Saturday, July 28, 2018

Nhật Bản và Tín Ngưỡng Quan Âm

Nhật Bản và Tín Ngưỡng Quan Âm
Nguyên Giác

Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, còn gọi là Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, có khi còn gọi là Đức Phật Quan Âm, được Phật tử nhiều quốc gia Châu Á thờ phượng vì hạnh nguyện hóa hiện nhiều thân tướng để cứu độ chúng sanh. Riêng đối với Nhật Bản, nơi nhiều tông phái Tịnh Độ thịnh hành, hình tượng Đức Quan Âm hiện diện trong rất nhiều chùa, trong các tuyến hành hương, và trong văn học. Bạn chỉ cần đi vào bất kỳ ngôi chùa nào tại Nhật Bản, nhiều phần là bạn sẽ gặp tượng Đức Quan Âm, hoặc là nghìn tay nghìn mắt gọi là Senju Kannon (Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm), hoặc là một hóa thân của ngài là tượng Đức Chuẩn Đề 18 tay, nhưng thường gặp nhất là tượng Quan Âm Nam Hải trong bộ áo trắng.
Chúng ta có thể đọc trong thơ của Basho (1644-1694) hình ảnh nhà thơ đứng nơi gác chuông Chùa Kannon (Quan Âm Tự) nhìn xuống núi, thấy mái ngói chùa trôi nổi trong các chùm mây hoa anh đào:
Mái ngói Chùa Quan Âm
trôi dạt xa trong mây
của các chùm hoa anh đào.
.
Hay là thơ của thi sĩ Taigu Ryokan (1758-1831):
Gió đã lặng rồi
nhưng hoa vẫn còn rơi
chim hát, tịch lặng trong mỗi lời chim.
Huyền nhiệm! Không có thể biết, không có thể học
Đức hạnh Ngài Quan Âm.
.
Tín ngưỡng Quan Âm gắn liền với văn học Nhật Bản, y hệt như tại Việt Nam hay Trung Hoa. Nhưng cũng gắn liền với khoa học kỹ thuật: chiếc máy ảnh hiệu Canon nổi tiếng thế giới, chiếc đầu tiên ra năm 1934 đặt tên là máy ảnh Kwanon (tức là: Quan Âm) – kiểu đầu tiên này là loại máy ảnh 35 mm đầu tiên của Nhật Bản. Tuy nhiên, sau khi ra thị trường Tây Phương, công ty đổi tên vì khó đọc chính xác, và khó viết cho đúng chánh tả, nên công ty Precision Optical Industry Co. Ltd. đổi tên là Precision Optical Industry Co. Ltd. năm 1934, và rồi đổi thành Canon Inc. năm 1969. Tên máy ảnh Canon là phát âm gọn của người Nhật Bản cho chữ Kannon (Quan Âm).
H1: Huy hiệu cũ của máy ảnh tiền thân của Canon (Quan Âm).

    Không chỉ văn học và khoa học kỹ thuật, hình ảnh Quan Âm in đậm trong tín ngưỡng  của dân Nhật Bản. Từ nhiều thế kỷ, Phật tử Nhật Bản có niềm tin rằng cần phải hoàn tất cuộc Hành Hương 100 Chùa Quan Âm – tiếng Nhật là Nihon Hyaku Kannon, tiếng Anh là “The  Japan 100 Kannon Pilgrimage.”

Tuyến hành hương 100 chùa đó chia làm ba tuyến đường độc lập nhau: tuyến Saigoku 33 Kannon, trong vùng Kansai, gồm 33 chùa; tuyến Bandō 33 Kannon, trong vùng Kantō, gồm 33 chùa; tuyến Chichibu 34 Kannon trong vùng Chichibu, Saitama, tuyến này ban đầu  chỉ 33 chùa, nhưng năm 1525 được xây thêm một ngôi chùa cho tròn 100 ngôi chùa để hành hương.
Tại sao con số 33 được ưa chuộng trong tín ngưỡng Quan Âm? Bởi vì trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (The Lotus Sutra), ghi rằng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giải thích cho Vô Tận Ý Bồ Tát về ý nghĩa của danh hiệu Quán Thế Âm là do vị Bồ tát này khi nghe âm thanh của chúng sanh xưng danh hiệu mình thì tức thời tầm thanh để cứu khổ. Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sanh bị các khổ não nghe đến danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, một lòng xưng danh Ngài thì ngay khi đó, Bồ Tát Quán Thế Âm tức thì quán sát âm thanh ấy, khiến cho họ đều được giải thoát. Và ngài hiện ra 33 ứng hóa thân, cũng là vô lượng thân trong sáu cõi để cứu độ.
Những gì chúng ta đọc trong sách sẽ khác với những gì chúng ta có thể thấy ở Nhật Bản. Và ngay cả chùa Nhật Bản cũng không giống gì với chùa Việt Nam. Một điểm dị biệt lớn là, trong khuôn viên Chùa Nhật Bản thường có một khu vực riêng để làm một ngôi đền Thần Đạo.
Trong chuyến đi thăm Nhật Bản trong tháng 4/2018, ngôi chùa đầu tiên tôi được dẫn tới thăm là Kiyomizu-dera Temple, tức là Thanh Thủy Tự, thời Đức Quan Thế Âm trên đồi Âm Vũ Sơn.
H2: Chùa Thanh Thủy Tự (Kiyomizu-dera) ở núi Âm Vũ Sơn, Kyoto.

H3: Ba dòng nước từ núi dẫn xuống, sau Chùa Thanh Thủy Tự.

H4: Cả thị trấn từ chân núi lên Thanh Thủy Tự nhìn đâu cũng thấy du khách chen nhau.

Người hướng dẫn đoàn du lịch từ Quận Cam (California) là anh Trần Nguyên Thắng, Giám đốc ATNT Travel & Tours (
www.atnttour.com). Cùng học với tôi từ thơ ấu, năm 1970 bạn Thắng có Tú Tài 2 xong là sang Nhật Bản du học, trở thành kỹ sư và làm việc với hãng Nhật hơn hai thập niên, sau đó mở công ty hướng dẫn du lịch trụ sở ở Quận Cam. Do có người hướng dẫn như vậy, kiến thức của bạn Thắng về lịch sử, văn hóa và xã hội Nhật Bản gần như toàn bích. Những bản văn trên các bia đá được Thắng dịch và giải thích bằng tiếng Việt rất rành mạch.
Thanh Thủy là nước trong. Kiyomizu-dera là một ngôi chùa độc lập ở phía đông Kyoto, là một phần của Di sản văn hóa cố đô Kyoto theo UNESCO. Theo lược sử trong tờ bích chương tiếng Anh của chùa, cho biết chùa này xây từ năm 778. Nguyên khởi vì nhà sư tên là Enchin có một giấc mơ về một dòng sông vàng chảy từ ngọn núi Otowa phía trên Kyoto. Khi thức giấc, nhà sư lên thăm ngọn núi đó, gặp một ông cụ đúng nơi thấy trong giấc mơ. Ông cụ Gyoei nói với nhà sư Enchin rằng ông cụ ở đó đã 200 năm, hàng ngày cầu nguyện Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Ông cụ Gyoei xin nhà sư Enchin vào thay chỗ, để ông cụ có thể ra đi hành hương và nói hy vọng sẽ quay lại. Trước khi ra đi, ông cụ chỉ vào một thân gỗ đã chặt, nói đó là gỗ tốt, nếu nhà sư muốn tạc tượng Đức Quan Âm.
Ông cụ Gyoei không bao giờ quay lại. Nhà sư Enchin mới đi tìm ông cụ, và chị thấy đôi giày ông cụ để nơi đỉnh núi. Nhà sư tin rằng ông cụ là một hóa thân của Đức Quan Thế Âm, nên cho dùng thân gỗ đã nói để tạc tượng Đức Quan Âm. Nhưng nhà sư Enchin loay hoay hoài, không tạc tượng được, suốt 20 năm. Lúc đó, có một lãnh tụ chiến binh (thời đó gọi là samurai) tên là Tamuramaro cảm ngộ ơn đức của nhà sư, nên bảo trợ việc xây chùa, cho gỡ toàn bộ căn nhà riêng của quan chức này và xây lại trên núi làm chùa cho nhà sư Enchin hoàn tất việc tạc tượng Đức Quan Âm.
Anh Trần Nguyên Thắng kể sự tích có hơi khác với sách hướng dẫn trên, nói rằng thời đó, phu nhân của lãnh tụ samurai kia bị sản nạn, sinh khó, cho nên vị tướng quân này mới chạy lên xin nhà sư Enchin cầu nguyện giúp. Nhà sư nói rằng nơi ngọn núi có 3 dòng nước nhỏ, và tướng quân nên hứng nước về cho phu nhân uống, trong khi nhà sư tụng kinh cầu nguyện. Cuối cùng mẹ tròn con vuông, tướng quân mới bảo trợ tất cả việc xây chùa thờ Đức Quan Thế Âm, và ngôi chùa này có tên là Thanh Thủy Tự, tức là nước trong tinh khiết.
Ngôi chùa bị cháy nhiều lần, và rồi được xây lại nhiều lần. Trong các quan chức giúp xây lại có Toyotomi Hideyoshi, vị tướng quân có công dẹp nạn sứ quân và thống nhất Nhật Bản vào thế kỷ thứ 16. Nhưng kiến trúc như hiện nay là xây hoàn tất năm 1633, với bảo trợ của Tokugawa Iemitsu, vị tướng quân đời thứ 3.
Có tin hay không là một chuyện, nhưng du khách tới là xếp hàng một tới 3 dòng nước được dẫn qua ống tre từ núi chảy xuống. Bạn Trần Nguyên Thắng hướng dẫn cách dùng gáo nước, sau khi múc nước từ từng dòng, đổ ra bàn tay và uống một chút, cầu nguyện hay không thì tùy, rồi đưa gáo nước vào dãy làm sạch vi trùng bằng tia sáng cực tím. Theo người Nhật tin tưởng, uống nước từ ba mạch nước này sẽ giúp thực hiện điều nguyện ước, ngoài ra còn sẽ trường thọ, khỏe mạnh và thành công trong việc học hay kinh doanh.
Đặc biệt trong khuôn viên Thanh Thủy Tự có một đền thờ của Thần đạo. Đền thờ này là đền Jishu (Jishu jinja) thờ Okuninushi - thần của tình yêu và đôi lứa. Bạn Trần Nguyên Thắng nói, dân Nhật gọi đền này là Đền Cầu Duyên, nghĩa là người cô đơn sẽ về gặp tình yêu thuận lợi. Nơi sân đền là hai tảng đá ngầm, nhô lên mặt đất một phần, cách nhau 18 mét: nếu người cầu duyên nhắm mắt, bước đi  từ tảng đá này sang đặt chân đúng lên tảng đá kia, thế nào cũng sẽ gặp mối lương duyên tốt đẹp.
Dĩ nhiên, chùa Kiyomizu-dera và đền cũng có những lá bùa khác nhau, có xin xăm. Nếu gặp xăm tốt, bạn sẽ cầm về nhà, chờ điều tốt lành tới. Nếu gặp lá xăm  xui xẻo, dân Nhật sẽ buộc lá xăm xui xẻo đó vào một nơi trước sân đền Thần Đạo, để mọi chuyện xui xẻo cho Đức Phật và chư Thần gánh chịu, hóa giải.
Ngôi chùa Thanh Thủy Tự thu hút đông du khách, do vậy cả thị trấn có đủ thứ kinh doanh trên lối đi từ chân núi lên chùa: tiệm ăn, tiệm kỷ vậy, tiệm cho thuê trang phục kimono để du khách chụp hình, tiệm bánh có đủ loại bánh đặc sản, tiệm trà, và vân vân. Nghĩa là, một ngôi chùa có thể nuôi sống cả một thị trấn.
Trong chuyến đi, đoàn du khách do ATNT hướng dẫn cũng tới thăm Công Viên Hòa Bình Heiwa-koen. Ngôi kiến trúc chính của công viên là Tứ Động Tâm, trên kiến trúc khắc 4 bức phù  điêu kể lại 4 hình ảnh thiêng liêng của Đức Phật: Khi Đức Phật đản sanh ở Lumbini (Lâm Tì Ni), khi Đức Phật thành đạo ở Bodhgaya (Bồ Ðề Ðạo Tràng), khi Đức Phật chuyển pháp luân-thuyết pháp lần đầu tiên cho năm anh em Kiều Trần Như ở vườn Sarnath (Lộc Uyển), và khi Đức Phật nhập Niết bàn ở Kusinara (Câu Thi Na).
Nơi đây đi vòng phía sau kiến trúc Tứ Động Tâm dẫn xuống một lối đi bộ hành ven rừng, dọc lối đi là 33 pho tượng Đức Phật Quan Âm, tượng trưng 33 ứng hóa thân để cứu độ chúng sinh. Mỗi pho tượng Đức Quan Thế Âm đứng hay ngồi theo những tư thế khác nhau, tùy hóa thân vào các cõi khác nhau.  Khi đứng trong công viên, có thể nhìn thấy phía xa là ánh mặt trời chiếu lên núi Phú Sĩ.
Kiến trúc tháp Tứ Động Tâm nơi Công viên Hòa Bình trên là do một chi nhánh của Nhật Liên Tông xây lên. Một trụ khổng lồ giữa sân trước, có khắc chữ Nhật đọc sang tiếng Việt là “Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh.”
H5: Nhóm du khách đi tour với ATNT chụp hình lưu niệm ở lối đi ven rừng Công Viên Hòa Bình có 33 tượng Phật Quan Âm.
H6: Ngôi chùa cổ nhất Tokyo, nổi tiếng Đức Quan Âm linh thiêng, với 30 triệu du khách/năm.


H7: Du khách chen nhau tại khu phổ tới ngôi chùa cổ nhất Tokyo mua sắm tưng bừng.







Trong khi đó, Tokyo có một ngôi chùa nổi tiếng linh thiêng khác là Chùa Quan Âm Asakusa. Nguyên cả một khu vực quanh chùa là thị tứ, bán đủ thứ, trong đó chùa chỉ là một phần nằm trong một góc Tokyo, nhưng chùa Phật Quan Âm Thiên Thủ (Senso-ji) này nổi tiếng cầu xin là được, theo niềm tin dân Nhật Bản.  Gọi như thế là cho tiện, thực ra theo Wikipedia, chùa có tên là Kinryū-zan Sensō-ji, dịch ra tiếng Việt là Thanh Long Sơn Thiên Thảo Tự. Chùa nằm trong khu phố cổ Tokyo. Đây là ngôi chùa cổ nhất tại Tokyo, mang nhiều lịch sử nhất. Kế bên chùa 5 tầng lầu là một ngôi đền Thần Đạo, trong khu chung quanh là cả một vùng phố thị buôn bán đủ thứ, trong đó du khách tới viếng Chùa Thiên Thủ trung bình mỗi năm là 30 triệu người, cả du khách trong và ngoài nước tới. Đây là một trong 10 chùa Nhật Bản đông du khách nhất.
Hãy hình dung một ngôi chùa nào ở Sài Gòn hay Hà Nội thu hút 30 triệu du khách một năm. Thí dụ, Chùa Vĩnh Nghiêm ở Quận 3, Sài Gòn nếu thu hút số lượng du khách đông như thế, nghĩa là cả một quận 3 sẽ sống thuần nhờ ngành du lịch. Niềm tin linh thiêng đã thu hút người tới để cầu xin.
Ngôi chùa đó xây riêng cho việc thờ phượng Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Theo truyền thuyết, một pho tượng Đức Quan Thế Âm được tìm thấy trên sông Sumida trong năm 628 bởi hai ngư dân, anh em Hinokuma Hamanari và Hinokuma Takenari. Trưởng làng, là ông Hajino Nakamoto, đã công nhận sự thiêng liêng của bức tượng và ông đã tu sửa ngôi nhà của mình thành một ngôi chùa nhỏ ở Asakusa, để người dân có thể thờ phượng Đức Quan Thế Âm. Ngôi chùa được xây dựng vào năm 645, và là ngôi chùa cổ nhất Tokyo. Trong những năm đầu của Mạc phủ Tokugawa, Tướng quân Tokugawa Ieyasu xem chùa này như đền thờ hộ mệnh của gia tộc Tokugawa.
Tự Điển Bách Khoa Mở ghi rằng một chiếc lồng đèn giấy lớn được treo dưới cổng Kaminari-mon ở lối đi chính dẫn vào khuôn viên của chùa. Đi qua cổng là con đường thẳng dẫn về phía bắc đến cổng Hozo-mon và điện Kannon-do (Quan Âm Đường). Con đường nằm ở hai cổng dài khoảng 250 mét, ngang qua phố Nakamise. Ở đây có các cửa hàng nhỏ san sát nhau, bán đủ mọi thứ, từ đồ lưu niệm đến những bánh bao manju và những con búp bê. Những chiếc quạt đầy màu sắc (có cả hai kiểu xếp được và không xếp được), ô dù và những chiếc lồng đèn, những chiếc áo happi, băng trò chơi điện tử…
Nếu bạn đang cư ngụ tại Nam California, và nếu bạn theo dõi băng tần truyền hình NHK của chính phủ Nhật Bản, trên làn sóng này vẫn thường chiếu hình ảnh về nhiều lễ hội  tại khu phố Asakusa của Tokyo – trong đó có nhiều lễ hội quanh năm, có lẽ là để thu hút du khách, nhưng nổi tiếng nhất là Sanja Matsuri, còn có tên là Sanja Festival vào tháng 5 hàng năm, trong đó các ngai thờ và các xe hoa được đưa tuần hành khắp trên đường phố trong ba ngày lễ hội, thường có  khoảng 1.5 triệu người tham dự lễ hội tưng bừng.
Đó là chỉ mới nói về tín ngưỡng Quan Âm trong chuyến đi Nhật Bản. Chuyến đi cũng ghé thăm nhiều ngôi chùa khác, nhưng không thờ riêng về Đức Quan Thế Âm Bồ Tát như các ngôi chùa kể trên. Mỗi ngôi chùa đều có những huyền thoại từ cả chục thế kỷ trước, có những niềm tin linh thiêng riêng. Thí dụ, như Thiên Long Tự (Tenryu-ji) ở chân núi Aashiyama, được bạn Trần Nguyên Thắng giải thích là tổ đình Thiền Phái Lâm Tế, nơi tấm tranh vẽ khổng lồ Bồ Đề Đạt Ma đặt ngay lối vào chánh điện. Hay ngôi chùa Todai-ji (Đông Đại Tự) thờ Đức Phật Tỳ Lô Giá Na của dòng Chân Ngôn Tông, nơi khuôn viên là cả trăm con nai hiền lành đi chen với người. Và một số ngôi chùa khác, không chuy6n biệt thờ Đức Quan Âm.
Nhật Bản là đất nước nhìn đâu cũng thấy hình ảnh đẹp, thơ mộng, sạch, tử tế… Cũng xin gửi lời cảm ơn người hướng dẫn Trần Nguyên Thắng, đã dịch các văn bia tiếng Nhật ra tiếng Việt rất cặn kẽ để giúp các thông tin đặc biệt cho bài viết này.


Friday, July 27, 2018

QUÝ HỮU SẼ NGHĨ GÌ, LÀM GÌ NẾU KHI CHỈ CÒN TRĂM NGÀY ĐỂ SỐNG ?!

QUÝ HỮU SẼ NGHĨ GÌ, LÀM GÌ


NẾU KHI CHỈ CÒN TRĂM NGÀY ĐỂ SỐNG ?!
Photo: Anh Bán
Hôm nay, chúng tôi hẹn nhau đi ăn cơm chay vì đang là ngày 14 Âm lịch. Nhưng cuối cùng, chúng tôi không vào các nhà hàng bán đồ chay trong vùng hay đi đâu xa mà cùng mang đồ ăn, trái cây đến thăm một người anh em huynh trưởng Gia đình Phật tử Việt Nam tại Hoa Kỳ đang lâm trọng bệnh: Huynh trưởng Quảng Quý Huỳnh Kim Lân (HKL). Tôi và anh Bạch Xuân Khỏe đến thăm anh Quảng Quý Huỳnh Kim Lân khi nghe tin bệnh tình anh đã đến giai đoạn cuối, khó lòng qua khỏi.
Trời Sacramento đang nóng 110°F (43°C) và chúng tôi đến đây lúc 2:00 giờ chiều là giờ nóng cao điểm nhất trong ngày.
Không sao! Ngoài trời có thể mát mẻ nhưng nếu có những ưu tư, buồn phiền, phẫn nộ bên trong thì sẽ làm cho người ta nóng lên. Ngược lại, nếu có những niềm vui tươi mát phát khởi tự trong lòng thì nội nhiệt sẽ đi từ trong ra ngoài mà làm cho con người nhẹ nhàng, mát mẻ. Tôi mỉm cười với chính mình khi liên tưởng đến “nội nhiệt” của các nhà sư Tây Tạng thiền định suốt cả mùa đông trong núi tuyết với tấm cà sa mỏng manh.
Anh Huỳnh Kim Lân đón chúng tôi bằng nụ cười thoải mái, thân thương và tự nhiên. Khi bắt tay và nhìn thẳng khuôn mặt anh, tôi hơi chững lại vì trước khi vào đây, tôi cứ hình dung là sẽ gặp một người bệnh ốm yếu, xanh xao. Nhưng thực tế thì ngược lại, anh Lân vẫn hồng hào với khuôn mặt khá đầy đặn và những nét ưu tư không in dấu ở đâu cả; nhất là với phong thái tự nhiên và thoải mái của anh.
Anh Lân cho biết rằng, cách đây hai tháng, bác sĩ đã xét nghiệm và kết luận là anh bị ung thư phổi giai đoạn cuối với thời gian trước mắt chỉ còn sống được sáu tháng. Nghĩa là tính từ hôm nay. anh chỉ còn lại bốn tháng trên cõi đời này nếu căn cứ vào những xét nghiệm và kết luận của y khoa hiện đại.
Chỉ còn hơn một trăm ngày để sống, bạn sẽ làm gì và ưu tư như thế nào? Đó có lẽ là câu hỏi thông thường nhất trong những trường hợp giới hạn cuộc sống chỉ còn tính theo ngày, theo tháng tương tự.
Thay cho những lời an ủi và thăm hỏi thường tình đối với một người mắc bệnh nan y, chúng tôi đã biến cuộc gặp gỡ thành một cuộc chuyện trò đầy thú vị. Anh Lân đã gợi ý rằng, trường hợp và tình trạng sức khỏe, bệnh tật tuy là riêng tư của anh, nhưng cũng có thể thông tin ra ngoài rộng rãi hơn như một “trường hợp tham khảo” (Case Study) trong các chuyên ngành xã hội, tâm lý, triết học và giáo dục; đặc biệt là cũng nên chia sẻ với anh chị em thuộc hệ thống Gia đình Phật tử Việt Nam trong cũng như ngoài nước. Chúng tôi cũng rất đồng ý với anh HKL rằng, trường hợp cá nhân của anh, nếu không câu chấp thường tình thì cũng có thể thông tin tương đối rộng rãi, thẳng thắn và trình bày công khai như một lời nhắn gởi lại cho đàn em. Hơn thế nữa, vì anh là một huynh trưởng Gia đình Phật tử kỳ cựu tại Việt Nam và Hoa Kỳ nên hiện đang có nhiều anh chị em huynh trưởng và đoàn sinh GĐPT trong cũng như ngoài nước đang chờ đợi tin anh.
Mở đầu câu chuyện, chúng tôi đã nêu ra một câu hỏi rất thông thường đối với người gặp cảnh ngộ như anh, rằng là: Anh có cảm thấy sợ hãi không khi khám nghiệm y khoa cho biết là anh chỉ còn một thời gian ngắn nữa để sống. Anh trả lời thản nhiên là anh không có một cảm giác sợ hãi nào cả. Đồng thời, anh cũng bày tỏ niềm tin xuất phát từ nguồn Tâm thâm sâu của anh rằng, anh có thể còn hay mất với sắc thân tứ đại này; nhưng anh chỉ coi việc ra đời và qua đời đơn giản và nhẹ nhàng như việc thay áo mới theo nẻo đi về của lý Duyên Khởi: Duyên hợp, duyên tan, duyên tàn, duyên tận... như bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông; như mọi sự trên đời đều đang đi trên đường Thành, Trụ, Hoại, Diệt; như mọi sinh vật đều theo một dòng trôi Sinh, Lão, Bệnh, Tử.
Hiện tại, anh vẫn dốc tâm cầu nguyện Hồng Ân Tam Bảo và lắng lòng thu nhiễm năng lượng lành của phép Phật nhiệm mầu và chư tôn, tứ chúng. Anh tập trung vào trì tụng Đức Phật A Di Đà và tựa hết nguồn tâm vào thế giới Cực Lạc trong những ngày còn lại của đời mình.
Là một huynh trưởng Gia đình Phật tử Việt Nam kỳ cựu 70 tuổi, anh HKL đã dấn thân vào sinh hoạt với tuổi trẻ và Đạo Phật Việt Nam từ ngày còn bé. Anh cũng là người thọ bồ tát giới đã trên 30 năm. Nhưng anh đã tâm sự một điều làm chúng tôi lắng lòng theo dõi và suy gẫm khi anh cho rằng, suốt bao nhiêu năm làm người Phật tử, anh chỉ là người học Phật, tụng niệm kinh kệ, sinh hoạt lễ nghi và hoạt động thanh niên chứ chưa bao giờ là người biết TU theo con đường Phật giáo cả. Anh cho rằng, TU phải đồng nghĩa với HÀNH. Nghĩa là những gì thuộc về lý thuyết cần phải được thể hiện cụ thể trong hành động và cuộc sống. Tu đạo là sống đạo và hành đạo chứ không phải chỉ chấp tay, cúi đầu theo đạo và thờ đạo một cách thụ động. Tinh túy của đạo Phật là cứu khổ mang vui cho chúng sinh. Theo đạo Phật không phải là để làm học giả hay diễn giả mà phải làm một hành giả. Hành giả là người hiểu đạo, sống đạo để đem đạo vào đời. Hành giả không thể là người học thuộc lòng những tạng kinh điển, nói toàn những chuyện xa xôi lý thuyết trên mây mà quên đi sự đau khổ của trần gian đang có mặt thường xuyên trong ta và quanh ta. Bởi vì nếu không có đau khổ thì Phật giáo không có lý do ra đời để làm một tôn giáo cứu khổ.
Nói tóm lại, khi con người đã sống qua 70 năm cuộc đời thì nếu còn lại chừng một trăm ngày để sống, người ta sẽ nghĩ đến một cái gì diệu dụng nhất có thể đạt được trong một khoảng thời gian ngắn nhất và quý báu nhất.
Anh Huỳnh Kim Lân cứ nhắc đi, nhắc lại một điều mà anh lấy làm tiếc là suốt trong 70 năm qua chưa làm được là thực hành đạo Phật. Đạo Phật là đạo để thực hành và tu học giúp chuyển biến con người từ thấp đến cao, từ xấu đến tốt, từ bất thiện đến hoàn hiện chứ đạo Phật không phải là một phương tiện để bị rơi vào lý thuyết rườm rà, cao xa hay những lễ nghi phiền toái mà thật sự không giúp cho con người thoát khỏi những hệ lụy đầy đau khổ giữa đời thường.
Chúng tôi hỏi anh HKL về cách tu học cụ thể hơn trong thời gian quá ngắn còn lại anh có thể xếp ưu tiên những việc gì cần phải làm trước nhất và lần lượt sau đó. Theo anh thì việc đầu tiên là phải sám hối. Sám hối để tự soi sáng chính mình với một tâm hồn trong ngần tươi mát dâng lên đức Phật. Sau đó mới nói đến sự Chí Thành cầu nguyện để cầu xin năng lượng lành của chư Phật, tôn nghinh hùng lực của Tây phương giáo chủ A Di Đà để trong phút lâm chung còn giữ được nhất tâm bất loạn mà kinh văn đã diễn tả: “Trong khoảng một niệm, sinh về Cực Lạc, sen nở thấy Phật, liền nghe Phật thừa, chóng mở Phật tuệ...”
Thời gian tương đối của đời thường không phải là thước đo mức độ ngắn dài của quá trình tu học và giác ngộ trong đạo Phật. Tuy chỉ có 6 năm khổ hạnh công phu như một sự nếm trải đâu là phương tiện thiện xảo để tu hành và 49 ngày thiền định dưới cội bồ đề trong rừng già cô tịch, nhưng Đức Phật đã để lại dấu ấn “sát na nghìn trùng” của dòng sống 80 năm giữa cõi Ta Bà và đã huân tập công phu qua hằng hà vô số kiếp.
Người ta thường nghĩ cuộc sống là tình cờ hay có một sự xếp đặt vô hình nào đó. Người xưa tin tưởng rằng: “Nhất ấm nhất trác, giai do tiền định”, nghĩa là một miếng ăn, một cái uống thảy đều do sự sắp xếp trước cả.
Người theo đạo Thiên Chúa thì tin rằng, “Một sợi tóc trên đầu rụng xuống cũng do thánh ý của Đức Chúa Cha.” Nhưng với quan điểm Phật giáo thì mọi sự diễn ra đều do duyên nghiệp trùng trùng biến hiện, tương tác lên nhau mà sinh diệt không ngừng; tuyệt nhiên không có một nguyên nhân khởi đầu nào đơn lẻ, duy nhất mà sinh ra cả.
Dẫu niềm tin có đơn giản hay phức tạp đến mức độ nào, kể cả vô thần… thì cũng gặp nhau ở một điểm chung là hình ảnh khởi đầu khi sinh ra và sự kết thúc khi chết. Dẫu cho sau cái chết còn có sự sống đời đời; hay kiếp sống luân hồi xoay vần không bao giờ ngưng nghỉ thì tất cả cũng đều nhận ra một sự hiện hữu trước mắt, trực tiếp, nắm bắt được mà không cần thông qua tưởng tượng hay lý luận của đời người: Đó là cái chết.
Bởi vậy, khi đối diện với cái chết trong tầm tay thì phản ứng tâm lý, tình cảm, lý trí của mỗi người một khác nhau. Chúng tôi ngồi bên cạnh anh HKL - Người mà theo lời bác sĩ thì chỉ còn hơn 100 ngày nữa để sống - với niềm cảm xúc miên man và những câu hỏi thầm lặng... Nhưng “đoạn trường ai có qua cầu mới hay” nên thật khó mà có thể hiểu được hay đồng cảm được để phân tích chia sẻ với anh và với chính mình lúc này. Khái niệm vô thường trong Phật giáo là một nguyên tắc khách quan tuyệt đối. Nghĩa là không có gì thường hằng, tồn tại vĩnh cửu cả. Bởi vậy, bí quyết “an tâm” là biết lấy cái vô thường làm cái thường trong cuộc sống. Người trẻ tuổi nhất trong nhóm bốn người anh em chúng tôi hôm nay là anh Bạch Xuân Khỏe. Anh nhắc cái Vô Thường mới chính là cái Thường khi nói rằng: “Con là người nhỏ tuổi nhất nhưng biết đâu con lại là người ra đi trước nhất. Nếu việc đó xảy ra ngay bây giờ, trong vòng ít phút nữa, hay một thời gian sau... thì chúng ta vẫn phải xem chuyện đó là Thường và đó là biết đem cái Vô Thường để làm cái Thường vậy”.
Anh Huỳnh Kim Lân mỉm cười nhẹ nhàng khi nghe người trẻ tuổi nhất đám nói như vậy. Chắc bao lâu nay anh cũng nhìn mọi sự như Khỏe nên cho đến phút này anh vẫn an nhiên tự tại đến như vậy phải không anh Lân?
Chúng tôi còn đi xa hơn về những vấn đề nóng bỏng và cập nhật của đạo pháp, dân tộc và tuổi trẻ mà trọng tâm là GĐPT. Và ước vọng tha thiết của người có khả năng ra đi sớm nhất là sự hợp nhất của GĐPT và sự thống nhất của Phật giáo Việt Nam hải ngoại. Chúng tôi nói nhiều đến một khái niệm cũ trong một hoàn cảnh mới, đó là truyền thống “bất khả phân” trong một xã hội đa nguyên tự do phương Tây với biểu tượng Salad Bowl (Dĩa Xà Lách). Trong đó sự kết hợp và hóa giải đặt trên căn bản “đa nguyên, đa lưu chi” – nhiều nguồn, nhiều nhánh, nhiều cành – nhưng tất cả đều có vai trò quan trọng độc lập và nếu thiếu đi một thì sẽ làm cho giá trị của tổng thể bị mất đi: Một nhúm gia vị, một trái ớt, hạt tiêu, củ hành, rau cải… đều quan trọng và cần thiết trong sự phối hợp nhịp nhàng và khéo léo để tạo nên một dĩa xà lách ngon mà mọi người đều ưa chuộng…
Cuộc “tâm đạo đàm” kéo dài hơn hai tiếng đồng hồ nhưng với anh Huỳnh Kim Lân cũng như các anh em có mặt đều tươi vui và phấn chấn. Hình ảnh “tăng già hòa hợp, tứ chúng đồng tu, tuổi trẻ vươn lên” đã biến sự ám ảnh mù mịt của cái chết thành niềm cảm khái tươi vui của sự sống hiện tiền. Phép lạ của hướng thiện và hành thiện. Có dịp sẽ xin trở lại đi vào chi tiết những lời chí thành của tiếng chim đang đi vào vĩnh cửu.

Sacramento, giữa Mùa An Cư 2018
           Trần Kiêm Đoàn

Tuesday, July 24, 2018

Kịch bản - Âm điệu đêm lửa trại

Âm Điệu Đêm Lửa Trại – Nguyên Túc
Tiếng Đêm - Photo: BXK
Âm Điệu Đêm Lửa Trại – Nguyên Túc

Thưa quý anh chị,

Mùa Hè đã tới rồi, những ngày vui trại đang chờ đón các em mình — chắc chắn các anh chị em cũng đang tìm tòi, khám phá những cái mới trong sinh hoạt mang về đất Trại để chia sẽ cùng các em. NTu’c có vài kinh nghiệm chia sẽ với các anh chị em.

Trước hết, Đêm Lửa Trại có thể chia làm 4 phần:

1. Gọi Lửa
2. Nhảy Lửa
3. Quanh Lửa
4. Tàn Lửa

Có 3 nhân vật chính trong Đêm Lửa Trại: Quản Lửa, Quản Trò và Quản Ca;

Quản Lửa: Thầy Phù Thủy của ánh sáng và bóng đêm – vai trò quan trọng của Đêm Lửa Trại.
Quản Trò: Linh hồn của đêm Lửa Trại
Quản Ca: Làm chủ âm điệu của đêm Lửa Trại

Ở đây, Nguyên Túc xin giới thiệu với các anh chị em một bài hát mới có thể dùng trong phần Gọi Lửa của Quản Ca. Có dịp mình sẽ nói nhiều hơn về Quản Lửa và Quản Trò. Cả ba vai trò đều hợp tác ăn ý, đồng điệu … để có 1 đêm Lửa Trại tuyệt vời.

“Đêm đến đã lâu rồi…. sau một ngày trại, vui chơi sinh hoạt bên nhau, đã biết tên nhau, đã nắm tay nhau, cùng nhìn nhau… biết nhau. Giờ ngồi đây…

Giờ ngồi đây, bên cánh rừng xào xạc lá hoàng hôn
Xa xa, lời gió gọi mây… tiếng sóng vỗ bờ… tiếng dế chào đón màn đêm…

Chúng ta ngồi yên lặng trong một vòng tròn, bên cánh rừng đó

Một nửa vòng tròn, bắt đầu gọi nhỏ:

— Bạn Hỡi !

Một nửa vòng tròn trả lời:

— Bạn ơi !

Một nửa vòng tròn, bắt đầu gọi to hơn:

— Bạn Hỡi !

Một nửa vòng tròn trả lời to hơn:

— Bạn ơi !

Những tiếng gọi nhau: Bạn hỡi, bạn ơi … sẽ tạo ra những chuổi tiếng dội kéo chúng ta lại gần nhau hơn; gần thiên nhiên hơn…

Cả vòng tròn đều hát:

— Hãy yên lắng nghe tiếng đêm về ! Hãy yên lắng nghe tiếng đêm về !

Một nửa vòng tròn nghe lá xào xạc và hát trước:

— Kìa tiếng Lá xào xạc trên cây

Một nửa vòng tròn nghe gió vút trời mây và hát theo:

— Kìa tiếng gió gởi lời cho Mây

Một nửa vòng tròn nghe tiếng sóng tự tình với bờ cát và hát :

— Kìa tiếng Sóng rời bờ xa khơi

Một nửa vòng tròn nghe tiếng Dế nỉ non, và hát:

— Kìa tiếng Dế ôm đàn chơi vơi !

Một nửa vòng tròn, bắt đầu gọi lại:

— Bạn Hỡi !

Một nửa vòng tròn trả lời:

— Bạn ơi !

Một nửa vòng tròn, bắt đầu gọi to hơn:

— Bạn Hỡi !
Một nửa vòng tròn trả lời to hơn:
— Bạn ơi !

Và lặp lại đoạn

Hãy yên lắng nghe tiếng đêm về ! Hãy yên lắng nghe tiếng đêm về !
Kìa tiếng Lá xào xạc trên cây
Kìa tiếng Gió gởi lời cho Mây
Kìa tiếng Sóng rời bờ xa khơi
Kìa tiếng Dế ôm đàn chơi vơi
Bạn hỡi ! Bạn ơi!
Bạn hỡi ! Bạn ơi!

Cả vòng tròn:

Hãy yên lắng nghe tiếng đêm về ! Hãy yên lắng nghe tiếng đêm về!
Tiếng đêm thì thầm.. Gọi mời ta CA A A A A
[vào Phần Nhảy Lửa] Lửa Hồng cháy bừng toả hào quang …

Nhạc:

Monday, July 23, 2018

TỦ SÁCH ÁO LAM - ĐẠO TRÀNG LAM VIÊN

TỦ SÁCH ÁO LAM - ĐẠO TRÀNG LAM VIÊN 
Cố Hoà thượng Thích Thiện Minh - Sáng lập viên GĐPT

Lời dẫn: Xin mượn lời của một người bạn Huynh trưởng Huyền Trang IV âm thầm làm việc trong những năm qua. Anh tâm sự, "Mình thích làm việc sau lưng sân khấu, không thích khoe danh tánh... vì không muốn bản ngã lớn theo tên tuổi ☺." Anh tâm sự thêm, "Cần anh em nghiên cứu bộ sách Việt ngữ  và nếu được giới thiệu rộng rãi dùm." Vây xin trân trọng giới thiệu, Tủ Sách Áo Lam cùng với bạn đọc và mong phổ biến rộng rãi. (Trang này sẽ được cập nhật mỗi tháng. Nếu có tài liệu gì quý, xin gởi cho.)


TÀI LIỆU - EM HỌC VIỆT NGỮ

TÀI LIỆU GĐPT

TÀI LIỆU HOA ĐÀM

TÀI LIỆU PHẬT PHÁP

TÀI LIỆU NHẠC SINH HOẠT TRONG GĐPT

TÀI LIỆU NHẠC SINH HOẠT GĐPT CỦA VÕ TÁ HÂN

TÀI LIỆU NHẠC CHẾ LỜI

TÀI LIỆU GÚT


Tài Liệu Băng Giảng  Hay của Ni Trưởng Trí Hải

Kho Sách Quý
Nhạc của Nguyên Túc - Nguyễn Sung 

Sunday, July 22, 2018

Nghĩ Về Án Tử Hình

Nghĩ Về Án Tử Hình
Nguyên Giác

Người con Phật nghĩ gì về án tử hình?
Đứng về phương diện cá nhân, rất minh bạch rằng không Phật tử nào ủng hộ án tử hình. Đứng về phương diện quốc gia, thực tế là rất nhiều quốc gia -- nơi Phật giáo gần như quốc giáo, như Thái Lan, Miến Điện, Sri Lanka… -- vẫn duy trì và thực hiện án tử hình.
Tại Thái Lan, án tử hình dùng để trừng phạt cho 35 tội hình sự, trong đó có tội sát nhân và buôn ma túy. Miến Điện cũng thế. Điểm hay là ở chỗ, hai quốc gia này tuyên án tử hình, nhưng rất ít khi thi hành án tử.
Các quốc gia có đông dân số Phật tử -- như Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Singapore, Đài Loan… -- vẫn áp dụng án tử hình, và thường xuyên thi hành án tử.
Về phía kinh điển, lời dạy rất minh bạch. Kinh Pháp Cú, bản dịch của Hòa Thượng Thích Minh Châu viết:


129. Mọi người sợ hình phạt,Mọi người sợ tử vong.Lấy mình làm ví dụKhông giết, không bảo giết.


130. Mọi người sợ hình phạt,Mọi người thương sống còn;Lấy mình làm ví dụ,Không giết, không bảo giết.


Trong Kinh Trung Bộ 21 -- Kinh Ví dụ cái cưa, Đức Phật nói cụ thể rằng cho dù có bị một bọn cướp cưa tay, rồi cưa chân thì mình cũng đừng bao giờ khởi tâm căm giận, phải luôn luôn mở tâm từ bi hướng về những tên cướp đó. Bản dịch của Hòa Thượng Thích Minh Châu trích như sau:
“…Chư Tỷ-kheo, như những kẻ đạo tặc hạ liệt, dùng cưa hai lưỡi mà cưa tay, cưa chân; dầu vậy, nếu một ai ở đây khởi ý nhiễm loạn, người ấy do vậy không phải là người thực hành giáo pháp của Ta. Ở đây, chư Tỷ-kheo các Ông phải học tập như sau: “Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm; chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ; chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận. Chúng ta sẽ sống bao phủ người này với tâm câu hữu với từ. Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân”. Chư Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như vậy.”
Khó, rất khó vậy. Đó là phương diện tu học. Về phương diện trị nước, là khác. Vì khi quốc biến, người Phật tử phải ra trận, bất đắc dĩ phải phạm nghiệp sát, đó là lúc cần khởi Bồ đề tâm để không lạc tâm vào bất kỳ những niệm dữ nào.
Nhưng, câu hỏi là, án tử hình có hiệu lực trị an, có thể giúp xóa các tội về ma túy, sát nhân, cướp bóc hay không? Đây là cuộc tranh cãi lớn của nhiều thập niên vừa qua. Tất cả các quốc gia đang duy trì án tử hình đều xem đó là giải pháp ngăn cản tội ác hữu hiệu nhất.
Mạng Wikipedia ghi nhận rằng Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã thông qua, trong năm 2007, 2008, 2010, 2012 và năm 2014, các nghị quyết không ràng buộc kêu gọi đình chỉ tử hình toàn cầu, nhằm cuối cùng bãi bỏ. Tại các quốc gia thành viên Liên Âu, theo Hiệp ước Lisbon, Điều 2 của Hiến chương các Quyền Căn bản của Liên minh châu Âu cấm hình phạt tử hình. Ngoài ra, hội đồng châu Âu, mà có 47 quốc gia thành viên, cấm các quốc gia thành viên áp dụng luật tử hình. Ngược lại, nhiều quốc gia như Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Singapore... vẫn sẽ duy trì án tử hình với mục đích tạo hình phạt đủ sức răn đe với các loại tội phạm nghiêm trọng, nhằm đảm bảo an ninh chung cho xã hội. Hơn 65% dân số thế giới sống tại các quốc gia nơi có án tử hình, và bốn quốc gia đông dân nhất thế giới (Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Ấn Độ, Hoa Kỳ và Indonesia) vẫn đang áp dụng hình phạt tử hình và dường như sẽ không xoá bỏ nó trong một tương lai gần.
Tính đến cuối năm 2015, trên thế giới 65 quốc gia vẫn còn luật tử hình, 103 quốc gia đã hoàn toàn bãi bỏ luật này, 6 nước bãi bỏ cho những tội thông thường (chỉ tuyên tử hình với những tội đặc biệt như tội ác chiến tranh), và 30 bãi bỏ trên thực tế.
Có nhiều quốc gia giữ kín các thống kê về án tử hình.
Trong một thống kê về năm 2017, cho thấy Trung Quốc là nơi ra nhiều án tử hình nhất, và thực thi nhiều án này nhất thế giới. Rồi tới các quốc gia Hồi giáo.
Nếu nói rằng quốc gia đông dân, tất có nhiều án tử hình, điều này chỉ đúng với Trung Quốc, Pakistan… Riêng Ấn Độ (dân số: 1.32 tỷ dân trong năm 2016) rất ít dùng án tử hình; kể từ năm 1995 tới giờ, Ấn Độ chỉ thực thi 5 án tử hình.
Bhutan và Nepal là các quốc gia từ bi, đã chính thức hủy án tử hình từ lâu.
Khi nhìn về Khối ASEAN, chỉ duy nhất Cam Bốt là quốc gia duy nhất chính thức xóa bỏ án tử hình trong bộ hình luật. Nước Lào chưa chính thức xóa bỏ án tử, nhưng dường như không thi hành án tử nào.
Trong khi đó, Trung Quốc kêu án tử hình hơn 1,000s trường hợp và thực thi án tử hơn 1,000s trong năm 2017.
Nếu tính các án tử hình thực thi trong năm 2017, nhóm 10 quốc gia thi hành án tử nhiều nhất là (dấu + là ‘nhiều hơn’):

1. Trung Quốc (1,000s, hiểu là hơn cả ngàn trường hợp thi hành án tử); 2. Iran (507+);3. Saudi Arabia (146+);4. Iraq (125+); 5. Pakistan (60+);6. Egypt (35+);7. Somalia (24);8. Hoa Kỳ (23).

Nếu chỉ tính bản án tử hình nhiều nhất do tòa đưa ra, không đếm việc thi hành án, trong năm 2017, sẽ thấy nhiều nhất là nhóm 6 quốc gia này:

1. Trung Quốc (1,000s);2. Nigeria (641);3. Egypt (402+);4. Bangladesh (273+);5. Sri Lanka (218);6. Pakistan (200+).

Điều ngạc nhiên nhìn thấy, nơi Phật giáo gần như quốc giáo là Sri Lanka, nơi dân số chỉ khoảng 22.1 triệu người, lại kêu án tử hình nhiều thứ 5 thế giới, nhiều hơn cả Pakistan, nơi có 193.2 triệu dân. Nhưng con số án tử hình cho công dân Sri Lanka thực ra rất phức tạp.
Theo một phân tích, trung bình mỗi năm có ít nhất 150 công dân Sri Lanka, hầu hết là phụ nữ, bị xử tử hình. Họ là các phụ nữ xuất khẩu lao động sang Trung Đông (đa số là các nước Hồi giáo) làm tớ gái, bị các tòa kết án vì nhiều lý do, và rồi nằm trong quan tài hồi hương.
Thêm nữa, quốc gia Sri Lanka, sau khi cuộc nội chiến kết thúc năm 2009, trở thành một trung tâm ma túy thế giới. Điều này giải thích cho thấy vì sao Sri Lanka, nơi có nhiều thánh địa Phật giáo này, cũng có nhiều án tử hình. Có răn đe được hay  không cũng là chuyện để tranh cãi.
Điểm để suy nghĩ: nhiều án tử hình được minh oan. Nghĩa là, đã có nhiều người chết oan.
Như tại Hoa Kỳ, một thống kê cho thấy kể từ năm 1973 tới giờ, đã có 153 tử tội được minh oan để xóa án; may mắn, còn có hệ thống tư pháp xét đi, xét lại kỹ như thế. Một phần nữa, vì án tử hình tại Hoa Kỳ để nhiều năm sau mới thi hành án, và các luật sư biết cách kéo dài thủ tục kháng án để đi tìm thêm chứng cớ mới, nhằm cho thấy hoặc lời khai nhân chứng khó tin, hoặc chứng cớ ngoại phạm khả tín, hoặc cảnh sát làm sai thủ tục tố tụng…
Riêng trường hợp Việt Nam, một hồ sơ rất xúc động đang được chú ý: anh Đặng Văn Hiến bị kêu án tử hình và gia đình đang gửi đơn xin cứu xét, xin giảm án…
Báo Người Lao Động ngày 17/07/2018 viết:
Vừa đọc xong bản tin trên Báo Người Lao Động về việc Chủ tịch nước chỉ đạo kiểm tra việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án của chồng, bà Mai Thị Khuyên (vợ tử tù Đặng Văn Hiến) bật khóc và nói lời cảm ơn Chủ tịch nước.
Bà Khuyên cho biết mấy ngày qua bà đã tới nhiều cơ quan Trung ương gửi đơn xin cứu xét, giảm án tử hình cho chồng…”(ngưng trích)
Chủ tịch nước Trần Đại Quang sẽ ân xá anh Đặng Văn Hiến hay không, trong khi nhiều ngàn trí thức và các nhà vận động nhân quyền đã kêu gọi ân xá cho anh? Chúng ta không đoán được diễn tiến tương lai. Cũng không thể đoán được phản ứng của ông Chủ tịch họ Trần, người dường như trong gia tộc có nhiều thân nhân là tăng hay ni, nghĩa là những vị chủ trương hiếu sinh.
Bài viết này chỉ xin góp thêm một lời để xin tha mạng anh Đặng Văn Hiến, vì anh chỉ là nạn nhân trong một guồng máy xã hội  vận hành bất toàn như thế.