Wednesday, May 31, 2023

Nguyên Không Tuấn Khanh: Tiến sĩ Bạch Xuân Phẻ: Hành trình mang Chánh Niệm vào học đường

 

Bạch Xuân Phẻ bắt đầu đem chánh niệm (mindfulness) vào ứng dụng với các học sinh của mình từ năm 2014. Đó là những tháng năm mà tình trạng bạo lực học đường, trầm cảm, tự kỷ, bế tắc giao tiếp… đột ngột trở thành một vấn nạn được nhìn thấy khắp nơi trên nước Mỹ.

Một nghiên cứu của National Institute of Mental Health từ năm 2007 đã báo động về một căn bệnh tinh thần không có thuốc chữa: nạn trầm cảm lo âu với gần 32% số người được thăm dò đều có triệu chứng, trong đó có đến hơn 90% là thiếu niên từ 13 đến 18 tuổi. Cho tới năm 2020, tài liệu hướng dẫn đối phó tình trạng thương tổn tinh thần của thanh thiếu niên Protect Youth Mental Health, ghi nhận từ năm 2009 đến năm 2019, tỷ lệ học sinh trung học có cảm giác buồn bã hoặc tuyệt vọng dai dẳng, thậm chí tìm đến cái chết, tăng đột ngột đến 40%.

Tiến sĩ (TS) Bạch Xuân Phẻ là một giáo viên dạy hóa học tại Trường Trung học Mira Loma, California. Việc tiếp xúc hàng ngày với các học sinh cho Phẻ một nhận thức rõ là căn nguyên của các tình huống bất thường của học đường và gia đình, thường đều xuất phát từ tinh thần bất ổn ngấm ngầm, sự không kiểm soát được ý niệm sống của các thế hệ trẻ, vốn đã quen với đời sống ít tĩnh lặng và suy niệm.

Từ việc tạo các bài học giúp kiểm soát được tinh thần, kiểm soát được sự tĩnh lặng trong suy nghĩ, Phẻ đã giúp hàng ngàn thiếu niên đi qua những giờ phút tăm tối và cô đơn của chúng, dựng lên sự tự tin và thấu cảm với thế giới sống chung quanh. Đặc biệt trải qua những năm tháng gay go nhất của đại dịch 2020, thư và cảm nhận về lợi ích của bộ môn thực hành chánh niệm đã gửi về cho Phẻ không ngớt: Chánh niệm thật sự là một liệu pháp.

Đến Tháng Ba 2023, TS Bạch Xuân Phẻ được Hiệp hội Giáo viên California (California Teachers Association) vinh danh vì những đóng góp giáo dục thực hành chánh niệm của ông. TS Bạch Xuân Phẻ được trao giải Giải thưởng Nhân quyền người Mỹ gốc Á Thái Bình Dương năm 2023 của bang California (Human Right Awards).

Lời vinh danh TS Bạch Xuân Phẻ, được Hiệp Hội Giáo Viên California phát đi, là “Điều làm nên sự khác biệt của TS Phẻ X Bạch với tư cách là một nhà giáo dục — cụ thể là giáo viên hóa học tại Học khu San Juan từ năm 2002 — là khả năng và sự sẵn lòng của ông để giúp thấm nhuần chánh niệm vào phương pháp giảng dạy của mình, và tạo ra các chương trình liên đới với chánh niệm để mang lại lợi ích cho học sinh của mình, đồng nghiệp và cả cộng đồng AAPI (Asian American and Pacific Islanders).

TS Bạch Xuân Phẻ bắt đầu các lớp học của mình mỗi ngày với 5 phút thiền định — mà ông gọi là một “kỳ nghỉ cho tâm trí của bạn” — và thảo luận về hiệu quả của kỳ nghĩ đó, trước khi bắt tay vào công việc học tập. Phẻ chỉ ra các nghiên cứu cho thấy chánh niệm là chìa khóa thành công của nhiều học sinh ở trường. Phẻ cũng là người khởi xướng và phát triển việc thực hành chánh niệm ngoài lớp học, đồng thời anh ấy đã thành lập một số tổ chức dạy chánh niệm cho các cộng đồng AAPI khác nhau.

Đại dịch và các sự kiện bất ổn của xã hội gần đây đã nhấn mạnh sự cần thiết của chánh niệm như một phần cơ bản của giá trị giáo dục. Mục tiêu của TS Phẻ là giúp các nhà giáo dục trở thành những giáo viên khỏe mạnh hơn và giỏi hơn, từ đó mang lại lợi ích cho học sinh của họ.

Phẻ đưa ra triết lý giáo dục rằng các nhà giáo dục cần có một sức khỏe tinh thần – như một thành phần quan trọng để giảng dạy hiệu quả và tạo được môi trường học đường tích cực. Câu thần chú của TS Bạch Xuân Phẻ dành cho những người tham gia các lớp học của mình là “Bạn không thể cho đi thứ mà bạn không có”. Có nghĩa người giảng dạy sẽ không mang lại được sự lành mạnh trong tinh thần với học sinh của mình, nếu chính bản thân họ cũng là những con bệnh.

Những cuộc thực hành đầu tiên về chánh niệm được Bạch Xuân Phẻ áp dụng cho một vài lớp, mời gọi sự tự nguyện. Mọi thứ được giải thích dựa trên căn bản về chánh niệm mà Phẻ đã từng tối giản để bất kỳ ai cũng có thế tiếp nhận, dù khác biệt văn hóa và nơi chốn.

Không phải học sinh nào cũng hiểu được chuyện hít và thở chầm chậm, buông lỏng… sẽ đem lại điều gì cho thế giới quan của giới trẻ vốn quen sống thiên về hiệu quả cụ thể. “Những thứ này đem lại điều gì?”, những đứa trẻ học sinh hỏi và ngạc nhiên tiếp nhận.


TS Phẻ cùng các giáo viên trong chương trình hướng dẫn đưa chánh niệm vào học đường.

Tại Mira Loma, Bạch Xuân Phẻ có các khóa học tự chọn nhằm giúp học sinh thực hành chánh niệm. Trên các bức tường trong lớp học của ông được trang trí bằng những tấm áp phích do chính các học sinh làm, bày tỏ sự nhận thức về chánh niệm của chúng.

Một trong những tấm tranh tường, được chính học sinh định nghĩa về chánh niệm, không khác gì như một hướng dẫn chuyên nghiệp “chánh niệm là trạng thái nhận thức không phán xét về những gì đang xảy ra trong thời điểm hiện tại bao gồm nhận thức về suy nghĩ, cảm xúc và giác quan của chính mình”.

Chương trình chánh niệm của Phẻ tạo được tiếng vang nhờ sự kiên trì tranh đấu của ông đối với nhận thức về sức khỏe tinh thần. “Trong sự nghiệp giảng dạy của mình, tôi đã mất sáu học sinh vì tự tử rồi và tôi không muốn mất thêm em nào nữa,” TS. Bạch chia sẻ.

Ông nói thêm “hy vọng rằng với tinh thần đó, lớp học này sẽ giúp một số em có được bộ kỹ năng cần thiết để vượt qua những cảm xúc nhất thời, và mạnh mẽ hơn”. Nói khi nhận giải thưởng Human Right Awards 2023, Phẻ bày tỏ rằng “Tất cả hòa bình trên thế giới đều bắt đầu từ sự bình an nội tâm, vì vậy [tôi mong] họ nuôi dưỡng sự bình an nội tâm đó – cùng nhận thức, sự hiểu biết và lòng trắc ẩn”.

Giải thưởng này là đòn bẩy để TS Bạch Xuân Phẻ mở rộng các câu lạc bộ sinh hoạt chánh niệm trong giới học sinh thiếu niên, và thậm chí có thể vận động xin ngân sách như một chương trình hoạt động thiết yếu của hệ thống trường học.

TS Bạch Xuân Phẻ đã xuất bản một cuốn sách song ngữ về chánh niệm, với pháp danh Phật giáo của mình là Tâm Thường Định cùng Tâm Nhuận Phúc, mang tên Việt là “Chánh niệm – Chất liệu tỉnh giác trong cuộc sống và học đường”. Sách được Amazon phát hành với cả hai phiên bản Anh và Việt.

Giới thiệu về cuốn sách này, hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, trong lời mờ đầu đã dẫn giải rằng “Một người, do bất cẩn, gây ra tai nạn chết người. Người ta nói, người ấy hành động vô ý thức. Mỗi năm có vô số hành động vô ý thức gây tai nạn chết người như vậy trên khắp thế giới. Đó là chưa nói đến những tai hại nhỏ mà hầu như nhiều người trong chúng gây ra cho chính mình và cũng gây ra cho những người chung quanh mình không ít trong sinh hoạt thường nhật vì những hành động được nói là vô ý thức ấy”.

“Cho nên, khi chúng ta nói, những hành động bất cẩn, hay những hành động vô ý thức, đấy là muốn nói đến nhận thức bị tác động bởi xúc cảm nguy hại khiến kích hoạt các chức năng tâm lý thất niệm, tán loạn, bất chánh tri”. (trích)

Dụng cụ giảng dạy chính trong các buổi thực hành chánh niệm của Phẻ, là chiếc chuông nhỏ có tiếng kêu như gió thoảng. Phẻ đánh một tiếng chuông để mở đầu cho một lần hít thở, im lặng tĩnh tại trong tâm trí cúa người tham gia, và một tiếng chuông để đánh thức mọi người sau một chu kỳ.

Từ những đứa trẻ từng đặt câu hỏi “cái này để làm gì”, chúng đã hồi đáp liên tục bằng những tin nhắn, thư và tâm tình trực tiếp. Chẳng hạn như một em học sinh đi qua được một cuộc đối đầu hung hãn, đã viết cho TS Phẻ: “Hôm nọ, em bị một nhóm tụi con gái đẩy vào bụi rậm. Mặc dù hết sức tức giận đến điên người nhưng em nhớ lại lời dạy của thầy, nên đã dừng lại được”.

Hoặc mới nhất với TS Phẻ, từ một nữ học sinh tốt nghiệp, rời khỏi nhà trường: “Nhớ lại khi dịch COVID đã bắt đầu. Em đã rất căng thẳng nhưng thật may mắn khi em có được một người thầy hiểu biết. Thầy luôn luôn rất tử tế và rộng lòng. Thời gian thiền định của thầy đầu giờ học luôn giúp em bình tĩnh và dạy em kiểm soát căng thẳng tốt hơn, điều đó là vô giá trong thời kỳ đại dịch… Em nghĩ rằng đó là một phẩm chất thật đẹp của thầy, em ước rằng có thể lại tham gia lớp học thiền của thầy. Lớp học truyền cảm hứng cho em, với cách thầy nói chuyện để làm sao chúng ta có được sự hạnh phúc. Em sẽ không bao giờ quên…”. Thư được em nữ sinh gửi đi vào Tháng Năm 2023.

 

Source: https://saigonnhonews.com/the-next-gen/tien-si-bach-xuan-phe-hanh-trinh-mang-chanh-niem-vao-hoc-duong/

Tuesday, May 30, 2023

Nguyen Sieu - Introduction for Tuệ Sỹ - A teacher of the Venerable Sanghas

Nguyen Sieu - Introduction for Tuệ Sỹ - A teacher of the Venerable Sanghas

Mr. Tâm Thường Định approached me on the day of the Buddhist Youth Association Congress and asked for an introduction to his book, "Tue Sy - A Teacher of Venerable Sanghas."

This work comprises two articles written by Zen Master Tuệ Sỹ. The first article is titled "Letter To Thừa Thiên–Huế's Buddhist Students," but the reader will clearly see what the Venerable Master meant to convey to the entire generation of young monks and nuns living in Vietnam and abroad: "...is covered by puddles of stagnant muddy water and isolated from the source of life of the past." Since then, Thay has firmly advised: "May you have enough courage to walk the path with your own feet, looking at life with your own eyes and determine a direction for yourself."

Reading the content of this article, readers will feel like it is a benevolent wake-up call for monks and nuns living in their motherland today. Like a lion's roar, which deafens and pains wild animals, and as a word to "rebuke them," which tortures the befuddled souls immersed in the sea of suffering.

The second article is titled "The Current Thinking About Buddhist Education Plans For Vietnamese Youth," and his thoughts and comments on the younger generations have awakened the souls of Vietnamese youth: “In Vietnam, the education of youth is based on political power rather than following a natural growth trend. This artificial difference is like living in a mud puddle, not knowing where to find a real place to gain enough footing to escape. Vietnamese youth are being uprooted, and face a great risk of losing their life direction; some have indeed already lost their life direction. The Buddhist youth in Vietnam are no exception, and it is not easy to overcome this loss of direction in life. Here, the emphasis on the loss of direction is from the standpoint of Vietnam as a nation.” 

Master Tuệ Sỹ offered a vision of a method of studying Buddhism, or comprehensive education: "Our young people study Buddhism not to become researchers of Buddhism or Buddhist scholars, but to study and practice critical thinking skills, to be dynamic, flexible, and have the ability to look into the nature and reality of life. Therefore, studying Buddhism does not hinder learning of secular education; Buddhist knowledge does not conflict with mundane knowledge. The only difference is when studying Buddhism we begin with the actual situation of human suffering in order to realize true happiness. Compassion (love) and Wisdom (truth) will give young people the wings to support and nurture them throughout their search in the endless space of life." That is the educational psychology of Buddhism that Master Tue Sy has pointed out to the Buddhist youths today.

The second part is the poetry, written by Master Tuệ Sỹ. When we read Thay's writing, we are overwhelmed by words that are as strong as mountains, and as solid as bronze, sounding bright and resounding in the reader's mind. What can you say about his poetry? A dreamland is full of adventure, charm, and beauty. But no one can write like Master Tuệ Sỹ, thousands of years ago and thousands of years later; readers must try to understand, soaking in the meanings and nuance as they slowly read his words:

"I am still in love with the times of the wild:
Hoarding in the depth of the eyes the thousands of midnight stars."

Because he enjoys wandering, therefore:

“Leaving behind only a corner of a lonely mountain;
For thousands of years I keep waiting for the summit.”

Furthermore, because of the "unique lonely journey to find the path" of the wanderer, who sleeps at night in the shrine of the soul and dreams:

"Hidden by the side of the pass is erected a shrine for wandering souls,
In the middle of the sky are perching illusionary images of flickering lanterns.
While old trees are casting long widespread crawling shadows,
I embrace the wild grass, lost in reverie.”

Because Master Tuệ Sỹ dreamed a dream, he saw a beautiful dream, a dream for a peaceful ethnic homeland:

"Waiting for the rain to let up so I can roll out the moon for a sleeping mat
And white flowers can blossom on the hill thousands of years later."

And followed by poems by Master Tuệ Sỹ through decades ago such as: Fleeting Glimpse of a Dream:

“Your deep innocent eyes on that day of gala
And your graceful smiling lips dim the dazzling rays of the sun
Incarnating the virginal heron in the midst of the endless verdant prairie
In the fleeting glimpse of a dream, I’m in love with thee.”
Vạn Giã Forest, 1976.

I'm Still Waiting - Saigon 78; Holder Of Thousands Of Stars, Phan Dang Luu Prison - Saigon 79, etc. 

All of these poems can be found in the collection Dreaming Truong Son.

Mr. Tâm Thường Định wrote poems for Master Tuệ Sỹ in the third section, including Fairy Eyes, Thien Nhan - Dedicated to Teacher Tue Sy, Spring Missing Teacher Tue Sy, and others. The poem is the work's fourth and final component. Tâm Thường Địnhwrote "Mat Biec in Tue Sy Poetry" in order to discover the metaphorical meaning of the word "Mat Biec" in the poem "Fleeting Glimpse of a Dream."

All of Mr. Tâm Thường Định's poems and essays, whether translated or written in English, are intended to spread positive messages to both young people and natives. We can see his service heart as a leader of the Vietnamese Buddhist family, always thoughtful and diligent in serving the path of youth education while also promoting Buddhist culture. 

"The Teacher of Venerable Sanghas" is under a big theme: "Tuệ Sỹ - An Essence of Vietnamese Buddhism" has brought readers to a sad, miserable, misguided, uprooted reality of today's generation that is lost in their own country, and it is necessary to correct on the comprehensive educational path of Buddhism (in Vietnam), hoping to revive what has been broken, far from its roots, ancestors, and races, and return to a rich and beautiful Vietnamese culture. 

Just as Master Tuệ Sỹ's writing and poetry rhythms exposed readers to a new age brimming with love, compassion, joy, and equanimity under the cherished sky of the homeland, so too has Mr. Tam Thuong Dinh presented readers to a new generation brimming with affirmation, heroism, and poetry.

Mr. Tâm Thường Định appeared to have gathered all of the revenant, loving words to dedicate and make offerings to a revered teacher, whose heart appeared to be scattered and full of beauty, specifically in the work "The Teacher of Venerable Sanghas" -- communities that live in harmony and awareness.

No matter how much you discuss and introduce the book, it will never be as good as when you are actually reading, contemplating, and appreciating its rich, lyrical, and affectionate qualities. Similarly, individuals who consume hot and cold water perceive themselves in a similar manner.

San Diego, March 26, 2017
Nguyen Sieu


Saturday, May 27, 2023

Thông Điệp Phật Đản PL 2567

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
VIỆN TĂNG THỐNG
******
HỘI ĐỒNG GIÁO PHẨM TRUNG ƯƠNG


THÔNG ĐIỆP
PHẬT ĐẢN 2567

Nam-mô Lâm-tì-ni viên, Vô ưu thọ hạ, thị hiện đản sanh,
BỔN SƯ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT

Một Con Người, này các Tỳ-kheo, xuất hiện thế gian; xuất hiện thế gian vì nhiều tăng ích, nhiều an lạc cho thế gian; vì thương tưởng thế gian; vì mục đích cứu cánh, vì tăng ích và an lạc của trời và người. Một Con Người ấy là ai? Là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác.”

Một Con Người đã vượt qua tất cả mọi hạn chế của con người, trong hạn chế của tư duy và nhận thức, bị ràng buộc bởi những cảm nghiệm phù phiếm về bản thân và thế giới; bị thúc đẩy bởi khát vọng sinh tồn mù quáng, ám ảnh bởi sợ hãi trước những sức mạnh vô hình luôn luôn đe dọa sự sống và sự chết; trong bóng tối kinh sợ của vô minh và khát ái, không tìm thấy nơi nương tựa an toàn, nhiều người tìm đến nương tựa, cầu khẩn thần núi, thần rừng, thần vườn, thần cây, thần miếu.

Một Con Người đã xuất hiện trong thế giới sinh loại, trong thế giới nhân sinh; trong thời trục định hướng cho lịch sử văn minh nhân loại, định hướng cho tư duy triết học, khoa học, và tôn giáo, từ hai nguồn suối dị biệt Đông Tây, tưởng như không thể có một nền văn minh tổng hợp của nhân loại mà chỉ có thể hợp nhất bằng bạo lực, như con người đã từng quỳ lạy trước các hiện tượng thiên nhiên không thể hiểu, đã tha hóa năng lực tự giác ngộ và tự giải thoát của tự thân, tự tâm để sùng bái các uy lực thần thánh; cuối cùng phát hiện một cá nhân chỉ có khả năng tồn tại an toàn dưới sự lãnh đạo một cá nhân sáng suốt, biết rõ mọi vấn đề, có khả năng khống chế mọi người khác dưới sức mạnh của bạo lực; con người khôn ngoan, bằng năng lực của trí tuệ, biết khống chế mọi người bằng bạo lực, bạo hành, con người ấy được tôn sùng là đấng Nhân chủ. Xã hội con người cần một đấng Nhân chủ, công bằng và sáng suốt; cũng vậy, thiên giới hiển nhiên cũng được ngự trị bởi một Đấng Thiên Chủ, toàn trí và toàn năng, để quan phòng trật tự thiên nhiên và bảo đảm an toàn cho con người trong thế giới sinh vật.

Lịch sử văn minh nhân loại quả thực đã được định hình và định hướng tư duy kể từ đó, từ trên 25 thế kỷ về trước. Nhưng vận mệnh lịch sử của thế giới được tính chỉ trong 20 thế kỷ, và ngày tận thế của thế kỷ 20 đã trở thành ám ảnh đầy sợ hãi của hầu hết nhân loại trong các cộng đồng dân tộc và tôn giáo khác nhau trên quy mô thế giới. Ám ảnh ấy vẫn tùy thời xuất hiện cho đến nay từ những biến động do thiên tai cho đến những đe dọa chiến tranh thế giới.

Để tránh khỏi những ám ảnh đe dọa này, các nhà lãnh đạo các quốc gia trên thế giới đã thảo luận các biện pháp an ninh, trật tự trong các cộng đồng quốc gia mỗi năm. Tuy vậy, mọi người đều biết rằng những biện pháp ấy chỉ tồn tại trong các bản văn nghị quyết, không có dấu hiệu khả thi trong từng quốc gia cá biệt.

Dù vậy, các nguyên thủ quốc gia, tuy dị biệt về thể chế chính trị, được phân biệt theo thế lực ảnh hưởng quốc tế, cảm thấy cần giữ đốm lửa hy vọng về một thế giới an toàn, hòa bình an lạc giữa các cộng đồng nhân loại. Như vậy cần phải suy tôn một con người hiện thực, đã tồn tại hiện thực trong lịch sử của nhân loại. Con người ấy, các vị nguyên thủ ấy đã chọn lựa đức Thích-ca Mâu-ni như là biểu tượng hiện thực, cụ thể cho khát vọng hòa bình thế giới. Không phải vì Ngài là một vị thần linh tối cao, hay hơn thế; nhưng Ngài là một Con Người như mọi con người khác trong thế giới sinh vật; một Con Người tự nhận cũng đã chịu mọi đau khổ khốn cùng như mọi sinh vật khác, trải qua vô tận thời gian; và con người ấy đã từng sống trong cung vàng điện ngọc của giai cấp thống trị, tưởng chừng như không biết gì đến những đau khổ của thần dân của mình, nói chi đến đau khổ của muôn loài. Con Người ấy, trong tuổi thiếu niên phủ đầy nhung lụa, chỉ một lần chứng kiến cảnh tượng đấu tranh sinh tồn quyết liệt, tàn bạo trên một cánh đồng, giữa các sinh vật chim, cá bé bỏng, cho đến con người và tạo vật, đã không ngớt trầm tư về ý nghĩa sống chết của mọi loài chúng sinh. Rồi một lúc khác, trong tuổi thanh niên cường tráng, chỉ một thoáng chứng kiến một con người già yếu, một con người tật bệnh, và một con người đã chết, giữa vô số thần dân đang chào mừng vị Nhân chủ tương lai của mình trong cảnh tượng huy hoàng; chỉ một thoáng ấy, với tâm đại bi vô lượng, đã xúc cảm trước vô biên khổ lụy nhân sinh. Từ đó quyết chí tầm cầu ý nghĩa đích thực của sinh-lão-bệnh-tử. Rồi trong một đêm tối, giữa giấc ngủ êm đềm của cung điện, vị Hoàng đế tương lai quyết chí từ bỏ tất cả, cưỡi con tuấn mã âm thầm vượt thành, để lại đằng sau biết bao hy vọng của thần dân, và của thân quyến quý tộc quyền uy.

Con Người ấy, sau khi tuyên bố đã giác ngộ, hiểu rõ ý nghĩa khổ lụy nhân sinh, đã khám phá con đường dẫn đến cứu cánh diệt khổ. Sự công bố giáo lý diệt khổ ấy dù được công nhận phổ biến hay không bởi các cộng đồng văn minh dị diệt, nhưng sự thực lịch sử được thấy rõ: ngôn ngữ và hành vi của Con Người tự tuyên bố đã Giác ngộ ấy, trải dài trên 25 thế kỷ trong một vòng tròn Á châu rộng lớn, chưa hề dẫn đến hận thù, khiêu khích đấu tranh, bạo hành cách mạng, xứng đáng là biểu tượng cho hy vọng hòa bình, bao dung và nhân ái trong một thế giới có nguy cơ hủy diệt bởi hận thù tranh chấp từ các cộng đồng dân tộc, bởi mâu thuẫn giáo điều không thể bao dung giữa các tôn giáo, nhất là từ những tham vọng bá chủ thế giới của các cường quốc tự nhận văn minh thịnh vượng hàng đầu trong thế giới.

Điều có ý nghĩa là các nguyên thủ quốc gia, trong đó chỉ một số nhỏ là quốc gia có truyền thống Phật giáo, tất cả đồng thanh nghị quyết chọn ngày Phật đản làm ngày lễ Liên hiệp quốc, như là ngày khát vọng hòa bình của nhân loại. Sau nghị quyết ấy, lễ kỷ niệm Phật đản được tổ chức tại văn phòng Tổng thư ký Liên hiệp quốc từ năm 2000, cho đến năm 2004 về sau do chính phủ Hoàng gia Thái lan đăng ký tổ chức, và năm 2008 do chính phủ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt nam đăng ký tổ chức.

Trong các đại lễ kỷ niệm ấy, giáo nghĩa về hòa bình của Đức Thích Tôn được tuyên dương trong các hội trường, và cũng chỉ tồn tại trong các bản văn được công bố từ các hội trường. Đó là chưa nói đến ẩn ý sau các bản văn tuyên dương, với ý hướng nâng cao vị thế của quốc gia hay chính thể của mình trong sứ mạng đấu tranh cho hòa bình thế giới, hoặc để thanh minh chính sách tự do tôn giáo của chính thể mình trước nghi kỵ của một số quốc gia cần có quan hệ thân hữu, trong môi trường đấu tranh quyền lực khốc liệt của thế giới.

Trong thời kỳ đang diễn ra những trận chiến đẫm máu giữa các quốc gia tranh quyền bá chủ, đại diện chính phủ của một quốc gia Phật giáo có thể đề nghị biện pháp hòa giải xung đột dẫn lời Đức Phật, về từ bi, như là giải pháp tốt đẹp nhất. Nhưng làm thế nào để cải hóa một nhân vật đầy quyền lực, đầy tham vọng khó thỏa mãn trở thành con người từ ái bao dung? Không một đề nghị thực hành cụ thể nào ngoài những tán dương dẫn Phật ngôn một cách sáo rỗng.

Phật tử chân chính tự hỏi, trong số vô lượng pháp môn mà Đức Phật đã tuyên thuyết để đối trị vô lượng phiền não ô nhiễm của chúng sanh, hiện không có pháp môn nào khả dĩ tu tập một cách chánh hành, như lý để phát huy tâm từ quảng đại, chứ không chỉ là thiện bẩm sinh, hiền lành như một con nai, và chỉ chừng ấy chứ không thể lớn hơn? Câu trả lời: có thể. Đức Phật được xưng tán như là Đại y Vương, như một y sĩ thiện xảo, chẩn đoán chính xác nguyên nhân căn bệnh và bốc thuốc đúng bệnh thích hợp với thể chất, với cơ địa tâm địa, nhưng bệnh nhân phải uống thuốc đúng liều lượng, đúng thời gian chỉ định, hay tự dung nạp thuốc theo kiến thức y học tai hại của mình.

Người học Phật, tu Phật cũng thế. Trong thế giới nhiễu nhương, bởi những thông tin nhiễu loạn, từ những nguồn nhận thức điên đảo bởi khát vọng sinh tồn mù quáng, dẫn đến tà chánh khó phân, Phật với Ma khó biệt, thế thì cứu cánh giải thoát và giác ngộ được hướng đến chỉ mơ hồ như ảo ảnh, thậm chí là quái tượng, trong sa mạc.

Phật tử Việt nam có thể tự hào với lịch sử dân tộc và đạo pháp đồng hành trong suốt hai nghìn năm, niềm tự hào ấy chỉ để thỏa mãn, tự mãn, tự nhận ta là đệ tử kế thừa xứng đáng. Nhưng niềm tự hào ấy không đủ căn và lực để cải thiện tự tâm, để nâng cao phẩm chất đạo đức và trí tuệ, để vững bước trên Thánh đạo, không nhầm lẫn giá trị thế tục với Thánh đạo.

Kể từ mùa Pháp nạn Quý mão đau thương, máu của các Oanh vũ Phật tử bé bỏng đã đổ xuống vì tham vọng ngông cuồng của quyền lực thế tục và từ đêm hôm ấy, ngọn lửa BI HÙNG của Tăng-Ni Phật tử lần lượt bùng lên, tự đốt cháy thân mình để tự soi sáng mình bước đi trên Thánh đạo trong đời này và vô tận đời sau, để cúng dường cho sự tồn tại của Chánh Pháp rạng ngời trên Quê hương, soi tỏ bước đi của Dân tộc trong dòng tiến hóa vinh quang đầy bao dung và nhân ái.

Phật đản năm nay, sau ngày Pháp nạn Quý mão, trải qua 60 năm của một chu kỳ Hoa giáp, một vận hội thiên diễn trong truyền thống lịch pháp phương Đông, Đông Á, kể từ ngày Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất được thiết lập, ghi dấu một giai đoạn lịch sử truyền thừa, định hướng phát triển và tự đảm nhận sứ mệnh trong sự nghiệp chung của dân tộc, phát huy truyền thống bao dung nhân ái trong sự nghiệp giáo dục, văn hóa, tiến bộ xã hội; dù khiêm tốn nhưng cũng đã thành tựu được số nhỏ trong khoảng 10 năm của một đất nước đang bị tàn phá bởi cuộc chiến huynh đệ tương tàn; và nói chung, Phật giáo Việt nam đã làm được gì sau trên 50 năm hòa bình mà hận thù phân hóa dân tộc chưa được hóa giải?

Dưới những áp bức của các thế lực vô minh đang đè nặng lên tầng lớp quần chúng khốn cùng trong cơn đại dịch, đốm lửa tình tự dân tộc đã âm thầm sưởi ấm đồng bào trong những ngày cùng khốn, chia sẻ nhau từng đấu gạo từng bó rau để vượt qua tai họa rập rình bên bờ vực sống chết, không nương tựa nơi nào khác ngoài sự nương tựa chính mình và anh em cùng khốn như mình.

Để cúng dường Phật đản Quý mão, sau 60 năm Pháp nạn Quý mão, người con Phật tự mình tu dưỡng, để từ đốm lửa tình tự dân tộc ấy thắp sáng lên thành ngọn đuốc sáng cho chính mình và cho mọi người chung quanh, kiên cố Bồ-đề tâm, thắng tiến Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành, vững bước trên Thánh đạo tiến đến cứu cánh giải thoát và giác ngộ cho mình và cho nhiều người.

Kính lễ Đấng Tam giới Chí tôn, Tứ sanh Từ phụ,
Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật.

Phật đản 2567,
Phật Ân tự, mồng tám tháng Tư năm Quý mão
Thừa ủy nhiệm
Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương,
Chánh Thư Ký
Viện Tăng Thống
(Bản PDF có ấn ký)

                       Thiện Thệ Tử Thích Tuệ Sỹ

Nguồn: Hội Đồng Hoằng Pháp