Friday, October 3, 2025

Thiên Nhạn và Huệ Đan: Hiểu Đúng về Khái Niệm “Văn Bản Dưới Luật” – Bài I

 

Lời thưa: Nhiều năm qua, bản Nội lệ tu học và sinh hoạt GĐPT Việt Nam đã trở thành điểm nóng mỗi khi được anh-chị-em lam viên trong và ngoài nước bàn đến. Nó như một gút thắt, chưa từng được tháo gỡ, khiến bao cuộc tranh luận không dừng lại ở việc tìm một giải pháp, mà ngày càng bị đẩy lên đến tột đỉnh phân rã. Bài phân tích này chỉ mong góp một phần soi sáng vào điểm cốt lõi của nội kết ấy, dưới ánh sáng của luật và giới, trong kỳ vọng của Tăng-già, đặc biệt là tâm ý nguyên thủy của cố Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, và mong “dựng dậy những gì đã sụp đổ, chứ không phải phá sập những gì đang đứng vững.”

Hiểu Đúng về Khái Niệm “Văn Bản Dưới Luật”

Soi sáng tâm ý của Cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ
về “kiến lập một văn bản dưới Nội quy – Quy chế để điều hành sinh hoạt”

Trong sinh hoạt pháp lý và tổ chức, có một ngộ nhận dai dẳng: cho rằng “văn bản dưới luật” có thể viết lại, thay đổi, hay bổ sung những điều khoản cốt lõi của văn bản gốc. Ngộ nhận ấy làm rối loạn thứ bậc pháp lý, khiến tổ chức vận hành bằng ý chí nhất thời thay vì chuẩn mực nhất quán. Thực chất, văn bản dưới luật không bao giờ là một “luật mới,” càng không phải là một bản sao nâng cấp của luật gốc, mà chỉ là một phương tiện triển khai[*]. Nếu không nắm vững khái niệm khoa học pháp lý và tinh thần giáo lý, người soạn thảo sẽ dễ trượt vào con đường phình to quyền lực, dẫn đến tác hại nghiêm trọng cho tổ chức.

Trong hệ thống pháp lý của một tổ chức, Nội Quy – Quy Chế là nền tảng tối thượng, có giá trị như một “Hiến pháp” định hình cơ cấu, mục đích và đường hướng. Nhưng do thực tiễn sinh hoạt thường biến chuyển, cần có những văn bản hướng dẫn, bổ sung, điều chỉnh cách vận dụng Nội Quy – Quy Chế trong những tình huống chưa thể tổ chức Đại hội để tu chỉnh chính thức. Đó chính là văn bản dưới luậtMột văn bản dưới luật không có quyền thay đổi, thêm bớt điều khoản gốc, mà chỉ được phép diễn giải, cập nhật phương thức hành động, duy trì sự thông suốt sinh hoạt trong khuôn khổ nguyên tắc đã ấn định. Nếu lạm dụng, biến “nội lệ” thành “luật mới,” tất yếu sẽ dẫn đến mâu thuẫn, bất tín và không được toàn thể chấp nhận. Đây là điều đã và đang xảy ra, khiến một số văn bản bị đánh giá là vượt quá luật gốc, làm suy giảm tính chính danh và không thuyết phục được các hệ thống GĐPT tại hải ngoại, quốc gia hay châu lục là lẽ đương nhiên.

Ngày nay, nếu chúng ta chịu khó so sánh hai văn bản pháp quy gốc là Nội Quy – Quy Chế và bản Nội lệ Tổ chức – Tu học – Sinh hoạt, rồi quy chiếu với nội hàm “văn bản dưới luật,” sẽ thấy rõ một câu hỏi hệ trọng: Bản Nội Lệ hiện hành là một văn bản đúng nghĩa dưới luật, hay đã vượt luật? Chính vì sự mập mờ này mà tổ chức đã phải đi xa lề đến ngần ấy năm, để lại một tình Lam gieo neo đến quặn lòng! Những năm tháng phân hóa, những cuộc tranh cãi về pháp lý, rốt cuộc đều phát xuất từ sự thiếu minh định: đâu là luật gốc, đâu là văn bản phụ thuộc, đâu là giới hạn cho sự diễn giải.

Bấy giờ, tâm ý của Hội Đồng Giáo Giới, qua lời giáo huấn của Cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, là minh nhiên: hãy kiến lập một văn bản dưới Nội Quy – Quy Chế để điều hành trong giai đoạn quá độ, khi Đại hội Huynh trưởng chưa thể nhóm họp. Chính vì vậy, Bản Nội Lệ Tổ Chức – Tu Học – Sinh Hoạt GĐPTVN đã hình thành, với ba yếu tố trọng tâm:

  1. Cập nhật hệ thống GĐPTVN toàn cầu: Nội Quy – Quy Chế hiện hành (ban hành từ trước 2003) chưa tiên liệu cơ chế Hải ngoại và Thế giới, trong khi thực tế GĐPTVN đã lan rộng khắp các châu lục. Do đó, các Ban Hướng Dẫn tại hải ngoại khi đối chiếu Nội Quy gốc thường thiếu cơ sở pháp lý. Văn bản dưới luật cần khẳng định tính hiện hữu của hệ thống toàn cầu, bổ sung tính pháp lý cho sự liên hệ giữa quốc nội và hải ngoại.
  2. Nâng tầm Hội Đồng Huynh Trưởng Cấp Dũng: Sau Đại hội Nguyên Thiều (2003), Viện Hóa Đạo đã phê chuẩn cơ chế Vụ trưởng. Nhưng trong thực tiễn kế thừa, nguy cơ khuyết vị trí vẫn hiện hữu. Văn bản dưới luật đưa ra giải pháp Hội đồng Cấp Dũng là Vụ trưởng tập thể, vừa bảo toàn pháp lý, vừa tạo cơ chế dung thông, không lệ thuộc cá nhân. Đây là một sáng kiến hợp hiến, giữ vững nguyên tắc nhưng vẫn bảo đảm sự kế tục.
  3. Cập nhật phương thức sinh hoạt phù hợp: Nhiều vận dụng mới đã phát sinh, như việc Ban Hướng Dẫn hải ngoại phối hợp, việc mở rộng các trại huấn luyện, hay vai trò cầu nối giữa quốc nội và hải ngoại. Những vận dụng này cần được ghi nhận trong một văn bản tạm thời để tránh chồng chéo, và đồng thời được Chư Tôn Đức chỉnh lý, Đức Trưởng lão Thượng Thủ phê chuẩn.

Văn bản dưới luật là phương tiện thực thi chứ không phải nguồn thiết lập quyền lực pháp lý. Nó mang ba thuộc tính nền tảng: tính phụ thuộc – luôn quy chiếu vào văn bản gốc, không được tạo thêm quyền, nghĩa vụ hay chế tài vượt quá; tính triển khai – chuyển nguyên tắc khung thành chu trình, biểu mẫu, trách nhiệm cụ thể để thi hành đúng tinh thần; và tính hợp chuẩn – nếu phát sinh xung đột, văn bản dưới luật mặc nhiên lùi bước, văn bản gốc phải được ưu tiên tuyệt đối. Nói ngắn gọn, văn bản dưới luật là chiếc cầu nối đưa tinh thần của luật gốc vào đời sống, không bao giờ đứng ngang hàng hay thay thế luật gốc.

Đặt trong nhãn quan Phật học, có thể thấy chủ trương của Cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ rất minh triết: chỉ kiến lập một văn bản dưới Nội Quy – Quy Chế để điều hành sinh hoạt, nghĩa là giữ cho Nội Quy – Quy Chế làm nền tảng “Giới,” còn dưới luật là phương tiện giúp “Định” trong vận hành và “Tuệ” trong ứng cơ. Nhờ vậy, tổ chức vừa giữ được nguyên tắc bất di bất dịch, vừa có phương tiện khế cơ với thực tiễn sinh hoạt. Đó là sự trung thành với tinh thần Lục Hòa: trước hết là “kiến hòa” – cùng thấy đúng về thứ bậc pháp lý, và “giới hòa” – cùng giữ ranh giới thẩm quyền. Khi dưới luật lấn át luật gốc, hai nền tảng ấy sẽ vỡ, và đoàn thể tất yếu phân hóa.

Tác hại của việc soạn thảo thiếu nền tảng khoa học pháp lý và giáo lý đã hiện rõ: dưới luật khi vượt quyền sẽ đảo lộn thứ bậc pháp lý, khiến văn bản chồng chéo, vô hiệu hóa lẫn nhau. Nó hành chính hóa giáo pháp, biến phương tiện thành cứu cánh, làm tổ chức bị dẫn dắt bởi giấy tờ thay vì mục đích giáo dục và tu học. Nó phình to chế tài, sinh ra “giấy phép con,” gây rào cản và mệt mỏi cho cơ sở hạ tầng. Nó xâm lấn phạm vi tu học, làm lệch trục giáo dục. Nó bẻ cong nguyên tắc Lục Hòa, gia tăng ma sát, đánh mất niềm tin và tính chính danh. Và nghiêm trọng hơn, ở bình diện quốc tế, các thực thể GĐPT hải ngoại và châu lục không thể công nhận một văn bản vượt luật gốc, vì chỉ Nội Quy – Quy Chế mới là nền tảng chung để hiệp nhất. Sự bất nhất này chính là lý do không thuyết phục được các tổ chức bạn, và vô tình đào sâu hố ngăn cách.

Do đó, chuẩn tắc xây dựng một văn bản dưới luật đúng nghĩa phải được khẳng định: chỉ tồn tại để thi hành, không bao giờ để lập pháp. Nó phải căn cứ minh thị vào điều khoản cụ thể của Nội Quy – Quy Chế; phạm vi giới hạn rõ ràng; tuyệt đối không áp dụng hồi tố bất lợi; không đặt ra cơ chế hay cấp bậc mới; và luôn có điều khoản bảo lưu rằng nếu có mâu thuẫn, văn bản gốc được ưu tiên áp dụng. Nếu thiếu những nguyên tắc này, dưới luật trở thành một “luật giả,” mở ra tiền lệ tùy tiện, khiến tổ chức đi chệch khỏi lý tưởng.

Hội Đồng Huynh Trưởng Cấp Dũng vì thế cần giữ vai trò trọng yếu trong việc bảo vệ chính danh này. Hội Đồng phải là biểu tượng của Vụ trưởng tập thể, thực hiện sứ mạng do Tăng-già phú chúc. Tính dung thông của Hội Đồng chính là điểm then chốt: không phân biệt quốc nội hay hải ngoại, khi quốc nội gặp biến cố, hải ngoại có thể chung gánh; khi hải ngoại khó khăn, quốc nội có thể hỗ trợ. Đây chính là sự kế thừa nhất quán tinh thần GĐPT Vụ – một pháp nhân được xây dựng từ mệnh lệnh tâm linh, không bị giới hạn bởi biên cương.

Định hướng thực tiễn là khi đủ điều kiện, cần soạn thảo lại một Nội lệ đúng tinh thần dưới luật, triệu tập Đại hội Huynh Trưởng Cấp Dũng và Gia Đình Phật Tử Thế Giới trong và ngoài nước để xác lập cơ chế Vụ trưởng tập thể hợp pháp, công cử Ban Thường Trực công minh, và thông qua Nội Lệ đúng pháp bằng ý chí tập thể. Trong giai đoạn chờ, văn bản dưới luật đúng nghĩa này đóng vai trò kim chỉ nam, giúp BHD các cấp giữ hòa thuận, lấy giáo dục làm gốc, và lấy tinh thần giáo giới của Chư Tôn Đức làm chuẩn tắc.

Kết lại, tâm ý của bậc Ân Sư hay tâm ý của Chư Tôn Đức Giáo Giới, đặc biệt của Cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ là rõ ràng: không tạo ra một luật mới, không vượt khỏi Nội Quy – Quy Chế, mà chỉ tạm thời điều hành trong khuôn khổ, cho đến khi Đại hội hợp pháp tu chỉnh. Đó là con đường dung thông, vừa giữ vững gốc rễ pháp lý, vừa đáp ứng thực tại sinh hoạt, và quan trọng nhất: duy trì được sự nhất tâm của hàng Huynh trưởng Cấp Dũng – những người đã tận hiến đời mình cho Lý tưởng Lam. Ở điểm này, những vị có trách nhiệm soạn thảo các văn kiện dưới luật cho GĐPT cần phải triệt để nắm vững chứ không nên diễn giải tùy tiện. (như thấy trong Huấn Thư số 03.25)

Nam Mô Chứng Minh Sư Bồ Tát, thành tâm đảnh lễ Giác Linh Cố Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, ngưỡng mong Giác linh Thầy chứng minh và gia hộ cho hàng hậu học.

Phật lịch 2569 – Vô Trú Xứ Am, 03.10.2025

THIÊN NHẠN & HUỆ ĐAN

__________________________

[*] “Văn bản dưới luật” là những quy định pháp lý có hiệu lực thấp hơn luật, được ban hành để cụ thể hóa, hướng dẫn và thi hành luật, nhưng tuyệt đối không được trái hoặc vượt quá luật. Nó không thay đổi tinh thần luật, mà chỉ là phương tiện để luật đi vào đời sống.

Nếu đem ứng dụng trong môi trường tôn giáo, cụ thể là trong tổ chức giáo dục Gia Đình Phật Tử, thì:

  • Nội quy – Quy chế là nền tảng pháp lý tối thượng, giống như “luật” trong hệ thống quốc gia.
  • Những nội lệ, quy định, thông tư, quyết định… được ban hành để tổ chức vận hành trong từng giai đoạn, hoàn cảnh, chính là văn bản dưới luật.
  • Chúng chỉ có nhiệm vụ triển khai, điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn sinh hoạt, chứ không thể thay thế, cắt bỏ, hoặc trái nghịch với tinh thần Nội quy – Quy chế vốn đã được toàn thể đồng thuận.

Nói cách khác, văn bản dưới luật trong GĐPT là nhịp cầu nối giữa nguyên tắc (luật) và đời sống sinh hoạt cụ thể, giúp tổ chức vừa giữ vững căn bản, vừa uyển chuyển thích nghi, nhưng không được vượt quá giới hạn pháp lý và lý tưởng đã quy định.

No comments:

Post a Comment