Wednesday, September 30, 2020

Thích Phước An: Lời Giới Thiệu Thi Phẩm Khói Chiều Quê Ngoại

Tranh: Đinh Trường Chinh dành cho Bìa sách

Lời Giới Thiệu Thi Phẩm

Khói Chiều Quê Ngoại 

Trong tác phẩm  Thong dong khắp mọi nẻo đường xuất bản tại Mỹ (2018), tác giả Bạch Xuân Phẻ (Tâm Thường Định) có một đoạn ngắn viết về quê mẹ như thế này: “Mẹ sinh ra và lớn lên ở thôn Vĩnh Hội, xã Cát Hải, huyện Phù Cát, Tỉnh Bình Định. Nơi đó đẹp và thơ mộng. Nơi hương đồng cỏ nội, nắng cát với trăng thanh, bạt ngàn cánh đồng xanh, ở vùng quê ven biển miền trung”.

Đúng là như vậy, xã Cát Hải chẳng những đẹp mà còn hùng vĩ nữa nhất là khi vượt lên dốc cao nhìn vào rặng núi Bà phía tây thì thấy vách đá núi Bà đứng sừng sững, còn nhìn về phía đông là biển cả mênh mông.

Mỗi lần có dịp về thăm quê, tôi vẫn thích đi lên con dốc Cát Hải này, nhất là vào buổi chiều để nhìn nắng vàng còn đọng lại trên các tảng đá hay trên cánh đồng xanh dưới chân núi. Trong khói chiều quê ngoại, Bạch Xuân Phẻ có hai câu:

Em ơi sỏi đá bên đường

Có còn yêu mãi ánh dương chiều tà.

Đọc hai câu thơ trên, tôi cứ tưởng tượng rằng, chắc hồi nhỏ mỗi lần về thăm quê ngoại, anh cũng nhiều lần đứng nhìn những vạt nắng mênh mông ấy. Rồi lớn lên dù phiêu dạt nơi chân trời góc bể nào những vạt nắng thuở còn tuổi thơ nơi quê ngoại ấy vẫn còn đọng lại nơi sâu thẳm của lòng anh?

Trên đỉnh núi bà có ngôi chùa, dù chùa có tên là chùa Linh Phong, nhưng người dân sống bao đời nay dưới chân núi vẫn thường gọi là chùa Ông Núi. Đây cũng là ngôi chùa mà mẹ của Bạch Xuân Phẻ và cả bên ngoại của anh đã được Hòa thượng chùa Ông Núi trao truyền tam quy ngũ giới.  Nhưng vì sao gọi là chùa Ông Núi?

Quách Tấn nhà thơ nổi tiếng của Bình Định có viết trong tác phẩm Nước non Bình Định của ông như thế này:

“Người địa phương gọi là Ông Núi vì thấy nhà sư ở tu trên núi suốt năm, truyền rằng, Ông Núi dùng vỏ cây làm y phục, và ít khi xuống đồng bằng. Thỉnh thoảng cần lương thực thì gánh một gánh củi xuống chân núi để nơi ngã ba đường rồi trở lên, người dân trong vùng đem muối gạo đến để đó rồi gánh củi đem về chụm. Hôm sau nhà sư ở trên núi xuống nhận gạo muối, nhiều ít không biết, mất còn không bận tâm. Nhưng khi trong vùng có bệnh dịch, thì nhà sư lập tức đem thuốc xuống cứu chữa, chữa xong là đi lên núi ngay, một cái vái chào cũng không nhận”. 

Quách Tấn đến thăm chùa vào những năm đầu thập niên thế kỷ 20, nghĩa là khoảng 300 năm sau Ông Núi viên tịch. Thế nhưng, trong Nước non Bình Định ông viết lại rằng, lúc đến cũng như lúc về nhà thơ vẫn còn nghe các em mục đồng, các chàng ngư phủ, những người nông dân sống dưới chân núi Bà vẫn còn ngâm nga:

Ông Núi đi đâu

Bỏ bầu sơn thủy

Đủ nhân đủ trí

Thêm vĩ thêm kỳ

Chùa xưa nhạt bóng tà huy

Xui lòng non nước 

Nặng vì nước non.

Sở dĩ tôi có hơi dài dòng về chuyện Ông Núi như vậy, vì tôi nhớ trong tự truyện của mình, thánh Gandhi có viết một câu đại khái như thế này: “Cái gì mà tuổi thơ chúng ta đã sống thì cái đó sẽ điều động ta suốt cả cuộc đời”.

Mẹ và cả phía ngoại của Bạch Xuân Phẻ đều là đệ tử của chùa Ông Núi, nên tôi nghĩ rằng, trong những lần về thăm ngoại, chắc chắn ông ngoại, bà ngoại của anh đều có kể cho anh nghe chuyện Ông Núi tu Thiền trong hang đá nhưng vẫn lắng nghe được tiếng kêu la thống khổ từ dưới chân núi vọng lên.

Trong tác phẩm Thong dong khắp mọi nẻo đường của Bạch Xuân Phẻ, ta nhận ra anh là một thanh niên trí thức, một phật tử thuần thành, đầy nhiệt huyết đã đề cập đến nhiều vấn đề, từ thiền định, chánh niệm, thi ca đến sinh hoạt Gia đình Phật tử, cả đến vấn đề hiếu thảo với cha mẹ, nghĩa là lĩnh vực nào anh cũng tỏ ra là người đã từng thực hành và trải nghiệm chứ không phải anh viết lý thuyết suông. Đúng như bốn câu thơ mà nhà nghiên cứu Nguyên Giác Phan Tấn Hải đã viết trong lời giới thiệu:

Miệt mài từng năm tháng

Tu trí tuệ, từ bi

Khắp trời tấm gương sáng

Vin chánh niệm mà đi.

Từ khi đọc và sau đó là được quen biết anh, tôi thường suy diễn một cách thi vị rằng, có lẽ hình bóng vị thiền sư chùa Ông Núi dù tu hành trên núi cao nhưng vẫn lắng nghe được tiếng kêu cứu đau khổ của con người dưới chân núi, mà mỗi lần về thăm quê ngoại anh vẫn thường nghe bà ngoại kể lại đã nuôi dưỡng tâm hồn tuổi thơ của anh, để ngày nay anh đã trở thành một phật tử hoạt động tích cực nhằm xoa dịu bớt sự đau khổ cho con người chăng?

Quê ngoại của Bạch Xuân Phẻ cũng là quê nội của bậc anh hùng đánh Pháp ở cuối thế kỷ 19. Wikipedia tiếng việt chép: 

“Nguyên quán gốc Nguyễn Trung Trực ở xóm Lưới, thôn Vĩnh Hội, xã Cát Hải, tỉnh Bình Định. Ông nội là Nguyễn Văn Đạo, cha là Nguyễn Văn Phụng (tục danh là Thắng hoặc Trường), mẹ là bà Lê Kim Hồng”

Một nhà thơ trẻ ở xã Cát Hải là Khổng Vĩnh Nguyên đã lặn lội vào các tỉnh miền nam để nghiên cứu những nơi mà Nguyễn Trung Trực đã dựng cờ đánh Pháp, đặc biệt là dòng sông mà Nguyễn Trung Trực đã đốt cháy tàu Espérance (Hy vọng). Khi về lại quê, anh đã cho xuất bản tập thơ Lửa gầm Nhật Tảo với những câu thơ đầy hào khí:

Lửa gần ngàn lưỡi cọp, liếm ngang tàu giặc

Nhật Tảo gầm vang sóng mặt trời

Tàu “Hy vọng” xâm lăng lò quay bầy bạch quỷ

Trận cuồng phong truy kích lũ mã tà

Lửa thiêng! Lửa thiêng! Đem tình yêu về lại quê nhà.


Nếu người cháu nội của làng Vĩnh Hội ở Bình Định là Nguyễn Trung Trực vào cuối thế kỷ thứ 19 qua lời thơ của Khổng Vĩnh Nguyên, chỉ có một khát vọng duy nhất là độc lập và tự do cho Tổ quốc, thì ở cuối thế kỷ 20 và những năm đầu thế kỷ 21 không chỉ khát vọng riêng cho Tổ quốc mình thôi, mà còn khát vọng những giá trị có tính phổ quát cho toàn thể nhân loại nữa, Irwin Keller có một bài thơ mà Bạch Xuân Phẻ, người cháu ngoại của làng Vĩnh Hội đã dịch sang tiếng việt có đầu đề là người Do Thái bất trung.

Trước hết, tác giả cho biết vì sao mình bất trung, và bất trung về những vấn đề nào?

Tôi không trung thành với một Đảng chính trị

Tôi cũng không trung thành với những kẻ độc tài

hay những vị vua điên cuồng kỳ thị

Tôi không trung thành với những bức tường

hoặc những cái chuồng siết chặt

Còn trung thành?

Tôi trung thành với giấc mơ công lý cho bao thế hệ,

tôi trung thành với Trái Đất chịu nhiều khổ đau.

Tôi trung thành với tự do và cởi mở

Sự thánh thiện, tình yêu và hy vọng.

Sở dĩ, tôi trích bài thơ dịch này vì nghĩ rằng đó cũng là khát vọng của tác giả Khói chiều quê ngoại, nên anh mới ngồi cặm cụi mà dịch như vậy. 

Mặc dù đây là tập thơ Bạch Xuân Phẻ viết về quê ngoại, nhưng trong tập thơ này còn có bài thơ anh viết về quê cha. Nếu đọc hai bài thơ ta sẽ nhận ra rằng, bài thơ anh viết về quê ngoại hết sức dịu dàng, lại còn lãng mạn nữa, ví dụ bốn câu sau đây:

Ngày về thăm ngỡ em còn trong mộng

Ngàn lung linh ánh mắt đợi chờ nhau

Gặp người xưa đến đi như cơn mộng

Thì tiếc gì lận đận một vần thơ.

Trong khi đó bài Nhơn Lý, tức là bài viết về quê cha thì anh đã trở về đúng vị trí của anh, một thầy giáo đứng trên bảng đen nhìn xuống học trò đầy nghiêm khắc:

Nên chúng ta phải luôn ý thức

Nhơn Lý này là nhịp sống chung

Quê hương ta thì phải chung lòng

Xây dựng, yêu thương cho đến khi nhắm mắt.

Cuối cùng xin được trích hai câu thơ nữa trong thi phẩm Khói chiều quê ngoại của Bạch Xuân Phẻ:

Núi Bà xưa kiên trung ngàn năm đợi

Chào bình minh chim hót lộng trời mây.

Vậy là Bạch Xuân Phẻ dù đang lưu lạc chân trời góc bể nào đi nữa, thì anh vẫn tự hứa với lòng mình là sẽ kiên trung như rặng núi Bà hùng vĩ, vẫn đứng sừng sững tự ngàn năm ở quê nhà.

Riêng tôi cũng đã sinh ra và lớn lên dưới chân núi Bà này, nên dĩ nhiên tôi rất lấy làm vinh hạnh khi được tác giả nhờ viết lời giới thiệu.

Những ngày tôi đọc bản thảo Khói chiều quê ngoại là những ngày tôi được dịp sống lại những nơi như chùa Ông Núi, Phù Cát, Vĩnh Hội, Cát Hải, Nhơn Lý…Những địa danh mà một thời tuổi thơ tôi đã từng đi qua.

Xin cảm ơn tác giả. Và xin được giới thiệu thi phẩm này đến tất cả bạn đọc, đặc biệt là những người yêu thi ca.

       Nha Trang mùa hạ 2020

Thích Phước An 


Thư gởi Chư Thiện tri thức trong và ngoài nước nhân Tết Nhi đồng Việt Nam ~ Suy tư hướng về các thế hệ tương lai


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
VIỆN TĂNG THỐNG

SỐ: 05/VTT/VP
Phật lịch: 2564

Thư gởi Chư Thiện tri thức trong và ngoài nước
nhân Tết Nhi đồng Việt Nam ~ Suy tư hướng về các thế hệ tương lai

 

Không ít những người trong chúng ta đã sinh ra và lớn lên sau những ngày thế giới đang hồi sinh trước một hiểm họa diệt vong toàn thế giới, nhưng lại đang dấy lên nỗi lo sợ của những nhà khoa học vĩ đại nhất của thế kỷ, sau khi chứng kiến kết quả sức hủy diệt của hai quả bom nguyên tử, sản phẩm trí tuệ, đã phải cùng nhau lên tiếng “Chúng ta, những nhà khoa học, đã phạm tội với nhân loại”. Nhiều thế hệ sau vẫn biết ơn họ, những gì mà họ đã đóng góp xoa dịu khổ đau thể chất của loài người; những người mà suốt đời vùi đầu trên những trang giấy, nguệch ngoạc với những con số, những hình thể vuông tròn, cong thẳng, không hề bận tâm đến mọi tranh chấp danh lợi của thế gian; tính toán trên những hạt vật chất cực kỳ bé nhỏ, những khám phá kỳ diệu mang đến cho loài người nguồn cảm hứng cùng với nguồn hy vọng về một thế giới an toàn được bảo vệ bằng các phân tử vật chất, đồng thời cũng ghi đậm ám ảnh bởi các vật thể cực kỳ bé nhỏ ấy, một ngày nào đó có thể làm nổ tung trái đất bởi tham vọng điên cuồng của con người.

Số lớn trong chúng ta được nuôi dưỡng, lớn lên trong một đất nước nhỏ bé, trải qua hơn nghìn năm nô lệ cho các thiên triều phương Bắc, hơn trăm năm phải cúi đầu chấp nhận một nước Pháp xa xôi làm đất mẹ để được là thành viên của một nền văn minh xa lạ. Cho đến ngày độc lập dân tộc được tuyên bố, niềm tin chủ quyền dân tộc, quyền tự quyết trước các thế lực siêu cường thế giới được khơi dậy. Thế rồi, một cuộc đấu tranh quyền lực mới, có vẻ ôn hòa nhưng khốc liệt, phân chia bản đồ thế giới bắt đầu với cuộc chiến tranh lạnh, chẳng mấy chốc đẩy đất nước Việt Nam leo thang vào một cuộc chiến tranh mới, huynh đệ tương tàn, như là nơi đọ sức của các siêu cường “ai thắng ai”.

Trước những hiểm họa liên tục đe dọa hòa bình vốn dĩ mong manh cho thế giới, và trực tiếp đe dọa sinh mệnh của dân tộc Việt Nam trong bối cảnh chia đôi không chỉ về mặt địa lý mà cả về mặt ý thức hệ, thế hệ sinh trưởng sau thời đại thế chiến tuy vẫn được nghe những mẫu chuyện xảy ra trên các chiến trường thế chiến từ cha anh, chứng kiến những cảnh thân thích phân ly Nam Bắc đau lòng, nhưng vẫn ngây thơ trong sự bảo bọc của gia đình, xã hội; những ngày tiết Trung thu vẫn vô tư thắp đèn dạo chơi khắp phố phường. Những thế hệ tiếp theo, tuổi thơ vẫn vô tư trong tiết Trung thu thắp đèn dạo chơi khắp phố phường; cùng lúc, tuổi thơ trong các vùng chiến sự đêm đêm nhìn ánh hỏa châu thay cho những chiếc lồng đèn và ánh trăng rằm, cũng vô tư trong sự bảo bọc của cha mẹ, những người thân thích.

Cho đến tuổi trưởng thành, một số trong chúng ta phải vội vã bước vào đời để tìm kế mưu sinh không chỉ dưới mưa nắng thất thường, mà còn qua những trận mưa bom đạn bất trắc, với vốn kiến thức non yếu và kinh nghiệm đơn sơ làm hành trang; số khác, may mắn hơn, tìm vào các cổng Đại học để chuẩn bị vào đời trước viễn tượng mơ hồ về một tương lai trong chiến tranh hay hòa bình. Những thế hệ trẻ thơ tiếp theo, vẫn lớn lên trong nụ cười và ánh mắt hồn nhiên, rồi ngã xuống hay tiếp tục đi tới tương lai bất định.

Cho đến ngày hòa bình và thống nhất được công bố, tuổi thơ vẫn hồn nhiên vác cờ chiến thắng đi khắp phố phường cho đến các ngõ ngách thôn xóm, đả đảo văn hóa đồi trụy, chối bỏ, thiêu hủy, những gì cha anh đã gầy dựng bằng máu và nước mắt cho con em mình với hy vọng một tương lai tươi sáng trong một đất nước hòa bình dân tộc. Sự nghiệp văn hóa, giáo dục của Phật giáo Việt Nam từ cấp Tiểu học cho đến Đại học trong 20 năm chiến tranh, đã đóng góp không ít cho sự tiến bộ của miền Nam trong tiến bộ chung của các dân tộc Đông Nam Á, cùng lúc bị xóa sạch. Các thế hệ sinh trưởng trong hòa bình phần lớn có thể nghe đến xã hội miền Nam với thủ đô Saigon hoa lệ, hòn ngọc Viễn đông, như nghe chuyện kể về một đất nước xa lạ.

Công đức của các Cư sỹ Phật tử đã đóng góp vào sự nghiệp văn hóa, giáo dục ấy không nhỏ, trong thời chiến cũng như thời bình.

Vị trí của hàng cư sỹ, được Đức Phật gọi là cận sự nam (upasoka) và cận sự nữ (upasikã), trong những ngày đầu hoằng pháp dường như chỉ giới hạn trong những công đức “tứ sự cúng dường” cho hàng xuất gia có đủ nhu yếu cho đời sống hằng ngày để tu tập. Tuy vậy, trong các Kinh điển nguyên thủy hay gần nguyên thủy, tương đối không ít những đoạn Đức Phật giáo giới người tại gia như bốn nhiếp sự,  bốn vô lượng tâm sau này được phát triển trở thành căn bản tu đạo và hành đạo trong Bồ-tát đạo của Đại thừa. Cho đến khi ba nhân vật tại gia, nửa hư cấu nửa lịch sử xuất hiện trong văn học chính thống của Đại thừa – Vimalakĩrti (Duy-ma-cật), Srĩ-Mãlã-devĩ (Thắng Man Phu nhân) và Sudhana-kumãra (Thiện Tài đồng tử), đã xác nhận vị trí của hàng tại gia với ba thế hệ của một đại gia đình trong một xã hội Ấn-độ phát triển đa dạng với các hình thái tôn giáọ, các hệ tư tưởng triệt học, hoặc thuận hoặc nghịch, cùng với sự phát triển các kiến thức về ngôn ngừ học tinh tế, những phương pháp nội quan đi sâu vào các bí ẩn của hoạt động tâm lý, những quan sát có tính khoa học về thế giới vật lý và tồn tại vật chất. Trong bối cảnh xã hội đó, sự xuất hiện các Cư sỹ tương đối có đù thời gian nhàn hạ để đi sâu vào các nguồn mạch tư duy từ Thánh điên mà trước kia chi dành cho hàng xuất gia đã dứt bỏ mọi ràng buộc thế tục, chuyên tâm Thánh đạo.

Cư sỹ học đạo và hành đạo không chì vì lợi ích an lạc của riêng mình ưong đời này và đời sau. Họ học đạo, nhưng không thể dứt bỏ tất cả để chuyên tâm Thánh đạo chi vì ràng buộc bởi danh lợi thế gian, nhưng số lớn vi không thể dễ dàng dứt khoát gánh nặng gia đình, phận sự đối với quốc gia xã hội. Phận sự chính là giáo dường con cháu của chính mình trưởng thành với một nhân cách tốt không chi để tốt cho bản thân và gia đình, mà trong trình độ khả dì, tốt cho cá quốc gia xã hội. Nhân cách nữa huyền thoại như Vimalakĩrti, không chỉ giàu có đến mức chiếm một vị trí ưu việt trong xã hội, đủ uy tín để có thể giáo dục như là bậc thầy của các vương tôn công tử, chỉ dần họ rèn luyện phẩm chất đạo đức và kiến thức chính trị xã hội sẽ xứng đáng là bậc quân vương lãnh đạo một đất nước trật tự, thanh bình, an lạc. Có dư tài sản để chẩn tế những hạng bần hàn cùng khổ. Có dư phẩm chất đạo đức để có thể đi vào thanh lâu tửu điếm mà thức tỉnh những tâm hồn sa đọa. Đây không phải là những điều khoa trương không thực tế. Một Asoka Đại đế của Ấn-độ. Một Nhân Tôn Hoàng đế của Đại Việt. Một Thánh Đức Thái tử của Nhật Bản. Những bậc quân vương Phật tử ấy đã để lại dấu ấn không thể phai mờ trong lịch sử dân tộc của những nước này, mặc dù triều đại phế hưng có thay đổi, các thế hệ con cháu về sau của họ có thể uốn cong dòng chảy lệch hướng lịch sử nhưng vẫn không thể xóa nhòa niềm kiêu hãnh dân tộc của một thời.

Lướt qua nhừng dữ kiện hoặc lịch sử, hoặc huyền thoại hư cấu, vai trò của trí thức trong bất cứ xã hội nào, chính yếu vẫn là kế thừa và bảo tồn di sản của tiền nhân, đồng thời giáo dục các các thế hệ theo sau tiếp tục sự nghiệp kế thừa, bảo tồn và phát triển. Trí thức Phật tử, một bộ phận trong bốn chúng đệ tử, trong tư cách là con dân của đất nước, của xã hội, dự phần trong các sự nghiệp toàn dân, giáo dục các thế hệ trẻ trưởng thành xứng đáng tầm vóc góp phần lãnh đạo từ những thôn xóm nghèo nàn cho dến những đô thị phồn vinh trong một quốc gia hưng thịnh; và đồng thời, là gạch nối, là nhịp cầu để các hàng xuất gia từ thâm sơn cùng cốc, từ những Thiền thất, Tĩnh viện, qua đó mang ánh sáng của Chánh Pháp soi tỏ tận chốn cùng khổ nhân sinh. Đó là sứ mệnh, là phận sự, đối với quốc gia dân tộc, là tâm nguyện Bồ-đề hành, lý tưởng Bồ-tát đạo, trong lý tưởng phụng sự Dân tộc và Đạo pháp.

Nguyện ấy, và hành ấy, lý tưởng cao cả ấy, dù vậy, không thể vượt qua những giới hạn của lịch sử, trong tương quan duyên khởi giữa con người và thiên nhiên, từ đó, giữa phát minh kỹ thuật và tiến bộ xã hội. Trong xã hội chi phối bởi tập quán gia trưởng, giáo dục con cháu thuộc quyền tuyệt đối của cha ông; nhất là trong xã hội chịu ảnh hưởng nặng của Nho giáo, với nguyên tắc trung-hiếu “quân sử thần tử, thần bất tử bất trung; phụ sử tử vong, tử bất vong bất hiếu”, quyền định hướng tương lai cho các thế hệ kê thừa tuyệt đối thuộc về cha ông, con cháu không có quyền quyết định tương lai sự nghiệp của chính mình. Trong Phật giáo, những chú Sa-di nhỏ “cát ái từ thân” không phải hiếm thấy, nhưng chỉ được dự hàng Tăng-già khi nào thân và trí được xác định là phát triển đầy đủ, để có thể lãnh hội và thực hành những điều Phật dạy. Đạo Phật được gọi là đạo của trí tuệ, trẻ nhỏ chưa đủ trí năng để phân biệt thiện ác thì chưa đủ điều kiện để thọ trì Tam quy Ngũ giới, trừ những trường hợp được xem là muốn gieo mầm Bồ-đề, cầu phước báo; hoặc xem như bán khoán cho Phật để được bảo vệ không bị ma quỷ quấy rối, vì là “con của Phật”. Tất nhiên, với trẻ nhỏ thì không thể giảng giải cho hiểu thế nào Tam quy, thế nào là Ngũ giới; nhưng cũng hiếm thấy nơi nào giảng cho trẻ nhỏ biết thế nào là khổ đế, cho đến con đường dẫn đến diệt khổ là đạo đế. Lại càng khó giảng hơn, tuy chỉ là vấn đề kỹ thuật, thế nào an lạc của sự tĩnh lặng, tĩnh tâm. Trong suốt trên dưới hai nghìn năm lịch sử, Phật giáo Việt Nam hầu như chỉ dành cho người lớn, thậm chí chỉ là tôn giáo cho người chết, thịnh hành với các nghi thức cầu siêu, chẩn tế cô hồn. Vắng bóng tuổi thơ.

Tình trạng như thế đã bắt đầu thay đổi, từ khi linh cảm không chỉ nguy cơ đất nước có thể sẽ là một tỉnh lẻ của Pháp quốc bên tận trời Tây; nhưng cùng đồng thời đe dọa hủy diệt nguồn tín tâm đã đồng hành với dân tộc qua hai nghìn năm thăng trầm vinh nhục; các hội đoàn Phật giáo với cơ cấu mới của Tăng-già, đồng thời các hội đoàn cư sỹ cũng lần lượt xuất hiện, trong giai đoạn gọi là “Chấn hưng Phật giáo”. Một trong những bước tiến của giai đoạn đó là thành lập tổ chức thanh niên Phật tử, tiên khởi với Gia đình Phật hóa phổ, sau đó cải danh là Gia đình Phật tử Việt Nam, và sau đó nữa, là đích tử trung kiên của GHPGVNTN.

Tạm thời nhìn qua phương Tây. Phật giáo chỉ được biết đến, chính thức trong giới học thuật, cũng từ thế kỷ thứ 17; cho đến cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, một phần cũng chỉ giới hạn trong phạm vi nghiên cứu, tán dương cũng nhiều, mà phê bình chỉ trích cũng không ít. Thật khó cho quảng đại quần chủng phương Tây chấp nhận một hệ tư tưởng tôn giáo không tin vào một Thượng đế sáng tạo.

Cho đến vài thập niên hậu bán thế kỷ 20, và những năm đầu thế kỷ 21, Phật giáo như vết dầu loang, một cách chậm chạp, ôn hòa và khiêm nhượng, được các thế hệ quần chúng trong các xã hội phương Tây đón nhận như một nguồn cảm hứng bổ sung cho sinh hoạt tâm linh. Tuy tín tâm đối với Phật pháp ở đây chưa trải qua thời gian dài như Việt Nam, cũng chưa thể nói sâu hoặc cạn; nhưng giáo dục con em theo hướng Phật giáo đã trở thành ưu tư của những cha mẹ mới biết đến và mới tin Phật, và những con số sách dạy con trẻ về giáo lý Phật thì vượt quá xa Phật giáo Việt Nam vốn tự hào đã có trên dưới hai nghìn năm lịch sử. Những tập sách nhỏ bé, với số lượng cũng nhỏ bé, cũng không phải hiếm thấy về các đề tài ở đây, nhưng hiếm thấy ở Việt Nam: Buddhism for Kids, Meditation for Kids, cho đến Buddhism for Young Mothers… ; cũng có cố gắng giải thích cho thiếu nhi, mượn hoạt cảnh chú mèo, hiểu biết khổ đế là gì, cho đến đạo đế là gì; những điều mà ngay cả những bác đi chùa lớn tuổi ở Việt Nam cũng cảm thấy khó hiểu.

Theo thống kê không chính thức hiện tại, có rất nhiều nhóm lớn nhỏ được tổ chức sinh hoạt và tu học Phật pháp cho thanh thiếu niên và đồng niên trong cả ba miền Nam-Bắc-Trung; tổng số đoàn sinh, đoàn viên ước lượng khoảng 102,000, trực thuộc các Giáo hội, hoặc các hệ phái trong Giáo hội này hay Giáo hội khác. Mặt khác, con số thanh thiếu niên và đồng niên sinh hoạt các khóa tu học mùa hè mỗi năm vài lần trong các nhóm hay tự viện độc lập ước lượng khoảng 166,000. Đây là con số thật khích lệ cho những ai quan tâm đến giáo dục Phật giáo các thế hệ tương lai. Nhưng so với con số hơn 6 triệu đoàn viên đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, thì con số ấy chỉ như viên sỏi lăn lóc dưới khối đá lớn.

Nhìn vào bối cảnh sinh hoạt các tổ chức này, lớn nhỏ tự phát trực thuộc hoặc không thuộc Giáo hội nào hay hệ phái nào; những thuyết giảng giáo lý đa dạng, phong cách thuyết giảng hay căn bản giáo lý được nghe nhìn phổ biến trên các trang mạng truyền thông có khá nhiều điều ít tìm thấy trong các hệ Thánh điển được lưu truỵền cho đến nay. Đây quả thực không thể nói là hiện tượng trăm hoa đua nở trong vườn Thiền; nên nó là những dòng thác lũ có thể cuốn sập lâu đài Phật giáo Việt Nam được xây dựng cả nghìn năm lịch sử.

Ở đây chúng ta không nói đến sự cần thiết của một dòng phát triển chính thống, nhằm loại trừ các dòng phát triển được xem là không chính thống, mà là dòng hợp lưu của những phát triển tự phát và đa dạng, thích hợp cho nhiều căn cơ trong một xã hội phát triển đa dạng tương lai. Để thực hiện được điều này, không thể không cần đến các hoạt động của kiến thức hàn lâm từ các cơ sở Đại học theo đường hướng giáo dục nhân bản và khai phóng, như dịnh hướng giáo dục của Viện Đại học Vạn Hạnh trước đây, trong đó tụ hội các trí thức Phật tử hàng đầu không chỉ trong giới Phật giáo mà trong cả nước, từ đó không chỉ giáo dục đào tạo những nhân viên phục vụ trong các tập đoàn xí nghiệp lớn nhỏ, mà còn là những khả năng khả dĩ lãnh đạo quốc gia, kiến thiết xã hội, và khi cần thiết, trong một xã hội đang có nguy cơ thoái hóa, với số lượng sinh viên dù nhận thức để gây phong trào thúc đẩy xã hội tiến tới trong tinh thần bao dung, hòa hiệp. Một cơ cấu hàn lâm như vậy có thể là mối đe dọa đối với những chính khách tham quyền, do đó một Viện Đại học hoạt động giáo dục nhân bản và khai phóng theo nguyên tắc tự trị sẽ khó vượt qua chướng ngại của quyền lực chính trị. Vì vậy, cho đến nay, đất nước hòa bình gần nửa thế kỷ, một cơ chế Đại học chưa hề được chấp nhận cho Phật giáo. Các cơ sở giáo dục cấp cao mà Nhà Nước cho phép cũng chỉ là các trường Cao cấp Phật học dành riêng cho giới xuất gia, không được thừa nhận tương đương với hệ giáo dục Cao đẳng, nói gì đến Đại học chuyển tải các kiến thức Phật pháp cũng như thế gian pháp.

Theo thống kê dân số của Tổng Cục Thống Kê, “Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019”, công bố ngày 19/12/2019 vào lúc 2:33:35 PM, trên trang mạng truyền thông toàn cầu: tổng số dân của Việt Nam là 96.208.984. Trong số đó, đông nhất là tín đồ Công giáo, 5,9 triệu người. Tiếp theo, 4,6 triệu người theo Phật giáo, chiếm 4,8% tổng số dân cả nước. Nhìn vào số liệu này, con số được gọi là Trí thức Phật tử trong số 4,6 triệu người theo đạo Phật, quả là quá ít, so với hơn 5 triệu đảng viên và trên 6 triệu đoàn viên Thanh niên Cộng sản, nếu chúng ta thực hiện chỉ cần một phép tính đơn giản. Rõ ràng đây là những con số khống chế bằng áp lực chính trị và kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, số lượng ấy không đủ để lập thành một dòng chảy chính qui điều hòa dung hợp nhiều dòng chảy thành một hợp lưu, để không trở thành những mâu thuẫn xung đột gay gắt có thể dẫn đến những tổn hại cho xã hội, không chỉ về mặt tín ngưỡng tiêu cực, mà còn tác hại đến các định hướng giáo dục, văn hóa, kinh tế, xã hội cho các th hệ tương lai.

Ngày nay, trong những biến động từ thiên tai đến nhân họa, những đấu tranh quyền lực gay gắt nội bộ và xung đột quốc tế giữa các quyền lực, dấu hiệu hay dự báo một sự phân chia quyền lực quốc tế đang hay có thể sẽ diễn ra; những điều có thể ảnh hưởng không lớn đối với chúng xuất gia tịnh tu trong các tĩnh thất hay thiền viện, nhưng tác động không nhỏ đến các chúng tại gia, cơ bản là vấn đề an ninh xã hội, và điều kiện kinh tế, từ đó tác động đến các sinh hoạt giáo dục, văn hóa. Trong tình trạng có thể diễn ra ấy, trí thức Phật tử tự trang bị cho mình một căn bản giáo lý để có khả năng quan sát những biến động xã hội, tự mình định hướng và đồng thời y chỉ trên căn bản giáo lý được học và hành trợ duyên cho con em mình cũng đủ khả năng tự định hướng cho tương lai, góp phần định hướng cho sự phát triển của xã hội, của quốc gia dân tộc.

Tuy nhiên, hàng Phật tử tại gia thường trực sống trong xã hội đầy biến động, chỉ có thể bình tâm định hướng cho chính mình và trợ duyên cho các con em của mình tự định hướng cho tương lai, nếu có cơ sở vững chắc. Ngôi Tam bảo mà Đức Thế Tôn thiết lập cho thế gian, sở y cho bốn chúng hòa hiệp đồng tu, trong đó Tăng-già thanh tịnh hòa hiệp, là hiện thân trong lòng thế tục làm sở y vững chắc cho sự hòa hiệp của bốn chúng. Cơ chế Tăng-già tan vỡ sẽ kéo theo sự phân hóa, mâu thuẫn xung đột giữa bốn chúng, như thực tế đã diễn ra.

Nói tóm lại, uy đức của Tăng-già thanh tịnh và hòa hiệp là sở y cho sự hòa hiệp đồng tu của bôn chúng đệ tử. Sự tụ hội của bốn chúng trong hòa hiệp đồng tu là cơ sở để kiến thiết một Giáo hội, trong đó luật đạo và luật đời không mâu thuẫn, có đủ phẩm chất và năng lực góp phần trong các sự nghiệp giáo dục, văn hóa, xã hội, kinh tế, đưa đất nước tiến vào thời kỳ trật tự, thanh bình và an lạc. Đây cũng là lý tưởng Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành của bốn chúng đệ tử của Đức Thế Tôn, vì sự an lạc của tự thân, gia đình, và xã hội.

Tiết Trung thu, niềm vui của thiếu nhi, cũng là nguồn cảm hứng hy vọng hướng về tương lai của bốn chúng đệ tử Phật.

Phật lịch 2564,

Tiết Trung thu, năm Canh Tỷ Khâm thừa Uy thác,

Tỳ-kheo Thích Tuệ Sỹ

______________________________
*Bản sao kính gởi Chư Tôn đức đế kính tường

Tuesday, September 29, 2020

THÍCH MINH CHÂU: HÃY NHÌN THẲNG VÀO CHÍNH MÌNH


HÃY NHÌN THẲNG VÀO CHÍNH MÌNH

 THÍCH MINH CHÂU (1918–2012)

Chiến tranh càng ngày càng trở nên ác liệt, tất cả những đau khổ lớn nhất của nhân loại đã xảy ra tại quê hương của chúng ta, và hôm nay, giữa lòng đau đớn không cùng của đất nước, đấng Thế Tôn lại ra đời, như một vì sao Mai vụt hiện trên vùng tối đen của mặt đất thê lương này.

Đấng Thế Tôn không phải chỉ ra đời cách đây mấy ngàn năm vào một thời gian ấn định, vào một địa điểm xác định nào đó. Không. Đấng Thế Tôn ra đời mỗi ngày và mỗi giây phút trong đời sống chúng ta: chúng ta là những kẻ đồng thời với Ngài, ra đời với Ngài, đau đớn với Ngài, sống với Ngài, lên đường với Ngài và cùng đi về với Ngài trên con đường giải thoát, con đường của vì sao Mai tuyệt đối, hình ảnh bất diệt của Chân Như: đó cũng là dấu hiệu của Pháp thân bất sinh bất diệt giữa sự phân thân bi thảm trầm trọng của quê hương chúng ta.

Giữa cơn biến động tàn khốc của đất nước hiện nay, mỗi người đều cảm thấy rằng mình phải lên tiếng, vì không lên tiếng là có tội lớn với hồn thiêng của quê cha đất tổ; người nào cũng thấy rằng mình phải nói đến Hòa Bình và Dân Tộc, nói đến Trách Nhiệm và Dân Tộc.

Tất cả sự lên tiếng đều đáng tôn kính, tất cả những danh từ cao đẹp đều đáng tôn quý, nhưng thật sự thì đằng sau sự lên tiếng ấy, đằng sau những danh từ cao đẹp ấy chúng ta sẽ thấy được những gì?

Tất cả lời nói đều trở nên vô nghĩa. Bất cứ người nào đi giữa đường cũng có thể lên tiếng và cũng có thể dùng những danh từ cao đẹp... Ai cũng có thể nói được và dùng được những danh từ chìa khóa thời thượng, những danh từ gợi cảm đầy dân tộc tính và nhân loại tính, nhưng tiếng súng đại bác và tiếng phản lực cơ vẫn ồn ào ầm ĩ và lấn át hết tất cả những khẩu hiệu cao đẹp trên đời này.

Chiến tranh càng ngày càng lan rộng, không phải vì thiếu người tranh đấu cho hòa bình... Mà bởi vì đã có quá nhiều người tranh đấu cho hòa bình; chúng tôi nói đến hòa bình, các ngài nói đến hòa bình; Phật giáo nói đến hòa bình, các tôn giáo khác đều nói đến hòa bình: Mỹ, Pháp, Anh, Tàu, Nga, Bắc Việt và Nam Việt đều nói đến hòa bình; tất cả chúng ta đều ca tụng hòa bình, mà đau đớn biết bao là càng nói nhiều đến hòa bình thì máu lửa ở Việt Nam càng trở nên ác liệt thảm khốc hơn nữa.

Nói như thế, không phải chúng tôi đề nghị chúng ta hãy nói nhiều đến chiến tranh hay là chúng ta hãy chấp nhận chiến tranh, không phải thế. Không ai lại có thể tàn nhẫn lãnh đạm thờ ơ như vậy và chúng tôi cũng không thể nào có thái độ ngây thơ như vậy.

Chúng tôi chỉ muốn lễ độ báo nguy với tất cả rằng không phải chỉ lên tiếng, không phải chỉ dùng những khẩu hiệu tình cảm là đủ; không phải chỉ suốt ngày suốt đêm chạy Đông cầu Tây để hô hào bênh vực cho hòa bình là đủ; không phải chỉ nói đến tình thương, không phải nói đến Đạo Pháp và Dân Tộc là cứu nguy quê hương và Tôn Giáo; không phải chỉ nói về hòa bình là đem hòa bình về cho quê hương.

Khi nói như trên, chúng tôi cũng không phải ngây thơ đến nỗi đề nghị với các ngài là đừng lên tiếng và chỉ giữ im lặng thụ động. Không phải thế.

Chúng tôi chỉ muốn lễ độ báo nguy với tất cả chúng ta rằng không phải lời nói là quan trọng, không phải sự im lặng là quan trọng, mà cũng không phải hành động là quan trọng, mà không phải vô vi thụ động là quan trọng.

Chỉ có một điều duy nhất quan trọng, chỉ một điều quan trọng tối thượng là mỗi người phải dám nhìn thẳng bộ mặt thực của chính mình, tự hỏi rằng mình có lường gạt mình bằng những đường lối tinh vi; mỗi người phải tự hỏi rằng mình có thực sự tự do trong tư tưởng; mỗi người phải tự hỏi rằng mình có thật sự giải phóng khỏi tất cả sự sợ hãi trong ý thức và vô thức; mỗi người phải tự hỏi rằng mình có thật sự tiêu trừ hết mọi tham vọng, dù là tham vọng tâm linh; có thật sự tiêu trừ hết mọi đố kỵ, thù hận; có thật sự tiêu trừ hết mọi sự triển khai bản ngã dưới mọi hình thức bằng cách lấp đầy sự trống rỗng của bản ngã bằng những ý niệm cao đẹp, bằng những khẩu hiệu mà ai cũng muốn dùng trên lưỡi và môi như là dân tộc, hòa bình, bác ái, từ bi, trách nhiệm vv...?

Mỗi người đều chịu trách nhiệm cuộc phân hóa của quê hương hiện nay, mỗi người đều có tội, mỗi người đều đồng lõa với sự tương tàn huynh đệ, máu đổ, nhà tan. Tất cả chúng ta đều đồng lõa với cuộc chiến tranh này, dù tham chiến hay không tham chiến. Chúng ta đồng lõa bằng cuộc sống nông cạn, bằng tình cảm yếu đuối, bằng thành kiến cố định, bằng sự bảo vệ bản ngã, bằng lý tưởng giả đạo đức, nhất là bằng tất cả sự sợ hãi, dưới đủ mọi hình thức.

Sợ hãi là cơn bệnh nặng nề nhất trong mỗi người; sợ hãi là mầm mống của tất cả mọi cuộc chiến tranh; vì sợ hãi, nên phải lên tiếng, vì sợ hãi, nên phải im lặng; vì sợ hãi nên phải thụ động, trốn trong tháp ngà.

Vô úy là một trong những đức tính quan trọng mà đấng Thế Tôn đã dạy cho chúng ta. Đó là con đường của tất cả Bồ-tát. Hóa Thân của đức Di Lặc sẽ mang đủ đức tính của Bất Không Thành Tựu Như Lai. Đó chính là tư thái thản nhiên của Ngài được thể hiện trong Vô Úy Ấn (abhaya mudrà).

Tất cả những gì xảy đến trong ta đều xuất phát từ trong ta, từ trong bản thể sâu kín của ta. Không có gì có thể hại ta được, chỉ trừ ta đã chứa sẵn mầm mống phá hại ấy trong ta; vậy thì không thể nào sợ hãi bất cứ cái gì xảy ra trong đời này, bạo quyền, bất công, độc tài, chiến tranh, tai họa chỉ xuất hiện khi chúng ta đã chứa sẵn những mầm mống trong tự thân và tự thể. Chiến tranh và bạo quyền là thể hiện bên ngoài của những gì ta chứa đựng, tiềm tàng trong sâu kín tâm hồn. Vô Úy Ấn là tư thái của một người thản nhiên mỉm cười nhìn thẳng vào tất cả sự khủng khiếp rùng rợn trong đời mà không sợ hãi, vì ý thức rằng không có gì có thể xảy đến cho mình được, chỉ trừ khi mình đã đồng lõa với nó, nuôi dưỡng nó thầm kín trong tâm tư mình.

Cách đây một tuần, chúng tôi có mời một vị giáo sư người Đức lên giảng đường Đại học Vạn Hạnh để diễn thuyết về Heidegger và sự khủng hoảng của siêu hình học. Lời mời của chúng tôi mang một ý nghĩa kín đáo; đó là một dịp để tư tưởng của triết gia Heidegger được nảy mầm trong khung cảnh đặc biệt của Viện Đại Học Vạn Hạnh, nơi nuôi dưỡng và phát triển tư tưởng Á Đông trong sự chuẩn bị môi trường ngày mai cho sự đối mặt giữa tư tưởng Tây Phương và tư tưởng Phật Giáo trong sự chuyển tánh của vận mệnh con người trên trái đất này.

Nước Đức nhằm chung số mệnh phân ly và phân hóa như nước Việt Nam; Heidegger khi còn làm viện trưởng tại trường Đại học Freiburg im Breisgau, đã chịu đựng những sự ngộ nhận không thể tránh được về thái độ mình đối với sự phân tán trầm trọng của nước Đức. nhưng Heidegger đã không sợ hãi mà từ bỏ con đường lựa chọn của mình và hiện nay tư tưởng của Heidegger đã lan tràn khắp thế giới và ảnh hưởng sâu đậm đến tinh thần của thời đại. Heidegger nói lên sự vắng mặt của Thượng Đế và sự phục hồi ý nghĩa của tính thể. Heidegger nói rằng tính thể (être) là xuất nguồn từ ngôn ngữ Phạn (sanskrit). Đại học Vạn Hạnh được may mắn là nơi có đủ khả năng để đào sâu kiến thức Phạn ngữ cho những người muốn tìm lại nguồn gốc để đặt lại giới hạn của tư tưởng Tây Phương trong cơn khủng hoảng thời đại vô cùng trầm trọng hiện giờ.

Trước sự sụp đổ của con người và thời đại, Heidegger kêu gọi chúng ta hãy trở về tư tưởng thiền định (pensee mé-ditante) và từ bỏ tư tưởng tính toán của tổ chức kinh doanh, kỹ thuật, cơ khí, chính trị, xã hội, thần học, khoa học. Heidegger đã biết đi về trên con đường Phật giáo mà chính Heidegger cũng không ngờ được: đối với Heidegger, con người chỉ có thể tự giải thoát khi trở về thiền tưởng (méditation) qua tư thái song hành: tâm hồn thản nhiên trước sự vật (l'âme égale la présence des choses) và tâm trí mở ra trước huyền diệu bí mật (l’esprit ouvert au secret).

Điều trên khiến chúng ta nhớ đến bình đẳng tánh trí và diệu quan sát trí, hai trong bốn trí của Duy Thức Học. Bình đẳng tánh trí (samatajnana) và Diệu Quan Sát Trí (Pratyaveksanjnana) đưa đến Đại viên cảnh trí (Afdar-sanjnana), cứu cánh của giải thoát; đó mới chính là con đường giải thoát duy nhất cho mỗi người trong chúng ta.

Tâm hồn thản nhiên trước sự vật và tâm trí mở ra trước huyền diệu, đó là con đường đi của tất cả Bồ-tát, thể hiện cô đọng trong Vô Úy Ấn (Abhaya mudra) Của Bất Không Thành Tựu Như Lai (Amoghasiddhi) hóa thân của đức Di Lặc.

Đức Thế Tôn của mấy ngàn năm trước cũng là Đấng Thế Tôn vừa đản sanh hôm nay và sẽ đản sanh vào ngày mai; nơi nào có chiến tranh và hận thù, nơi nào có khổ đau, tàn ác, bạo lực và sự sợ hãi khủng bố thì nơi đó Đấng Thế Tôn ra đời với Vô Úy Ấn của Ngài.

Và hơn bao giờ hết, giữa ngày Phật Đản hôm nay, giữa lúc chiến tranh lan rộng và sợ hãi đe dọa khắp cả quê hương thì Vô Úy Ấn lại sáng ngời lên như một ngôi sao Mai vừa sinh trên bầu trời đen tối của nhân loại; cũng như vì sao Mai trên trời, Đấng Thế Tôn ra đời để báo tin rằng rạng đông đang đến.

Chúng tôi xin cầu nguyện chung cho tất cả những người đã chết trên dải đất này, không phân chia quốc tịch và phân chia màu sắc chính trị.

Sau cùng, một điều đã khiến chúng tôi vô cùng cảm động: đó là sự hiện diện của nhiều đại biểu quốc gia trên thế giới tại buổi lễ Phật Đản hôm nay; sự kiện ấy nói lên rằng ngày Đản Sinh của Đấng Thế Tôn là ngày vui chung không phải chỉ thuộc một biên giới quốc gia nào, mà lại là thuộc chung của cả nhân loại, của tất cả con người thao thức trên mặt đất này, những người đón đợi bình minh bất diệt của tâm linh.

(Trích TRƯỚC SỰ NÔ LỆ CỦA CON NGƯỜI ~ Con Đường Thử Thách Của Văn Hóa Việt Nam. Lotus Media tái bản và ấn tống, tháng 10, 2020)