĨA
Có một điều dễ nhầm lẫn là về từ Hán-Việt: chữ “sắc” đọc trong tiếng Việt là một âm, nhưng trong Tâm Kinh dùng cho hai nghĩa khác nhau.
Chữ “sắc” dùng trong “sắc uẩn” có thể dịch là “thân và sáu căn” (sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý).  
Nhưng giữa bài Tâm Kinh, chữ “sắc” cũng dùng trong câu:
…vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp
Như thế, chữ “sắc” trong này không có nghĩa như trong “sắc uẩn” và câu vừa dẫn chỉ có nghĩa là, dịch:
 …không hề có cái được thấy, không hề có cái được nghe, không hề có cái được ngửi, không hề có cái được chạm xúc, không hề có cái được suy nghĩ (nhận biết bởi ý thức)…
Vì chữ “sắc” trong bản Hán-Việt mang hai nghĩa như thế, bản thân người viết khi con niên thiếu đã rơi vào chỗ mơ hồ. Nhưng thực sự, phải chăng những mơ hồ như thế, mới thúc đẩy người tụng đọc phải đi tìm ý nghĩa từng chữ?  Đây chỉ là suy đoán, vì toàn thể bài Tâm Kinh như dường lúc nào cũng phủ đầy một lớp sương khói mơ hồ.
THẤY THỰC TƯỚNG NĂM UẨN LÀ KHÔNG
Câu đầu có nhóm chữ:  chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.  Nghĩa là hễ soi chiếu và thấy năm uẩn đều là không, sẽ qua được mọi khổ ách.
Soi chiếu và thấy… có nghĩa là thấy bằng trí tuệ. Rằng thực tướng năm uẩn là không. Câu kế tiếp sẽ giải thích rõ hơn.
Tâm Kinh viết: Xá-Lợi-Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
Nghĩa là: sắc không khác không, không không khác sắc, sắc chính là không, không chính là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng là như thế.
Bản của H.E. Garchen Rinpoche, cũng như bản của một số học giả dịch chữ:
Sắc trong "sắc bất dị không" là "Body." Tiếng Việt hiểu là "Thân"...
Đa số các học giả (kể cả Đức Đạt Lai Lạt Ma) dịch “sắc” là "Form"... Tiếng Việt hiểu là “Hình hài”…
Cả hai cách dịch “Body” và “Form” đều không làm rõ nghĩa “sắc uẩn.”
Nếu dịch rõ nghĩa sẽ là: “Thân và sáu căn không khác gì với không”… Nhưng như thế, sẽ khó tụng đọc trong bản kinh cô đọng, cần học thuộc lòng.
Trong khi đó, chữ “không” đa số học giả đều dịch là “emptiness” – hiểu là, rỗng rang không tự tánh.
Có một số học giả dịch chữ “không” là “the boundless” – hiểu là, cái rỗng rang vô tận. Muốn ám chỉ rằng, cái rỗng rang không có gì hết này thực ra có thể sinh ra các pháp.
Cả hai cách dịch đều đúng. Nhưng để đọc tụng, để học thuộc lòng, chữ “không” ngắn gọn và dễ nhớ hơn, và thực ra sẽ gây nghi vấn nhiều hơn, để học nhân tự tìm hiểu. Trong khi chữ “the boundless” dễ gây nhầm lẫn là có cái gì vô tận đó.
KINH NA TIÊN TỲ KHEO: NGÃ, PHÁP ĐỀU KHÔNG
Có thể thấy ý “sắc bất dị không” giải thích rất rõ trong Kinh Na Tiên Tỳ Kheo.
Đại sư Na Tiên nói với Vua Di Lan Đà rằng Na Tiên chỉ là cái cái tên Na Tiên, chớ không hề có cái gì gọi là “ta” hay “của ta” trong Na Tiên, không hề là tóc, răng, da, thịt, tủy, gân… cho tới mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý… cho tới sắc, thọ, tưởng, hành, thức… cũng đều rỗng rang không tự tánh.
Sau khi nói về người (personality, state of being a person) vốn thật rỗng rang vô tự tánh, Đại sư Na Tiên dẫn ra thí dụ về chiếc xe (tức là pháp, là đối tượng được thấy, được nghe, được sử dụng…)
Đại sư Na Tiên nói với Vua Di Lan Đà rằng gọng xe, trục xe,  bánh xe, mui xe… đều không phải là xe, và “tất cả các món ấy họp lại và buộc chung với nhau” cũng không phải là xe.
Do vậy, Kinh Na Tiên Tỳ Kheo, bản Việt dịch của Cao Hữu Đính, viết:
"Thấy nhà Vua ngồi câm nín và các quan chức thì tỏ lòng tán dương bằng nhiều cách khác nhau, Đại đức Na Tiên bèn từ hòa tâu với nhà Vua rằng:
-- Trong kinh, Phật có dạy như vầy: "Hiệp các món gọng, thùng, bánh, mui... theo một mẫu mực nào đó thì thành một cái mà người ta tạm gọi là xe. Cũng như thế, hiệp tất cả đầu, mặt, tay, chân, hơi thở, lời nói, sự khổ, sự vui, điều lành, điều dữ... thì cũng thành một đơn vị mà người ta tạm gọi là cái "ta" để tiện bề phân biệt. Chứ thật ra thì không có cái "ta" chơn thật nào cả! Đúng như lời của nữ tôn giả Hoa Si Ra (Vajirã) đã bạch với Đức Thế Tôn khi Ngài còn tại thế: "Danh xưng xe sở dĩ có là do nhiều món đồ hợp lại là vẽ thành. Nhiều món cơ thể vẽ thành một vật mệnh danh là chúng sanh"..."(1)
Như thế là các pháp (dù là ta, người, vạn vật) chỉ là danh thôi, và là vô ngã, là rỗng rang vô tự tánh.
Khi đã thấy các pháp rỗng rang vô tự tánh, tức khắc tất cả các tâm tham sân si tan hết, y hệt như tuyết rơi trên lò lửa đang cháy. Xa lìa tham sân si tức nhiên giải thoát.
MẮT, TAI, MŨI, LƯỠI… LÀ KHÔNG
Trong Tương Ưng Bộ, có Kinh SN 35.85 -- dựa vào 2 bản Anh dịch của Thanissaro Bhikkhu và của Bhikkhu Bodhi, chúng ta trích dịch nơi đây như sau:
“Đức Phật dạy: Ananda, thế giới là không (Empty is the world), bởi vì nó rỗng rang không tự ngã, và nó không tùy thuộc vào bất kỳ cái được gọi là tự ngã nào. Và cái gì rỗng rang không tự ngã và không thuộc về cái gì gọi là tự ngã? Ananda, mắt là rỗng rang không tự ngã, và rỗng rang không tùy thuộc vào cái gì gọi là tự ngã. Cái được thấy là rỗng rang không tự ngã và không tùy thuộc vào cái gì gọi là tự ngã. Nhãn thức rỗng rang không tự ngã và không tùy thuộc vào cái gì gọi là tự ngã. Nhãn xúc rỗng rang không tự ngã và không tùy thuộc vào cái gì gọi là tự ngã… Bất cứ thọ nào khởi lên do duyên ý xúc – dù là lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc – cũng rỗng rang không tự ngã và không tùy thuộc vào cái gì gọi là tự ngã…
Tương tự, với tai, mũi, lưỡi, thân, ý… đều rỗng rang không tự tánh… Do vậy thế giới là không.” (2)
Thế giới theo Đức Phật định nghĩa là tất cả những gì chúng ta thấy, nghe, nhận, biết… Và ngoài thế giới này, là ở ngoài giới vực của chúng ta.
Trong Kinh SN 35.23 - Sabba Sutta: The All, Đức Phật giải thích về thế giới, tương tự, dựa theo 2 bản tiếng Anh sẽ được dịch như sau:
Chư tăng, cái gì là tất cả? Mắt và cái được thấy, tai và cái được nghe, mũi và cái được ngửi, lưỡi và cái được nếm, thân và cái được chạm xúc, tâm và hiện tượng được nhận biết. Đó gọi là tất cả…(3)
Với hai kinh vừa dẫn, chúng ta có thể hiểu được gần hết bài Tâm Kinh.
TÂM KINH TRONG THIỀN TÔNG
Bát Nhã Tâm Kinh theo truyền thuyết là đúc kết tư tưởng Bát Nhã của thời kỳ Ngài Long Thọ. Và được Thiền Tông nhìn như pháp tu viên đốn (viên là đầy đủ, tròn đầy, không thiếu sót; đốn là ngay tức khắc, không mài giũa tuần tự). Nơi đây, chúng ta sẽ khảo sát thêm về nghĩa này.
Khi chúng ta lùi ra xa, nhìn về Đại sư Na Tiên, hay khi nhìn về chính mình hay nhìn về bất kỳ ai, đều sẽ thấy đó là một khối lung linh đang vận hành, đang thuyết pháp, đang tụng kinh, đang nói cười ngủ nghỉ, đang đi đứng nằm ngồi...
Tương tự, lùi ra xa, nhìn về chiếc xe mà Đại sư và Vua Di Lan Đà thảo luận, hay nhìn về bất kỳ chiếc xe nào khác, hay bất kỳ những gì trên thế gian này, cũng sẽ thấy chỉ là một khối lung linh đang vận hành, khi xe ngừng, khi xe chạy, khi xe mòn, khi chở nặng hay chở nhẹ…
Tất cả đều linh linh trong cái Rỗng Rang Vô Tự Tánh, ngắn gọn là Không.
Giải thích ngắn gọn về cái vận hành đó sẽ là Luật Duyên Khởi, rằng cái này có nên cái kia có. Rằng khi Đại sư Na Tiên đang thuyết pháp, hay khi chiếc xe đang chạy nghĩa là khi toàn khối “rỗng rang vô tự tánh” đang kích hoạt, gá nương vào nhau để vận hành. Và đó là nghĩa của “không bất dị sắc” (không chẳng khác gì sắc).
Khi nhìn về Đại sư Na Tiên hay chiếc xe, chúng ta thấy rằng tất cả đều hiện lên trong gương tâm của chúng ta. Nhà Thiền gọi là Một Tâm, hay Nhất Tâm. Cả thế giới hiện lên trong ánh sáng của gương tâm, và tâm này là rỗng rang nhưng năng chiếu.
Bây giờ, chúng ta nhìn về chiếc xe Đại sư Na Tiên vừa nói. Xe đó là cái được thấy, tiếng xe chạy là cái được nghe… Tánh Không của xe hiển lộ trước mắt và bên tai chúng ta. Như thế, xe là cái được hiển lộ trong gương tâm của chúng ta. Nơi Gương Tâm Rỗng Rang này, khi xe tới thì hiện xe, khi xe không tới hay đã qua thì chỉ còn cái lặng lẽ, nhưng ánh sáng chiếu diệu của thấy, nghe, nhận biết vẫn không biến mất.
Thiền Tông nói rằng nhận ra Gương Tâm Rỗng Rang Chiếu Diệu này, là pháp viên đốn, vì tức khắc xa lìa tham sân si. Gọi tắt là Thấy Tánh.
Có khi quý Thầy giải thích theo Duy Thức. Bây giờ, chúng ta thử lùi xa chiếc xe, và nhìn theo lời giải thích của Đại sư Na Tiên. Tất cả gọng xe, bánh xe, mui xe, càng xe… đều hiển lộ trong tâm chúng ta như là thức (chư Tổ Trung Hoa có khi gọi là thức biến). Có một số Thầy khi dịch sang tiếng Anh gọi tất cả những gì hiển lộ đó là niệm (thought), nhưng có lẽ chữ thức (consciousness) chính xác hơn. Như thế, đó là nghĩa vạn pháp chỉ là thức.
Đó cũng là lý do, khi thấy hai vị sư nhìn thấy phướn động trước gió, tranh cãi rằng có phải phướn động hay gió động, Lục Tổ Huệ Năng nói: “Không phải gió động, không phải phướn động, tâm các ông động…”
Như thế, chúng ta thấy hiển lộ ra một số ý chỉ từ:
-- Kinh Lăng Nghiêm với câu “toàn tướng tức tánh, toàn tánh tức tướng.” Nghĩa là, tất cả những gì được thấy cũng là tâm hiển lộ, những gì đươc nghe cũng là tâm hiển lộ. Cái sở tri chính là cái năng tri (nhưng không phải là năng tri, vì vốn thực là không). Cánh hoa nở, tiếng chim kêu cũng là tâm hiển lộ.
-- Kinh Kim Cương với câu “nếu thấy các tướng không phải là tướng, tức là thấy Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy Na Tiên không phải Na Tiên, thấy xe không phải xe  tức là thấy Gương Tâm Hiển Lộ Chiếu Sáng.
-- Kinh Hoa Nghiêm, nhà sư Nguyễn Thế Đăng viết trong sách “Đi Vào Kinh Hoa Nghiêm,” trích:
"Tâm này là Phật, chúng sanh là Phật, thế giới là Phật. Đó là cái thấy biết kinh Hoa Nghiêm khai thị cho chúng ta. Tất cả những gì chúng ta thấy, nghe, hiểu, biết, xúc chạm, suy nghĩ… đều đồng một Phật tánh, đồng một tánh vàng như pháp giới vốn là vàng ròng.
Khi tất cả sáu căn, sáu trần, sáu thức đều trở lại nguyên thể của chúng là vàng thì tất cả là vàng không một mảy may hở sót. Khi mỗi vi trần, mỗi niệm đều là vàng thì tất cả các vi trần, các niệm tương tức tương nhập, tương dung tương nhiếp một cách vô ngại, hiển bày pháp giới Hoa Nghiêm...
...Bản tánh của tâm chúng ta và thế giới là tánh Không, do đó mỗi tư tưởng của chúng ta và mỗi hình tướng chúng ta thấy đều là tánh Không. Thấy được bản tánh của tất cả các pháp hay “thật tướng của tất cả các pháp” là tánh Không thì thấy được Pháp thân của chư Phật." (4)
Bởi vì tất cả các pháp không lìa tâm mà hiển lộ ra.
BƯỚC QUA BỜ BÊN KIA
Có một suy nghĩ có thể khởi lên: Bát Nhã Tâm Kinh nhấn mạnh ý nghĩa qua bờ bên kia, cuối bài là câu thần chú, được phiên âm trong tiếng Việt là: "Yết đế, yết đế. Ba la yết đế. Ba la tăng yết đế. Bồ đề Tát bà ha."
Bản tiếng Anh của Đức Đạt Lai Lạt Ma ghi thần chú tiếng Sanskrit này là: tadyatha - gaté gaté paragaté parasamgaté bodhi svaha! (Trang 130, bản sách giấy Essence of the Heart Sutra, NXB Wisdom Publications, 2014) và Ngài dịch ngắn gọn là “Go to the other shore.” Nghĩa là, đi qua bờ bên kia.
Phải chăng, Tâm Kinh Bát Nhã là tóm gọn của Phẩm Qua Bờ Bên Kia trong Kinh Tập?
Phần thứ năm của Sutta Nipata là Phẩm Qua Bờ Bên Kia (Parayanavagga — The Chapter on the Way to the Far Shore).
  Phẩm Qua Bờ Bên Kia là một trong 2 nhóm Kinh Nhật Tụng Sơ Thời được chư tăng ni tụng hàng ngày trong thời Đức Phật sinh tiền. Nghĩa là hai nhóm kinh rất xưa cổ. Hai nhóm kinh này đều không nói về Tứ Niệm Xứ, Bát Chánh Đạo… nhưng nói nhiều với tư tưởng Trung Quán, một hệ thống tư tưởng được Long Thọ khai triển, trong đó cô đọng là Bát Nhã Tâm Kinh.
Để độc giả có thể đối chiếu, sau đây người viết sẽ dịch một số câu từ  Phẩm Qua Bờ Bên Kia, dựa trên 4 bản Anh dịch của Bhikkhu Bodhi (không có bản điện tử, chỉ có bản giấy The Suttanipata, ấn bản 2017, có thể mua ở Amazon), của Anandajoti Bhikkhu, của Access to Insight [Ireland | Thanissaro], của Khantipalo. Ba bản sau có links ở (5).
Phẩm Qua Bờ Bên Kia viết theo thể thơ, ghi lại 16 cuộc hỏi đạo của 16 du sĩ Bà La Môn tới gặp Đức Phật. Sau mỗi cuộc đối thoại, nhóm 15 du sĩ đầu tiên đắc quả A La Hán tức khắc, và vị thứ 16 là ngài Pingiya đắc Thánh quả thứ ba, tức Bất Lai (hay A Na Hàm – sẽ không trở lại cõi này nữa, vì đã diệt sạch hai kiết sử Tham và Sân). Nghĩa là, nghe pháp xong là tức khắc giải thoát.
Gọi đây là một trong hai nhóm Kinh Nhật Tụng Sơ Thời vì Kinh Tăng Chi Bộ ghi rằng trong thời Đức Phật còn tại thế, có nữ cư sĩ Nanda mỗi rạng sáng đều tụng đọc lớn tiếng nhóm kinh Parayanavagga - Qua Bờ Bên Kia. (6)  
Mỗi kinh trong phẩm này gồm nhiều đoạn thơ, ghi số theo đoạn 4 dòng thơ, hay 5 hay 6 dòng thơ. Trong bản Khantipalo, đoạn thơ đâu ghi số 983, đoạn cuối phẩm ghi số 1156, như thế cả phẩm gồm 173 đoạn thơ. Nhưng bản Bhikkhu Bodhi chệch đi, đoạn đầu ghi số 976, đoạn cuối 1149, cũng là 173 đoạn. Bản Access to Insight cũng ghi số khác.
Chúng ta sẽ dịch ra văn xuôi một số ý kinh gần với âm hưởng Bát Nhã Tâm Kinh, cuối đoạn sẽ ghi số theo bản Khantipalo. Đầu các đoạn thơ dịch sẽ ghi tên người vấn đạo, đôi khi sẽ ghi thêm tiếng Anh, có khi ghi 2 dị bản tiếng Anh, cho rõ nghĩa. Các đoạn thơ dịch như sau, và cũng không cần lời bình.
.
Đức Phật dạy: Ajita, ngươi hỏi rằng nơi đâu danh và thân sẽ tịch diệt không còn chút gì, ta nói rằng khi thức tịch diệt (cessation of consciousness) là hoàn toàn giải thoát. (1044)
Đức Phật dạy: Dhotaka, bất cứ những gì ngươi thấy nghe hay biết, dù là [các cõi] trên cao, dưới thấp, khắp phương hướng, và chặng giữa; hiểu rằng đó là dây buộc vào cõi này, chớ có ước muốn sinh ra hay không sinh ra (don't create craving for becoming or non-.). (1075)
Đức Phật dạy: Upasiva, hãy tỉnh thức, hướng tâm vào không một pháp nào hết (looking to nothingness, focused on nothingness), không nương tựa vào một pháp nào hết (depending on nothing) để vượt qua trận lụt; hãy bỏ mọi cuộc nói chuyện , bỏ cả tham dục, hãy nhìn thấy tham dục biến mất từng ngày, từng đêm. (1077)
Đức Phật dạy: Upasiva, với người đã giải thoát, không có gì để đo lường nữa, không còn gì để người khác nói về người này; khi các pháp với người đó đã hoàn toàn rỗng rang vô tướng, lời nói ngôn ngữ cũng rỗng rang dứt bặt (when dharmas for that one are emptied out, emptied are the ways of telling too; when all phenomena have been uprooted, all pathways of speech are also uprooted). (1083)
Đức Phật dạy: Nanda,  bất cứ những ai đã buông bỏ những gì được thấy, được nghe, được cảm thọ, buông bỏ cả giới đức, buông cả luyện tập, và cũng buông bỏ vô số pháp hành khác (whoever here has given up reliance on what is seen, heard, or sensed, and virtue and practices, and has also given up all the countless other ways) -- người đó biết rõ hoàn toàn về tham ái, và đã xa lìa ô nhiễm. Ta nói người đó đã vượt qua trận lụt. (1089)
Đức Phật dạy: Jatukanni, đối với người không còn tham chút gì về thân và tâm (altogether without greed for mind and body), sẽ không còn ô nhiễm nào hiện hữu nữa để người có đó thể bị cái chết kiểm soát. (1107)
Đức Phật dạy: Udaya, Với người không tìm vui trong cảm thọ dù trong hay ngoài, với người sống tỉnh giác như thế, thức sẽ tịch diệt (consciousness ceases). (1118)
.
THIỀN SƯ VIỆT NAM GIỮA CÕI SẮC VỚI KHÔNG
Bởi vì Bát Nhã Tâm Kinh là kinh nhật tụng tại Việt Nam, cho nên chúng ta thấy nhiều Thiền sư Việt Nam ưa sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh về sắc với không. Thực sự, cũng là để chỉ pháp Thấy Tánh.
Như Thiền sư Viên Chiếu (999-1090) thời nhà Lý, có thơ:
Nhược đạt tâm không vô sắc tướng,
Sắc, không ẩn hiện nhậm suy di.
Dịch: Nếu tâm được rỗng rang, cũng không dính tới sắc tướng gì,
Dù sắc với không, có ẩn hay hiện, thì vần xoay cũng mặc kệ.
.
Thiền sư Tông Diễn (1640 - 1711) quê ở Cẩm Giàng, Hải Dương, có bài kệ:
Ưng hữu vạn duyên hữu,
Tùy vô nhất thiết vô
Hữu vô câu bất lập
Nhật cảnh bổn đương bô.
Dịch: Cần có muôn duyên có. Ưng không tất cả không. [Khi] có với không đều chẳng lập, mặt trời trí huệ hiện lên cao.
.
Cũng như với Thiền Sư Thanh Đàm, sinh trong thế kỷ 18, trụ trì chùa Bích Động ở làng Đam Khê, phủ An Khánh, tỉnh Ninh Bình.
Trong tác phẩm Thiền Sư Việt Nam, Hòa thượng Thích Thanh Từ viết về Ngài Thanh Đàm, và dịch một phần Pháp Hoa Đề Cương, trích:
"...Đến năm 1819, Sư sáng tác sách Pháp Hoa Đề Cương tại viện Liêm Khê. Trong đây, Sư có đặt ra một số câu hỏi để giải thích về Diệu tâm như:
Hỏi: Tại sao không chỉ thẳng cái thứ nhất là Diệu Tâm xưa nay, mà lại chỉ cái thứ hai là căn tánh để làm phương tiện tu hành ?
Đáp: Tâm vốn vô hình, làm sao mà chỉ ? Trước kia tôi đã nói một lần rồi, ngôn thuyết và biểu thị, không nắm được tâm. Tuy vậy, dù tâm vô hình, nhưng sự ứng dụng của tâm lại có vết tích, vì có vết tích nên có thể chỉ bày khiến cho người tu học có thể nhìn vết tích của sự ứng dụng, do ánh sáng ấy mà về được tâm.
Hỏi: Dấu vết ấy ở đâu ?
Đáp: Ở trên đối tượng lục trần. Do sắc mà có cái thấy, do thanh mà có cái nghe, lục trần là dấu vết ứng dụng của lục căn. Nay muốn nắm được dấu vết của căn thì phải quan sát cái thấy cái nghe nơi đối tượng sắc thanh. Nên biết rằng công dụng của căn là công dụng của tâm, căn nhận biết là tâm nhận biết; cái khác nhau là căn có tới sáu công dụng, mà tâm chỉ có một bản thể tinh minh. Chư Phật truyền nhau là căn pháp này, các vị Tổ truyền nhau là tâm tông ấy. Đó là bí quyết mà các kinh điển chỉ bày để được căn bản trí. Pháp ấn truyền trao qua lại các thời đại cũng lấy cái ấy để phát giác sơ tâm. Chứng ngộ mau hay chậm là vì căn cơ rộng hay hẹp..."(7)
Thực sự, Thiền Tông như thế không có gì bí ẩn. Vì là xuất xứ từ hai nhóm Kinh Nhật Tụng Sơ Thời trong Tạng Pali, và tất cả đều chỉ pháp viên đốn. Nghe xong, tức khắc thành A La Hán, y hệt Kinh Bahiya, không thấy gì để làm nữa, ngôn ngữ tự nhiên vắng bặt. Thấy được Gương Tâm Rỗng Rang Tịch Chiếu, sẽ thấy không cần gì phải tu nữa.
Tới đây, chúng ta kể một câu chuyện trong Thiền sử. Không nhớ trong Thiền Trung Hoa hay Nhật Bản. Vị thầy hỏi trò, hôm qua mưa gió mịt mù, đứng nơi góc rừng thấy mưa ào ạt trước mắt, nghe tiếng gió xô dạt cây rừng gầm rú. Hôm nay cảnh đó ở đâu.
Chúng ta nơi đây, không có ý muốn nói chuyện hôm qua, tuần qua, năm qua. Chỉ muốn nói về chuyện của khoảnh khắc hiện tại, khi mưa gió mịt mù, đứng nơi góc rừng thấy mưa ào ạt trước mắt, nghe tiếng gió xô dạt cây rừng gầm rú.
Chúng ta sẽ thấy như sau: trước mắt, tất cả các pháp (mưa rơi ào ạt) thực sự là rỗng rang không một pháp, cho nên CÁI ĐƯỢC THẤY tức khắc phải là không, nên hình ảnh chuyển biến ào ạt; tương tự, bên tai sẽ thấy, CÁI ĐƯỢC NGHE tức khắc phải là không, nên gió gào, cây rú chuyển biến ào ạt. Trước mắt, bên tai, đó là vô thường và vô ngã chảy siết. Đó là hiển lộ của tâm, trong gương tâm rỗng rang tịch chiếu. Thấy như thế, là vô tu vô chứng. Và ngôn ngữ biến mất, vì không ai có lời nào để nói về màu xanh của cây rừng, hay nói về tiếng mưa đêm nỉ non, vì khi đã thấy và nghe cái “sắc bất dị không,” tất cả tâm hành đều dứt bặt.
Trong khoảnh khắc thấy như thế, đó là đương xứ tức chơn, đó là Niết bàn diệu tâm, là nơi vắng bặt ngôn ngữ vì hễ mở lời là dòng vô thường chảy xiết bỗng trở thành chuyện của khoảnh khắc hồi nãy, của giờ trước, của hôm qua, của năm qua… và là vướng vào bẫy sinh tử luân hồi.
Và đương xứ tức chơn, đó là khi, thức đã tich diệt…

GHI CHÚ:
(1) Kinh Na Tiên Tỳ Kheo: https://thuvienhoasen.org/p19a949/phan-i
(2) Kinh SN 35.85, bản Thanissaro Bhikkhu:
và bản Bhikkhu Bodhi: https://suttacentral.net/en/sn35.85
(3) Kinh SN 35.23, bản Thanissaro Bhikkhu:
và bản Bhikkhu Bodhi: https://suttacentral.net/vn/sn35.23
(5) Bản Anandajoti Bhikkhu: https://suttacentral.net/en/snp5.1
(6) Velukantaki Nanda having got up in the last watch of the night was reciting loudly the Parayana Vagga… -- http://obo.genaud.net/dhamma-vinaya/mnl/an/07_sevens/an07.050.upal.mnl.htm

Tôn Giáo và Hoa Lục

Trung Quốc đang biến đổi từng ngày. Trong dòng chảy mới đó, các tôn giáo đang hiện diện trong những vị trí khác hẳn so với thời của Chủ tịch Mao Trạch Đông.
Tạp chí Newsweek hôm 24/10/2017 ghi nhận rằng trong bài diễn văn tuần qua của Chủ Tịch Tập Cận Bình, có một hướng đi nói ra minh bạch, rằng phải “Hán hóa tôn giáo” – tức là tập trung hướng về những gì gọi là Trung Hoa (Chinese-oriented) một phần trong nỗ lực Hán hóa tôn giáo (Sinicize religion)…
Có nghĩa là, các hệ thống Thiên chúa giáo sẽ tách rời với Tây Phương, rằng Công Giáo La Mã phải cắt đứt với Vatican, rằng Tin Lành sẽ phải độc lập với cội nguồn ở Hoa Kỳ?
Hay, có phải ông Tập ám chỉ rằng Phật Giáo Tây Tạng phải xa lìa vùng đất Dharamsala ở Bắc Ấn Độ, nơi Đức Đạt Lai Lạt Ma đang sống lưu vong?
Hay, có phải ông Tập ám chỉ về các tôn giáo mới khai sinh hiện có các giáo chủ sống ngoài lãnh thổ Trung Quốc?
Hay, có phải ông Tập nói về các tổ chức Phật giáo Đài Loan đang vào Hoa Lục rằng chớ nên suy nghĩ như kiểu người Trung Hoa xa lìa quê mẹ?
Có lẽ, tất cả suy luận nêu trên đều đúng. Bởi vì kiểu ông Tập Cận Bình đưa tư tưởng của ông vào Hiến pháp như thế, gom hết giang sơn về một mối trong quyền lực của ông, hiển nhiên ông không muốn sức mạnh tôn giáo trong lục địa bị giựt dây từ các nguồn lực không kiểm soát nổi.
Báo New York Times hôm 24/6/2017, trong bài viết của Ian Johnson nhan đề “Is a Buddhist Group Changing China? Or Is China Changing It?” (Một tổ chức Phật giáo đang thay đổi Trung Quốc? Hay, có phải TQ đang biến đổi tổ chức PG này?). Đây là một đề tài hứng thú… vì chúng ta có thể gợi nhớ tới một thập niên trước, Thầy Nhất Hạnh đưa Làng Mai về Việt Nam…
Còn chuyện PG Đài Loan vào Hoa Lục ra sao?
Bản tin New York Times kể về bà Shen Ying, một bà chủ tiệm tạp hóa trong một khu thương mại, nhìn thấy kinh tế TQ tăng vọt nhưng đầy những chuyện phi đạo đức.
Bà kinh doanh trong nỗi lo ngại sẽ sụp tiệm nếu không hối lộ đúng những cán bộ phụ trách. Bà đọc các xì căng đan về thực phẩm bẩn, về sữa trẻ em nhiễm độc, và bà nhớ tới lời thân phụ dạy bà những ngày thơ ấu: sống lương thiện, sống tiết kiệm, sống ngay chính. Nhưng bà thấy không cách nào sống như thế trong xã hội TQ hiện nay.
Rồi, mới 5 năm trước, một tổ chức Phật giáo Đài Loan có tên là Fo Guang Shan, tức là Phật Quang Sơn, khởi công xây một ngôi chùa ở ngoại ô thành phố Yixing nơi bà đang cư ngụ. Bà bắt  đầu tới, học kinh, và rồi thấy đời bà thay đổi.
Bà và chồng, một thương gia thành công, bắt đầu sống đơn sơ hơn. Họ rời các thứ xa hoa, và rồi quyên góp giúp trẻ em nghèo. Trước khi ngôi chùa khánh thành năm ngoái, bà rời tiệm tạp hóa để tới quản lý một tiệm trà gần chùa, phát nguyện các lợi tức sẽ cúng từ thiện.
Bản tin trên báo NYT kể rằng khắp TQ, nhiều triệu người như bà Shen bắt đầu tham dự các tổ chức tôn giáo như Fo Guang Shan. Họ muốn làm đầy khoảng trống đạo đức đã bị tấn công trong thế kỷ vừa qua, đặc biệt dưới thời Mao và khi TQ chuyển mình sang nền kinh tế tư bản man rợ.
Nhiều người ý thức rõ rằng họ muốn biến đổi đất nước TQ, để làm sao cho từ bi hơn, văn minh hơn, công bằng hơn. Nhưng họ không muốn trở thành các nhà bất đồng chính kiến để bị nhà nước đàn áp. Họ hợp tác với nhà nước, thay vì chống lại. Hầu hết, chính quyền TQ để yên.
Trong các tổ chức tôn giáo vào TQ, có lẽ Fo Guang Shan (FGS) là tổ chức thành công nhất. Từ khi vào TQ hơn một thập niên trước, FGS đã mở được các trung tâm văn hóa và thư viện ở các thành phố lớn, in và phát hành nhiều triệu ấn bản các sách xuyên qua các nhà xuất bản quốc doanh. Trong khi chính quyền siết chặt hầu hết các tổ chức tôn giáo ngoại quốc, Fo Guang Shan lại phát triển mạnh mẽ, đưa ra một thông điệp rằng hành vi từ thiện cá nhân có thể biến đổi TQ.
Tuy nhiên, bản tin New York Times nói rằng,  FGS phải thỏa hiệp. Chính quyền TQ ngờ vực các giáo phái mà nhà nước không kiểm soát được, thí dụ Falun Gong (Pháp Luân Công), và ngăn cấm pha trộn tôn giáo và chính trị. Do vậy, FGS không nhấn mạnh về biến đổi xã hội và nội dung tôn giáo, chỉ tập trung vào giữ gìn văn hóa truyền thống TQ.
Dĩ nhiên, Chủ tịch Tập Cận Bình hài lòng.
Nhà sư Hsing Yun, 89 tuổi, nói với phóng viên Johnson rằng ông không có ý rao giảng Đạo Phật, ông chỉ ưu tiên quảng bá văn hóa Trung Hoa để làm sạch tâm hồn người dân, và trả lời khi được hỏi về Đảng CSTQ rằng, “Phật tử chúng tôi chấp nhận bất kỳ ai nắm quyền. Phật tử không liên hệ gì với chính trị.”
Thực tế, FGS ở hải đảo Đaì Loan vẫn khác với FGS ở Hoa Lục. Nhiều học giả nhận định rằng FGS đã thành công trong việc chuyển biến Đài Loan, đã đặt nền móng cho Đài Loan chuyển hóa sang dân chủ bằng cách trưởng dưỡng một nền văn hóa chính trị gắn liền với bình đẳng, văn minh và tiến bộ xã hội.
FGS đã phát triển nhanh chóng, xài hơn 1 tỷ đôla cho các đại học, trường mẫu giáo, một nhà xuất bản, một nhật báo, một đài truyền hình. FGS hiện có hơn 1,000 tăng và ni, và hơn 1 triệu tín đồ ở hơn 50 quốc gia, kể cả tại Hoa Kỳ.
FGS từ chối nói chi tiết về hoạt động của họ ở TQ, nơi chính quyền ban đầu nghi ngờ họ. Năm 1989, một cán bộ chạy trốn trận thảm sát Thiên An Môn đã tới tỵ nạn trong ngôi chùa FGS tại Los Angeles. Lúc đó, CSTQ nổi giận, ngăn cấm nhà sư Hsing Yun vàp lục địa.
Hơn 1 thập niên sau, TQ mới nhìn về Thầy Hsing Yun  khác hơn. Là một người sinh ra trong lục địa, nhà sư Đài Loan này có lập trường thống nhất xứ Đài với đất mẹ TQ, và tình cảm không ưa ly khai là một điểm ưu tiên để Bắc Kinh biệt đãi.
Năm 2003, TQ cho phép nhà sư về thăm nguyên quán, Yangzhou. Nhà sư cam kết xây 1 thư viện, và vài năm sau xây một cơ sở  rộng 100-acre nơi bây giờ có gần 2 triệu cuốn sách, bao gồm bộ Đại Tạng Kinh 100,000 tập.
Tập Cận Bình ủng hộ nhà sư, đặc biệt là chương trình “làm trẻ lại đất nước Trung Hoa.”  Tập đã gặp nhà sư Hsing Yun bốn lần kể từ năm 2012, trong một buổi hội kiến nói với nhà sư rằng: “Tôi đã đọc hết tất cả các sách đại sư gửi cho tôi.”
Trong khi chính phủ ông Tập kiểm soát kỹ Thiên Chúa Giáo và Hồi giáo, lại cho FGS mở các trung tâm văn hóa ở 4 thành phố, kể cả Bắc Kinh và Thượng Hải. Trong các khóa thiền thất, nhiều cán bộ quan chức tham dự, sống theo hạnh tăng sĩ và ni cô trong nhiều ngày, tụng kinh và học các sách triết lý của đại sư Hsing Yun.
Không giống như ở Đài Loan, nơi mỗi khi có khủng hoảng, FGS khuyến khích Phật tử thảo luận về vấn đề công quyền… Tại Hoa Lục, FGS không nói gì về chính trị, và không bao giờ chỉ trích nhà nước.
Chiang Tsan-teng, một giáo sư tại Taipei City University of Science and Technology chuyên nghiên cứu vê Phật giáo trong khu vực, nói rằng TQ vẫn giữ ý thức hệ kiểu các hoàng đế cổ xưa, nghĩa là cho hoạt động dưới quyền kiểm soát của vua, và “FGS không bao giờ có thể tự chủ ở Hoa Lục.”
Thực tế, ai cũng thấy, TQ là xã hội độc đảng.
Trong khi đó, tạp chí Newsweek hôm 24/10/2017 ghi nhận về bài diễn văn của Tập Cận Bình: phải Trung Hoa hóa các tôn giáo.

Một cách chính thức, TQ công nhận Phật giáo, Lão giáo, Hồi giáo, Tin Lành và Công Giáo… trong khi đàn áp dữ dội các tổ chức Hồi giáo và các nhóm Phật giáo bị nhà nước nghi là có tư tưởng ly khai. Pháp Luân Công bị cấm từ  1999. TQ từ chối quyền lực của Vatican đối với 12 triệu giáo dân Công giáo.  Và dĩ nhiên, các nhà sư Tây Tạng bị xem là có tư tưởng ly khai liên tục bị theo dõi và bắt giữ.

Thiện Hữu Tri Thức Trên Đường Tu Học
Nguyên Giác

Trong tháng 4/2017, người viết được đón tiếp một số pháp hữu -- hai vị từ núi Long Hải tới thăm là Thầy Thiện Minh và Sư cô Diệu Hải nguyên học cùng bổn sư là Hòa Thượng Thích Tịch Chiếu; bạn văn là nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh, anh chị Châu-Chi… Trong mấy ngày ở Quận Cam, Thầy Thiện Minh ngồi vẽ tấm thư pháp Bồ Đề Đạt Ma để tặng người học Phật đã đi xa từ mấy thập niên trước.
Thư pháp do Thầy Thiện Minh vẽ, khổ 18”X24” (45.72 cm X 60.96 cm).

Tự biết, có thể kiếp này sẽ khó gặp lại, người viết nơi đây xin gửi mấy dòng thơ lưu niệm:
.
Sư núi về thăm chợ
gặp bạn kiếp rất xa
vẽ thơ, gầy nét cọ
loang mực, lạnh sơn hà
.
cõi Phật nhiều vô lượng
chiếu sáng những dòng kinh
chữ bay ngàn cánh phượng
hiển lộ cõi vô sinh
.
chép lại dòng bối diệp
vẽ tâm, vẽ không tâm
về núi, ngồi trọn kiếp
nhìn mây, chữ quên vần.
.
Sau đây, xin trích dịch một số kinh luận mới đọc lúc gần đây, để tặng tất cả các thiện hữu tri hữu đã gặp, đang gặp hoặc chưa gặp, trong đời này hoặc đời sau – cũng như các bạn đạo cùng học ở Chùa Tây Tạng Bình Dương, trong đó có Thầy Nguyễn Thế Đăng, bạn Thanh Liên, các nhà thơ Phan Nhật Tân và Biện Thị Thanh Liêm, quý bạn nêu trên, và khắp pháp giới để làm thiện duyên tu học.
…o…

Iti 1-17 – Bạn đạo giúp tăng thiện pháp, rời bỏ bất thiện pháp.
Kinh “Itivuttaka: The Group of Ones” – bản Anh dịch của Thanissaro Bhikkhu.
Đức Thế Tôn nói rằng: “Đối với các yếu tố bên ngoài, ta không thấy có bất kỳ yếu tố nào khác quan trọng như tình bạn đạo đáng quý để giúp một học tăng, người chưa chứng quả nhưng vẫn còn trên đường tìm giải thoát. Một vị sư được cơ duyên làm bạn với những người đáng quý sẽ rời bỏ các bất thiện pháp, và sẽ phát triển các thiện pháp.” (1)
 -----
AN 9.1 -- Cần trước nhất là có bạn đạo đáng quý.
Kinh “Sambodhi Sutta: Self-awakening” – bản Anh dịch của Thanissaro Bhikkhu.
Đức Thế Tôn nói rằng: “Khi một du sĩ từ một giáo phái khác hỏi ngươi, rằng bạn ơi, điều cần trước nhất để bước trên đường tự giác ngộ là gì… ngươi nên trả lời rằng, có trường hợp, khi một vị sư có các bạn đạo đáng quý, có bạn đồng hành đáng quý, có người cùng tu đáng quý. Đó là điều cần trước nhất để phát triển các pháp cần có trên đường tự giác ngộ.” (2)
 -----
AN 7.35 – Cần thân cận bạn đạo có 7 phẩm chất.
Kinh “Mitta Sutta: A Friend” – bản Anh dịch của Thanissaro Bhikkhu.
Đức Thế Tôn nói rằng: “Các tỳ kheo, một người bạn có 7 phẩm chất xứng đáng được thân cận. Bảy phẩm chất nào? Bạn đó trao tặng những gì khó trao tặng. Bạn đó làm những gì khó làm. Bạn đó chịu đựng những gì khó chịu đựng. Bạn đó tiết lộ cho bạn những gì bí mật của bạn đó. Bạn đó giữ kín những bí mật của ngươi. Khi bất hạnh xảy ra, bạn đó không bỏ rơi ngươi. Khi ngươi thất bại, bạn đó không coi thường ngươi. Một người bạn có 7 phẩm chất như thế xứng đáng được thân cận.” (3)
 -----
SN 45.2 – Tình bạn đạo là toàn bộ đời sống thánh hạnh.
“Upaddha Sutta: Half (of the Holy Life)” – bản Anh dịch của Thanissaro Bhikkhu.
Ngài Ananda nói với Đức Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, đây là một nửa đời sống thánh hạnh: tình bạn đáng quý, tình đồng hành đáng quý, tình đồng đội đáng quý.”
Đức Phật: “Đừng nói thế, Ananda. Đừng nói thế. Tình bạn đáng quý, tình đồng hành đáng quý, tình đồng đội đáng quý thực sự là toàn bộ đời sống thánh hạnh. Khi một nhà sư có những người đáng quý trọng làm bạn, đồng hành và đồng đội, nhà sư đó có thể được mong đợi là sẽ phát triển và theo được con đường Thánh đạo Tám ngành.” (4)
 -----
Ud 4.1 – Bạn đạo giúp mình giữ giới luật.
Kinh “Meghiya Sutta: About Meghiya” – bản Anh dịch của Thanissaro Bhikkhu.
“… Này Meghiya, khi một nhà sư có những người đáng quý làm bạn, làm người đồng hành và làm người đồng đội, hãy mong đợi rằng vị sư này sẽ có đức hạnh, sẽ sống phù hợp với Giới Bổn, sẽ thu thúc thái độ và hành động, và sẽ tự phòng hộ theo giới luật, nhìn thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhất.” (5)
 -----
Kinh Pháp Cú – Kệ 76 – Cần bạn đạo chỉ lỗi cho mình.
Hãy đi theo một thiện hữu tri thức, người này chỉ cho mình thấy lỗi của mình, y hệt như đi theo một người hướng dẫn tới một kho tàng còn chôn kín. Đi theo một thiện hữu tri thức như thế, sẽ là một lợi thế và không chút gì bất lợi.(6)
 -----
DN 31 – Bạn đạo bảo vệ mình, có thể liều chết vì mình.
 “Sigalovada Sutta: The Buddha's Advice to Sigalaka” – bản Anh dịch của nhóm dịch giả John Kelly, Sue Sawyer, và Victoria Yareham.
Trong Trường Bộ Kinh DN31, Đức Phật dạy cho cư sĩ Sigalaka, trích dịch như sau.
“21. Người thanh niên ơi, hãy biết về bốn nhóm bạn tốt: người giúp đỡ, người bên nhau khi thăng và trầm, người bạn đạo hướng dẫn, và người bạn từ tâm.
“22. Người giúp đỡ có thể được nhận ra  ở bốn việc: bảo vệ ngươi, khi ngươi mong manh, và tương tự bảo vệ tài sản của ngươi; là nơi an trú khi ngươi sợ hãi, và trong nhiều việc cung cấp cho ngươi gấp đôi mức ngươi xin.
“23. Người bạn cùng bên nhau thăng trầm có thể được nhận ra ở bốn việc: nói cho người bí mật, giữ gìn bí mật của người, không rời bỏ ngươi khi bất hạnh, và ngay cả liều chết vì ngươi.
“24. Người hướng dẫn ngươi có thể nhận ra từ bốn việc: giữ không cho ngươi làm các bất thiện pháp, hướng dẫn ngươi làm các thiện pháp, nói cho ngươi biết những gì nên biết, và chỉ cho người đường lên các cõi thiên.
“25. Người bạn từ tâm có thể được nhận ra bởi bốn việc: không vui mừng khi ngươi bất hạnh, vui mừng khi ngươi gặp may mắn, ngăn không cho người khác nói xấu ngươi, và khuyến khích người khác ca ngợi các thiện pháp của ngươi.” (7)
 -----
SN 45.3 -- Thiện hữu tri thức là toàn bộ đời sống thánh hạnh.
Tốt, tốt, Xá Lợi Phất! Toàn bộ đời sống thánh hạnh này là tình bạn tốt, là bạn đồng hành tốt, là bạn đồng tu tốt. Khi một nhà sư có một bạn tốt, một bạn đồng hành tốt, một bạn đồng tu tốt, sẽ mong đợi rằng vị đó sẽ tu tập hoàn mãn Bát Chánh Đạo. (8)
-----
SN 46.12 -- Bạn tốt sẽ giúp mình tu học được bảy giác chi.
Khi một nhà sư có một bạn tốt, dự đoán rằng vị đó sẽ tu tập hoàn mãn bảy giác chi. (9)
 -----
SN 11.24 -- Hãy giữ tình bạn không phai.
Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka, để làm hòa dịu chư Thiên ở Tam thập tam thiên tại hội trường Sudhamma, ngay trong lúc ấy, nói lên bài kệ này:
Hãy nhiếp phục phẫn nộ,
Giữ tình bạn không phai,
Không đáng mắng, chớ mắng,
Không nên nói hai lưỡi,
Phẫn nộ quăng người ác,
Như đá rơi vực thẳm.(10)  
 -----
DN 34 -- Bạn lành là pháp hướng đến thù thắng
...Thế nào là hai pháp hướng đến thù thắng? Thiện ngôn và thiện hữu. Ðó là hai pháp hướng đến thù thắng....
...Thế nào là ba pháp có nhiều tác dụng? Giao thiệp với thiện nhân, nghe diệu pháp, hành trì pháp và tùy pháp. Ðó là ba pháp có nhiều tác dụng....
...Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo là thiện hữu, thiện bạn lữ, là thiện bạn đảng, là hộ trì nhân. Này các Hiền giả, vị Tỷ kheo nào là thiện hữu, là thiện bạn lữ, là thiện bạn đảng. Pháp như vậy là hộ trì nhân...(11)
-----
Sn 2.3 --  Ai mà ngươi có thể nương tựa, hệt như em bé nằm ngủ trên bầu ngực mẹ, mới thực sự là thiện hữu.
Kinh "Hiri Sutta: On Friendship" bản Anh dịch của John D. Ireland.
Người nào nói, 'Tôi là bạn của quý vị,' nhưng không biết mắc cỡ, không chịu làm những việc y có thể làm để giúp, không nên xem y là thiện hữu. Người nào nói êm dịu nhưng hành vi không tương hợp, người trí biết đó là người chỉ nói mà không làm. Người nào ưa mâu thuẫn, cứ chờ xem lỗi nhỏ của bạn, cũng không phải là thiện hữu. Nhưng với những ai mà ngươi có thể nương tựa, hệt như em bé nằm ngủ trên bầu ngực mẹ, mới thực sự là thiện hữu, mà không ai có thể chia cách ra khỏi ngươi. (12)
 -----
AN 8.54 -- Làm bạn với thiện.
Ở đây, này Byagghapajja, thiện nam tử sống tại làng hay tại thị trấn. Tại đấy có gia chủ hay con người gia chủ, những trẻ được nuôi lớn trong giới đức, hay những người lớn tuổi được lớn lên trong giới đức, đầy đủ lòng tin, đầy đủ giới đức, đầy đủ bố thí, đầy đủ trí tuệ, vị ấy làm quen, nói chuyện, thảo luận. Với những người đầy đủ lòng tin, vị ấy học tập với đầy đủ lòng tin. Với những người đầy đủ giới đức, vị ấy học tập với đầy đủ giới đức. Với những người đầy đủ bố thí, vị ấy học tập với đầy đủ bố thí. Với những người đầy đủ trí tuệ, vị ấy học tập với đầy đủ trí tuệ. Này Byagghapajja, đây gọi là làm bạn với thiện. Và này Byagghapajja, thế nào là sống thăng bằng, điều hòa? (13)
 -----
Kinh Pháp Cú – Kệ 78
Bản dịch của HT Thích Minh Châu: Chớ thân với bạn ác, Chớ thân kẻ tiểu nhân. Hãy thân người bạn lành, Hãy thân bậc thượng nhân.
GHI CHÚ:
(1) Iti 1-17. With regard to external factors, I don't envision any other single factor like admirable friendship as doing so much for a monk in training...
(2) AN 9.1. There is the case where a monk has admirable friends, admirable companions, admirable comrades. This is the first prerequisite for the development of the wings to self-awakening...
(3) AN 7.35. Which seven? He gives what is hard to give. He does what is hard to do. He endures what is hard to endure. He reveals his secrets to you. He keeps your secrets. When misfortunes strike, he doesn't abandon you. When you're down & out, he doesn't look down on you.
(4) SN 45.2. Don't say that, Ananda. Don't say that. Admirable friendship, admirable companionship, admirable camaraderie is actually the whole of the holy life.
(5) Ud 4.1. Meghiya, when a monk has admirable people as friends, companions, & colleagues, it is to be expected that he will be virtuous, will dwell restrained in accordance with the Pāṭimokkha...
(6) Dhp VI. Should one find a man who points out faults and who reproves, let him follow such a wise and sagacious person as one would a guide to hidden treasure. It is always better, and never worse, to cultivate such an association.
(7) 22. "The helper can be identified by four things: by protecting you when you are vulnerable, and likewise your wealth, being a refuge when you are afraid, and in various tasks providing double what is requested.
23. "The enduring friend can be identified by four things: by telling you secrets, guarding your own secrets closely, not abandoning you in misfortune, and even dying for you.
24. "The mentor can be identified by four things: by restraining you from wrongdoing, guiding you towards good actions, telling you what you ought to know, and showing you the path to heaven.
25. "The compassionate friend can be identified by four things: by not rejoicing in your misfortune, delighting in your good fortune, preventing others from speaking ill of you, and encouraging others who praise your good qualities."
 (8) Bản dịch Bhikkhu Bodhi: “Good, good, Sāriputta! This is the entire holy life, Sāriputta, that is, good friendship, good companionship, good comradeship. When a bhikkhu has a good friend, a good companion, a good comrade, it is to be expected that he will develop and cultivate the Noble Eightfold Path. https://suttacentral.net/en/sn45.3
(9) Bản dịch Bhikkhu Bodhi: When a bhikkhu has a good friend, it is to be expected that he will develop and cultivate the seven factors of enlightenment. https://suttacentral.net/en/sn46.12
(10)  Kinh SN 11.24, bản dịch HT Thích Minh Châu: https://suttacentral.net/vn/sn11.24
(11)  Trường Bộ Kinh 34. Bản dịch HT Thích Minh Châu: https://suttacentral.net/vn/dn34
(12) Sn 2.3: "One who, overstepping and despising a sense of shame, says, 'I am your friend,' but does not take upon himself any tasks he is capable of doing, is to be recognized as no friend. One who speaks amiably to his companions, but whose actions do not conform to it, him the wise know for certain as a talker not a doer. He is no friend who, anticipating conflict, is always alert in looking out for weaknesses.  But he on whom one can rely, like a child sleeping on its mother's breast, is truly a friend who cannot be parted from one by others. http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/snp/snp.2.03.irel.html
(13)  Kinh AN 8.54. Bản dịch HT Thích Minh Châu. https://suttacentral.net/vn/an8.54


Các Pháp Vào Định

Bài này sẽ trình bày một số pháp vào định, dựa trên nhiều truyền thống. Tuy được viết để trả lời nhiều thắc mắc, bài này vẫn là một khảo sát không thẩm quyền, vì bản thân người viết tu học chưa tới đâu. Trong các phần dựa vào kinh và luận, hy vọng các ghi chú cuối bài sẽ làm sáng tỏ hơn.
.
Trước tiên, nói về thái độ người tu học: cần có lòng tin kiên cố và tận lực tinh tấn, bất kể thịt da xương cốt khô héo.
Đức Phật nói trong Kinh MN 70 rằng đối với người tu có lòng tin kiên cố, dù bây giờ chưa tu học tới đâu, nhưng người có lòng tin tất nhiên sẽ tinh tấn, và trước khi lìa đời trong kiếp này sẽ hoặc là đắc quả Chánh trí (quả A La Hán), hoặc là quả Bất hoàn (quả Bất lai, hay A Na Hàm). Hãy tin rằng Đức Phật nói không thể sai được. Trích bản dịch của HT Thích Minh Châu là:
"Này các Tỷ-kheo, đối với đệ tử có lòng tin giáo pháp bậc Ðạo Sư và sống thể nhập giáo pháp ấy, thời tùy pháp này được khởi lên: “Dầu chỉ còn da, gân và xương, dầu thịt và máu trên thân bị khô héo, mong rằng sẽ có tinh tấn lực để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, nhờ trượng phu nhẫn nại, nhờ trượng phu tinh tấn, nhờ trượng phu cần dõng”. Này các Tỷ-kheo, đối với một đệ tử có lòng tin giáo pháp bậc Ðạo sư và sống thể nhập giáo pháp ấy, vị ấy sẽ chứng được một trong hai quả như sau: Chánh trí ngay trong hiện tại, và nếu có dư y, chứng quả Bất hoàn." (1)
Nhưng, phải tu học thế nào? Đức Phật dạy rằng phải tu trong từng giây phút trong ngày, tu trong từng khoảnh khắc trong và ngoài, hiểu là giữ gìn thân khẩu ý thanh tịnh từng khoảnh khắc.
Kinh Pháp Cú, kệ 315 viết: Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…
Nghĩa là, phải quan sát từng khoảnh khắc trong tâm.
.
Có một suy nghĩ rằng: tại sao nhiều vị sư hiện nay tập trung nhiều vào các pháp Thiền Chánh Niệm, và thường không nói nhiều về các pháp định – thí dụ, vào sơ thiền, nhị thiền… Thực tế lịch sử, ban đầu phong trào dạy Vipassana khởi lên từ Miến Điện là từ Thiền sư Ledi Sayadaw (1846-1923), tìm ra pháp thiền thích nghi với mọi thành phần đại chúng để dùng như công cụ chống lại thực dân Anh, để toàn dân Miến Điện tu được trong mọi hoàn cảnh đời thường, và cũng để bảo vệ Phật Giáo trong khi nhiều giáo sĩ người Anh vào Miến Điện mở trường truyền giáo. Tuy ngài nhấn mạnh về tuệ, nhưng trong Thiền chánh niệm (Vipassana) từ ban đầu cũng tự động đã có yếu tố cận định, vì nếu không, sẽ không gọi được là Mindfulness. Trong các thế hệ sau của ngài có cư sĩ SN Goenka, người truyền dạy Vipassana ra toàn cầu và cả tại Việt Nam.
Tại sao quý ngài không dạy tập trung vào định? Bởi vì giới là cần hộ trì nhất. Và cũng vì hai thánh quả đầu tiên (Tu Đà Hoàn, Tu Đà Hàm) có thể đạt được mà không cần tập định.
Trong bài viết “Liberation - Relevance of Sutta-Vinaya(2) của Đại sư Dhammavuddho Thera có dẫn lời Đức Phật dạy trong các kinh MN43, SN 46.4.8, AN 10.75, AN 4.58, AN 5.41 cho thấy thánh quả Tu Đà Hoàn là thân cận thiện tri thức, lắng nghe Chánh pháp (lắng nghe, hiểu là nghe, đọc, nghiền ngẫm kinh điển), Chú tâm tương ưng (Paying proper attention or thorough consideration, chú ý tương ưng, suy xét cẩn trọng, như lý tác ý), siêng tu học.
Đại sư cũng dẫn ra các Kinh AN 3.85 và AN 9.12, Đức Phật nói rằng hai thánh quả đầu tiên cần có Giới toàn hảo (Perfect Sila).
Đặc biệt, thánh quả Tu Đà Hoàn không khó, theo phân tích của Đại sư, vì Kinh AN 3.9.85 nói rằng các bậc thánh vị vẫn có thể bị lỗi phạm giới nhỏ. Kinh SN 55.3.4 dẫn ra trường hợp ngài Sarakani, khi Đức Phật nói rằng Sarakani đã đắc thánh quả Tu Đà Hoàn đã làm đại chúng bất ngờ, vì Sarakani trước đó đã bị tẫn xuất  về đời thường, và đã phạm giới uống rượu.
Đại sư cũng dẫn ra Kinh MN 14, kể rằng ngài Mahanama, người đã đắc quả Tu Đà Hàm (còn gọi là Nhất Lai, một lần tái sinh nữa), trình với Đức Phật rằng ngài tu học nhiều năm, nhưng đôi khi trong tâm vẫn khởi lên niệm bất thiện (tham sân si). Đức Phật trả lời rằng bậc thánh dù đã có trí tuệ, đã biết tham sân si là sai, nhưng vẫn có thể bị lôi cuốn bởi niềm vui cảm giác, trừ phi đã đắc hai yếu tố trong Định là: piti (delight, vui sướng nhờ tu định) và sukha (happiness, hạnh phúc).
Đại sư trong bài cũng dẫn ra Kinh AN 5.3.26, nói về Năm Giải Thoát Xứ, cho biết người tu có thể đắc quả A La Hán qua một trong 5 giải thoát xứ: 1. Lắng nghe (hay học) Chánh pháp; 2. Giảng dạy Chánh pháp; 3. Tụng đọc Chánh pháp; 4. Tư duy ý nghĩa Chánh pháp; 5. Thiền tập.
Tới đây, cũng nên nhắc về hai Kinh AN 10.2, AN 11.2, Đức Phật dạy rằng chỉ cần giới đức thanh tịnh, các chi giải thoát khác (kể cả định, huệ) cũng sẽ tự động thành tựu, dẫn tới thánh vị A La Hán.
Như thế, chúng ta có thể hiểu vì sao, khi quý ngài Miến Điện khởi động phong trào toàn dân tu Thiền Vipassana, đã không tập trung dạy về định.
.
Một câu hỏi: Làm thế nào để biết là đã vào được sơ thiền? Đức Phật nói trong nhiều kinh rằng, vào sơ thiền (và các tầng thiền khác) sẽ thấy an lạc vô cùng tận. Trong sơ thiền, niềm vui hỷ lạc tràn ngập toàn thân y hệt như người tắm và xoa bột tắm trên toàn thân.
Đức Phật giải thích trong Kinh AN 5.28 rằng vào sơ thiền sẽ thấy:
"Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly dục... chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất với tầm, với tứ. Vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần.
Ví như, này các Tỷ-kheo, như một người hầu tắm hay đệ tử hầu tắm, sau khi rắc bột tắm trong thau bằng đồng, liền nhồi bột ấy với nước. Cục bột tắm ấy được thấm nhuần nước ướt, trào trộn với nước ướt, thấm ướt cả trong lẫn ngoài với nước, nhưng không chảy thành giọt. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho dung mãn, tràn đầy thân này với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần." (3)
Chúng ta dễ dàng hiểu được tại sao một số vị thầy ngoại đạo hướng dẫn đệ từ vào được sơ thiền, rồi nói  gì cũng được tung hô, vì niềm vui trong sơ thiền (và các tầng thiền khác) là tuyệt vời.
Chữ “tầm” trong giải thích về sơ thiền trong tiếng Anh là: thought (bản dịch của Bhikkhu Bodhi), directed thought (bản dịch Thanissaro Bhikkhu), initial thinking (bản dịch Leigh Brasington), applied thought (bản dịch Henepola Gunaratana). Nghĩa là: niệm hướng vào.
Chữ “tứ” trong giải thích về sơ thiền trong tiếng Anh là: examination (bản dịch của Bhikkhu Bodhi), evaluation (bản dịch Thanissaro Bhikkhu), sustained thinking (bản dịch Leigh Brasington), sustained thought (bản dịch Henepola Gunaratana). Nghĩa là: niệm trụ vào.
Như thế, chúng ta có thể tin rằng, có những trường hợp nhiều người đã vào được sơ thiền, mà không biết tới danh từ này. Đó là khi tâm lắng xuống, lặng lẽ, cảm nhận làn da trên toàn thân vui sướng vô cùng, hệt như bột tắm xoa toàn thân.
.
Có một câu hỏi: quý thầy dạy vào định như thế nào? Leigh Brasington là một thiền sư đã theo học nhiều năm ở Thái Lan, Miến Điện, Sri Lanka… giải thích rằng hiện có hai khuynh hướng chính trong Theravada -- mỗi khuynh hướng chính cũng dạy có phần khác biệt tùy các thầy, ở các quốc độ khác biệt:
-- dạy vào các tầng thiền theo Thanh Tịnh Đạo Luận, nổi bật là trường thiền Pa Auk Monastery (ở Miến Điện với các thiền thất kéo dài nhiều tháng, và khi một số môn đệ người Hoa Kỳ đưa pháp này về dạy ở Hoa Kỳ, rút ngắn còn khóa 10 ngày. Vào định hoặc bằng hơi thở, hoặc nhìn các đĩa màu kasina. Vị thầy nổi tiếng khác là Ajahn Brahmayamso, học với Thiền sư Ajahn Chah ở Thái Lan trước khi về Úc châu, chủ yếu dùng hơi thở để vào định, phương pháp có kết hợp với Kinh.
-- dạy vào các tầng thiền theo các Kinh Pali, nổi bật là nữ Thiền sư Ayya Khema, dạy vào định bằng nhiều cách, hơi thở, Tâm Từ, niệm quét (sweeping) trên thân. Tương tự là quý thầy Venerable Amathagavesi ở Sri Lanka. Bhante Gunaratana,  Thanissaro Bhikkhu…
Cách tu định phổ biến nhất là qua Thiền hơi thở và qua Thiền Tâm Từ.
Một số người nói rằng Tâm Từ trong nhà Phật cũng giống như Yêu Thương hay Bác Ái trong các đạo khác. Thực ra không phải. Thiền Tâm Từ trong nhà Phật có một số phương pháp tu khác nhau, cũng có hai khuynh hướng tu chính, một là theo Kinh và một theo Thanh Tịnh Đạo Luận.
Riêng phương pháp Tâm Từ do Đức Phật dạy trong Kinh Tương Ưng 46.64 độc đáo là kết hợp với Thiền Tứ Niệm Xứ.
Trích nơi đây từ bản tiếng Việt của HT Thích Minh Châu trong kinh “64. Từ” trong Tương Ưng Giác Chi:
Và này các Tỷ-kheo, từ tâm giải thoát tu tập như thế nào? Thú hướng như thế nào? Tối thắng như thế nào? Quả như thế nào? Cứu cánh như thế nào?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập niệm giác chi câu hữu với từ … tu tập xả giác chi câu hữu với từ, liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Nếu vị ấy muốn: “Ta sẽ trú với tưởng ghê tởm đối với pháp không ghê tởm”, vị ấy trú ở đây với tưởng ghê tởm. Nếu vị ấy muốn: “Ta sẽ trú với tưởng không ghê tởm đối với pháp ghê tởm”, vị ấy trú ở đây với tưởng không ghê tởm. Nếu vị ấy muốn: “Ta sẽ trú với tưởng ghê tởm đối với pháp không ghê tởm và pháp ghê tởm”, vị ấy trú ở đây với tưởng ghê tởm. Nếu vị ấy muốn: “Ta sẽ trú với tưởng không ghê tởm đối với pháp ghê tởm và pháp không ghê tởm”, vị ấy trú ở đây với tưởng không ghê tởm. Nếu vị ấy muốn: “Từ bỏ cả hai không ghê tởm và ghê tởm, ta sẽ trú xả, chánh niệm tỉnh giác”, vị ấy trú ở đây với xả, chánh niệm tỉnh giác, hay đạt đến giải thoát được gọi là thanh tịnh, vị ấy an trú. Này các Tỷ-kheo, từ tâm giải thoát là thanh tịnh tối thượng, Ta tuyên bố như vậy. Ở đây là trí tuệ đối với Tỷ-kheo không đạt tới giải thoát cao hơn.” (4)
Nghĩa là niệm giác chi kết hợp với tâm từ để ly tham, ly sân, ly si.
Chủ đề bản Kinh rất dài đó là: Làm cách nào Từ Bi dẫn tới giác ngộ… Kinh vừa nêu là Mettā Sahagata Sutta. Piya Tan giải thích theo Thanh Tịnh Đạo Luận rằng Đức Phật dạy trong kinh này là về đối trị nhóm 5 tưởng trong tâm.
Thứ nhất, trường hợp gặp một pháp mình ưa thích (thí dụ: gặp một phụ nữ xinh đẹp, nghe một đoạn nhạc ưa thích…), người tu phải khởi niệm, hướng bao trùm về pháp đó là bất tịnh, hay quán pháp đó là vô thường.
Thứ hai, trường hợp gặp một pháp mình không ưa (thí dụ: gặp một người hung dữ, hay đọc phải một bài thơ quá dở…), người tu hoặc là quán bao trùm đối tượng hung hăng đó bằng tâm từ, hay xem kẻ hung dữ đó chỉ là như tập họp các đại (thí dụ: đất, nước, gió, lửa).
Thứ ba, người tu quán bao trùm khắp các đối tượng cả xinh đẹp dễ thương và hung hăng dữ dằn đó bằng niệm về bất tịnh, hay xem chúng như vô thường; do vậy xem cả 2 như là “pháp ghê tởm” (dịch như HT Thích Minh Châu).
Thứ tư, người tu quán bao trùm khắp các đối tượng cả dễ thương và hung dữ đó bằng Tâm Từ Bi, hay xem chúng như các đại; do vậy xem cả 2 như là “pháp không ghê tởm” (dịch như HT Thích Minh Châu).
Thứ năm, tránh cả hai loại đối tượng dễ thương và hung dữ đó – khi xem sắc với mắt, nghe tiếng với tai, ngửi mùi với mũi, nếm vị với lưỡi, chạm xúc với thân, nhận ra pháp với thức, người tu không vui và cũng chẳng buồn, duy chỉ giữ tâm xả trong tỉnh thức tròn đầy.
.
Bây giờ, câu hỏi là: có cách nào tiện dụng để vào sơ thiền?
Thiền sư Leigh Brasington (người nối pháp của Ayya Khema) giải thích bằng một bài viết (5), giảng dạy trong một thiền thất 9 ngày trong năm 2002 do ông hướng dẫn. Ông nói rằng trong vòng 9 ngày, với pháp này sẽ có một số người vào được sơ thiền.
Bài hướng dẫn rất dài, nơi đây chúng ta tóm tắt như sau: Yêu cầu học nhân ngồi thẳng lưng, thoải mái, thư giãn toàn thân. Hít thở nhẹ nhàng, tự nhiên. Cảm nhận hơi thở nơi chóp mũi, chỉ chú tâm vào hơi thở nơi chóp mũi. Nếu tâm chệch ra, hãy kéo trở lại hơi thở nơi chóp mũi. Hơi thở mơ hồ dần, có thể cảm nhận là gần như biến mất, hay đã biến mất. Khi đó, chú tâm vào một nơi có cảm thọ an lạc. Thí dụ, mỉm cười (như tượng Đức Phật) và chú tâm vào thọ an lạc nơi mỉm cười. Nếu thấy chú tâm vào nụ cười mìm không được, hãy nghĩ tới nơi khác, thí dụ, giữa ngực hay trên đỉnh đầu, nghĩa là một nơi trên cơ thể để cảm nhận thọ an lạc. Tự nhiên như thế, không làm gì hơn, dần dà cảm thọ an lạc toàn thân sẽ tới, an lạc toàn thân vô cùng tận. Và đó là sơ thiền, khi đối chiếu với Kinh.
Như trên là một cách.
.
Trong Kinh AN 4.41, Đức Phật dạy về bốn cách khác nhau vào định, trích bản dịch của HT Thích Minh Châu:
Có định tu tập, này các Tỷ-kheo, do tu tập, do làm cho sung mãn, đưa đến hiện tại lạc trú. Có định tu tập, này các Tỷ-kheo, do tu tập, do làm cho sung mãn, đưa đến chứng được tri kiến. Có định tu tập, này các Tỷ-kheo, do tu tập, do làm cho sung mãn, đưa đến chánh niệm tỉnh giác. Có định tu tập, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến đoạn tận các lậu hoặc.” (6)
Trong bản phân tích của Piya Tan, nói về 4 cách này như sau.
Cách thứ nhất, an trú hạnh phúc ở đây và bây giờ (hiện pháp lạc trú), là tập cho bốn tầng thiền.
Cách thứ nhì, quán tưởng về ánh sáng, còn gọi là thiên nhãn, sẽ đạt tri kiến (biết và thấy).
Cách thứ ba, là chánh niệm tỉnh giác, tưởng về vô thường (quan sát các thọ sinh trụ dị diệt).
Cách thứ tư, quan sát sinh và diệt trong 5 uẩn (sắc thọ tưởng hành thức).
.
Tới đây, chúng ta sẽ nói về pháp Định Vô Tướng. Nói vô tướng, nhưng có nghĩa là thực tướng.  Như vậy, thực tướng là gì? Thực tướng các pháp đang diễn ra trước mắt, bên tai, và trong tâm mình là gì? Đức Phật trả lời là vô thường, là vô ngã, là do nhân duyên kết hợp. Cụ thể: Làm sao để thấy vô thường và vô ngã trôi chảy trước mắt và bên tai?
Ngài Xá Lợi Phất (Sariputta) trong bài thơ “Guhatthaka-suttaniddeso: Upon the Tip of a Needle” (7) mô tả rằng tất cả các pháp chảy xiết qua các khoảnh khắc thời gian, y như điểm tiếp giáp của một hạt đậu rất nhỏ đặt lơ lửng trên đầu một mũi kim.
Nội dung bài thơ của ngài Xá Lợi Phất, nơi đây sẽ viết như văn xuôi cho dễ đọc, có thể dịch nghĩa như sau:
Đời sống, thọ mạng, niềm vui, nỗi đau đều buộc chung vào một khoảnh khắc của tâm, một khoảnh khắc nhanh chóng trôi đi. Ngay cả các vị phi nhơn sống lâu tới 84 ngàn tỷ năm cũng không sống được 2 khoảnh khắc nào trong tâm y hệt nhau. Cái ngưng lại nơi người đã chết hay cho người còn đứng nơi đây đều là cùng các uẩn, khi biến đi là vĩnh viễn không nối lại được. Các trạng thái đang biến mất bây giờ và các trạng thái sẽ biến mất trong các ngày tương lai đều có đặc tướng y hệt như các đặc tướng đã biến mất trước đây. Khi không tạo tác gì nữa, sẽ không có sinh ra; chỉ với hiện tại này, chúng ta đang sống. Khi đã nắm được nghĩa tối thượng, thế giới chết ngay khi tâm ngưng lại. Không cất giữ gì được những gì đã biến mất, không để gì được cho tương lai. Những người đã sinh ra trong đời này đang đứng y hệt như hạt đậu rất nhỏ trên đầu mũi kim. Sự biến mất của tất cả các trạng thái này đã không hề được hoan nghênh, mặc dù hiện tượng khoảnh khắc tan rã như thế đã có từ thời ban sơ. Từ nơi chưa được nhìn thấy, các trạng thái này hiện ra và biến đi, được nhìn thấy chỉ khi chúng đang trôi đi vào quá khứ. Y hệt tia chớp trên bầu trời: tất cả các pháp khởi lên và rồi biến hẳn đi.

Người viết tin rằng, bài thơ này khi được đọc và nghiền ngẫm, có sức mạnh dẫn vào định, y hệt như bài Bát Nhã Tâm Kinh, vì gần như tức khắc, trong tâm người đọc sẽ không còn trụ bất kỳ pháp nào nữa.
Thực tướng các pháp là trôi chảy như thế, là vô thường và vô ngã. Và như thế, Thực tướng chính là Vô tướng. Nhưng gọi là Thực tướng, hay gọi là Vô tướng cũng chỉ là khiên cưỡng, vì không có lời nào mô tả được. Chính trong Thực tướng này, gọi là Vô thường hay Thường cũng được, gọi là Vô ngã hay Ngã cũng được, vì gọi gì cũng là tạm gọi; nhưng gọi Vô thường và Vô ngã sẽ cận nghĩa nhất. Hình ảnh các pháp chảy xiết như điểm tiếp giáp của hạt đậu nhỏ trên đầu mũi kim là bất khả ngôn thuyết, không lời nào nói được.
Hãy thử hình dung rằng chúng ta đang thấy, đang nghe, đang biết, đang cảm thọ toàn bộ thân tâm và thế giới đang chảy xiết trong thời gian như hạt đậu nhỏ lơ lửng trên đầu mũi kim. Thử nhìn trước mắt các pháp như thế, sẽ thấy hiện lên bài Bát Nhã Tâm Kinh: không gọi được pháp nào là Có, không gọi được pháp nào là Không, và sẽ hiểu tường tận rất nhiều bản Kinh Phật, đặc biệt là hệ Bát Nhã. Sau khi đọc, quán sát, nghiền ngẫm, cảm thọ bài thơ trên của ngài Xá Lợi Phất, sẽ dễ dàng hiểu từng dòng Kinh Kim Cang.
Nhiều thế kỷ sau Đức Phật, ngài Long Thọ ra đời và mô tả rằng các pháp như thế đã hiện ra trước mắt chúng ta qua 2 sự thực: Chân đế và Tục đế.
Nghĩa là, tất cả những gì chúng ta nhìn về thế giới này đều qua bức màn không thực, dệt lên bằng ý thức. Chúng ta nói trước mắt là người, là cây, là núi, là sông… nhưng thực sự đó là khái niệm hóa gọi là người, là cây, là núi, là sông… Trong khi đó, các bậc thánh ngoài cặp mắt khái niệm hóa đời thường, còn nhìn qua cặp mắt soi chiếu 5 uần: tất cả chỉ là các uẩn (sắc thọ tưởng hành thức) đang trôi chảy xiết trên đầu mũi kim.
Trong hình ảnh chảy xiết đó, không thể có cái gì gọi là quá khứ, vị lai, hiện tại. Ba thời này chỉ là khái niệm hóa. Và hễ mở miệng về bất kỳ pháp nào, đều sẽ là các khái niệm hóa do chúng ta thêu dệt lên, và chúng ta không còn sống được trong cái hiện tiền nữa. Cũng là lý do, các Thiền sư Trung Hoa và Việt Nam ưa nói: Hễ mở miệng là trật rồi.
Trong Kinh SN 23.2 (8), Đức Phật dạy rằng phải đập cho tan vỡ, phải đập cho văng tứ tán, phải đập cho không còn gì hết ngũ uẩn sắc thọ tưởng hành thức (smashing, scattering, & demolishing form (etc.) and making it unfit for play) mới thấy được Niết Bàn. Đó là ngôn ngữ Bát Nhã Tâm Kinh vậy.
Đó cũng là ngôn ngữ Trung Quán của ngài Long Thọ. Đọc kỹ bài thơ của ngài Xá Lợi Phất đã dịch trên, chúng ta sẽ thấy ngài Long Thọ diễn lại chính xác cái nhìn chảy xiết qua đầu mũi kim đó qua bài kệ:
Bất sinh diệc bất diệt. Bất thường diệc bất đoạn. Bất nhất diệc bất dị. Bất lai diệc bất khứ.
Dịch: Không sinh cũng không diệt. Không thường cũng không đoạn. Không một cũng không khác. Không đến cũng không đi.
Đây là pháp Đốn Ngộ. Ngay khi thấy tức khắc thực tướng vô tướng, tất cả sắc thọ tưởng hành thức gần như tê liệt, và rồi cả năm uần đều sẽ từ từ mất sức mạnh. Và đó là pháp Ngộ Trước Tu Sau.
Thiền Tổ Sư nhấn mạnh về Ngộ, nhằm gỡ bỏ bức màn khái niệm hóa do tâm thức nhiều đời phủ lên thực tướng. Đó là những trường hợp trực nhận thực tướng vô tướng qua thấy nghe hay biết, nhưng khi kể lại bằng chữ viết qua nhiều đời sau, chúng ta đọc và ngỡ là bí hiểm. Như ngài Hương Nghiêm Trí Nhàn đại ngộ khi nghe tiếng viên sỏi văng vào cây trúc, chứ không phải là do suy luận gì. Hay như khi ngài Long Đàm thổi tắt nến, ngài Đức Sơn liền ngộ tức khắc, và hiểu hết ý chỉ của kinh điển. Đó là từ tai, từ mắt mà vào, và thấy ngay trong dòng chảy xiết vô thường của các uẩn, có một Niết Bàn Tự Tâm có thể cảm nhận qua tai, qua mắt – mà không phải qua mài giũa gì hết. Đó là như trong Kinh Bahiya Sutta, khi Đức Phật dạy ngài Bahiya rằng hãy để cái được thấy sẽ chỉ là cái được thấy, cái được nghe sẽ chỉ là cái được nghe… và chúng ta thấy kết quả là: ngài Bahiya đốn nhập Niết Bàn.
Đó cũng là lý do Thiền Tông nói là pháp này nằm ngoài chữ nghĩa kinh điển, chỉ là muốn nói là phải Thấy, phải Nghe tức khắc cái Niết Bàn Tự Tâm, chứ không phải từ gạn lọc chữ nghĩa.
.
Pháp định của thực tướng vô tướng được Đức Phật nói nhiều lần trong nhiều kinh.
Kinh Pháp Cú, kệ 92 viết rằng: Bậc A La Hán có một đối tượng là giải thoát ra khỏi cõi sinh tồn này, tức là, Niết Bàn vốn là Không và Vô Tướng. Nơi đến của họ, y hệt như chim bay trên bầu trời, không thể dò ra dấu vết (…They have as their object liberation from existence, that is, Nibbana which is Void and Signless. Their destination, like the course of birds in the air, cannot be traced).
Trong Trưởng Lão Tăng Kệ 1.92, có viết:
Với bậc đã có phiền não khô cạn, bậc không còn gắn bó vào thực phẩm, nơi an trú là sự giải thoát của vô tướng và của rỗng rang không tánh: Lối đi của họ khó dò nổi, y hệt chim trên bầu trời.” (9)
Chữ “thực phẩm” trong đoạn trích dẫn trên  còn có ý nhắc lời Đức Phật dạy trong Kinh AN 10.27 và Kinh SN 12.64 rằng không cần tu gì hết, chỉ cần xa lìa thức ăn sinh tử luân hồi (10) là xong.

Kinh Phật nói rằng các pháp tự thân vốn xa lìa phiền não. Chỉ vì duyên vào nhau, dục tham khởi lên, mới bị trói buộc. Nghĩa là, nếu cảm nhận các pháp đang chảy xiết trong sắc thọ tưởng hành thức, tức khắc sẽ không có gì để duyên vào nhau mà trói buộc nữa. Như thế, nếu thấy các pháp chỉ là dòng chảy xiết trên đầu mũi kim,
Thiền Tông Việt Nam có gì liên hệ tới bài thơ của ngài Xá Lợi Phất? Thưa rằng chúng ta sẽ gặp lại gần như y hệt và sẽ hiểu tận tường bài kệ của ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ (khi thấy dòng chảy xiết vô thường trên đầu mũi kim):
Bản lai vô cấu tịnh; Cấu tịnh tổng hư danh. Pháp thân vô quái ngại; Hà trược phục hà thanh.
Dịch: Trước giờ vẫn không hề dơ với sạch; Dơ với sạch toàn là chữ rỗng thôi. Pháp thân không gì ngăn ngại; Chi mà đục với chi mà trong.
Trong dòng thơ trên của ngài Tuệ Trung, chúng ta gặp chữ “pháp thân” sau khi ngài nói rằng các pháp vốn không dơ, không sạch. Chảy xiết như thế, tất nhiên không dơ, không sạch, pháp thân hiển nhiên là trung đạo – Pháp Thân là Thân Của Pháp, là Thân Của Trí Tuệ, vốn xa lìa mọi dơ sạch.
Có phải Đức Phật nói bản nhiên các pháp vốn không hề dơ sạch?
Nơi phần trên, chúng ta có nói về pháp đối trị 5 tưởng, khi mắt nhìn thấy hình dáng của người xinh xắn, hay khi tai nghe đoạn nhạc du dương… nhưng tới Kinh SN 41.1, Đức Phật dạy rằng giữa tâm với cảnh nguyên khởi không gì trói buộc nhau, vì mắt không phải là trói buộc của sắc, và sắc không phải là trói buộc của mắt, tương tự với tai… Nghĩa là, tự thân, các pháp vốn xa lìa mọi trói buộc, mọi dơ sạch. Chỉ vì chúng ta khởi tâm linh tinh, mới có phiền não.
Trích bản dịch Kinh SN 41.1 của HT Thích Minh Châu:
“…con mắt không phải là trói buộc của các sắc; các sắc không phải là trói buộc của con mắt. Và ở đây, do duyên cả hai khởi lên dục tham gì, dục tham ấy ở đây chính là trói buộc. Cái tai không phải là trói buộc của các tiếng … Mũi không phải là trói buộc của các hương … Lưỡi không phải là trói buộc của các vị … Thân không phải là trói buộc của các xúc … Ý không phải là trói buộc của các pháp. Các pháp cũng không phải là trói buộc của ý.” [Nối kết bản Việt và Anh ở (11)]
Vì vậy, còn nói rằng trước hết là cần chứng ngộ được Pháp Thân, mới tức khắc biết cách để tâm vào nơi không dơ, không sạch, không vướng vào bất cứ những gì của quá-hiện-vị lai.
.
Như vậy, một cách phổ biến, Thiền Tông truyền dạy như thế nào?
Hiện nay, Thiền Tông phổ biến ở Hoa Kỳ là Tào Động (Soto Zen).
Thiền sư Thánh Nghiêm (1930-2009) giải thích về một pháp có tên là Mặc chiếu thiền của Tào Động Tông, qua lời cao đồ là Guo Gu nói trên tạp chí Lion's Roar ngày 12 tháng 8-2016, dịch như sau:
Cách toàn hảo để thực tập mặc chiếu là ngồi mà không dựa vào mắt, tai, mũi, lưỡi, thân hay ý. Bạn ngồi mà không trụ vào bất cứ nơi nào, không nghĩ tưởng bất cứ gì, cũng không rơi vào hôn trầm. Bạn không nhập định, cũng không để cho khởi niệm tán loạn. Trong khoảnh khắc này, tâm là như thị -- tỉnh giác và lặng lẽ, tỏ tường và không ảo giác.” (12)
Trong đoạn dẫn trên có nói là “không nhập định” – chỉ đơn giản vì Thiền Tông là pháp đốn ngộ, thấy ngay tức khắc không hề xa lìa tự tánh định, nơi không hề có xuất định và nhập định. Vì hễ nghĩ ngợi, là hạt đậu sẽ rơi khỏi đầu mũi kim.
Có một phương pháp khác, có thể sẽ thích nghi với nhiều người: dựa vào Kinh Lăng Nghiêm.
Trước tiên, nên tập khi ngồi. Cách ngồi khó nhất là kiết già, rồi tới bán già; cách dễ hơn là ngồi kiểu Miến Điện (xem hình ngồi qua https://images.google.com/  với nhóm chữ “Burmese posture”). Hay chỉ đơn giản ngồi trên ghế, áp sát hai bàn chân trên mặt đất. Khi quen thuộc rồi, nên tập trong mọi thời đi đứng nằm ngoài.
Hoặc mở mắt lim dim hướng tới đầu chóp mũi, hoặc nhắm mắt nhẹ nhàng. Hít thở nhẹ nhàng. Không nghĩ ngợi chút gì. Sau nhiều hơi thở nhẹ nhàng, hãy bắt đầu lắng nghe, chỉ đơn giản lắng nghe cái khoảnh khắc đang trôi chảy. Không phải nghe âm thanh bên trong, không phải nghe âm thanh bên ngoài. Chỉ đơn giản lắng nghe, là lắng nghe. Có tiếng cũng mặc, không tiếng cũng mặc. Chỉ lắng nghe, không phải nghe bằng hai tai, mà là như dường nghe bằng toàn thân. Chỉ nghe là nghe. Lặng lẽ, tỉnh giác, lắng nghe, không để chệch một khoảnh khắc nào.
Thiền tập như thế, trong vài phút đồng hồ, sẽ chứng nghiệm tất cả kinh điển. Trong cái lắng nghe, đó là Vô thường, vì âm thanh trôi đi, không gì níu được. Hễ khởi tâm nghĩ ngợi, lập tức mất đi cái lắng nghe đang trôi chảy. Trong cái lắng nghe, đó là Vô ngã, vì không hề có bất kỳ một pháp nào thoát khỏi dòng chảy xiết của âm thanh. Trong cái lắng nghe, không hề có cái gì gọi là “tôi” và “cái của tôi” vì dòng chảy xiết của âm thanh cuốn phăng hết cả 5 uẩn sắc thọ tưởng thành thức. Trong cái lắng nghe, nhân và quả hiện ra như là đồng thời, nhân duyên sinh và nhân duyên diệt như là đồng thời, nên còn gọi là không hề có sinh, và không hề có diệt. Trong cái lắng nghe, Tứ Thánh Đế tức khắc hiện ra, bất như ý và an lạc đồng thời hiện ra, nơi đó Khổ và Diệt Khổ là một (và cũng là không), và do vậy Phiền Não tức thời là Niết Bàn, sóng là nước và nước là sóng (cũng nghiệm ra Trung Quán của ngài Long Thọ: Thị cố tri Niết Bàn, phi hữu diệc phi vô; như thế, biết rằng Niết Bàn không phải có và cũng không phải không). Trong cái lắng nghe, cũng sẽ nhận ra các diệu lý trong Kinh Duy Ma Cật và Kinh Giải Thâm Mật: thắng nghĩa bất nhị (không hai) nhưng cũng không gọi là một, và hoàn toàn xa lìa ngôn thuyết.
Khi ngồi lắng nghe như thế, có thể trong vài phút đồng hồ, sẽ thấy an lạc toàn thân, đầu  mình và tay chân như tắm trong hồ nước mát. Pháp này còn gọi là không có gì để tu, vì hễ nghĩ ngợi hay mở miệng là xa lìa cái lắng nghe rồi. Phật Tánh nơi đây sẽ hiển lộ trong cái toàn  thể, không gọi là trong hay ngoài. Trong pháp lắng nghe này, nếu chỉ lắng nghe bằng toàn thân xương cốt thịt da, đó là Tào Động Tông; nếu khởi lên chữ Ai, lập tức pháp lắng nghe trở thành phương tiện của Lâm Tế Tông. Nhưng chớ nên nghĩ là phải mài giũa gì, vì khi lắng nghe cái khoảnh khắc chảy xiết đó, bạn sẽ hiểu hết tất cả kinh điển trên toàn thân xương cốt da thịt của mình. Đó cũng là lời Đức Phật dạy ngài Bahiya, rằng trong cái được nghe sẽ chỉ là cái được nghe. Bất kỳ ai cũng có thể tập được pháp nghe của Kinh Lăng Nghiêm, và sẽ thấy trong vài phút đồng hồ, hiểu ngay tất cả mọi kinh điển, khi cảm nhận các pháp ấn cụ thể, rõ ràng, minh bạch… không gì mơ hồ. Và sẽ hạnh phúc vô cùng tận.

GHI CHÚ:
(2) Liberation - Relevance of Sutta-Vinaya: http://www.budsas.org/ebud/ebdha163.htm
(3) Kinh AN 5.28, bản dịch của HT Minh Châu: https://suttacentral.net/vn/an5.28
(4) Kinh Tương Ưng https://suttacentral.net/vn/sn46.64
(5) Instruction for Entering Jhana: http://www.leighb.com/jhana3.htm
(8) Kinh SN 23.2: http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sn/sn23/sn23.002.than.html
(9) TLTK 1.92: The one whose defilements are dried up, Who’s not attached to food, Whose resort is the liberation, That is signless and empty: Their track is hard to trace, Like that of birds in the sky. Xem: https://suttacentral.net/en/thag1.92
(10) Pháp Môn Định Vô Tướng: https://thuvienhoasen.org/a28189/phap-mon-dinh-vo-tuong
(11) Kinh SN 41.1, bản Việt dịch: https://suttacentral.net/vn/sn41.1
Bản Anh dịch của Ni trưởng Uppalavanna: …the eye is not the bond of forms and forms are not the bond of the eye, yet the interest and greed that arise on account of these two is the bond there. The ear is not the bond of sounds and sounds are not the bond of the ear, yet the interest and greed that arise on account of these two is the bond there... http://awake.kiev.ua/dhamma/tipitaka/2Sutta-Pitaka/3Samyutta-Nikaya/Samyutta4/40-Citta-Samyutta/01-Cittavaggo-e.html


Thiền Tập Giữa Trận Đồ Tâm Thức

Chúng ta gọi “trận đồ tâm thức” để chỉ cho những gì gian nan, khó hiểu, tự nhiên chệch ra ngoài sách vở… Bởi vì, có một số người tập Thiền một thời gian, thế rồi đâm ra hoang mang, lo lắng, khi nhìn thấy cái rỗng rang của tâm thức như nhảy vào vực sâu. Trong khi đó một số người tập thiền rồi tự xưng là Phật, là A La Hán đương đại duy nhất, là đại giáo chủ, là siêu sư phụ, và là vân vân. Có phải vì họ đã nhìn thấy hào quang? Có phải họ đã nghe tiếng lạ? Có phải vì họ thấy toàn thân lay động như có cõi vô hình nhập vào? Có phải vì nhiều lý do tương tự? Thực ra thấy nghe gì cũng từ tâm hóa hiện ra, tưởng thực sẽ là những dạng bệnh thôi. Nơi đây, chúng ta chỉ nhìn về sự kiện và sẽ chỉ nói về những gì có thể giải thích theo khoa học và kinh sách. Cũng xin thưa, bài này chỉ là một khảo sát không thẩm quyền, vì bản thân người viết tu học chưa tới đâu, nên không có cặp mắt nhìn thấu suốt ba cõi.
Chúng ta đang nhìn thấy dân Hoa Kỳ rủ nhau Thiền tập, từ bệnh viện tới nhà tù cai nghiện, từ quân đội tới cảnh sát, từ trường học tới Quốc hội… Ai cũng nhìn thấy công năng thần diệu của Thiền tập. Đúng là có công năng thực sự. Thậm chí, có thể chữa rất nhiều bệnh, có thể giúp bỏ hẳn thuốc giảm đau trong nhiều trường hợp. Thiền tỉnh thức có công năng như thế, với đại đa số người tập.
Kỳ lạ là, không nghe nói chuyện giữ giới trong các khóa Thiền tập thế gian. Có lẽ, vì khi nói tới giới luật, sẽ làm cho đậm phong cách nhà Phật, trong khi Hiến pháp Hoa Kỳ buộc phải tách biệt hình ảnh tôn giáo ra khỏi tất cả cơ quan công quyền?
Trong khi đó, đối với một số trường hợp, Thiền tập sẽ có hiệu ứng tiêu cực, có thể dẫn tới ảo giác, có thể tăng thêm thèm muốn sắc dục, có thể làm nghe nhiều tiếng thì thầm xúi giục  bên tai, và vân vân.
Báo Washington Post ngày 5 tháng 6/2015 có bài viết nhan đề “Meditation and mindfulness aren’t as good for you as you think” (Thiền định và Thiền tỉnh thức không tốt cho bạn như bạn nghĩ) của hai phóng viên Miguel Farias và Catherine Wikholm.
Trong bài nói về Thiền tỉnh thức lấy từ nhà Phật ra, để người tập chỉ nhìn vào niệm trong tâm, vào cảm thọ và cảm xúc mà không phán đoán, để làm công cụ đối trị lo lắng, trầm cảm. Tuy nhiên, một số cuộc nghiên cứu cho thấy một số người ngồi một mình tự nhìn vào tâm thức và không chịu nổi  các rối bời cảm xúc. Nghĩa là, viên thuốc Thiền tập có “hiệu ứng phụ” với một số người.
Bài viết cho biết nhiều Phật tử chỉ trích việc sử dụng Thiền tỉnh thức cho các mục tiêu thuần thế tục, vì sẽ làm tăng thêm quyến luyến cõi trần gian và tăng thêm chấp ngã. Nghĩa là, như thế xa lìa mục tiêu Thiền tập nhà Phật là nhận ra “tánh không” và xa lìa mọi chấp thủ. Bài báo ghi lời nhà văn Giles Coren nói rằng kỹ thuật như thế đã biến Thiền tập trở thành món bánh ăn liền McMindfulness, chỉ củng cố tự ngã sâu dày hơn.
Chính phủ Mỹ cũng biết, và cũng có ghi lời cảnh  giác, nhưng không mấy ai để ý.
Trên trang web của viện nghiên cứu NCCIH thuộc Bộ Y Tế Hoa Kỳ (https://nccih.nih.gov/health/meditation/overview.htm#sideeffects) có phần tựa đề “What the Science Says About Safety and Side Effects of Meditation” (Khoa học nói gì về An toàn và Hiệu ứng phụ của Thiền tập), dịch như sau:
Thiền tập một cách tổng quát được xem là an toàn cho người khỏe mạnh.
Những người có hạn chế nơi cơ thể có thể không có thể tham dự thiền tập liên hệ tới chuyển động. Những người có bệnh trong cơ thể nên nói với chuyên gia chăm sóc y tế của họ trước khi khởi đầu tập Thiền, và phải thông báo cho người dạy Thiền biết về hoàn cảnh bệnh của mình.
Có một số trường hợp hiếm hoi ghi nhận rằng Thiền tập có thể gây ra hay làm tệ hơn các hội chứng trong những người có vấn đề tâm lý như lo lắng và trầm cảm. Những người đang có bệnh chứng tâm thần nên nói với chuyên gia chăm sóc y tế của họ trước khi khởi đầu tập Thiền, và phải thông báo cho người dạy Thiền biết về hoàn cảnh bệnh của mình.” (hết trích dịch)
Bộ Y Tế Mỹ nói như thế, không ai để ý, vì nghĩ cũng y hệt như lời cảnh báo rằng hễ  ai nghiện xài điện thoại cũng dễ bệnh tâm thần. Và điện thoại cũng y hệt như Thiền tập, vì mở ra được những cánh cửa thế giới nhiều sắc màu, hễ bấm chệch một nút là sẽ rơi vào các mê lộ thiên nữ múa hát nhạc trời…  và ai không bước ra nổi là sẽ bệnh.
Tạp chí The Atlantic trong ấn bản ngày 25/6/2014 có bài viết tựa đề "The Dark Knight of the Soul" (Hiệp Sĩ Bóng Tối của Linh Hồn) kể về cuộc nghiên cứu của Tiến sĩ Willoughby Britton tại Providence, Rhode Island. Nhóm nghiên cứu của bà chuyên nghiên cứu về các trường hợp gặp “hiệu ứng phụ” của Thiền tập. Họ nghiên cứu kinh sách từ các tông phái nhà Phật – Theravada, Phật Giáo Tây Tạng, Thiền Tông… -- và cả kinh sách của các trường phái chiêm nghiệm thần bí của Ky Tô Giáo, Hồi Giáo Sufism, Do Thái Giáo… và đối chiếu với các trường hợp cụ thể.
Như trường hợp David, 27 tuổi, năm 2013 tới trình bày với GS Britton rằng anh nghe tiếng nói trong đầu “Ta sẽ xâm chiếm ngươi” đầy kinh hoàng, và anh “nhìn thấy thần chết với lưỡi hái và mũ nhọn trùm đầu và ý nghĩ cứ hiện trong đầu anh ‘Ngươi hãy tự sát đi’ liên tục…”
Hay như trường hợp Michael, 25 tuổi, là một thầy dạy yoga, tới trình bày với GS Britton rằng thiền tập một thời gian, cơ thể anh không muốn ăn nữa, trong ba năm anh mang cảm giác “bị hủy  hoại hoàn toàn” bởi Thiền tập.
Britton là giáo sư tâm lý học ở đại học y khoa Brown University Medical School, thường xuyên nhận được điện thoại, email từ khắp nơi về hiệu ứng phụ Thiền tập cho cuộc nghiên cứu của bà có tên là "The Dark Night Project."
Các nhân vật trong hồ sơ của bà đều được giữ bí mật, ghi tên khác. Để tìm người phỏng vấn, nhóm của bà liên hệ với các Thiền sư Hoa Kỳ nổi tiếng, như Jack Kornfield tại Thiền viện Spirit Rock ở California, và Joseph Goldstein tại Thiền viện Insight Meditation Center ở Massachusetts.
Tạp chí The Atlantic ghi rằng hai vị thầy Goldstein và Kornfield kể với GS Britton về một số khóa thiền thất trong quá khứ, khi có thiền sinh tâm thần bỗng nhiên bất toàn. Britton kể rằng Jack Kornfield nói là có một thiền sinh hình như không bao giờ bình thường trở lại.
Thực ra, không có gì khó hiểu. Đơn giản, Kinh Lăng Nghiêm đã nói rằng, tu Thiền mà không giữ giới luật cũng y hệt như nấu cát thành cơm. Tất cả các phương pháp Thiền tỉnh thức tại Hoa Kỳ dạy trong quân đội, cảnh sát, bệnh viện, trường học, nhà tù… đều không nói gì về giới luật. Vì Hiến pháp Mỹ không cho nói về tôn giáo nơi công quyền. Chỉ trừ khi người dạy Thiền là các vị sư ni, bấy giờ mới nói về giới luật qua Thiền Tâm Từ.
Một điều nữa: rất nhiều người khi  tập Thiền đều ước muốn thành đạt gì đó cho “cái tôi” để rồi sẽ có quyền lực siêu hình nào đó cho “cái của tôi”… Nghĩa là, chệch ra ngoài Phật pháp. Trong khi một kinh căn bản về Thiền tập là Kinh Kim Cang yêu cầu không “trụ tâm vào bất kỳ đâu”… và như thế, sẽ không có tâm nào trở nên khủng hoảng, rối bời nữa.
Tóm gọn, cốt tủy nhà Phật là Giới Định Huệ…  Nghĩa là, phải giữ giới trước. Không giữ giới mà đòi tu là chuyện hoang đường.
Nên nhớ rằng Đức Phật dạy rất nhiều phương pháp rất độc đáo để giải thoát. Nhưng tất cả đều cần bước đầu là giữ giới.
Đức Phật đã từng học xong tứ thiền bát định với các bậc thầy ngoại đạo là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta, nhưng rồi thấy là như thế không giải thoát được, nên mới bỏ đi để tìm đường riêng.
Tuy nhiên, nếu chúng ta muốn đơn giản hóa, thử xin Đức Phật dạy pháp nào ngắn hơn, có thể tiết kiệm được 90% thời lượng… Hình như sẽ có kinh như thế: Trong rất nhiều cách đơn giản (nhưng cũng cần nỗ lực) để giải thoát, có một cách là hãy giữ gìn giới đức thanh tịnh, và thế thôi, không cần tu gì khác. Sáng  trưa chiều tối, giữ tâm thanh tịnh được là sẽ xong.
Đức Phật có dạy trong hai Kinh rằng hễ ai giới đức thanh tịnh sẽ tất nhiên giải thoát. Hai kinh này dựa vào phương pháp gỡ mắt xích của “hành” trong Thập Nhị Nhân Duyên. Đó là Kinh AN 10.2 và Kinh AN 11.2.  Điều ghi nhận rằng hai Kinh này nằm trong nhóm Kinh Tiểu Bộ, gần với Kinh AN 11.10 -- tức là Kinh Sandha Sutta, trong đó Đức Phật dạy rằng học trò giỏi (cũng như tuấn mã) là phải thấy không có pháp nào để tu hết.
Kinh AN 10.2 trong bản dịch của Bhikkhu Bodhi đặt nhan đề là Volition (Hành), viết: “Bhikkhus, for a virtuous person, one whose behavior is virtuous, no volition need be exerted…”  (https://suttacentral.net/en/an10.2)
Dịch là: Các sư, đối với một người giới đức thanh tịnh, có các thái độ thanh tịnh, sẽ không cần khởi ý định làm gì nữa…
Câu trên trong Kinh AN 10.2 dịch bởi Piya Tan là: “Bhikshus, for the morally virtuous, there is no need of the intention [an act of will]…” (http://dharmafarer.org/wordpress/wp-content/uploads/2013/04/41.6-Dasaka-Cetanakaraniya-S-a10.2-piya.pdf)
Dịch là: Các sư, đối với những người giới đức thanh tịnh, không cần phải khởi tâm làm gì nữa [không cần nỗ lực ý chí gì nữa]…
Tương tự, bản dịch của Thanissaro Bhikkhu: “For a person endowed with virtue, consummate in virtue, there is no need for an act of will…” (http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/an/an11/an11.002.than.html)  
Tại sao? Kinh này ghi lời Đức Phật giải thích rằng, người có giới đức thanh tịnh, sẽ tự động không hối tiếc, sẽ tự động có hỷ lạc, sẽ tự động có khinh an, sẽ tự động đắc định, sẽ tự động thấy và biết như thật, sẽ tự động ly tham, sẽ tự động có giải thoát tri kiến. Và đó là đắc quả A La Hán.
Một Kinh tương tự là Kinh AN 11.2, cũng ghi rằng chỉ cần giới đức thanh tịnh, và không cần khởi tâm làm gì cả. Nghĩa là, khi giới thanh tịnh được, sẽ không cần một pháp nào khác để làm.
Kinh AN 10.2 nêu trên được Piya Tan đặt nhan đề là: Discourse on “Needless of Intention” (Kinh về “Không Cần Khởi Ý Định Gì”).
Kinh  AN 11.2 (http://dharmafarer.org/wordpress/wp-content/uploads/2010/02/33.3b-Ekadasaka-Cetanakaraniya-a11.2-piya.pdf) được Piya Tan đặt nhan đề kinh là: Discourse on “Without Need of Intention” (Kinh về “Không Cần Khởi Ý Làm Gì”).
Hai Kinh này cho thấy cốt tủy là giới đức thanh tịnh. Sau đó, nếu Thiền tập được tất nhiên sẽ sớm giải thoát; nếu chỉ thuần giới đức thanh tịnh rồi  cũng sẽ giải thoát. Như thế, sẽ không bao giờ rơi vào các  mê lộ rối bời.
Tuy nhiên, tới đây lại cần phải hỏi: thế nào là giới đức thanh tịnh?  Piya Tan dựa vào Luận Tạng Pali chú giải Kinh AN 11.2 rằng (1) ít nhất là phải giữ năm giới, (2) bản chất thực của các pháp (dhammata) là thiện pháp tự động dẫn theo thiện pháp.
Tuy nhiên, nếu khởi tâm rằng mình đang gìn giữ giới đức thanh tịnh là cũng sẽ hỏng.
Bởi vì, khi giữ thân khẩu ý thanh tịnh (tức là giữ sáu căn thanh tịnh) cũng là một nỗ lực rất lớn để xa lìa mọi phân biệt kiến chấp (ưa/ghét, đúng/sai, thuận/nghịch) trong cõi này, vì Kinh SnP 4.13 viết về giới đức thanh tịnh là:
Người đã buông bỏ mọi giới đức và xa lìa mọi cam kết, và có hành động [đã buông bỏ mọi] lỗi và không lỗi, không còn ưa muốn gì về thanh tịnh hay bất tịnh, sẽ sống xa lìa tất cả các pháp, sẽ sống với bình an.
Bản dịch Khantipalo: But one who abandons all virtue and vows, and deeds both blameless and blameworthy, Does not long for either purity or impurity; he lives detached, fostering peace.(https://suttacentral.net/en/snp4.13)
Bản dịch Bhante Varado (có thêm ý “không khởi nghiệp mới”): But one who is detached from precepts and practices, And all conduct, both flawed and not flawed, Not yearning for either purity or impurity, Would abide abstaining from initiating new kamma, Peaceful, free of grasping. (http://suttas.net/english/suttas/khuddaka-nikaya/sutta-nipata/atthakavagga%20-%20php%20version%201.4/13-greater.php)
Bản dịch Thanissaro Bhikkhu (có thêm chữ “từ bi”): But one who's abandoned precepts & practices — all — things that are blamable, blameless, not hoping for 'pure or impure,' would live in compassion & peace, without taking up peace, detached.(http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/snp/snp.4.13.than.html)

Đó cũng là con đường ngắn nhất: Các kinh trong Kinh Tiểu Bộ đã chỉ ra pháp tu của Thiền Đạt Ma vậy. Và pháp tu này sẽ không bao giờ bị vướng bởi các mê lộ đã nêu trong phần đầu của bài viết này, vì tâm đã xa lìa tất cả mọi kiến chấp.

Xin xem một số bài mới nhất từ năm 2016 của Cư sỹ Nguyên Giác Phan Tấn Hải trên Thư Viện Hoa Sen.

28/06/20174:05 SA
25/06/20174:01 SA
11/06/20174:29 SA
04/06/20173:59 SA
07/05/20173:38 SA
09/04/20174:16 SA
01/04/20174:35 CH
12/03/20174:11 SA
05/03/20174:13 SA

28/02/20174:07 SA




12/01/20173:59 SA




25/12/20164:00 SA

01/12/20164:06 SA


19/11/20166:50 CH


12/11/201610:00 SA


25/09/20164:26 CH



13/08/20166:20 CH

07/08/20164:10 SA




No comments:

Post a Comment