Showing posts with label Nguyên Túc. Show all posts
Showing posts with label Nguyên Túc. Show all posts

Friday, December 8, 2023

Nguyên Túc Nguyễn Sung | Tâm Quảng Nhuận dịch Việt: Người lãnh đạo, bạn là ai? | Who are you?

 

Sự lãnh đạo hiệu quả là nền tảng của bất kỳ tổ chức vững mạnh nào và cách ứng xử hay hành động của các nhà lãnh đạo ảnh hưởng đáng kể đến sự vận hành của tập thể hay tổ chức chúng ta. Xây dựng niềm tim, thể hiện trách nhiệm và cải tiến liên tục không chỉ là lý tưởng, mà đó là điều cần thiết cho sự bền vững và phát triển. Điều này đặt trên vai của “Những nhà lãnh đạo tích cực”, những người đóng vai trò là xây dựng một môi trường, văn hóa hoạt động tràn đầy năng lượng tiến. Ngược lại, “Những nhà lãnh đạo tiêu cực”, bằng những phương pháp không rõ ràng, bị thúc đẩy bởi nỗi sợ hãi và chỉ tập trung vào những lợi ích ngắn hạn, gieo mầm mống cho sự lủng củng và nếu không được kiểm soát, sẽ mở đường cho sự sụp đổ cuối cùng của một tổ chức. Bảng phân tích so sánh về hai phong cách lãnh đạo như trình bày ở đây, ước mong tạo tiền đề cho một cuộc thảo luận về các nguyên tắc lãnh đạo hiệu quả và những cạm bẫy cần tránh.

Những nhà lãnh đạo tích cực, hiệu quả, được đặc trưng bởi sự cởi mở và minh bạch, bằng chứng là họ sẵn sàng chia sẻ lượng thông tin tối đa có thể. Cách ứng xử này tạo ra sự tin tưởng và hòa đồng, vì mỗi thành viên trong nhóm cảm thấy có giá trị, (đồng nghĩa có tiếng nói) khi được cung cấp đầy đủ thông tin. Ngược lại, những Nhà lãnh đạo tiêu cực, có xu hướng bưng bít thông tin, hay chỉ chia sẻ ít ỏi. Điều này thường dẫn đến sự thiếu tin tưởng và văn hóa che đậy khiến cản trở sự cộng tác và cải tiến cần thiết.

Việc sử dụng quyền lực, thông qua quyền hạn một cách tế nhị và thận trọng tạo nên sự khác biệt cho những Nhà lãnh đạo tích cực bằng cách cho thấy rằng họ cân nhắc những tác động từ hành động và quyết định của mình đối với tập thể hay tổ chức có phạm vi rộng lớn hơn. Họ sử dụng quyền hạn như một phương tiện kỹ năng nhằm thay đổi tích cực và tản quyền. Ngược lại, những Nhà lãnh đạo tiêu cực, thường sử dụng quyền lực-quyền hạn một cách thiếu suy nghĩ, cân nhắc, không quan tâm đến tác động tiêu cực mà nó có thể gây ra, dẫn đến văn hóa e ngại và hiềm khích.

Tạo ra một môi trường nơi mà năng lượng tiến có thể phát triển là một dấu ấn khác của Nhà lãnh đạo tích cực. Họ hiểu rằng động lực là yếu tố tiên quyết thúc đẩy tinh thần để mọi thành viên cảm thấy được truyền cảm hứng hầu có thể làm tốt nhất phận sự của mình. Mặt khác, những Nhà lãnh đạo tiêu cực có xu hướng dựa vào áp lực, nỗi sợ hãi và hệ thống nguyên tắc phân cấp nghiêm ngặt, điều này vốn chỉ dẫn đến một tập thể mất động lực và chỉ hoạt động dựa trên sự tuân thủ máy móc hơn là sự gắn kết sinh động.

Nỗi ám ảnh về hiệu suất và thành quả có thể là hợp tình, hợp lý, nhưng Nhà lãnh đạo tích cực sẽ cân nhắc điều này bằng việc tập trung vào các quy trình và con người, đảm bảo cho kết quả sẽ bền vững và đạt được thông qua các kỹ năng lương thiện. Ngược lại, những Nhà lãnh đạo tiêu cực lại quy chiếu vào kết quả bằng bất cứ giá nào, điều này có thể dẫn đến những hành vi phi đạo đức và kiệt quệ.

Thể hiện hành vi kém là điều quan trọng đối với Nhà lãnh đạo tích cựcnhận thức đầy đủ việc xao lãng hành vi thiện nghiệp hay thiếu chánh niệm sẽ làm suy yếu tinh thần đồng đội và tạo tiền lệ tiêu cực. Ngược lại, những Nhà lãnh đạo kém cõi có thể bỏ qua những hành động không phù hợp để đạt kết quả thuận lợi, do đó làm xói mòn các tiêu chuẩn đạo đức và trách nhiệm với tư cách một người dẫn đường.

Những nhà lãnh đạo tích cực cũng thể hiện cam kết bình đẳng trong việc giải trình, phân tích sự thành công và thất bại, học hỏi từ cả niềm đam mê và kỷ luật. Quan điểm cân bằng này thúc đẩy văn hóa cải tiến liên tục. Tuy nhiên, những nhà lãnh đạo tiêu cực có thể tập trung quá nhiều vào những thất bại trong khi che đậy những thành công, điều này có thể tạo ra nỗi sợ thất bại và cản trở việc chấp nhận rủi ro cũng như đổi mới.

Linh động, sẵn sàng điều chỉnh mục tiêu để duy trì động lực là một thế mạnh khác của Nhà lãnh đạo tích cực. Họ đặt ra những mục tiêu đầy thách thức nhưng vẫn có thể đạt được, đảm bảo sự gắn kết của cả nhóm. Ngược lại, Người lãnh đạo tiêu cực có thể đặt ra những mục tiêu ngày càng khó đạt được, gây ra sự thất vọng và cảm giác vô ích giữa các thành viên trong nhóm.

Về trách nhiệm và trách nhiệm giải trìnhNgười lãnh đạo tích cực nói về trách nhiệm như một phần của việc trao hay tản quyền cho nhóm đồng thời khuyến khích tinh thần trách nhiệm phận sự của mỗi thành viên. Song, những nhà lãnh đạo tiêu cực có thể nói về trách nhiệm giải trình theo cách đổ lỗi và tạo ra bầu không khí trừng phạt.

Sự lưu tâm của những Nhà lãnh đạo tích cực khi sử dụng quyền hạn của mình phản ánh cách tiếp cận chu đáo và chiến lược, đảm bảo hành động của họ phục vụ tổ chức và nhân tố. Tuy nhiên, những người tiêu cực có thể sợ mất quyền lực, điều này dẫn đến các chiến thuật tự bảo vệ, gây tổn hại về lâu về dài đến tiền đồ của tổ chức.

Cuối cùng, hiểu biết về chính trị là điều cần thiết đối với bất kỳ nhà lãnh đạo nào, nhưng Nhà lãnh đạo tích cực sẽ điều hướng bối cảnh chính trị để mang lại lợi ích cho tổ chức và sứ mệnh của tổ chức. Ngược lại, những Nhà lãnh đạo tiêu cực có thể sử dụng chính trị để thúc đẩy các mục tiêu cá nhân, thường gây bất lợi cho người khác.

Tóm lại, việc so sánh “Những nhà lãnh đạo tích cực” (xây dựng) và “Những nhà lãnh đạo tiêu cực” (hủy hoại) sẽ làm sáng tỏ thực tế rõ ràng về các triết lý lãnh đạo khác nhau. Với nền tảng là tính minh bạch, hành vi có đạo đức và cách thăng hoa ứng xử với quyền hạn, phương pháp này sẽ thúc đẩy các tổ chức hướng tới một tương lai được đánh dấu bằng sự đoàn kết cao, văn hóa lành mạnh và thành công. Còn không, sẽ sa lầy trong sự mờ ám, xu hướng chuyên quyền và sự cố chấp thiển cận về hậu quả, gây nguy hiểm cho sức sống và tính bền vững của cơ cấu tổ chức.

Rõ ràng, con đường mà các nhà lãnh đạo lựa chọn không chỉ là di sản của họ mà còn là sự thành công hay thất bại của thể chế mà mình lãnh đạo. Vì vậy, việc hiểu những phong cách tương phản này không chỉ là một bài tập học thuật; đây là một phân tích quan trọng đối với bất kỳ tổ chức nào có ý định thúc đẩy một môi trường phát triêển-bền vững.

Who are you?

By: Nguyên Túc Nguyễn Sung

Effective leadership is the cornerstone of any successful organization, and the approach and actions of those at the helm can significantly influence the trajectory of their teams and businesses. A culture of trust, responsibility, and continuous improvement is not only ideal but essential for sustainable success. This embodies “Leaders Who Deliver,” who serve as the architects of a positive and robust organizational environment. In stark contrast stand the “Leaders Who Destroy,” whose methods steeped in secrecy, driven by fear, and focused on short-term gains sow the seeds of dysfunction and, if unchecked, pave the way to an organization’s ultimate downfall. This dichotomy of leadership styles sets the stage for a discussion on the principles of effective leadership and the pitfalls of its absence.

Leaders Who Deliver are characterized by their openness and transparency, as evidenced by their willingness to share the maximum amount of information possible. This approach breeds trust and inclusivity, as team members feel valued and informed. In contrast, Leaders Who Destroy tend to withhold information, sharing only the bare minimum required. This often leads to a lack of trust and a culture of secrecy that can stifle collaboration and innovation.

Mindful and vigilant use of power sets Leaders Who Deliver apart by showing that they consider the implications of their actions and decisions on their team and the broader organization. They wield power as a tool for positive change and empowerment. Conversely, Leaders Who Destroy often wield power thoughtlessly, without regard for the negative impact it may have, leading to a culture of fear and resentment.

Creating an environment where motivation can flourish is another hallmark of Leaders Who Deliver. They understand that motivation is intrinsic and foster an environment where employees feel inspired to do their best work. On the other hand, Leaders Who Destroy tend to rely on pressure, fear, and strict hierarchy, which can lead to a demotivated workforce that operates on compliance rather than engagement.

The obsession with performance and results can be positive, but Leaders Who Deliver balance this with a focus on processes and people, ensuring that results are sustainable and achieved through ethical means. In stark contrast, Leaders Who Destroy have a myopic emphasis on results at any cost, which can lead to unethical practices and burnout.

Addressing poor behavior is crucial for Leaders Who Deliver. They understand that condoning poor behavior for the sake of results undermines team morale and sets a negative precedent. In comparison, Leaders Who Destroy may overlook inappropriate actions if the outcomes are favorable, thus eroding ethical standards and accountability.

Leaders Who Deliver also demonstrate an equal commitment to analyzing successes and failures, learning from both with passion and discipline. This balanced view fosters a culture of continuous improvement. Leaders Who Destroy, however, may dwell on failures excessively while glossing over successes, which can create a fear of failure and stifle risk-taking and innovation.

The willingness to adjust goals to maintain motivation is another strength of Leaders Who Deliver. They set goals that are challenging yet achievable, ensuring team engagement. Conversely, Leaders Who Destroy may set increasingly unattainable goals, causing frustration and a sense of futility among team members.

Regarding responsibility and accountability, Leaders Who Deliver talk about responsibility as part of empowering their teams and encouraging ownership of work. Leaders Who Destroy, however, may talk about accountability in a way that assigns blame and creates a punitive atmosphere.

The mindfulness of Leaders Who Deliver when using their power reflects a thoughtful and strategic approach, ensuring that their actions serve the organization and its people. Those who destroy, however, may be frightened of losing their power, which can lead to self-preservation tactics that harm the organization’s long-term health.

Lastly, understanding politics is necessary for any leader, but Leaders Who Deliver navigate the political landscape to benefit the organization and its mission. In contrast, Leaders Who Destroy may use politics to advance personal agendas, often at the expense of others.

In conclusion, comparing “Leaders Who Deliver” and “Leaders Who Destroy” brings to light the stark realities of differing leadership philosophies. With its foundation in transparency, ethical conduct, and a nurturing approach to power, the former drives organizations toward a future marked by high engagement, robust culture, and stellar performance. The latter, mired in opacity, autocratic tendencies, and a short-sighted fixation on results, risks the vitality and sustainability of the organizational fabric.Clearly, the path chosen by leaders is not only their legacy but also the success or failure of the institutions they guide. Therefore, understanding these contrasting styles is more than an academic exercise; it is a critical analysis for any organization intent on fostering a resilient and thriving environment.

Thursday, February 25, 2021

Tuệ Sỹ: Duy Tuệ Thị Nghiệp - Only Wisdom Is the Profession


Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài. Phạm vi hoạt động của nó không chỉ giới hạn chung quanh những tàng kinh các, hay những pháp đường của các Tăng viện; mà còn ở cả nơi triều đình, công sảnh, và bất cứ nơi nào mà mọi người có thể tụ tập ít nhất là hai người, trong tất cả sinh hoạt nhân gian. Thêm vào đó là những biến chuyển qua các thời đại, sự dị biệt của các dân tộc… Tất cả được tập đại thành trong một bộ sử khá lớn của Phật giáo về vấn đề giáo dục. Dù vậy, ngày nay, vấn đề đó vẫn còn là một thể tài quá mới mẻ đối với giới Phật học. Sự va chạm giữa nền văn minh Đông và Tây, so với sự tiếp xúc giữa nền văn minh Hoa Ấn diễn ra từ cuối thế kỷ I Tây lịch kéo dài cho đến thế kỷ XI hay XII, đặc trưng qua hai triều đại Đường và Tống, với nỗ lực của trên mười thế kỷ đó, sự va chạm mà chúng ta chứng kiến ngày nay quả là không thấm vào đâu. Khó khăn chính yếu của chúng ta hiện tại không phải là vấn đề phương pháp như đa số lầm tưởng. Những cống hiến của các nhà Phật học trong lãnh vực ngôn ngữ Âu châu đã chứng minh điều đó. Thể điệu trước tác của những hệ thống tư tưởng và văn học của Phật giáo giờ không còn là một “mê hồn trận” khó vào nữa. Xưa kia, người Trung hoa đã làm thế nào mà nắm ngay được “mạch ngầm” của Phật giáo để thực hiện nó theo bản sắc dân tộc và truyền thống văn học tư tưởng của mình, đấy là kinh nghiệm rất phong phú. Mặc dù giữa hai quốc gia này bị ngăn chận bởi dải sa mạc mênh mông giữa miền Cao Á và ngọn Thông lĩnh lạnh lùng; với biên giới thiên nhiên quá hiểm nghèo này, khả năng bình thường của con người khó vượt qua nổi bằng chính hai chân không của nó. Thế mà cả hai dân tộc này đã có lúc “thông cảm” nhau được. Đông và Tây của chúng ta không có những biên giới khốn nạn như vậy, thì sự “thông cảm” tại sao lại khó khăn? Điều đó có nghĩa rằng những khó khăn mà Phật giáo gặp phải, riêng trong lãnh vực giáo dục, không phải là “kỹ thuật khoa học” hay “truyền thống tâm linh” giữa Đông phương và Tây phương. Nhưng nếu gạt những vấn đề này ra ngoài, e rằng chúng ta dễ có khuynh hướng dẫm lên “lãnh vực siêu hình”, như một giai thoại của Trang Tử: “Anh không phải là cá sao biết cá vui?”

Chúng ta biết rằng trong những cuộc thảo luận của các Đại học ở Á châu, người ta thường nhắc đến “kỹ thuật khoa học của Tây phương” và “Truyền thống tâm linh của Đông phương”. Rồi lấy đó làm sứ mệnh mà các Đại học Á châu phải nỗ lực thể hiện cho “tốt đẹp mọi đường hướng.” Xét về nội dung cũng như ý hướng, điểm vừa nêu chỉ là một khẩu hiệu, không hơn không kém. Chúng tôi sẽ không cố ý khảo nghiệm về hiệu lực của khẩu hiệu này.

Hiển nhiên, sự thực phải chấp nhận rằng kỹ thuật khoa học là sản phẩm độc đáo và gần như là độc nhất của Tây phương. Riêng về các Triết gia Tây phương trong thế kỷ này, họ thấu hiểu tính thể kỹ thuật khoa học một cách vô cùng tế nhị. Giả sử chúng ta đã hiểu rõ cặn kẽ một trong những mệnh đề ách yếu của Hiện sinh luận, theo đó, hiện hữu có trước yếu tính. Rồi từ đó mà suy diễn sẽ thấy rằng bản tính sâu xa của một hiện tượng cá biệt được thể hiện ngay trong phương tiện hay phong cách hiện hữu như cá biệt của nó. Đấy chỉ mới là nhận định đại khái. Nếu lấy thí dụ điển hình từ một vài triết gia, về những cống hiến của họ cho thể tài ngôn ngữ trong triết học Tây phương hiện đại chúng ta sẽ thấy ra đâu là tính thể của “kỹ thuật khoa học” và đâu là bản chất của “truyền thống tâm linh”.

Wittgenstein là một điển hình độc đáo; ý tưởng chỉ đạo được ghi trong Tractatus: ngôn ngữ là khuôn hình của thế giới. Do đó, giới hạn của ngôn ngữ chúng ta chính là giới hạn của thế giới chúng ta. Ý tưởng này muốn nói rằng chính tất cả những phương pháp vận dụng ngôn ngữ của chúng ta hình thành nên một vũ trụ quan hay nhân sinh quan nào đó. Mọi “không tưởng” mà người ta có thể khám phá ra ở một triết gia, không phải do bản chất không tưởng trong tư tưởng của ông, nhưng chính ngôn ngữ và phương pháp vận dụng ngôn ngữ của ông đã khép kín ông vào trong tháp ngà của một thứ tư duy không tưởng nào đó. Ngôn ngữ không còn là một thực thể ngoại tại và phổ biến mà ai cũng có thể vận dụng tùy nghi để nói lên những gì ẩn kín trong lòng. Thường nhật, với câu hỏi “cái này là gì?”, chúng ta có cảm tưởng rằng nếu thỏa mãn được chữ “gì?” là đã có thể giải quyết được vấn đề, theo tiêu thức tổng quát của ngôn ngữ (x,y) hay E (x,y). Thực ra, vấn đề chỉ được thỏa mãn bằng cách vận dụng hợp qui đối với các khả biến, lại là tùy thuộc những liên hệ giữa định lượng phổ biến và định lượng cá biệt. Nhưng một khi những định lượng này được cứu xét kỳ cùng, chúng bộc lộ ngay tính cách “giả tưởng” và cuối cùng tiêu thức tổng quát của ngôn ngữ thảy là mệnh đề giả hiệu. Phân tích như vậy tạo nên một cảm giác thất vọng đối với mọi thứ qui tắc ngôn ngữ mệnh danh là “nghiêm túc” hay “chính xác”; và người ta chỉ còn một tin tưởng độc nhất là ngôn ngữ của thi ca. Dù nó không nghiêm túc và chính xác như trong “kỹ thuật khoa học”, nhưng khả năng thông diễn thực tại của nó quả là vô cùng phong phú. Bởi vậy các nhà thực nghiệm luận lý trong triết học Tây phương hiện đại chỉ chịu nghe theo ngôn ngữ của âm nhạc hơn bất cứ mệnh đề triết học hay khoa học nào.

Ở đây chúng ta cũng không quên những cống hiến của Michel-Foucault đối với nền triết lý ngôn ngữ hiện đại. Trật tự của ngôn ngữ là trật tự của thế giới. Đấy là điểm chính yếu. Ông mệnh danh sự cống hiến của mình là Khảo cổ học. Bởi vì, người ta có thể tìm thấy mọi dấu vết của lịch sử văn minh nhân loại qua các thời đại bằng vào lịch sử phát triển của văn pháp. Dị biệt tính của các nền tư tưởng có thể theo đây mà khám phá. Lấy thí dụ, một trong những khó khăn của những giáo sư triết tại Việt Nam hiện nay đã đối đầu khi phải trình bày về quan niệm L’ être hay Being hay Sein. Người học triết vì vậy rất bối rối, khi các dụng ngữ Việt không chứa thêm các chữ này. Những tồn thể, hữu thể, tính thể, rồi thể tính, vân vân. Vì lẽ rằng cơ cấu văn pháp Việt ngữ không hề có những opus này. Ngôn ngữ Âu châu đã từng bất lực về L’ être et le temps, thì bằng vào cơ cấu văn pháp của Việt ngữ không thôi, chúng ta không làm sao hiểu ra giới hạn của sự bất lực này. Khi một triết gia nói: “Câu hỏi về tính thể là một câu hỏi phổ biến tổng quát nhất, câu hỏi rỗng tuếch nhất trong những câu hỏi, nhưng đồng thời câu hỏi ấy lại cũng có thể được cụ thể hóa chung đúc lại rõ ràng nhất trong bất cứ hiện tính thể cá biệt nào”. Đây là những lời rất xa lạ đối với cơ cấu văn pháp Việt ngữ. “Tính thể là một câu hỏi phổ biến tổng quát nhất,…”, thực sự, l’ être hay être mới là “phổ biến tổng quát” trong tiếng Pháp, còn tính thể thì không như vậy. Khổ tâm nhất cho người ta là không thể thay  cho tính thể. Như vậy, khi một người nói: thảm họa của dân tộc Việt Nam ngày nay được ghi đậm máu và nước mắt trên “câu hỏi về tính thể”, thì đã bộc lộ một cách chua cay về định mệnh khốn nạn của dân tộc này vốn bị ám ảnh bởi khẩu hiệu “phát triển kỹ thuật khoa học Tây phương và duy trì truyền thống tâm linh Đông phương”. Sự phát triển như vậy chỉ có nghĩa là biến tính và tự hủy chứ không phải duy trì gì hết.

Thế nhưng, như đã nói, không phải vì cố giải quyết êm đẹp khẩu hiệu ấy mà những sinh hoạt của tư tưởng Phật học trong lãnh vực giáo dục đã đương đầu với vô số khó khăn. Trong quá khứ, Phật giáo đã từng từ bỏ sắc thái của chế độ tăng lữ vốn phải ẩn cư trong các núi rừng sâu thẳm, để đi đến nơi nào có máu và nước mắt đổ xuống vì nhân sinh; và cũng đã từ bỏ màu sắc Ấn độ của nó để đi đến nơi nào có sự sống và có khát vọng giác ngộ về lẽ sống. Dù vậy, đức Thích Ca vẫn là người bằng xương bằng thịt, chưa hề là một thần linh cao cả. Do đó, phát triển hay duy trì một sản phẩm văn hóa nào đó không phải là vấn đề trọng đại để có thể đánh lừa như một khẩu hiệu hay một nhãn hiệu. Nó là lửa; chỉ có thể cắm bảng hiệu ở xa chứ không thể cắm ngay giữa lòng. Ngọn lửa đó, một khi được khơi dậy, nó làm sáng ngời lên khát vọng nóng bỏng nhất trong căn để sâu xa của lòng người; để người ta có thể thấy rõ, quả thực, mình muốn gì trong cuộc sống này?

Dù sao, không ai lại có thể làm ngơ trước những thành quả mà kỹ thuật khoa học Tây phương đang gây ảnh hưởng lớn lao trên mọi lãnh vực của thế giới hiện đại. Nói riêng cơ cấu tổ chức xã hội, ngay tại Việt nam, trong những năm qua, Giáo hội Phật Giáo đã gặp những khủng hoảng trầm trọng. Lý do chính yếu, có lẽ người ta phải công nhận rằng đây là vấn đề nan giải giữa những nguyên tắc tổ chức cơ cấu xã hội và truyền thống tâm linh. Nghĩa là, bất cứ bằng cách nào, chúng ta vẫn phải bị đè nặng dưới áp lực của khẩu hiệu Phát triển và Duy trì; giữa kỹ thuật khoa học và truyền thống tâm linh. Truyền thống này dĩ nhiên bị biến tính tận căn để khi được lồng vào những nguyên tắc tổ chức bắt nguồn từ vũ trụ quan và nhân sinh quan của Tây phương; hay rõ hơn, của khoa học và tính cách thực dụng của khoa học. Một số học giả Phật giáo Tây phương khi nghiên cứu về đường lối tổ chức của giáo đoàn tăng lữ của phật giáo đã tỏ ý làm lạ: bằng một nguyên tắc nào đó mà giáo đoàn tăng lữ đã vượt qua được mọi khủng hoảng đáng lý phải phân hóa; vì sự khủng hoảng đã thực sự diễn ra và tạo thành trên hai mươi bộ phái Phật giáo. Rồi đến khi Đại thừa Phật giáo ra đời, sự xung đột về tư tưởng lại càng rõ rệt. Nhưng, người ta vẫn nhận thấy một điều: sinh hoạt của giáo đoàn tăng lữ không bị phân chia; giáo hội vẫn theo một hình thức duy nhất mệnh danh là nguyên thủy. Có tư tưởng Đại thừa, nhưng chưa hề có giáo hội Đại thừa; tăng lữ vẫn phải sinh hoạt theo Thanh tịnh giới bổn. Hiển nhiên, trong đó, một vài tiểu tiết được sửa đổi; vì hoàn cảnh địa lý hay thời đại. Chẳng hạn, tại những vùng khí hậu lạnh như ở Trung hoa, vấn đề khất thực khó mà thi hành đúng theo nguyên thủy; hay không thể triệt để cấm tàng trữ thực phẩm cách đêm. Ngày nay, tổ chức của Giáo hội tại Việt nam không còn lấy Thanh tịnh giới bổn làm nguyên tắc chỉ đạo, mà căn cứ theo thể thức phân quyền của Tây phương. Thể thức này đang biến tính “truyền thống tâm linh” trong một vài phương diện. Thí dụ, bốn ba la di được coi là sinh mệnh của cơ cấu tăng lữ nay dần dần mất tính cách hệ trọng của chúng. Trước đây, một số tăng sĩ, do ảnh hưởng của tâm phân học, đã giải thích các ba la di theo đường lối hơi lạ lùng. Tình trạng này đang trở thành sự thật, và người ta chỉ còn cách “hợp thức hóa” những sự kiện “đã rồi”. Trong đây, nội tình còn nhiều phức tạp vượt ngoài khả năng hiện hữu nên chúng tôi không thể đi sâu vào các chi tiết.

Trên tất cả mọi vấn đề, chính thành quả của kỹ thuật khoa học Tây phương, với tính cách thực dụng của nó đối với những nhu cầu thiết yếu của đời sống, đã là một ám ảnh đè nặng lên tâm trí những người cố duy trì “hữu hiệu” truyền thống tâm linh. Rồi ra, người ta cũng đòi hỏi phương pháp thiền định chẳng hạn, phải làm sao để có hiệu lực y như bất cứ thành quả nào mà khoa học có thể mang đến. Như vậy, nếu khoa học có thể làm giảm thiểu hay diệt trừ những tai họa nào đó của đời sống thường nhật, người ta cũng muốn đòi hỏi thiền định phải có hiệu năng đó, ít nhất là tương đương, nếu không nói là hoàn hảo hơn. Xưa kia, một người đi học thiền, thiền sư đòi hỏi y phải loại bỏ những mong cầu “thực dụng” nơi thiền. Nếu đời sống thường nhật nhờ tập thiền mà tránh được một vài bất trắc, như bịnh hoạn, thì đấy phải coi là kết quả “đương nhiên”, có tính cách phụ thuộc, không nên lấy đó làm mục đích. Người ta không được phép học thiền để có thể sống qua ngày tháng, sống trọn cuộc đời không tai họa. Nói như thế bỗng nhiên bị coi là không tưởng. Một giai thoại khá lý thú, kể rằng, khi Phật sửa soạn qua sông bằng đò, ngài gặp một ẩn sĩ; vị này thách thức ngài, với hiệu nghiệm của công trình tập thiền, nếu có, ngài thử vượt qua con sông mà không cần đò; có thế mới chứng tỏ được sự tiến bộ tâm linh. Phật nói, ngài chỉ cần vài xu nhỏ, rất dễ kiếm, là có thể qua sông được, cần gì phải bỏ ra một quãng đời tập thiền. Thực sự, khi muốn khảo nghiệm đời sống tâm linh bằng hiệu năng thực tế, quả tình người ta đã tạo ra một không tưởng trên tất cả mọi không tưởng; thế mà vẫn coi đó là điều lý thú!

Khó khăn của chúng ta chính là đây. Ngày nay hay ngày xưa, người ta vẫn đòi hỏi rằng chân lý phải được khảo nghiệm bằng hiệu năng thực tế. Do đó, một nền giáo dục hoàn hảo phải chứng tỏ những hiệu năng nó có thể mang lại để thỏa mãn nhu cầu của người học. Vậy rồi, thay vì mở ra những con đường đi vào thế giới tâm linh sống động, người ta đã quay ngược lại để trở về với những nhu cầu hạ cấp của người học. Họ gieo cho người học những sợ hãi bất an trước một tương lai nào đó. Những “sinh tồn”, “diệt vong” v.v., đấy là những mệnh đề giả hiệu, chúng có tác dụng làm tăng mối sợ hãi. Nhưng chúng cũng có thế lực khích động rất lớn, và đề ra những đường lối phải theo. Y như một người tranh cử, hăm dọa cử tri bằng những viễn tượng đen tối của ngày mai, nếu mình không được chọn lựa. Cũng vậy, đối với chúng ta, một đường lối giáo dục được lựa chọn là có phát triển và có duy trì; vừa tiến bộ và vừa không mất gốc. Trong trường hợp cực đoan, nếu bắt buộc phải chọn một trong hai, hoặc phát triển, hoặc duy trì, xưa nay Phật giáo đã chọn lối đi thứ nhất. Gốc của con người là ở tại lòng người, thì dù có phát triển đến đâu bằng cả tấm lòng của mình, chẳng có gì gọi là mất cả. Những thành ngữ quen thuộc: “phóng hạ đồ đao, lập địa thành Phật” hay “khổ hải thao thao, hồi đầu thị ngạn.”

Trên đây chỉ đề cập đến một vài lý tưởng, gọi là ngoài lề. Bởi vì, trọng tâm của nó, với bốn chữ Duy Tuệ Thị Nghiệp, đã bị biến tính để rồi Tuệ ở đây có nghĩa là kiến thức học vấn, gồm những “kỹ thuật”, “phương pháp”, dành cho khẩu hiệu phát triển kỹ thuật, khoa học và duy trì truyền thống tâm linh.


DUY TUỆ THỊ NGHIỆP - Only Wisdom Is the Profession

Thích Tuệ Sỹ

Duy Tuệ Thị Nghiệp (Only Wisdom Is the Profession) The ideals of education and methods to realize these ideals have a long history in Buddhism. Its activities are not limited to scripture halls or the dharma halls of monasteries but also to courts, public forums, and anywhere people can gather, even if it is just two people, in all human activities. Additionally, through changes over the ages and differences among nations, all are embodied in a substantial Buddhist history concerning education. However, today, this issue remains a relatively new topic for Buddhist scholars. The collision between Eastern and Western civilizations, compared to the interaction between Chinese and Indian cultures from the 1st to the 11th or 12th century, characterized by the Tang and Song dynasties and an effort spanning over ten centuries, is insignificant to the collision we witness today. Our current main difficulty is not a matter of method, as many mistakenly believe. The contributions of Buddhist scholars in the field of European languages have proven this. The preconceptions of Buddhism's philosophical and literary systems are no longer an impenetrable "magic spell." In the past, how did the Chinese immediately grasp the "undercurrent" of Buddhism to implement it according to their national identity and literary and philosophical traditions? That is a vibrant experience. Despite the vast desert between Central Asia and the cold Tongling mountain range separating these two countries, with this natural and treacherous border, the average human ability could hardly overcome it on foot. Yet, these two nations managed to "sympathize" with each other. Our East and West, without such unfortunate borders, why is "sympathy" so difficult? This means that Buddhism's difficulties, especially in education, are not due to "scientific technology" or "spiritual tradition" between the East and the West. However, if we ignore these issues, we might be prone to stepping into "metaphysics," like a story from Zhuangzi: "You are not a fish; how do you know if the fish is happy?"

In Asian university discussions, people often mention "Western scientific techniques" and "Eastern spiritual traditions." Then, these are taken as a mission that Asian universities must strive to demonstrate in "all the best ways." In terms of content and intention, this point is merely a slogan, nothing more. We will not intentionally examine the effectiveness of this slogan.

We must accept that scientific technology is a unique and almost exclusive product of the West. Western philosophers of this century understand the nature of scientific technology exceptionally delicately. Suppose we fully understand one of the key propositions of Existentialism, according to which existence precedes essence. From this, we can infer that the profound nature of a particular phenomenon is immediately expressed in the means or style of reality as its particularity. This is just a general assessment. Let's take typical examples from some philosophers about their contributions to the subject of language in modern Western philosophy. We will see what constitutes the nature of "scientific technology" and the essence of "spiritual tradition."

Wittgenstein is a unique example; the guiding idea recorded in Tractatus is that language is the form of the world. Hence, our language's limit is the limit of our world. This idea means that all our language methods form a particular universe or view of life. Any "unimaginable" discovery in a philosopher is not due to the unimaginable nature of his thoughts. However, his language and method of using language have enclosed him in the ivory tower of unimaginable thinking. Language is no longer an external and common entity that anyone can use at will to express what is hidden in their heart. Usually, with the question "What is this?", we have the impression that if the word "what" is satisfied, the problem can be solved according to the general criterion of language (x,y) or E (x,y). The problem is only satisfied by applying appropriate rules to the variables, depending on the relationship between general and specific quantities. However, when these quantities are examined in detail, they immediately reveal their "fictitious" nature, and in the end, the general criterion of language turns out to be a hypothetical proposition. Such analysis creates a feeling of disappointment with all the rules of language considered "serious" or "accurate," and people only trust the language of poetry. Although it is not as severe and accurate as "scientific technology," its ability to interpret reality is vibrant. Therefore, logical experimentalists in modern Western philosophy only listen to the language of music more than any philosophical or scientific proposition.

Here, we also must remember the contributions of Michel Foucault to modern linguistic philosophy. The order of language is the order of the world. That's the main point. He named his contribution Archaeology. The diversity of thought systems can be discovered here because one can find traces of human civilization history through the ages in the history of literary development. For example, one of the difficulties philosophy professors in Vietnam today have faced when presenting the concept of L' être or Being or Sein. Therefore, philosophy students are perplexed when Vietnamese terms do not contain these words.

Existence, beings, nature, and then natural characteristics. Because the structure of the Vietnamese language does not have these opuses, European languages have been powerless about L' être et le temps, so with the structure of the Vietnamese language alone, we cannot understand the limit of this powerlessness. When a philosopher says: "The question of nature is the most general and most vacuous question of all questions, but at the same time, it can also be concretized and clarified in any particular nature." This is very alien to the structure of the Vietnamese language. "Nature is the most general question…"; indeed, l' être or être is "general" in French, not nature. The most painful thing for people is that nature cannot replace être. So, when someone says that today's Vietnamese national disaster is deeply marked with blood and tears on "the question of nature," it bitterly exposes the unfortunate fate of this nation haunted by the slogan "develop Western scientific technology and maintain Eastern spiritual tradition." Such development only means transformation and self-destruction, not maintaining anything.

However, as mentioned, it is not because of trying to smoothly resolve this slogan that the activities of Buddhist thought in the field of education have faced countless difficulties. In the past, Buddhism had abandoned the characteristics of the monastic regime that had to hide in deep mountains and forests to go to places where blood and tears were shed for human life and also abandoned its Indian color to go to where life and the desire for enlightenment about the meaning of life exist. Yet, the Buddha was still a flesh-and-blood person, not a sublime deity. Therefore, developing or maintaining a cultural product is not a significant issue that can be interpreted as a slogan or a brand. It is fire; one can only put a sign far away, not right in the heart. That fire, once kindled, illuminates the deepest desires in man's heart so that one can clearly see what one wants in this life.

Anyway, no one can ignore the achievements of Western scientific technology, with its pragmatic nature for the essential needs of life, which has dramatically impacted all areas of the modern world. Specifically, the organizational structure of society, even in Vietnam, in recent years, the Buddhist Church has faced severe crises. The main reason must be acknowledged as the intractable problem between the principles of social, organizational structure, and spiritual tradition. That is, we still have to be heavily pressured by the slogan of development and maintenance, balancing scientific technology and spiritual practice. This tradition has undoubtedly been fundamentally transformed when incorporated into the organizational principles originating from the Western worldview and perspective on life or, more clearly, of science and the pragmatic nature of science. Some Western Buddhist scholars researching the organization of the Buddhist monastic community have expressed surprise. By some principle, the monastic community has overcome the crises that should have divided it, as the problem occurred and resulted in more than twenty Buddhist sects. Then, when Mahayana Buddhism emerged, the ideological conflict became even more evident. However, one still sees one thing: the monastic community's life was not divided; the church still followed a single form known as original. There is Mahayana thought, but there has never been a Mahayana church; the monastics still had to live according to the original pure precepts. Some details were modified due to geographical or temporal circumstances.

For example, in cold climates like China, the practice of alms begging is challenging to implement according to the original, or it is impossible to ban food storage overnight wholly. Today, the organization of the Church in Vietnam no longer takes the original pure precepts as a guiding principle but is based on the Western division of powers. This form is transforming the "spiritual tradition" in some aspects. For example, the four parajikas, considered the life of the monastic structure, are gradually losing their importance. Some monks, influenced by analytical thinking, explained the parajikas somewhat strangely in the past. This situation is becoming a reality, and people can only "legitimize" the "after the fact" events. The internal situation is much more complicated than our current ability, so we cannot go into details. 

Above all, the achievements of Western scientific techniques, with their pragmatic nature towards the essential needs of life, have cast a heavy shadow on the minds of those striving to maintain the 'effectiveness' of spiritual traditions. Consequently, people also demand that methods such as meditation, for example, be effective like any other scientific outcome. Thus, if science can reduce or eliminate certain calamities of everyday life, people also expect meditation to have at least equivalent if not superior, efficacy. In the past, when someone pursued meditation, the teacher demanded they abandon any 'practical' desires in meditation. If everyday life is improved through contemplation, avoiding some misfortunes like illnesses, it should be considered a 'natural' result, a dependent aspect, not the purpose. One was not allowed to learn meditation to survive through the days, to live a life without misfortune. Suddenly, this notion is deemed unrealistic. An interesting anecdote recounts that when the Buddha was preparing to cross a river by ferry, he met a hermit who challenged him, with the efficacy of his meditation practice, to cross the river without a ferry; only then would it prove spiritual progress. The Buddha said he only needed a few small, easily obtained coins to cross the river, so why waste a part of his meditation life? Indeed, assessing spiritual energy based on practical efficacy creates an illusion beyond all illusions, yet this is still considered attractive!

This is our difficulty. Whether today or in the past, people have always demanded that truth be tested by practical efficacy. Therefore, a perfect education system must demonstrate its effectiveness to satisfy the learners' needs. Instead of opening paths into a vibrant spiritual world, people have turned back to meet the lower needs of the learners. They sow seeds of insecurity and fear before a certain future. Terms like "survival," "extinction," etc., are hypothetical propositions that increase fear. But they also have a tremendous motivating power, outlining paths to follow. Just like a political candidate was threatening voters with dark visions of tomorrow if not chosen.

Similarly, an educational path is chosen to be progressive and preserving, advancing yet not losing its roots. In extreme cases, Buddhism has always chosen the former approach, whether progress or preservation. The root of humanity lies in the human heart, so no matter how far it progresses with one's soul, there is nothing called loss. Familiar sayings like "lay down the butcher's knife, become a Buddha on the spot" or "the sea of suffering is boundless, turn back and see the shore."

The above only refers to a few ideas, called peripheral. Because the focus of the four words Duy Tuệ Thị Nghiệp (Solely Wisdom Is the Profession) has been distorted so that Tuệ here means academic knowledge, including "techniques," "methods," indicates the slogan developing scientific techniques and maintaining spiritual traditions.


Translated by Nguyên Túc


Tuesday, July 14, 2020

Tiếng Lòng của Một Huynh Trưởng Gương Mẫu

TIẾNG LÒNG CỦA MỘT
HUYNH TRƯỞNG GƯƠNG MẪU

Các em Thanh Thiếu thương của anh,
Anh đã nghe, xem, và đọc những tâm tư của các em. Và anh tin là anh hiểu các em, như hiểu được tâm tư của các con của anh trước những bất công trong xã hội đang xảy ra tại nước Mỹ, và khắp nơi trên thế giới. Sống ở đời, điều quý nhất là mình cần dám sống để góp phần chấm dứt sự tàn bạo (brutality), sự phân biệt chủng tộc (racism), và sự bất bình đẳng (inequities). Người da màu là những nhân chứng của lịch sử phân biệt chủng tộc khi xã hội cho phép phân biệt đối xử và sự vi phạm nhân quyền. Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc đã không cho con người cất tiếng nói đòi tự do.
Làm sao mình sống thản nhiên trước những sự việc như vậy?
Các em lớn lên từ Oanh Vũ, chắc các em nhớ ba điều ghi nhớ và hành động dễ thương nho nhỏ của mình.

Em tưởng nhớ Phật.
Em kính mến cha mẹ, và thuận thảo với anh chị em.
Em thương người và vật.

Các em biết tại sao, các bậc tiền bối mình sắp các điều ghi nhớ theo thứ tự trên hay không? Bởi vì, chúng ta là người con Phật, tự làm hoàn thiện cá nhân mình (Em tưởng nhớ Phật), rồi tự tập sống hạnh phúc trong gia đình nhỏ của mình (Cha mẹ, anh chị em), rồi “mở rộng lòng thương, tôn trọng sự sống" với xã hội.
Anh muốn nhắc các điều luật Oanh Vũ - vì các anh chị luôn che chắn bảo hộ cho các em trước “sóng gió cuộc đời” khi các em chưa đủ lông đủ cánh đối diện cuộc đời, nhất là khi các em chưa đến tuổi trưởng thành.
Giờ thì các em đã hiểu tại sao các anh chị chọn thái độ im lặng tạm thời trước vấn đề xã hội nóng bỏng này.
Nhưng, thật là xấu hổ và vô trách nhiệm, nếu các anh chị không nghe được những tiếng lòng của các em, những công dân tương lai trong một xã hội tự do, vùng đất hứa cho con người biết tự mưu cầu hạnh phúc. “Giấc mơ Mỹ là giấc mơ của một vùng đất mà nơi đó cuộc sống của mọi người mong sẽ tốt đẹp hơn, giàu có và đầy đủ hơn với cơ hội tùy theo năng lực hay thành tựu của mỗi người. Giấc mơ như vậy thật khó cho giới thượng lưu u châu (thời đó) có thể hiểu một cách đầy đủ; càng nhiều người phát chán nản và sinh ngờ vực về giấc mơ kiểu này. Đó không phải đơn thuần là một giấc mơ xe đẹp hay lương tiền hậu hĩnh --- mà đó là giấc mơ về một trật tự xã hội trong đó mọi người Nam Nữ có thể phát triển toàn diện khả năng trời phú của mình, và được mọi người công nhận chính bản thân họ, không phân biệt bất kể dân tộc hay địa vị nào" [1]
Anh rất tự hào về các em. Anh có thể an tâm nói cho ba mẹ ông bà các em biết, là các em đã có sự trưởng thành với những suy nghĩ “mang đạo Phật vào đời” trước tình hình xã hội nhiều biến động trong lúc này. Và, các em biết rằng, xã hội sẽ mãi biến động như vậy cho tới khi có sự công bằng xã hội. [2]
Bây giờ, các em đã bắt đầu lớn, nhận biết được giá trị của những lời Phật dạy, từ những bài học hàng tuần anh chị em mình cùng học với nhau. Câu hỏi của chúng ta là làm sao áp dụng những lời Phật dạy vào cuộc đời.
Các em thương,
“Em thương người và vật” -- là một thực tập xây dựng và bảo vệ nhân cách đạo đức giữa con người và con người, giữa con người và xã hội, giữa con người với vạn vật…
“Mở rộng lòng thương và tôn trọng sự sống" -- lòng thương lớn cho vạn loài, các sắc tộc: đỏ, đen, vàng, trắng; kể cả người ngoài hành tinh (ET, Bumblebee,maika, …)

Mục đích chính của chúng ta vẫn là “làm sao cho đời bớt khổ, làm sao cho đời hết khổ”
Qua tâm sự của các em, chúng ta đang đối diện với “một nỗi khổ” Chúng ta không khổ vì đói khát, nghèo khó, bệnh tật, hay thất nghiệp... mà chúng ta đang khổ vì lòng thương người thương mình, “mong muốn một cuộc sống an bình hạnh phúc" ngay lúc này. Nhìn một xã hội thiếu công bằng, mà lo lắng cho tương lai của mình, của con cháu mình, nếu hiện trạng phân biệt chủng tộc càng ngày càng tệ hơn.
Qua lời kêu gọi của các em, anh thấy được các em hiểu được vấn đề về sức mạnh của xã hội dân sự (the power of civil society) nhằm khai mở những bế tắc để có cuộc đối thoại cần thiết như những viên gạch xây dựng một xã hội giá trị công bằng cho con người không phân biệt màu da hay địa vị.
Qua đề nghị của các em, anh cùng với các em nhìn ra được rằng xã hội dân sự (civil society) xưa nay cũng được hình thành bởi những thể chế bất bình đẳng -- chính vì vậy, mà chúng ta cần tiếng nói của rất nhiều người, cần lá phiếu của rất nhiều người để có sự đổi. [3]
Qua những việc các em muốn làm, các em đã thấy được cộng đồng da màu bị ảnh hưởng sự bất công nhiều nhất chính là cộng đồng ít có người được học hành, được tiếp cận với với nền giáo dục tiên tiến, nền khoa học công nghệ hiện đại ... những tiến bộ mà anh và các em đang có và coi như là sự đương nhiên. Từ đây, cho ta thấy rằng mình cần phải học, cần phải thực hành nhiều hơn nữa, và mang những kiến thức của mình lan tỏa tới các cộng đồng yếu kém đó. [4]
Qua các em, anh thấy rằng chúng ta (Huynh trưởng GĐPT) là những người lãnh đạo giáo dục tuổi trẻ Phật giáo, có trách nhiệm:

Lên tiếng trước các bất công xã hội, bằng cách phản đối những áp bức tổn hại tới quyền sinh sống, quyền tự do của con người. [Sign Petitions]
Quyên góp tài lực ủng hộ các tổ chức người da màu: chăm sóc sức khỏe, giáo dục và đòi công lý cho cộng đồng [Donations to Black-led organizations and community groups]
Tự thân tu tập để có được một trái tim luôn rộng mở lòng thương và an nhiên trước sóng gió. (Be a better self - Be the Calms in the Chaos)
GĐPT là một nơi mà các Lam viên có thể cất tiếng nói “hiểu và thương" bằng cách:
Lắng nghe sâu và tích cực (deep and active listening)
Thực tập Hoà - Tin - Vui từ cá nhân, gia đình, và xã hội

Trong thời điểm này, anh biết những hành động này chỉ là một phần nhỏ của những gì mà toàn xã hội cần phải làm. Anh mong được tham gia câu chuyện của các em, đồng hành với các em và nhiều bạn bè khác -- vì những điều thay đổi cho một xã hội tốt hơn xung quanh ta từ những điều tốt lành nhỏ nhất mà chúng ta đang làm với khao khát chung, là chấm dứt sự phân biệt chủng tộc, sự tàn bạo đối xử, sự bất công và bạo lực đối với người da đen.
Một lần nữa, anh muốn nói là anh rất tự hào về các em. Và tin tưởng các em sẽ là những người lãnh đạo tổ chức Hoa Sen Trắng tươi đẹp cho tuổi trẻ Phật giáo tại Hoa Kỳ.
Anh,
Nguyên Túc

----
[1] American Dream is "that dream of a land in which life should be better and richer and fuller for everyone, with opportunity for each according to ability or achievement. It is a difficult dream for the European upper classes to interpret adequately, and too many of us ourselves have grown weary and mistrustful of it. It is not a dream of motor cars and high wages merely, but a dream of social order in which each man and each woman shall be able to attain to the fullest stature of which they are innately capable, and be recognized by others for what they are, regardless of the fortuitous circumstances of birth or position." (James Truslow Adams 1931)

[2] “It always seems impossible until it’s done” (Nelson Mandela)

[3] “Be the change that you wish to see in the world.” (Mahatma Gandhi)
[4] The digital Disruption - Nguyên Túc dịch

A LETTER TO OUR BELOVED MEMBERS IN GĐPT

Dear our beloved Thanh Thieu,
We are very proud of all the work that you have done with this project. Please know that we want to support you on your creative projects/ideas that you have come up with mindful practices.
While your proposal is very detailed and full of educational facts, we believe that it is still missing the side of mindfulness practice. We would love to suggest you incorporate this practice into your proposal to show the world that while we are brave enough to stand up and speak up for those who are being treated unfairly, we are still doing it with mindfulness from the heart of compassion.

Here is the statement of GDPT Hoa Nghiem about this matter.
We are GDPT. One of the significant objectives of GDPT is to practice Buddha teachings to enable GDPT members to live in mindfulness, peace, and joy, as well as to live in harmony, and empathy with others. To live in mindfulness is to be aware of ourselves and recognize the racist elements in ourselves so that we can transform ourselves to be able to have genuine feelings towards other people, feelings of loving-kindness, compassion, generosity, and so forth. GDPT members have an open-hearted, cooperative, generous nature towards people. We cultivate and promote compassion by practicing Mindfulness, Right Speech, and Deep Listening, and contribute to building a healthy, happy family and a productive, peaceful society.
Below you will find our “Call to Love in Action” to this matter.
We pledge to support:
(i) mindful efforts to put an end to the brutality, to racism, to inequities
(ii) mindfulness training for people to get past the racism and engage people on a human level
(iii) offer our strength in mindfulness training to those who suffered discrimination to help transform their sufferings.

Here are concrete actions each of us can do:
(i) Save 30’ to 1 hour every day to sincerely practice mindfulness, meditation, reciting sutras to generate peace within ourselves
(ii) Sign petitions to support mindfulness training to the police force to water their seeds of non-discrimination
(iii) Make donations of resources to organizations and community groups caring for well-being, education, and racial justice for People of Colors

We should use this writing from Zen Master Thich Nhat Hanh in the proposal as it will reflect the actual practice of being a GDPT member with the BLM movement.
I WANT TO OPEN MY HEART OF COMPASSION TO EMBRACE THOSE WHO ARE SUFFERING
Dear Buddha, who taught us to open our hearts of compassion to grow bigger and bigger, then one day, our hearts become infinite space.
Today, my heart goes SOUTH, where Africa is located. There is poverty! There is social injustice! There are millions of people carrying HIV, including children aged five years to 10 years old. People are living in worry and fear.
My heart goes EAST. I saw the war of hatred reaching sky high and the fear of hatred reaching its limit. Every day, there were bombs dropped, cars exploded, and people died. People want to have the opportunity to live peacefully, even though they are in poverty. But, they don't have that dream.

In the meantime, here I am suffering from some little sadness that makes my heart shrinking smaller.
Dear Buddha, I don't want to be in that situation. I want to become the Dharma practitioner in the present and in the future to extend my hands to save many people. I want to open my heart of compassion to embrace those who are suffering. I want to learn like the Buddha, training my mind immeasurable with boundless Loving Kindness, boundless Compassion, boundless Joy, and limitless Indifference. I know if I am in no worry, if I don't get attached, then I can do something to help alleviate the suffering around me and beyond.
(Zen master Thich Nhat Hanh 2004)
Yours truly,

BHT GDPT Hoa Nghiem


Xin mời đọc bài dịch dưới ở đây: Nguồn: Bodhi Media

Sự “Đột Phá” Kỹ Thuật Số

Sự kết nối và lan truyền của sức mạnh cộng đồng
Eric Schmidt và Jared Cohen
Chuyển ngữ: Tiến sỹ Nguyễn Sung

Eric Schmidt , Chủ tịch và Giám đốc điều hành của Google, là một thành viên của Hội đồng cố vấn về Khoa học và Công nghệ thuộc phủ Tổng Thống Mỹ, đồng thời là Chủ tịch Hội Tân Mỹ.
Jared Cohen, Giám đốc Ý tưởng của Google,  là hội viên thỉnh mời tại Hội đồng Quan hệ ngoại giao, đồng là tác giả quyển sách “Trẻ em của Jihad”, “Một trăm ngày im lặng: Mỹ và diệt chủng Rwanda”

Sự ra đời và sức mạnh của những công nghệ kết nối - những công cụ giúp con người nối tới những lượng thông tin rộng lớn, và liên kết con người với nhau - sẽ mang đến cho thế kỷ hai mươi mốt đầy những bất ngờ.  Chính phủ các quốc gia sẽ dần mất đi quyền kiểm soát khi số lượng lớn các công dân của họ, được trang bị hầu như không có gì khác ngoài những điện thoại di động; họ tham gia cuộc nổi loạn nhỏ, thách thức với quyền lực của các chính phủ.  Đối với ngành truyền thông báo chí, các phương cách làm báo sẽ tăng trưởng nhanh, tạo tương tác giữa các tổ chức truyền thông truyền thống và nhanh chóng gia tăng số lượng các nhà báo “nhân dân” có mặt khắp mọi nơi. Và các công ty công nghệ sẽ thấy  chính mình bị các đối thủ vượt trội, cạnh tranh gay gắt, và bất ngờ trước “các thượng đế” vừa thiếu lòng trung thành, vừa không có tính kiên nhẫn.

Ngày nay, hơn 50 phần trăm dân số thế giới đã tiếp cận với kỹ thuật kết hợp giữa điện thoại di động (năm tỷ người dùng) và Internet (hai tỷ người dùng). Những người này liên lạc với nhau trong và ngoài các lãnh thổ,  tạo ra những cộng đồng ảo tăng quyền lực cho người dân trước sự bất lực của các chính phủ. Những trang thiết bị mới giúp dân chúng dễ dàng khai thác và truyền lưu nội dung thông tin xuyên qua các ranh giới xưa cũ, và không cần nhiều điều kiện (tiền bạc, nhân sự ...) để làm được chuyện đó. Trong khi đó, báo chí truyền thống được gọi là giới “bất động sản thứ tư”,  chỗ này có thể được gọi là chỗ "bất động sản liên thông" - một nơi mà bất kỳ người nào truy cập được Internet, bất kể điều kiện sinh sống, hay quốc tịch khác nhau, đều có quyền lên tiếng và có quyền tác động đến sự thay đổi.

Đối với những quốc gia mạnh nhất thế giới, sự vươn lên của thế giới “bất động sản liên thông” sẽ mở ra những vận hội mới cho sự tăng trưởng và phát triển, cũng như tạo ra những thách thức to lớn đến phương cách cai trị đã được thiết lập xưa nay.  Những công nghệ kết nối sẽ tạo chỗ đứng cho chế độ dân chủ cũng như chế độ chuyên chính, và thêm quyền lực cho cá nhân theo cả hai mặt tốt và xấu. Các quốc gia sẽ đua nhau kiểm soát các tác động của kỹ thuật đối với quyền lực kinh tế và chính trị.

Một số quốc gia, với quyền lực được kết nối chính yếu, chẳng hạn như Hoa Kỳ, các nước thành viên châu Âu, và các cường quốc kinh tế châu Á (dẫn đầu là Trung Quốc và thấp hơn một chút là Ấn Độ) sẽ ráng sức để quy định “các bất động sản liên thông” trong phạm vi lãnh thổ nhằm củng cố quyền lực riêng của họ.  Nhưng không phải tất cả các nước sẽ có thể kiểm soát hoặc bao quát được quyền của mỗi cá nhân. “Công nghệ kết nối” sẽ tạo thêm những sự căng thẳng trong các xã hội chưa phát triển - buộc họ phải trở nên cởi mở hơn và có trách nhiệm hơn;  nhưng “công nghệ kết nối” cũng cho các chính phủ này công cụ mới để khống chế sự phản kháng và “bế quan tỏa cảng” để dễ đàn áp.  Sẽ có một cuộc đấu tranh liên tục giữa những người kiên tâm ủng hộ những gì Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã gọi là “tự do Internet" và những người xem rằng “tự do Internet” là kẻ thù của sự sống còn chính trị của họ.
Đối phó với hoàn cảnh khó xử này sẽ đặt ra những thách thức đặc thù cho các quốc gia dân chủ cùng chung nguyên tắc về sự thông thoáng và tự do. Tinh thần này của họ sẽ đụng phải những quan tâm đã có sẵn về vấn đề an ninh quốc gia.  Để tránh bị thua thiệt trước lợi thế của các quốc gia khác, điển hình như Trung Quốc, vốn tìm cách bành trướng các quyền lực của họ để kiểm soát và kiểm duyệt, các quốc gia như Hoa Kỳ và các nước thành viên EU sẽ phải giữ chặt lấy chính sách “tự do và thông thoáng.”

Những chính phủ dân chủ sẽ rất có thể bị níu lại theo những công nghệ xưa cũ để tiếp tục vì lợi ích quốc gia của họ thông qua một chương trình kết hợp giữa quốc phòng, ngoại giao, và sự phát triển mà họ đã dựa theo suốt cuộc Chiến tranh Lạnh và nhiều thập kỷ về sau. Tuy nhiên, những công cụ truyền thống sẽ không đủ sức mạnh: mặc dù nó vẫn còn chưa chắc chắn một cách chính xác về sự lan truyền của công nghệ mới vốn sẽ thay đổi phương cách quản lý chính phủ; rõ ràng rằng các giải pháp cũ sẽ không hiệu quả trong thời đại mới.  Chính phủ sẽ phải xây dựng các liên minh mới nhằm phản ánh sự tăng trưởng của sức mạnh công dân và thay đổi bản chất của một nhà nước.

Những liên minh sẽ phải phát triển xa hơn mối quan hệ song phương giữa chính phủ  với chính phủ, bao quát cả xã hội công dân, tổ chức phi lợi nhuận, và các khu vực kinh tế tư nhân. Quốc gia dân chủ phải công nhận rằng việc công dân của họ sử dụng công nghệ có thể là một phương tiện hiệu quả hơn để ủng hộ các giá trị nhân bản: tự do, bình đẳng, và nhân quyền trên toàn cầu, hơn là so với các khởi xướng do chính phủ lãnh đạo. Các kiên liệu và nhu liệu được tạo ra bởi các công ty tư nhân trong thị trường tự do chứng minh được những sản phẩm đó có ích hơn cho công dân ở nước ngoài so với sự hỗ trợ bao cấp bởi nhà nước, hoặc chính sách ngoại giao.
Mặc dù sự thật rằng các chính phủ và khu vực tư nhân sẽ tiếp tục thi hành quyền lực mạnh nhất, với bất kỳ các nỗ lực để tiếp cận và giải quyết các thách thức chính trị và kinh tế tạo ra bởi các “công nghệ kết nối”; điều đó sẽ thất bại nếu không có sự tham gia sâu sát tới  nguồn sức mạnh khác đang tăng trưởng trong không gian liên thông này - cụ thể là, các tổ chức phi chính phủ và các nhà hoạt động xã hội. Các  hoạt động thực tế trong các “bất động sản liên thông” có thể được tìm thấy trong những văn phòng chật chội tại Cairo (Ai-Cập), các phòng khách cá nhân trên khắp châu Mỹ La tinh, và trên các đường phố Tehran... Từ các địa điểm này tới những địa điểm khác, các nhà hoạt động phối hợp với các chuyên viên công nghệ tập họp những “đám đông quần chúng” để làm lung lay, rạn nứt các chính phủ hà khắc, để tạo ra những công cụ mới vòng qua các “tường lửa” và sự kiểm duyệt, đăng báo, “phóng tin nhanh” trực tuyến, và soạn thảo một dự luật về Nhân quyền cho thời đại Internet. Mỗi người làm mỗi việc riêng biệt nên những nỗ lực này có thể được coi như là không thực tế hoặc không đáng kể;  thế nhưng đoàn kết cùng nhau, họ thiết lập nên một sự thay đổi có ý nghĩa trong tiến trình dân chủ hóa.

CUỘC CÁCH MẠNG SẼ ĐƯỢC TRUYỀN TẢI QUA MẠNG INTERNET

Ý tưởng cho phép công chúng sử dụng công nghệ với mục đích tốt hay xấu không phải là một hiện tượng mới mà cũng  không phải chưa có một tiền lệ chính phủ đối phó như thế nào với hiện tượng này. Sự xuất hiện của báo in trong thế kỷ mười lăm là một ví dụ điển hình. Mặc dù phát minh của Johannes Gutenberg thực sự có ý nghĩa cách mạng, (nhưng) triển vọng  tăng nguồn thông tin lại bị giới hạn bởi những chủ báo và quyết định những thông tin nào được xuất bản cũng như nơi nào báo sẽ được phát hành. Hơn nữa, các chính phủ có xu hướng đàn áp hoặc các tổ chức khác, có được quyền lực sử dụng nhà máy in như một công cụ để kiểm soát (do tuyên truyền tạo ra) hay  đàn áp (đặt ngoài vòng pháp luật những người viết bài chống chính phủ hay tôn giáo).
Trong thế kỷ hai mươi, với sự ra đời của đài phát thanh và truyền hình, các quốc gia - và những người giàu có hoặc đủ quyền lực để lấy được sóng radio - có thể kiểm soát và thậm chí tuyên bố về những gì đã được nghe và nhìn thấy. Đài phát thanh và truyền hình đã chứng tỏ là công cụ tuyên truyền mạnh mẽ cho các quốc gia biết rõ cần phải làm gì với những công cụ này. Bắc Triều Tiên - nơi mà người dân chỉ có thể xem các kênh nhà nước tài trợ - là một “phiên bản hiện đại” của những gì đã từng  phổ biến ở Đông Âu trước khi Bức tường Berlin sụp đổ. Ngay cả khi những đài phát thanh không cấp phép bắt đầu nổi lên trong nửa đầu của thời kỳ Chiến tranh Lạnh, và truyền hình vệ tinh phát triển trong thời gian sau, nhiều người đã có các loại máy móc/phần cứng, kiến thức, hoặc sự am hiểu để phát triển các chương trình riêng của mình, chưa tính đến đảm bảo việc phát thanh, truyền hình cũng như thời lượng phát sóng.

Mặc dù có  giới hạn nhưng rất nhiều người đã chọn để xem và nghe những thông tin phát sóng thông qua các nguồn độc lập, những điều mà trước đây không có sẵn cho công chúng. Người nghe và người xem gồm cả nhiều người làm việc trong chính phủ - thường tự đặt mình vào nguy cơ bị bắt, hoặc tồi tệ hơn là mất kế sinh nhai.  Ngày hôm nay hiện tượng tương tự cũng xảy ra ở những nơi như Iran và Syria, nơi các quan chức chính phủ đang tìm kiếm tin tức thô bên ngoài biên giới của họ, sử dụng  cái gọi là “proxy server” (Máy chủ  làm nhiệm vụ chuyển tiếp thông tin và kiểm soát  việc truy cập Internet của các máy khácvà công nghệ gian lận để truy cập vào Facebook hoặc tài khoản email – những cách thức mà các chính phủ này thường hay ngăn chặn.

Cuộc Cách mạng Iran năm 1979 minh họa sự chuyển đổi từ truyền thông phát sóng đến một bộ công cụ truyền thông khác. Chắc chắn có nhiều lực lượng xã hội đã làm việc tại Iran trong những năm 1970, kể cả những người không hài lòng với nạn tham nhũng và đàn áp của triều đại Shah và áp lực từ cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, nhiều nhà sử học tin rằng một trong các chìa khóa dẫn đến cách mạng là tài năng của Ayatollah Ruhollah Khomeini- người đã truyền bá thông điệp  bằng cách sử dụng một thiết bị đơn giản: các băng cassette. Sử dụng một mạng lưới rộng lớn, Khomeini phân phối băng các bài phát biểu của mình cho hơn 9.000 nhà thờ Hồi giáo. Theo như tạp chí Time đã viết,  " một người đàn ông 78 tuổi thánh  đóng trại ở ngoại ô Paris [và] điều hành một cuộc cách mạng cách đó 2600 dặm giống như  như người chỉ huy một lực lượng tấn công một ngọn đồi”.

Chính phủ Hoa Kỳ đã cảnh giác về sức mạnh của băng cassette ở Iran, vì cả hai lý do:  Công nghệ mới này  quá khó khăn để kiểm soát và  chính quyền Washington tập trung sự quan tâm  vào khối Xô Viết và băng cassette có thể sử dụng  như một công cụ tuyên truyền của các nước cộng sản. Không sử dụng công nghệ này, Hoa Kỳ đã bỏ lỡ một cơ hội lớn để thúc đẩy các chính sách và giá trị của họ và  trao quyền cho các nhà lãnh đạo dân chủ ít được biết đến. Vào giữa những năm 1970, các nhà sản xuất cassette đã đột nhập vào thị trường mới nổi, và đột nhiên từ một thiết bị giải trí mới,  băng cassette  đã trở thành một công cụ truyền thông hiệu quả.

Trong thập kỷ sau đó, công nghệ đã giúp đạt được một bước tiến quan trọng trong việc giảm quyền lực của thế lực trung gian và  làm nghẽn mạch những chế độ  có khuynh hướng luôn tìm cách dập tắt tiếng nói của phe đối lập. Những nhà hoạt động nhân quyền ở Liên Xô và Đông Âu sử dụng máy photocopy và máy fax để truyền bá thông điệp của riêng mình và thúc đẩy tình trạng bất ổn. Các công nghệ mới lại còn có nhiều hứa hẹn, so sánh tiếng quay số không đáng tin cậy của máy fax với các thiết bị  cầm tay hiện đại ngày nay cũng giống như so sánh một chiếc la bàn của con tàu với sức mạnh của hệ thống định vị toàn cầu.
GÓC KHUẤT CỦA PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG TRUNG GIAN
Ngày nay, người ta có xu hướng than phiền về việc phải xem xét quá nhiều thông tin hơn là việc chẳng có lấy một thông tin nào. Có lẽ khía cạnh mang tính cách mạng nhất của thay đổi này nằm ở sự phong phú của các phương thức cho phép mỗi cá nhân có thể tổng hợp, cung cấp và sáng tạo nên nội dung riêng mà không chịu sự quản lý của chính phủ.
Tất nhiên điều này không đồng nghĩa với việc những phương tiện truyền thông trung gian đột nhiên bị đẩy ra ngoài lề. Những công ty cung cấp dịch vụ truy cập Internet hay những ứng dụng phần mềm vẫn đóng vai trò quan trọng, và chính phủ hoặc những công ty do nhà nước quản lý vẫn nắm giữ quyền chặn truy cập mạng. Nhưng quyền lực này đang dần thu hẹp lại, bởi không chỉ có chính quyền mới có thể ngăn chặn, kiểm soát hay dò xét những nguồn thông tin mọi lúc. Cùng lúc đó, sự tham gia của cộng đồng kiều bào trong việc mang lại sự đổi thay cho đất nước của họ đang ngày càng tăng, tạo nên nguồn mới về  sự hỗ trợ tài chính cùng với áp lực quốc tế. Và một nền công nghệ cá nhân toàn phần đang nổi lên với mục đích tìm kiếm và tạo ra những lỗ hỏng trong tường lửa bảo mật (firewall).
Sự kết hợp của những công nghệ mới và khao khát được tự do hơn đã thật sự thay đổi nền chính trị ở những nơi ít ai nghĩ đến nhất trên thế giới. Ở Colombia vào năm 2008, một kỹ sư thất nghiệp tên Oscar Morales đã sử dụng Facebook và mạng Internet miễn phí dựa trên dịch vụ điện thoại Skype để tạo nên một cuộc biểu tình lớn chống lại Lực lượng Cách mạng Vũ trang của Colombia. Ông đã có thể tập hợp một cuộc biểu tình lớn nhất trong lịch sử chống lại một nhóm khủng bố và  hình thức này đã thổi bùng lên một cuộc chiến đấu mà không tổng thống nào có thể làm được trong hơn 40 năm qua. Ở Moldova vào năm 2009, giới trẻ, vốn đang thất vọng và giận dữ do nền kinh tế suy sụp và tình hình xã hội rối ren, đã tập trung tại đường Chisinau sau một cuộc bầu cử gian lận. Họ đã sử dụng tin nhắn trên trang mạng Twitter để biến một cuộc biểu tình nhỏ với sự tham gia của 15.000 người thành một sự kiện toàn cầu. Khi áp lực quốc tế và trong nước ngày càng tăng, kết quả của cuộc bầu cử gian lận bị hủy bỏ, và cuộc bầu cử mới đã đem lại quyền lực cho chính quyền phi cộng sản đầu tiên ở Moldova trong hơn 50 năm qua. Tại Iran vào năm ngoái, những  đoạn video Youtube, những cập nhật trên Twitter và những nhóm trên Facebook đã tạo cơ hội cho những nhà hoạt động và công dân truyền bá thông tin mà những điều này đã thách thức trực tiếp tới kết quả không minh bạch của cuộc bầu cử tổng thống.
Những câu chuyện đầy cảm hứng và tình huống khơi dậy hy vọng đã thúc đẩy việc sử dụng các công nghệ kết nối. Nhưng khả năng những công nghệ đó có thể bị lạm dụng hoặc sử dụng theo cách gây nguy hiểm vẫn chưa được đánh giá đúng. Những chế độ đàn áp nhất trên thế giới và những nhóm bạo lực xuyên quốc gia, từ Al Qaeda, các tập đoàn ma túy Mexico đến Mafia, Taliban đều sử dụng công nghệ một cách hiệu quả để phát triển thêm thành viên mới, gây khiếp sợ cho dân địa phương  và đe dọa thể chế dân chủ. Để minh chứng cho hậu quả của việc chống đối, những tập đoàn ma túy Mexico, đã lan truyền những video quay cảnh chém đầu những người hợp tác với chính quyền. Al Qaeda và những chi nhánh của nó đã tung ra video cảnh giết chết những người nước ngoài bị bắt làm con tin tại Iraq.
Công nghệ mã hóa tương tự được các nhóm bất đồng chính kiến và các nhà hoạt động sử dụng để che giấu chính quyền những liên lạc riêng của họ và dữ liệu cá nhân cũng được những kẻ khủng bố và tội phạm sử dụng . Khi công nghệ mã hóa giá rẻ tiếp tục tăng nhanh trên thị trường  thì những kẻ chuyên quyền hay những tin tặc cũng có thể tận dụng chúng. Việc tìm ra sự cân bằng giữa bảo vệ nhóm bất đồng và trao quyền cho tội phạm sẽ là công việc khó khăn nhất. Mạng lưới viễn thông ở Afghanistan là một minh chứng cụ thể về cách mà công nghệ kết nối có thể vừa giúp đỡ vừa làm tổn hại một quốc gia. Kể từ khi lực lượng Hoa Kỳ và NATO tổ chức chiến dịch quân sự đầu tiên ở Afghanistan vào năm 2001, truy cập điện thoại di động ở đây tăng từ 0 lên 30%. Việc phát triển này rõ ràng có những ảnh hưởng tích cực: những chương trình dựa trên điện thoại di động có thể giúp phụ nữ gọi đến các trung tâm từ điện thoại riêng của họ, cung cấp dịch vụ chẩn đoán y tế từ xa, cung cấp cho nông dân thông tin giá cả hàng hóa hiện hành. Và 97% dân số Afghanistan không có tài khoản ngân hàng có thể tiết kiệm và truy cập tài khoản bằng điện thoại nhờ dịch vụ chuyển tiền di động. Lương của 2.500 nhân viên cảnh sát quốc gia Afghanistan ở tỉnh Wardak được chuyển thông qua công nghệ này, cho phép họ chuyển tiền đến cho các thành viên trong gia đình mình bằng cách sử dụng tin nhắn điện thoại.
Cùng lúc đó, Taliban cũng dần am hiểu về việc sử dụng công nghệ điện thoại di động để tạo ra những tác động nguy hiểm. Phiến quân Taliban đã sử dụng điện thoại di động để liên kết các cuộc tấn công, đe dọa dân chúng và tổ chức chống phá việc kinh doanh trong nước bằng cách cho nổ tung những tòa tháp phát sóng điện thoại hoặc buộc chúng phải ngừng hoạt động từ 6 giờ chiều đến 8 giờ sáng hôm sau, thời điểm mà Taliban tiến hành các cuộc đột kích ban đêm. Vào tháng 2.2009, quân Taliban ở nhà tù Policharki thuộc thủ đô Kabul đã sử dụng điện thoại di động để phối hợp tấn công vào các cơ quan chính quyền. Ở Afghanistan và ở Iraq, việc quân nổi dậy sử dụng điện thoại di động kích hoạt từ xa các quả bom gắn trên đường không phải là chuyện hiếm gặp.
MÈO VỜN CHUỘT
Các chuyên gia miêu tả mối quan hệ quốc tế như một quốc gia hỗn loạn và  bị chế ngự với các bang tự trị. Mặc dù các quốc gia nổi bật chắc chắn sẽ đóng một vai trò trên trường quốc tế, vẫn có những tranh cãi về việc chính xác thì các quốc gia đó trở nên chủ chốt như thế nào. Vào năm 2008, Richard Hass, chủ tịch Hội đồng Quan hệ đối ngoại đã mô tả thế giới “không phân cực” được thống trị “bởi không chỉ một, hai hay vài quốc gia mà là hàng chục diễn viên đang chiếm hữu và thi hành các loại quyền lực khác nhau”.  Ở giới “bất động sản liên thông”, không gian ảo bị hạn chế không phải bởi những đường biên giới mà bởi luật quốc gia, điều này có thể không đồng nhất với hiệp ước Westphalia, một thỏa thuận được ký kết năm 1648 để kết thúc cuộc chiến 30 năm ở châu Âu và lập nên hệ thống các quốc gia hiện đại. Thay vào đó, các tổ chức chính phủ, phi chính phủ, cá nhân và những công ty tư nhân sẽ cân bằng lợi ích lẫn nhau.
Không phải tất cả các chính quyền đều quản lý sự hỗn loạn còn sót lại trong giai đoạn xuống dốc của chính quyền theo cùng một cách giống nhau. Tất nhiên vẫn còn nhiều điều chưa chắc chắn, nhưng dường như rõ ràng là các quốc gia theo thể chế dân chủ và nền kinh tế thị trường tự do tỏ ra thích hợp hơn trong việc quản lý và ứng phó với tình trạng cực kỳ hỗn loạn này. Mối nguy hiểm nhất với mạng Internet giữa các quốc gia này , có thể định nghĩa như các thành viên Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế, sẽ đặt ra quá nhiều quy định cho yếu tố công nghệ, vốn đang phát triển mạnh nhờ đầu tư kinh doanh và mạng lưới mở.
Có lẽ không có quốc gia nào cẩn trọng trong việc cho phép công dân  mình truy cập vào công nghệ kết nối hơn Trung Quốc. Mục đích của chính quyền này quá rõ ràng: kiểm soát việc truy cập vào nội dung trên Internet cũng như sử dụng công nghệ để xây dựng quyền lực chính trị và kinh tế. Bắc Kinh đã bắt giữ những nhà hoạt động mạng và sử dụng những mục thông báo trực tuyến nhằm đẩy mạnh sự tuyên truyền cho chính quyền. Tất cả những điều này là phần (cơ bản) của chiến lược nhằm đảm bảo rằng cuộc cách mạng công nghệ sẽ mở rộng chế độ một đảng cầm quyền hơn là làm tổn hại nó. Hình mẫu quản lý Internet của Trung Quốc đã được các quốc gia như Việt Nam học hỏi theo và được đẩy mạnh ở các nước châu Á và châu Phi, nơi Trung Quốc đang đầu tư mạnh mẽ vào khai thác tài nguyên. Trung Quốc  đã tiến đến việc thu nạp thêm  các tổ chức quốc tế, ví dụ như Liên minh Viễn thông Quốc tế để chiếm được sự đồng thuận toàn cầu và tập hợp đồng minh đằng sau nỗ lực kiểm soát những phương tiện liên lạc của công dân.
Nhưng nhờ vào những nhà hoạt động và các tổ chức phi chính phủ bên trong và ngoài Trung Quốc, chính quyền Bắc Kinh đã nhận được một bài học rằng nỗ lực lập kiểm soát hoàn toàn Internet không phải lúc nào cũng đạt hiệu quả. Vừa mới đây chính quyền không thể chống đỡ việc sử dụng điện thoại di động, blog, tải video lên mạng để khuyến khích những cuộc biểu tình của tầng lớp lao động cũng như tường thuật các vụ tai nạn công nghiệp, các vấn đề môi trường, các trường hợp tham nhũng.
Cuộc biểu tình vào tháng 7.2009 của dân tộc Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương đã thu hút sự chú ý của truyền thông quốc tế, mặc dù, ngay sau đó Bắc Kinh đã chặn mọi sự truy cập Internet trong vùng. Những nhà hoạt động Duy Ngô Nhĩ đã sử dụng mạng xã hội và các blog nhỏ để lan truyền thông tin đến với đúng đối tượng, trong đó có cả những người Duy Ngô Nhĩ ngoài nước. Trò “mèo vờn chuột”  chắc chắn sẽ tiếp diễn, nhưng trong ngắn hạn, việc kiểm soát truy cập thông tin của chính quyền Trung Quốc sẽ vẫn đạt hiệu quả to lớn.
Sự giao nhau giữa những công nghệ kết nối và quyền lực quốc gia còn được thể hiện ở các nước khác trong khối BRIC, bao gồm Brazil, Ấn Độ và Nga. Ở mỗi quốc gia, tuy không thường xuyên nhưng việc sẵn lòng đón nhận công nghệ mới nằm phục vụ việc phát triển kinh tế đang dần biến thành nỗi lo về việc Internet sẽ bị các nhóm tội phạm, khủng bố và bất đồng lợi dụng. Ví dụ như, vào mùa xuân năm ngoái, một viên chức cảnh sát tên Alexei Dymovsky ở phía nam liên bang Nga đã bị bắt sau khi ông đăng tải một video clip lên Youtube vạch trận sự tham nhũng trong lực lượng cảnh sát quốc gia.
Việc chấp nhận hay phản đối công nghệ kết nối cũng diễn biến khá phức tạp trong chính nội bộ chính quyền. Thổ Nhĩ Kỳ là một ví dụ điển hình. Bộ Tư pháp quốc gia đã ra lệnh chặn Youtube nhưng tổng thống thì tuyên bố chống lại lệnh này . Quyết định này được đưa ra sau khi xuất hiện hàng loạt blog và video miêu tả Kemal Ataturk - người lập nên quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ - với thái độ công kích, sỉ nhục.  Cuộc tranh luận trong nội bộ chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ đã làm dấy lên câu hỏi liệu những quốc gia có thể tiếp tục bảo vệ những vấn đề lịch sử của đất nước mình trong thời đại của “bất động sản liên thông” ?
Những nhà quan sát quốc tế đang theo dõi các nhóm nhỏ những quốc gia siêu kết nối (hyperconnected) như Phần Lan, Israel, Thụy Điển,… Đó là những quốc gia có chính quyền trung ương tương đối mạnh, nền kinh tế ổn định, nền công nghệ phát triển và nhiều yếu tố đổi mới. Những quốc gia này đã và đang chứng tỏ khả năng nắm bắt công nghệ và ý thức đầu tư vào băng thông rộng và nghiên cứu. Ngân sách chi trả cho việc nghiên cứu và phát triển của chính phủ chiếm tỷ lệ phần trăm rất cao trong GDP. Những quốc gia mà đầu tư vào nghiên cứu và cơ sở hạ tầng sẽ giữ vững được lợi nhuận trong tương lai.
“CỞI CƠN SÓNG DỮ..." (*)
Những quốc gia đang phát triển – thuộc nhóm những quốc gia “đang phát triển công nghệ” -  đang đối mặt với những cơ hội và thách thức khác nhau trong việc tiếp cận với những công nghệ kết nối. Cuộc cá cược này sẽ đặc biệt hơn với những quốc gia có chính quyền trung ương yếu đuối hay thất bại, nền kinh tế kém phát triển, cơ cấu dân số thiếu cân xứng với tỷ lệ người trẻ thất nghiệp cao, nền văn hóa đầy những đối lập và bất đồng cùng những tranh cãi với áp lực bên ngoài từ những kiều bào sống ở các nước có nền công nghệ phát triển hơn. Dòng chảy công nghệ đột ngột tràn vào những quốc gia này có thể đe dọa đến hiện trạng xã hội, để lại một chính quyền mỏng manh với vị thế bất ổn.
Về mặt tích cực, việc lan truyền công nghệ đến những quốc gia đang phát triển về công nghệ  như Ai Cập đã phá vỡ rào cản truyền thống của tuổi tác, giới tính và tình trạng kinh tế xã hội. Đa số đều dựa vào sự phát triển của điện thoại di động, có khả năng tạo ra một cuộc cách mạng tương đương với cuộc cách mạng xanh những năm đầu thế kỷ 20 – một bước chuyển ứng dụng công nghệ nông nghiệp và quy trình tiên tiến để tăng sản lượng lương thực trên toàn thế giới. Ví dụ, ở Pakistan, chỉ có 300.000 thuê bao điện thoại di động vào năm 2000, nhưng đến tháng 8.2010 con số này đã lên đến gần 100 triệu. Những thay đổi ngoạn mục trong khả năng liên kết đã có tác động lên các quốc gia này. Tại Kenya, công ty Safaricom đã phát triển một chương trình chuyển tiền bằng cách sử dụng điện thoại di động, cho phép giảm thiểu phí giao dịch gửi tiền, mở rộng truy cập vào tài khoản ngân hàng cho khách hàng và sắp xếp hợp lý quá trình tài chính vi mô.
Ở một số quốc gia đang phát triển khác như Côte d’Ivoire, Guinea, Kyrgyzstan và Pakistan, công nghệ kết nối đang dần làm thay đổi bản chất xã hội, dù với tốc độ chậm. Số lượng các nhà hoạt động vô danh và bán thời gian ngày càng tăng, website đang dần thay thế văn phòng, những thành viên (trên mạng) thay thế cho hệ thống nhân viên được trả lương, và những nhóm cư dân sử dụng nền nguồn mở miễn phí thay cho việc phải phụ thuộc vào viện trợ nước ngoài. Cùng lúc đó, những công ty trong nước đang lấp đầy những khoảng trống do chính phủ để lại, như yêu cầu về ngôn ngữ và huấn luyện kỹ năng làm việc, dịch vụ tài chính, chăm sóc sức khỏe và giá cả hàng hóa. Ngày nay những nhà hoạt động đều mang tính địa phương và toàn cầu hóa cao: họ nhập khẩu công cụ từ nước ngoài cho mục đích cá nhân và xuất khẩu những ý tưởng của riêng họ.
Khi công nghệ tiếp tục được mở rộng, nhiều chính quyền của các quốc gia đang phát triển công nghệ kết nối chú trọng nhiều về giá cả hơn lợi ích. Điều này đặc biệt đúng với những quốc gia muốn duy trì tính chính thống của thể chế chính trị. Bất cứ điều gì làm dấy lên câu hỏi về hiện trạng xã hội, đảng cầm quyền hay bề ngoài ổn định đều gây ra mối đe dọa. Với những chính quyền chuyên quyền, tham nhũng hay bất ổn thì khả năng xảy ra những cuộc nổi dậy nhỏ luôn đặc biệt phiền phức. Trong vài trường hợp, điều duy nhất để phía đối lập tiếp tục quấy nhiễu là sự thiếu hụt những công cụ tổ chức và liên lạc để cung cấp công nghệ kết nối rẻ hơn và rộng rãi hơn.
Trong vài năm gần đây, những chế độ từng tiến hành đàn áp thẳng tay dân chúng  trở nên tinh vi và khôn ngoan hơn. Những hành động của chính phủ Iran xung quanh cuộc bầu cử quốc gia năm 2009 là một ví dụ. Trong những tuần trước bầu cử, chính quyền Tehran thỉnh thoảng lại chặn những trang web cố định, ngăn cản việc truy cập để gửi tin nhắn và khiến tốc độ kết nối Internet bị chậm lại. Vào ngày bầu cử, chính quyền đã khóa tất cả các hình thức kết nối kỹ thuật số trong vài ngày, thậm chí là vài tuần (mặc dù những nhà hoạt động có thể sử dụng công nghệ thay thế hoặc gian lận để truy cập vào những trang bị cấm). Những thành viên của Lực lượng Vệ binh Cách mạng Quốc gia đóng vai là các nhà hoạt động ảo và lùng bắt những người thuộc phe đối lập đang hoạt động trực tuyến. Điều  đáng ngại nhất – giới chức truyền thông Iran đã thuê những kỹ sư nặc danh tạo nên một trang web khuyến khích mọi người đăng tải ảnh của cuộc phản loạn. Sau đó họ sử dụng trang web này để nhận dạng, theo dõi và trong một số trường hợp thì sẽ bắt giữ những người thuộc phe đối lập.
Liệu những quốc gia đang phát triển công nghệ kết nối có đi theo hình mẫu của Iran hay không còn phụ thuộc vào cân bằng giữa sự ổn định của thể chế chính trị quốc gia và nhu cầu phát triển kinh tế. Những quốc gia này đã đối mặt với việc bắt đầu lại hay duy trì nền kinh tế phát triển chậm chạp và đình trệ đều có xu hướng để công dân của mình cũng như việc kinh doanh thuận theo công nghệ mới và duy trì dòng chảy thông tin vốn quan trọng với đầu tư nước ngoài.
CÔNG NGHỆ - TRƯỚC NHỮNG THỬ THÁCH
Một nhóm thứ hai cũng tương tự với nhóm các quốc gia đang phát triển là nhóm “những nước trong giai đoạn tiếp cận công nghệ truyền thông”. Đó là những nước mà sự phát triển công nghệ mới nảy sinh và cả chính phủ lẫn người dân đều đang thử nghiệm những công cụ truyền thông và ảnh hưởng của chúng. Ở những quốc gia này, công nghệ kết nối vẫn chưa đủ phổ biến để biểu thị cơ hội hay thách thức. Mặc dù những quốc gia này rồi sẽ trở thành những nước đang phát triển về công nghệ, vẫn còn quá sớm để quyết định điều này sẽ có ý nghĩa gì đối với mối quan hệ giữa dân chúng, chính quyền và những quốc gia lân cận.
Một vài nước như Cuba, Myanmar (còn gọi là Burma) và Yemen đã cố gắng ngăn chặn hoàn toàn việc tiếp xúc với công nghệ. Ví dụ, họ đã hạn chế quá trình điện thoại di động xâm nhập vào giới thượng lưu. Tuy nhiên, điều này lại dẫn đến thị trường chợ đen buôn bán các phương tiện liên lạc, đồng thời cũng tiềm tàng khả năng kích động phe đối lập. Những nhà hoạt động trong các quốc gia này và ở những nơi họ lưu vong như vùng dọc biên giới Myanmar – Thái Lan, hàng ngày vẫn tìm cách phá bỏ sự phong tỏa thông tin. Trong thời gian tới, chính quyền các nước sẽ làm tất cả để duy trì chế độ độc quyền lên các công cụ truyền thông.
Thậm chí một nhóm lớn hơn gồm những quốc gia đang trong giai tiếp cận có thể gọi là “mở cửa do bắt buộc”. Những nước này, về nguyên tắc, mở cửa để du nhập và sử dụng công nghệ kết nối nhưng chính quyền mỗi nước lại có thể đưa ra những hạn chế kiểm soát định kỳ. Những hạn chế này có thể được thúc đẩy bởi tầng lớp thượng lưu hoang tưởng, giới quan liêu tham nhũng, việc nhận thức được những đe dọa an ninh hay những yếu tố khác. Những quốc gia này có mặt từ châu Phi, Trung Mỹ đến  Đông Nam Á và đều là những nước xuất khẩu nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Với những chính phủ cầm quyền ở các quốc gia này, một trong những tưởng tượng việc tạo ra nền kinh tế bền vững, đa dạng và cởi mở thường được ưu tiên hơn so với nỗi lo quân đối lập có vũ trang được trang bị điện thoại di động sẽ đe dọa đến sự sống còn của chế độ.
Nhóm các quốc gia cuối cùng tuy nhỏ nhưng mang tính toàn cầu, được gọi chung là các nước thất bại. Những nước này có đặc trưng là đều rất hỗn loạn và không có khả năng hành động nhất quán ngay cả trong những vấn đề quan trọng nhất. Những quốc gia như vậy thường là nơi ẩn náu của các tổ chức tội phạm và mạng lưới khủng bố gây nên những bất bình trong nước, nhưng lại ẩn chứa tham vọng khu vực và toàn cầu. Somalia là một ví dụ điển hình. Mặc dù nhiều hoạt động của phe đối lập và quân phiến loạn hướng vào trong nước, một vài mạng lưới khủng bố quốc tế, những tay vận chuyển vũ khí và trùm buôn bán ma túy vẫn nhòm ngó lãnh thổ này để tuyển mộ thành viên hay tuyên truyền về ý thức hệ của chúng. Mặc dù công nghệ kết nối có thể là sự đổi mới sáng tạo cho người dân ở những quốc gia này, chúng còn tạo cơ hội cho việc mở rộng chủ nghĩa khủng bố và hành vi tội phạm ra các nước khác.
HÃY KÉO SẬP BỨC TƯỜNG NGĂN CẢN
Nỗ lực của những chính quyền dân chủ nhằm nuôi dưỡng tự do và cơ hội sẽ còn tiến xa và mạnh mẽ hơn nữa nếu họ nhận ra vai trò quan trọng của công nghệ trong việc nâng cao giá trị của người dân, và công nghệ được cung cấp chủ yếu bởi khu vực tư nhân. Những công ty có sản phẩm hay dịch vụ tập trung vào công nghệ thông tin, như nhà sản xuất điện thoại di động, nhà chế tạo bộ định tuyến để tạo nên hệ thống tường lửa bảo mật, hoặc nhà cung cấp nền Internet, thường buôn bán sản phẩm hàng hóa gắn liền với yếu tố chính trị. Ở trong thế giới tương tác qua lại lẫn nhau của Web 2.0, nhiệm vụ hàng đầu của những tập đoàn có yếu tố công nghệ phát triển nhanh nhất là cung cấp sự kết nối xuyên quốc gia. Một khúc mắc rằng giới chức cũ, những người đã đóng góp cho chế độ độc tài vẫn nhìn nhận những công ty này chẳng khác gì những nơi cung cấp vũ khí trong thời đại thông tin. Mặc dù Hoa Kỳ và những nước khác có thể công khai cảnh báo giới chức Trung Quốc tuân theo thỏa thuận nhân quyền quốc tế, những công ty này có thể hành động thực sự bằng cách công khai việc chính phủ các nước trên thế giới kiểm duyệt nội dung như thế nào hay đơn giản là cô lập người dân của họ. Những công ty điện thoại di động đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc này, bởi ở nhiều nơi trên thế giới, điện thoại là một trong những thứ giúp dân chúng chống lại sự lộng quyền.
Các tổ chức phi lợi nhuận và những nhà hoạt động cá nhân trên toàn cầu còn đối diện với những cơ hội mới. Ở những quốc gia đã phát triển công nghệ kết nối, họ sẽ tiếp tục định hình chính quyền và phối hợp chế độ bằng cách đẩy mạnh tự do ngôn luận và bảo vệ người dân khỏi sự đe nẹt của chính quyền. Nhưng tại thời điểm này, họ sẽ phải điều chỉnh chiến lược của mình để phản ánh môi trường mới mà họ tạo nên. Có nghĩa là, giữa những điều khác, phải đảm bảo phơi bày những việc làm sai trái của chính phủ chứ không phải hùa theo chính quyền để tạo nên những bất đồng dân tộc, đứng phía sau hậu trường trong quá trình tạo ra những sản phẩm tốt hơn, nhanh hơn, sử dụng công nghệ mà các khu vực  tư nhân tạo ra cho mục đích riêng của họ. Ví dụ, một trang web mang tên Herdict đã thu thập thông tin ở những trang bị cấm, công khai những thông tin vốn cấm lưu hành trực tuyến và tạo ra sự minh bạch cho người dùng ở mức độ cao nhất từ trước.
Với cả các tổ chức phi lợi nhuận lẫn những công ty, những quốc gia phát triển về công nghệ là nơi họ có thể phối hợp cùng nhau để tạo nên sức ảnh hưởng. Một ví dụ là Mạng lưới Toàn cầu Chủ động (GNI), một tổ chức đưa những công ty công nghệ thông tin, những nhóm nhân quyền, các nhà đầu tư xã hội, học giả lại với nhau để thúc đẩy tự do ngôn luận và bảo mật tính riêng tư (Google là một trong những thành viên đồng sáng lập). GNI đã đưa ra những hướng dẫn cụ thể cho các công ty và các nhóm khác khi phải đương đầu với việc chính phủ kiểm duyệt nội dung hay đòi hỏi thông tin về người sử dụng. Dưới thỏa thuận này, các công ty đồng ý để người hội thẩm ngoài công ty quyết định sự chấp thuận của họ với những hướng dẫn của GNI và tất cả các thành viên đều đồng ý nhằm thúc đẩy các lợi ích chung.
SỰ LIÊN MINH CỦA CÁC NƯỚC ĐÃ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ KẾT NỐI
Việc đổi mới liên tục, sự tăng trưởng dân số trên”vùng đất liên thông", hơn bao giờ hết sẽ tạo nên những thách thức và khó khăn mới cho người dân và chính phủ nơi đây. Ngay cả những người am hiểu và nhanh nhạy về sử dụng công nghệ cũng mập mờ trong việc sử dụng các thiết bị và dịch vụ mới. Trong một thời kỳ mà năng lực cá nhân và tập thể gia tăng hàng ngày, chính phủ nào điều khiển được làn sóng công nghệ sẽ khẳng định được vị trí tốt nhất nhằm tạo sức ảnh hưởng lên người dân và đưa họ vào trong quỹ đạo của mình.  Những chính phủ nào không thể làm điều đó được sẽ thấy chính họ đang tạo sự bất đồng trong dân chúng.
Những quốc gia dân chủ đã xây dựng liên minh quân sự, giờ đây có thể xây dựng một liên minh về công nghệ kết nối. Điều này không có nghĩa rằng chỉ duy nhất công nghệ kết nối mới có thể biến đổi thế giới. Nhưng nó đòi hỏi một con đường mới để bảo vệ người dân trên toàn thế giới, những người đang bị chính quyền đàn áp và không thể nói lên chính kiến của mình.
Đối mặt với những cơ hội mới, các chính phủ dân chủ có nghĩa vụ phải liên kết với nhau, đồng thời phải tôn trọng quyền lực của cá nhân và các tổ chức phi chính phủ nhằm đưa lại sự thay đổi. Họ phải lắng nghe từ đầu và nhận ra việc người dân sử dụng công nghệ kết nối có thể là phương tiện hiệu quả để giương cao các giá trị tự do, công bằng và nhân quyền trên toàn cầu. Trong một kỷ nguyên mới của các chính phủ dân chủ - khi quyền lực và trách nhiệm được phân chia hơp lý, không chính phủ nào hành động đơn độc mà có thể tiến bộ được.
Người dịch: Nguyên Túc Nguyễn Sung, Ph.D.
(*) Lời Bà Triệu Thị Trinh, “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng sóng dữ, chém cá tràng kình ở biển Đông, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ...”


Copyright © 2002-2010 by the Council on Foreign Relations, Inc. All rights reserved.