Sunday, February 12, 2023

Venerable K. Rathanasara | Tâm Thường Định dịch Việt: Tại sao nên tìm hiểu Phật Giáo? | Why Should You Learn Buddhism?

 

Vì sao bạn nên tìm hiểu đạo Phật? Đạo Phật là một tôn giáo lấy con người làm trung tâm và hướng về cõi thế, đây là yếu tố khác biệt so với nhiều tín ngưỡng khác. Nó cũng là một chủ đề phức tạp mà chúng ta cần phải hiểu sâu hơn hầu đánh giá đúng hơn.

Đức Phật không phải là Thượng đế hay là thần thánh. Đức Phật là một con người, nhưng không phải là một con người bình thường mà là một con người với những phẩm chất và khả năng phi thường. Một lần, có một vị Bà-la-môn tên là Dona, khi nhìn thấy dáng vẻ uy nghi, thanh tịnh và an lạc của Đức Phật, đã hỏi rằng Ngài là thần, quỷ, hay con người. Đức Phật trả lời rằng Ngài không phải là thần thánh, là ma quỷ, hay kẻ phàm phu, vì những chúng sinh này có tham, sân, si, mà tất cả những thứ đó Ngài đã tận diệt; đã nhổ tận gốc tất cả những phiền não.

Những lời dạy của Đức Phật đến từ sự chứng ngộ của chính Ngài. Trong Bài Kinh đầu tiên, Đức Phật chia sẻ rằng sau khi đạt được giác ngộ, nó phát sinh trong Ngài tầm nhìn, tri thức, trí tuệ và sự thấu hiểu những điều chưa từng nghe thấy trước đây. Như vậy Đức Phật được gọi là bậc giác ngộ vô thượng, là thầy của chư thiên và loài người.

Tuy nhiên, Ngài không đòi hỏi niềm tin mù quáng vào giáo lý của mình. Trên thực tế, Ngài cho chúng ta nhiều tự do để suy nghĩ và phân tích. Đức Phật khuyến khích chúng ta đến và nghiên cứu kỹ lưỡng về những giáo lý mà Ngài đã chứng ngộ và tuyên thuyết với thế giới là Chân lý. Đức Phật còn tuyên bố rằng các đệ tử cũng có thể đạt được trạng thái giác ngộ giống như vị thầy, và hướng dẫn chúng ta cách đi theo con đường này để có được kinh nghiệm giác ngộ sống động.

Trong Kinh Kalama, mọi người đã hỏi ý kiến Phật rằng họ nên tin vào vị thầy tôn giáo nào vì tất cả đều tuyên bố rằng tôn giáo của mình là chân chính duy nhất. Đức Phật dạy rằng chúng ta không nên tin bất cứ điều gì chỉ vì nó được viết trong kinh sách thiêng liêng, được truyền từ đời này sang đời khác, được nhiều người tin, hoặc được nói bởi một người nói khéo léo hoặc một vị thầy đáng kính. Thay vào đó, chúng ta nên phân tích và xem xét kỹ lưỡng, rồi chấp nhận những gì được hiểu là tốt và tránh những gì xấu. Vì vậy, việc phân tích, xem xét kỹ lưỡng và đặt câu hỏi rất được khuyến khích trong Phật giáo.

Phật giáo đánh giá cao loài người, dạy rằng con người có khả năng giác ngộ và chỉ có con người mới có khả năng trở thành Phật. Là con người, chúng ta chịu trách nhiệm về sự trong sạch và không trong sạch của chính mình. Nếu chúng ta làm điều ác, độc ác, vô đạo đức, bất thiện qua suy nghĩ, lời nói và hành động của mình, thì chúng ta bị ô nhiễm và chúng ta tạo ra địa ngục để gây đau khổ cho chính mình. Mặt khác, bằng cách áp dụng những suy nghĩ, lời nói và hành động lành mạnh, tích cực và mang tính xây dựng, chúng ta được thanh lọc. Vì vậy, Đức Phật đánh giá cao sự tín nhiệm và trí thông minh của con người, đồng thời công nhận rằng con người đã đủ trưởng thành để có trách nhiệm và giải trình với chính mình.

Trong thực hành đạo Phật, Ngài không bắt con người phải phụ thuộc vào bất kỳ sức mạnh siêu nhiên nào, và chúng ta không cầu nguyện thần thánh hay các đấng thiêng liêng can thiệp, cứu rỗi hay giải thoát. Thay vào đó, chúng ta thực hiện các việc công đức và sau đó chia sẻ công đức với các đấng thiêng liêng. Đã chia sẻ công đức, đôi khi chúng ta có thể cầu xin sự ban phước từ các đấng thiêng liêng nhưng những sự ban phước đó là để trợ lực cho cuộc sống hàng ngày của chúng ta, không phải vì mục đích lên thiên đường hay đạt được giác ngộ.

Phật tử cũng có thể sanh lên cõi trời. Phật tử được khuyến khích làm việc thiện, tích đủ công đức, và được sinh lên cõi trời nếu muốn. Tuy nhiên, sinh lên cõi trời là điều chỉ có thể đạt được sau khi chết. Trong Phật giáo, sanh lên cõi trời không phải là mục tiêu tâm linh cuối cùng của chúng ta – mục tiêu cuối cùng của người Phật tử, đó là sự giác ngộ, có thể đạt được trong khi chúng ta đang sống ở đây và bây giờ, không phải sau khi chết.

Đạo Phật là một loại tôn giáo “Tự mình làm lấy”, nơi mà chúng ta phải tự mình bước đi trên con đường đó, chứ không phải nhờ niềm tin đơn thuần. Đức Phật dạy Giáo pháp để chúng ta tu tập, cho chúng ta Giáo pháp như một ngọn đuốc soi đường và như một con đường dẫn đến giác ngộ, nhưng chúng ta phải tự mình bước đi trên con đường này. Giáo pháp được ví như một bản lộ trình chỉ cho chúng ta cách đi từ điểm A đến điểm B, nhưng chúng ta phải tự mình đi đến đó, không ai sẽ cõng chúng ta đến đó.

Trong thực hành Phật giáo, ba điều thiết yếu: hiểu biết, thực hành và chứng ngộHiểu biết và thực hành phải đi đôi với nhau để chứng ngộ Niết Bàn. Điều này đạt được bằng cách tuân theo Bát Chánh Đạo để phát triển các phẩm chất đạo đức, tinh thần và trí tuệ của chúng ta. Vì vậy, Phật giáo dành cho những người năng động và phấn đấu, những người tìm tòi, những người đặt câu hỏi và phân tích, và những người sẵn sàng chấp nhận thử thách để kiểm nghiệm giáo lý. Hàng trăm, hàng ngàn người đã hiểu giáo lý của Đức Phật, đã thực hành và đạt được giác ngộ – con đường này cũng đang mở ra cho chúng ta.

Có nhiều lý do khác khiến chúng ta nên học Phật pháp, nhưng những điều trên đây đủ để thuyết phục chúng ta bắt đầu. Thay vì tin vào những gì đã được dạy, hãy thực hiện bước đầu tiên để đến và học hỏi, thực hành và trải nghiệm nó bằng chính bản thân.

Why Should You Learn Buddhism?

Venerable K. Rathanasara |Dhammakami Buddhist Society

Why should you learn Buddhism? Buddhism is a man oriented, human centric, and earthbound religion, making it unique and different from other beliefs. This is an intricate subject and we need to have a deeper understanding for a better appreciation.

The Buddha is neither a god nor divine being. The Buddha is a human being, not an ordinary human being, but an extraordinary human being with extraordinary qualities and abilities. One day, a Brahmin named Dona, upon seeing the Buddha’s majestic, serene, and peaceful appearance, asked the Buddha is He a divine being, devil, spirit, or human being. The Buddha replied that he is neither a divine being, devil, nor spirit, as these beings have greed, hatred, and delusion, all of which He has eradicated; He is also not an ordinary human being, because greed, hatred, and delusion are found in the minds of ordinary human beings, but the Buddha has uprooted all these defilements.

The Buddha’s teachings come from His own realizations. In His first Discourse, the Buddha shares that after achieving enlightenment, it arose in Him vision, knowledge, wisdom, and insight to things unheard before. The Buddha is thus known as the supremely enlightened one who has no other teacher that is equal to Him. The Buddha is also the teacher of gods and humans, as evident in some Discourses, where it is mentioned that even some divine beings approached the Buddha for questions and clarifications.

The Buddha does not demand blind faith for His teachings. In fact, He gives us much freedom to think and analyse. The Buddha encourages us to come and do thorough investigation on the teachings that He has realized and proclaimed to the world as the Truth. The Buddha further proclaimed that disciples too can achieve the same status of enlightenment as the teacher, and He teaches us how to follow this path to get living experience of enlightenment.

In the Kalama Sutta, people consulted the Buddha which religious teacher should they believe as all proclaimed that their own religion is the only true religion. The Buddha teaches that we should not believe anything just because it is written in sacred books, passed down from generation to generation, believed by many people, or said by a clever speaker or respected teacher. Instead, we should analyse and scrutinise, and then adopt those which are understood to be good, and avoid those which are bad. So analysing, scrutinising, and questioning, is very much encouraged in Buddhism.

Buddhism gives due credit to human kind, and teaches that human beings have the potential to become enlightened and only human beings have the potential to become a Buddha. As human beings, we are responsible for our own purity and impurity. If we do evil, wicked, immoral, unwholesome deeds through our thoughts, words, and actions, then we are defiled and we create our own hell and miseries. On the other hand, by adopting wholesome, positive, and constructive thoughts, words, and actions, we are purified. So the Buddha gives due credit to human credibility and intelligence, and recognises that humans are mature enough to be responsible and accountable to ourselves.

In Buddhist practice, the Buddha does not make human beings subordinate to any supernatural powers, and we do not pray to gods nor divine beings for intervention, salvation, or freedom. Instead, we perform meritorious deeds and then share the merits with the divine beings. Having shared the merits, sometimes we might seek the divine beings’ blessings but such blessings are for helping with our day-to-day lives, not for the purpose of going to heaven or gaining enlightenment.

Buddhists can also be born in heaven. Buddhists are encouraged to do good deeds, accumulate sufficient merits, and be born in heaven if they so wish. However, being born in heaven is something that can be achieved only after death. In Buddhism, being born in heaven is not our final spiritual goal – the final goal of the Buddhist, which is enlightenment, is achievable while we are living here and now, not after death.

Buddhism is a “Do It Yourself” kind of religion, where we must walk the path ourselves, not through mere beliefs. The Buddha teaches the Dhamma for us to cultivate ourselves, gives us the Dhamma as a torchlight to find our way and as the path to enlightenment, but we must walk this path ourselves. The Dhamma is likened to a roadmap that shows us how to get from Point A to B, but we must walk there ourselves, no one is going to carry us there.

In Buddhist practice, three things are essential: understanding, practice, and realisation. Understanding and practice must go hand in hand in order to realise Nibbana. This is achieved by following the Noble Eightfold Path to develop our ethical, spiritual, and intellectual qualities. So Buddhism is for people who are energetic and striving, who are investigative, who ask questions and analyse, and who are ready to take the challenge to test the teachings. Hundreds and thousands of human beings have understood the teachings of the Buddha, practised, and achieved enlightenment – this path is also open to us.

There are many other reasons why we should learn Buddhism, but the above is enough to convince us to start learning. Rather than believing in what has been taught, take the first step to come and learn, practise, and experience it personally.

Friday, February 10, 2023

THE SPRING HAVE ARRIVED - MÙA XUÂN VỀ

 


THE SPRING HAVE ARRIVED


Listen, listen! The spring is blooming 

Live, laugh and love

Happiness spreads from the inside out

Love and more love for each other is way of life!


MÙA XUÂN VỀ 

Lắng nghe mùa xuân về

Rộn ràng cả sơn khê

Vàng trong ngoài êm ấm

Yêu nhau trọn cơn mê!


Bạch X. Phẻ

Thursday, February 9, 2023

Richard L. Kimball | Tâm Quảng Nhuận dịch Việt: Hòa Thượng Hsing Yun: Quan Niệm về Phật giáo Nhân Văn (P.3)

 

Nhân cách và phong cách của Đại sư Hsing Yun

Đại sư Hsing Yun không thể hiện bất kỳ sự thiên vị nào đối với một truyền thống Phật giáo cụ thể. Nền tảng chính của ông về Đại thừa (và một trong những trường phái của nó – truyền thống Thiền/Ch’an), kinh nghiệm của ông với các tôn giáo và hệ thống tín ngưỡng tâm linh khác và sự nhạy cảm của ông đối với vô số vấn đề mà con người phải đối mặt trong cuộc sống ngày nay, tất cả đã ảnh hưởng đến sự nhận thức của ông về con người và nhu cầu hiện tại của họ.

Tính cách của Đại sư Hsing Yun đối với tôi là hiền lành, cởi mở, không giáo điều, khoan dung, tràn đầy năng lượng điềm tĩnh, nhạy cảm, từ bi, khiêm tốn, tốt bụng, kiên nhẫn, quan tâm và hỗ trợ. Đối với tôi và nhiều người khác, ông ấy là một vị lãnh đạo tinh thần thực sự — làm việc chăm chỉ, siêng năng, có mục tiêu, thực dụng, can đảm và tập trung — một người có tầm nhìn xa và luôn nở “nụ cười tỏa sáng”. Thông qua lòng nhiệt thành truyền đạo và niềm đam mê phát triển, ông đã trở thành chất xúc tác thực sự cho sự thay đổi tích cực. Cả lòng biết ơn và lòng từ bi yêu thương đã giúp ông vượt qua những thời kỳ sóng gió.

Chính nhờ niềm tin vào những lần gặp gỡ hiếm hoi nhất mà những người mắc nghiệp chướng, những người đã từng biết đến vinh nhục, từng trải qua những lời phỉ báng và khen chê đã trở nên kiên nhẫn và khoan dung, có thể đón nhận nghịch cảnh bằng một nụ cười nhưng luôn cảm thấy tư tại. (tr. 99, Tự tại)

Thông qua các phương pháp sâu sắc, có tầm nhìn xa, tích cực và thường độc đáo, Đại sư Hsing Yun đã đi đầu trong việc truyền bá Phật pháp trên thế giới. Giống như Huyền Trang, Pháp Hiển, Bồ Đề Đạt Ma và những người có đóng góp quan trọng khác trong việc truyền bá Phật giáo thời cổ đại, Đại sư đã nhận trách nhiệm, dựa trên sự rèn luyện và hiểu biết sâu sắc của mình, để đưa ngọn cờ tiến lên. Ngoài ra, với sự thuần khiết như một đứa trẻ, ông đã phát triển một mối quan hệ đặc biệt với đồng loại của mình. Tâm trạng và sự chú ý của ông có khả năng tự động điều chỉnh theo sự thay đổi của không gian và thời gian. Ông linh hoạt nhưng cũng khá nguyên tắc trong nhiệm vụ của mình.

Bấy giờ ông tập trung nhiều hơn vào việc tu luyện tĩnh lặng, giảng dạy (trên toàn thế giới), nghiên cứu và viết lách.

“Nhẫn là để đền đáp công ơn của Phật; lao là vì lợi ích của tất cả chúng sinh.” (Đức Phật)

Cuộc sống hiếm khi đến bảy mươi;
Rằng tôi bảy mươi là một điều ngạc nhiên.
Tôi còn quá trẻ trong mười năm đầu tiên
Và quá cũ mười năm cuối.
Chỉ có năm mươi năm ở giữa.
Một nửa thời gian đó là vào ban đêm.
Theo tính toán, tôi chỉ sống được hai mươi lăm năm.
Trong thời gian đó tôi đã chịu đựng nhiều vất vả và rắc rối. (tr. 25, Balley)

Grand Master không khao khát sự thăng tiến cá nhân hoặc đạt được Phật quả.

Khi tôi nhìn lại khung cảnh của quá khứ, cuộc sống dường như đã trôi qua trong tất cả những nỗ lực của tôi để tận dụng tối đa mọi khoảnh khắc. Mặc dù tôi hối hận vì đã không nghiên cứu Kinh điển Phật giáo một cách thấu đáo nhất có thể hoặc đã phát triển trí tuệ sâu như đại dương, nhưng tôi biết rằng tôi đã kết hợp sự hiểu biết của mình về giáo lý nhà Phật trong cuộc sống hàng ngày – không tích lũy của cải mà cho đi một cách thoải mái và không đòi hỏi một cách vô lý của người khác mà tự mình đảm nhận trách nhiệm. Bằng lòng với sự đơn giản, cơm trắng nước chè cho tôi no dù ngày có bận rộn thế nào. Thoải mái trong mọi hoàn cảnh, tôi có thể nghỉ ngơi trên bất kỳ hóc hẻm nào, học trong bất kỳ góc xó nào hoặc sáng tác trên đường. Tôi giúp người khác đi đúng hướng, thực hiện mong muốn của họ, chịu đựng khó khăn, gạt bỏ những lời chỉ trích, không bao giờ mệt mỏi trong việc giảng dạy hay mang lại hạnh phúc cho người khác, biết ơn vì những ân huệ và phước lành ban cho tôi, quên đi và tha thứ cho những thù hận trong quá khứ, giữ đúng thời gian và lời hứa, giữ vững lý tưởng, không sợ nghịch cảnh, và nhất tâm nhất tâm, thực hành theo nguyên tắc của đạo Phật.

 Dù tôi kính Phật và đi theo Ngài, nhưng tôi không có ước nguyện thành Phật. Tu bố thí không mong lên trời, trì danh hiệu Phật mà không mong vãng sanh Liên Hoa. Quyết tâm của tôi là tích lũy thêm tài nguyên cho con đường Phật đạo, không vượt qua sinh tử; và mong muốn của tôi là được tái sinh nhiều lần trong thế giới saha (vật chất) như một nhà sư với tâm không phân biệt. (tr. 28,29, Balley)

Grand Master Hsing Yun’s Style and Personality 

Grand Master Hsing Yun does not show any partiality to a particular tradition of Buddhism. His main background in Mahayana (and one of its schools — Ch’an/Zen tradition), his experience with other religions and spiritual belief systems and his sensitivity to the myriad of issues facing people in today’s life have all influenced his enlightened understanding of human beings and their current needs.

The personality of Grand Master Hsing Yun appeared to me as gentle, open, not dogmatic, tolerant, full of calming energy, centered, sensitive, compassionate, humble, kind, patient, caring and supportive. To me and many others, he is a real spiritual entrepreneur — hard working, diligent, goal-oriented, pragmatic, courageous and focused — a person with a grand vision and always showing a “smile of light.” Through his missionary zeal and passion for development, he has become a true catalyst for positive change. Both gratitude and loving charity have enabled him to journey through turbulent times.

It is through the faith in the rarest of encounters, that those who owe a debt of karma, and those who have known glory and insult, and experienced slander and praise should become patient and tolerant, and be able to welcome adversity with a smile and feel at ease in it. (p. 99, Perfectly Willing)

Through insightful, visionary, positive and often unconventional methods Grand Master Hsing Yun has been at the forefront of spreading the Buddhist Dharma in the world. Like Xuan Zang, Fa Xian, the Bodhidarma and other significant contributors to the propagation of Buddhism in ancient times, the Grand Master has taken the responsibility, based on his training and insight, to carry the banner forward. Also, with a child-like purity he has developed a special affinity with his fellow human beings. His mood and attention are automatically capable of tuning in to the changing times and places. He is flexible but has also been quite opportunistic in his mission.

Now he focuses more on quiet cultivation, teaching (worldwide), studying and writing.

“Endurance is for the reciprocation of the Buddha’s favor; labor is for the benefit of all sentient beings.” (The Buddha)

Life rarely reaches seventy;
That I am seventy is a surprise.
I was too young the first ten years
And too old the last ten.
There are only fifty years in between.
Half of that time was spent at night.
By calculation I have only lived twenty five years.
During which I have endured much toil and trouble. (p. 25, Balley)

The Grand Master does not aspire for personal elevation or the attainment of Buddhahood.

When I look back through the vista of the past, life seemed to have elapsed in all those attempts of mine to make the most out of every moment. Although I regret not having studied the Buddhist Canon as thoroughly as I might or generated wisdom as deep as the ocean, I know I have incorporated my understanding of the Buddhist teachings in daily life — not accumulating wealth but giving freely, and not demanding unreasonably of others but taking on the responsibilities myself. Content with simplicity, plain rice and tea feed me well no matter how hectic the day is. At ease under any circumstance, I can rest on any floor, study in any cubicle, or compose on the road. I help keep others on track, fulfill their wishes, endure hardships, brush aside criticisms, never tire of teaching or bringing others happiness, am thankful for favors and blessings bestowed upon me, and forgetful and forgiving of past animosities, keep time and promises, uphold ideals, am fearless of adversities, and with one mind and one focus, practice according to the principles of Buddhism. 

Much as I pay respect to the Buddha and follow him, however, I have no wish of becoming a Buddha. I practice giving without any wish of ascending to the heavens, and I uphold the Buddha’s name but do not aspire for rebirth in the Lotus Land. My resolution is to accumulate more resources for the path of the Buddha, not to transcend life and death; and my wish is to be reborn again and again in the saha (material) world as a monk with a non-discriminatory mind. (p. 28,29, Balley)

Wednesday, February 8, 2023

Richard L. Kimball | Tâm Quảng Nhuận dịch Việt: Hòa Thượng Hsing Yun: Quan Niệm về Phật giáo Nhân Văn (P.2)

 

Phát triển phái Phật Quang Sơn

Chùa Lôi Âm là nơi Phật giáo Phật Quang Sơn bắt đầu! Ở đó, sứ mệnh của ông là thức tỉnh Phật tử về nhân duyên của thời đại này.

Do đó, tại Đài Loan, ông bắt đầu thực hiện lời nguyện từ lâu của mình là quảng bá Phật giáo Nhân văn – một Phật giáo lấy việc thực hành tâm linh làm trọng tâm như cuộc sống hàng ngày trong thế giới bình thường. Năm 1955, Hsing Yun thành lập ngôi chùa đầu tiên của mình tại thành phố Cao Hùng, gần cực nam của đảo Đài Loan. Với sự hỗ trợ của các Hòa thượng khác, ông đã thành lập một Trung tâm Văn hóa Phật giáo tại Đài Bắc vào năm 1957 như một phương tiện để thúc đẩy các hoạt động văn hóa, xuất bản sách Phật giáo và phát thanh. Năm 1964, ngôi chùa Shou Shan được hoàn thành ở Cao Hùng cùng với một trường cao đẳng và cơ sở kinh tế Phật giáo. Grand Master đã giảng thuyết và đăng lại trong án bản Awakening the World, đến năm 1979 trở thành tạp chí Universal Gate. Ông không bao giờ ngừng viết. Biết rằng chỉ riêng việc xây cất chùa chiền và tự viện không thể chấn hưng Phật giáo, thanh lọc tâm trí hoặc điều chỉnh những khuynh hướng tiêu cực, ông tin tưởng rằng giáo dục cũng là điều cần thiết.

Trong những thời kỳ đầu tiên đó, cả ở Trung Quốc và Đài Loan, sự phát triển của Phật Giáo Nhân Văn và tư duy tiến bộ của nó đôi khi khiến phong trào gặp rắc rối với các lãnh chúa, chính trị gia, địa chủ, lãnh đạo cộng đồng, nhà sư thủ cựu và quan chức. Những người bảo thủ này tập hợp lại với nhau và đánh phá các nhà sư. “Mob” – những đám đông người, đặc biệt là một đám đông mất trật tự có ý định gây rắc rối hoặc bạo lực – được tạo ra để ra sức phá hủy những ngôi chùa của họ. Nhưng Ông, với quyết tâm kiên định, đã làm việc để tiếp tục sứ mệnh “bố thí nhằm phát triển bình đẳng và lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh.” Sự phát triển của Fo Guang Shan (Phật Quang Sơn) cho thấy sự quan trọng của một tầm nhìn như thế nào, khi đi đôi với lòng dũng cảm, nhằm chế ngự quyền lực và truyền thống cổ hữu. “Khi ở bên lẽ phải, không bao giờ chúng ta đầu hàng.” (tr. 155, Hsing Yun, Perfectly Willing)

Những người có thể thực hành Nhẫn được coi là những cá nhân có sức mạnh to lớn. Ngược lại, nếu không thể vui vẻ chịu đựng những lời chửi mắng ác độc của người khác như uống sương ngọt, thì không thể gọi là người có trí tuệ sáng suốt. (Đức Phật, lời chỉ dạy cuối cùng trước khi nhập Niết bàn.)

Ngay từ sớm, ông đã đổi mới bằng cách thành lập thêm các ca đoàn Phật giáo, các slide thuyết trình, các trường dành cho trẻ em vào ngày Chủ Nhật , các câu lạc bộ sinh viên và các nhóm du hành để hoằng pháp Phật Giáo Nhân Văn. Ông là người đi đầu trong các phương pháp đổi mới trong một xã hội bảo thủ và thường là phong kiến. Ông gặp phải rất nhiều sự phản đối, đặc biệt là việc phát sóng và kết hợp các chương trình tạp kỹ vào các lễ hội Phật giáo. Đại sư Hsing Yun đã đứng lên chống lại các chính phủ và chính thống mà không hề dao động hay rút lui. Cuối cùng, vào năm 1967, ông bắt đầu xây dựng ngôi chùa Phật Quang Sơn, trên những ngọn đồi của quận Cao Hùng cách thành phố Cao Hùng một khoảng khá xa. Phật Quang Sơn được thành lập với mục đích nhân giống Phật Giáo Nhân Văn ở Đài Loan và thế giới. Năm 1977, trường cấp 3 Pu Men, bên cạnh Phật Quang Sơn, hoàn thành. Vào những năm 1980, cả Đài Loan và các quốc gia khác đều cởi mở hơn với Phật giáo, vì vậy ông bắt đầu đi hoằng dương và phát triển Phật Giáo Nhân Văn ở nước ngoài. Ngoài ra, vào những năm 1990, cuối cùng ông cũng có cơ hội trở lại thăm Trung Quốc và đoàn tụ với mẹ sau bao năm xa cách!

Đại sư Hsing Yun đã đi theo nhân duyên trong cuộc đời và với tư cách là một thiền sư, trở thành nhà lãnh đạo thứ 48 của dòng truyền thừa Lin Ji (Renzai – Nhật Bản).

Qua năm mươi năm đời sống tự viện, tôi chưa bao giờ ngừng tìm kiếm sự hoàn thiện bản thân — từ các bài tập hàng ngày và thực hành khổ hạnh cho đến phục vụ cộng đồng; từ học tập ẩn dật đến du lịch rộng rãi; từ tụng kinh, tọa thiền đến thuyết pháp; và từ từ thiện đến giáo dục quần chúng, (tr. 25, Hạnh phúc mãi mãi về sau)

 

The Development of the Fo Guang Shan Buddhist Order

Lei Yin temple is where the Fo Guang Shan Buddhist Order began! There, his mission became to awaken Buddhists to the causes and conditions of this current age.

Thus, in Taiwan he began fulfilling his long-held vow of promoting Humanistic Buddhism — a Buddhism that takes to heart spiritual practice as daily life in the ordinary world. In 1955 Hsing Yun established his first temple in the city of Kaohsiung, near the southern tip of the island of Taiwan. With the assistance of other Venerables he created a Buddhist Cultural Center in Taipei in 1957 as a means of promoting cultural activities, publishing Buddhist books and make recordings. In 1964 the Shou Shan temple was completed in Kaohsiung along with a related Buddhist college and school of commerce. The now Grand Master gave lectures and published them in Awakening the World which in 1979 became Universal Gate magazine. He never stopped writing. Knowing that temples and monasteries alone could not revive Buddhism, purify minds, or rectify negative tendencies, the Grand Master believed that education was also needed.

In those early times, both in China and Taiwan, the development of HB and its progressive thinking sometimes got the movement into trouble with warlords, politicians, land-owners, community leaders, reactionary monks and bureaucrats. These conservatives would band together and beat monks. Mobs would be created to try to destroy their temples. But, the Grand Master, with steadfast determination, worked to keep going his mission of “giving to develop equality and compassion for all beings.” The development of the Fo Guang Shan Buddhist Order shows how important a vision can be, when coupled with courage, for overpowering traditional power and wealth. “When in the right, never yield.” (p. 155, Hsing Yun, Perfectly Willing – Hereafter, all quotations from publications by Grand Master Hsing Yun will just note the page number and title.)

Those able to practice forbearance are deemed individuals of tremendous power. If, on the other hand, one is unable to joyfully endure the evil, venomous cursing of others as the drinking of sweet dew, then one cannot be called a person of penetrating wisdom. (The Buddha in his last instructions before entering Nirvana.)

Early on he innovated by creating more Buddhist choirs, slide presentations, children’s Sunday schools, student clubs and traveling groups to propagate HB. He was at the vanguard of innovative methods in a conservative, and often feudalistic, society. He faced a lot of opposition especially to his broadcasting and incorporating variety programs into Buddhist festivities. Grand Master Hsing Yun stood up to governments and orthodoxy without wavering or retreating. Finally, in 1967 he began Fo Guang Shan temple (hereafter written FGS), in the hills of Kaohsiung County some distance away from the city of Kaohsiung. FGS was established with the aim of propagating HB in Taiwan and the world. 1977 saw the completion of Pu Men High School, next to FGS. In the 1980s both Taiwan and other countries became more open to Buddhism, so he began to travel and develop HB overseas. Also, in the 1990s he finally got the chance to re-visit China and re-unite with his mother after so many years of separation!

Grand Master Hsing Yun followed the causes and conditions in his life and as a Ch’an master, became the 48th leader of the Lin Ji (Renzai – Japanese) lineage.

Through fifty years of monastic life I have never ceased to quest for self improvement — from daily exercises and ascetic practice to community service; from reclusive study to wide travels; from chanting and meditation to preaching the Dharma; and from charity to educating the masses, (p. 25, Happily Ever After)

Tuesday, February 7, 2023

Richard L. Kimball | Tâm Quảng Nhuận dịch Việt: Hòa Thượng Hsing Yun: Quan Niệm về Phật giáo Nhân Văn (P.1)

 

Mục đích của bài viết này cho thấy Phật giáo Nhân văn đã phát triển như thế nào hơn 2500 năm trước và đã “tái xuất hiện” trong thế giới ngày nay một phần nhờ vào những nỗ lực kiên định của Đại sư Hsing Yun, thuộc Dòng Phật giáo Phật Quang Sơn, ngôi đền chính ở miền nam Đài Loan.

Từ sự khởi đầu ở miền bắc Ấn Độ bởi Thích Ca Mâu Ni Gautama cho đến thời kỳ phục hưng hiện tại, Phật giáo đã trải qua nhiều biến đổi và phát triển. Đại sư Hsing Yun đã cố gắng nắm bắt tinh túy nguyên thủy từ những lời dạy của Đức Phật, đặc biệt là những điều liên quan đến ứng dụng trong thế giới ngày nay, cũng như phát triển những cách giải thích mới phù hợp với nhu cầu hiện tại. Ông đã xây dựng niềm tin cũng như hành động của mình không chỉ dựa trên giáo lý nguyên thủy của Đức Phật mà còn dựa trên kinh nghiệm và hiểu biết sâu sắc của các bậc thầy trước đó như Tổ sư thứ 6 của Thiền tông, Ven. Huệ Năng, và Ven. Tài Xiu.

Đức Phật đã dạy cách vượt qua khổ đau trần gian cũng như cách đối phó với những vấn đề hàng ngày trong cuộc đời này. Ngài ủng hộ sự bình đẳng của mọi người, sự liên kết của tất cả chúng sinh, sự thiêng liêng của cuộc sống và tạo ra các nguyên tắc liên quan đến việc phát triển lối sống tích cực. Dựa trên những lý tưởng nhân văn này, Grand Master thúc đẩy việc tích hợp những lời dạy của Đức Phật về lòng tốt, lòng từ bi, niềm vui và sự bình đẳng vào cuộc sống hàng ngày vì lợi ích của cả bản thân và người khác. Ông đã tạo ra một mạng lưới các ngôi chùa và phân hội trên toàn thế giới hoạt động để mang Phật giáo đến mọi nơi trên hành tinh này. Ông hy vọng rằng thông qua quá trình này, một Cõi Tịnh độ có thể được phát triển ở đây để tất cả chúng sinh có thể sống cuộc sống của họ một cách tích cực hầu tiến lên những cấp độ cao hơn của sự tồn tại như Bồ tát, Phật quả và Niết bàn.

Bài viết này cho thấy làm thế nào mà Đại sư đã hiện diện giữa sự hỗn loạn của Trung Quốc những năm 1940 để tạo ra hệ thống Phật Quang Sơn đang ảnh hưởng đáng kể đến nhiều nền văn hóa, thông qua các bài viết, giáo lý và hành động xã hội của ông. Cuối cùng, tương lai của Phật giáo Nhân văn được khám phá thông qua nghiên cứu cấu trúc hiện tại của Fo Guang Shan và thu thập quan điểm từ nhiều thành viên trong đó bao gồm cả chính Grand Master.

DẪN NHẬP

Chúng ta đang sống trong thời hiện đại. Phật giáo phải thay đổi cách thức truyền thống của mình bằng cách ra khỏi cánh rừng và đi vào xã hội. Chúng ta phải mở rộng chức năng của các ngôi chùa để phục vụ cộng đồng thông qua sự tham gia của các gia đình, quốc gia và thế giới … v.v. nhằm thúc đẩy sự hòa hợp, hiểu biết và tình bạn giữa tất cả mọi người.  – Đại sư Tinh Vân.

Trọng tâm của bài viết này là về Phật giáo Nhân văn, cố gắng mô tả và giải thích cốt lõi các ý tưởng, giáo lý và thực hành của Đại sư Hsing Yun. Bởi vì không ai có thể giải thích đầy đủ hoặc chính xác niềm tin của người khác, và do Phật giáo Nhân văn liên tục “tái hình thành” trong thế giới ngày nay, phần trình bày này chỉ hạn chế dựa trên các bài thuyết pháp mở rộng, kinh nghiệm trực tiếp, các cuộc phỏng vấn và thực hành cá nhân của tôi trong vài năm qua. Ngoài ra, tài liệu bằng văn bản có liên quan đến chủ đề trên đã được đưa vào bài diễn văn này như là bằng chứng hỗ trợ. Tôi sẽ cung cấp cho người đọc quan điểm của Grand Master được thể hiện trong các tham số mà tôi đã và đang làm việc.[1]

Theo Fernando, “cái gì” (nội dung) của Phật giáo Nhân văn sẽ tạo thành công việc cốt lõi của bài viết này, nhưng cả “làm thế nào” và “tại sao” cũng được đưa vào bởi vì; “tại sao” và “như thế nào” xác định “cái gì” (xem Antony Fernando, trang 127). Không có “làm thế nào” và “tại sao”, “cái gì” không thể được hiểu đầy đủ. Tôi tin rằng để giải quyết một chủ đề đa dạng và sâu sắc như Phật giáo Nhân văn, chúng ta cần có một tầm nhìn rộng hơn là chỉ có được từ những thông tin cơ bản. Do đó, bài viết này sẽ minh họa nội dung những lời dạy của Đại sư Hsing Yun một cách đầy đủ nhất có thể, cũng như nguồn gốc và quá trình được sử dụng trong sự phát triển của chúng. Kết quả của những ý tưởng/niềm tin/giáo lý được đưa vào thực tế trong thế giới ngày nay cũng sẽ được trình bày. Bằng cách này, người đọc có thể cảm nhận, ở một mức độ sâu sắc hơn, ý nghĩa của những lời của Grand Master trong bối cảnh của Phật giáo Nhân văn. Cả hai đóng góp lịch sử và hiện tại của Grand Master Hsing Yun sẽ được cung cấp. Trong chừng mực có thể, Phật giáo Nhân văn cũng sẽ liên hệ với giáo lý nguyên thủy của Phật giáo bằng các minh họa, tài liệu tham khảo, trích dẫn và giải thích.

Do đó, mục đích chính của bài viết này là “làm sống lại Ông” cho cộng đồng nói tiếng Anh, để nhiều người có thể hiểu rõ hơn về những đóng góp, lai lịch, lịch sử và ứng dụng của Đại sư Hsing Yun trong thế giới ngày nay.

SƠ LƯỢC VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO NHÂN VĂN

Đạo sư Hsing Yun đã chứng minh rằng chủ nghĩa thực dụng thâm căn cố đế của Phật giáo làm cho nó trở thành một tôn giáo có giá trị ngày nay và mãi mãi. Thêm vào đó, ông chỉ cho chúng ta cách áp dụng những lời dạy của Đức Phật vào cuộc sống hàng ngày của mình… [Đó là]

Phật giáo tham gia phục vụ những người khác và đặt nền tảng trong các cộng đồng tự viện cũng như các tổ chức tại gia dành riêng cho việc giảng dạy và thực hành Phật giáo. Ông tin chắc rằng Phật giáo Nhân văn, trong ý nghĩa thực tiễn của nó, tượng trưng cho mục tiêu của tất cả các trường phái và tông phái Phật giáo trên thế giới, và do đó, phục vụ như một khái niệm thống nhất cho việc xác định lại và giải thích giáo lý Phật giáo vì lợi ích của nhân loại. Hôm nay. (Tiến sĩ Ananda WP Guruge)

Những sự kiện quan trọng trong cuộc đời của Grand Master liên quan đến việc “Trở thành” của ông – Những điều kiện khi bắt đầu

“Phật giáo Nhân văn là đóa sen mới vươn lên khỏi bùn và vươn ra thế giới.” (Đại sư Hsing Yun)

Những năm đầu ở Trung Quốc đại lục

Ông sinh ra trong một gia đình nông dân trung lưu ở vùng nông thôn Giang Đô, tỉnh Giang Tô, miền Đông Trung Quốc vào năm 1927, lúc đó đang xảy ra tình trạng hỗn loạn chính trị / xã hội lớn và bị căng thẳng nặng nề. Nghèo đói và nội chiến tràn lan ở vùng nông thôn nơi cuộc sống mới của ông bắt đầu. Bà của Hsing Yun là một Phật tử thuần thành từ khi bà mười bảy tuổi. Bà ấy là một hình mẫu quan trọng đối với ông ấy, đặc biệt là sự cần cù, tiết kiệm, tốt bụng và khả năng đối phó với những điều kiện mà họ buộc phải sinh tồn. Dưới ảnh hưởng của bà, ông bắt đầu ăn chay khi mới bốn tuổi. Một thời gian sau, ông theo học ở một trường tiểu học địa phương, nơi được coi là một học sinh xuất sắc.

“Mẹ ơi, con sẽ là niềm tự hào của mẹ!”, Hsing Yun nói khi lên 10 tuổi.

“Kinh tế trong nước lúc bấy giờ còn kém phát triển, bắt buộc chúng tôi phải băng qua kênh bằng thuyền để sang bên kia mua hàng. Trong chiến tranh Trung-Nhật, không ai mạo hiểm chèo thuyền qua sông dù chỉ với mười hay hai mươi xu. Khi nhìn thấy điều này, tôi, khi đó mới mười tuổi, đã tình nguyện phục vụ. Tôi đã cởi trần đến thắt lưng, buộc áo sơ mi quanh trán và lao thẳng vào dòng nước đang chảy. Chẳng bao lâu nữa tôi sẽ trở lại với mọi thứ mà mọi người mong muốn. Những người dân làng giơ ngón tay cái lên cho tôi và nói, ‘Anh hai nhà họ Lý đó chắc chắn là một cái gì đó!’ Nhận ra niềm tự hào không thể nhầm lẫn này trong nụ cười của mẹ tôi đã trấn an tôi và tôi thậm chí còn thề: ‘Con sẽ còn tốt hơn nữa!’” (tr. 6, Balley)

Một năm sau, trong Chiến tranh Trung-Nhật, ông hộ tống người mẹ yếu ớt của mình đi tìm cha mình, người đã rời nhà đi buôn bán nhưng không bao giờ quay trở lại. Trên đường họ đi ngang qua chùa và tu viện Qixia Shan gần Nam Kinh. Vì lý do nào đó, ông ta đã hứa với trụ trì Zhi Kai rằng mình sẽ chịu cắt tóc và từ bỏ cuộc sống trần tục. Mẹ ông đã không cầm được nước mắt khi nhìn thấy quyết tâm của con mình. Bà trở về Jiangdu một mình. Anh lại khẽ nói: “Mẹ, đừng lo lắng. Con sẽ là niềm tự hào của Mẹ!”

Hsing Yun trở thành một `sraama.nera (tu sĩ mới), thọ giới cụ túc ở tuổi 14 (tuổi thông thường là 18) và bắt đầu được giáo dục đạo đức tại trường Qixia Vinaya cũng như trường Cao đẳng Phật giáo Jiao Shan, nơi được chú ý về sự kết hợp thực hành Thiền tông và đức tin Tịnh độ.

Việc giảng dạy trong chùa truyền thống là bằng kỷ luật và khiển trách chứ không hướng dẫn và khuyến khích. Việc cấm các tập sinh trở về nhà dựa trên nỗi sợ hãi rằng việc tiếp xúc với những ảnh hưởng bên ngoài có thể khiến họ mất tập trung và họ sẽ quên đi việc tìm kiếm sự thật. Quá trình đào tạo nghiêm ngặt được cho là để dạy các nhà sư chiến thắng với tinh thần dũng cảm. Nó kéo theo sự chịu đựng đau đớn và nghèo đói. Cuối cùng họ học cách buông bỏ đời sống vật chất.

Hsing Yun áp dụng một hình thức kỷ luật truyền thống không cản trở các trách nhiệm hàng ngày. Ông ăn một bữa trước buổi trưa, chép kinh, thực hành lễ lạy vào ban đêm, thực hành thiền định, giữ im lặng trong thời gian dài, tập trung vào giáo lý của Đức Phật và thực hiện một số khóa nhập thất. Ông không bao giờ sống ẩn dật một mình trong thời gian dài. Những bài tập này không mang lại cho ông ta giác ngộ ngay lập tức, nhưng củng cố khát vọng và niềm tin của mình vào Phật giáo.

Nhiều năm rèn luyện tính cách bằng việc giáo dục khá cứng nhắc và kỷ luật trong khung cảnh tự viện rộng lớn đã giúp ông không chỉ mỉm cười trước những nghịch cảnh của cuộc đời mà còn vui thích tuân theo những người khác. Ông được đặt tên là Wu Che (Pháp danh, nội bộ – “Hoàn toàn thông thái”) và Jin Jue (Tên sử dụng hàng ngày, bên ngoài – “Ngày nay giác ngộ”).

Tuổi trưởng thành ở Trung Quốc đại lục

Trung Quốc, đặc biệt là sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, là một vùng đất rộng lớn nghèo đói. Ngay cả trong các ngôi chùa, thường không có đủ lương thực để cung cấp thức ăn cho tất cả các nhà sư. Họ sống sót với rất ít. Họ ít mặc nên thường run cầm cập trong cái lạnh mùa đông. Những mảnh vải vụn mà những người khác vứt đi đã được biến thành những chiếc tất. Hsing Yun không có tiền. Ông ấy thậm chí không thể gửi bất kỳ bức thư nào cho mẹ mình.

Được nhận vào Cao đẳng Phật giáo Jiao Shan năm 1945, ông thích đọc sách, báo và các thông tin khác. Vào thời điểm ông rời Jiao Shan năm 1947, Hsing Yun đã tu học trong hệ thống tự viện gần mười năm. Ông đã hoàn thành khóa đào tạo về kỷ luật, giảng dạy và giáo lý Phật giáo. Ông cũng đã trải nghiệm sự trọn vẹn trong tinh thần Đại thừa về tầm quan trọng của cả thực hành và hiểu biết. Sau đó, với nhiệt huyết tuổi trẻ, ông bước chân vào một xã hội đầy tai ương và thấy mình bị cuốn vào sự tồn vong của cả quốc gia và đức tin của mình.

Ông sống trong một thời kỳ đầy khó khăn – sự hiếu chiến của các lãnh chúa, sự xâm lược của người Nhật, sự xung đột giữa những người theo chủ nghĩa Quốc gia và những người Cộng sản, sự xâm nhập của các tư tưởng phương Tây và sự đau khổ của người dân thường. Ông hứa sẽ “chấn hưng” Phật giáo để thiết lập hòa bình và an lạc. Ông không thể ngừng suy nghĩ: “Đừng hỏi đạo Phật có thể cho tôi điều gì. Hãy hỏi tôi có thể cho đạo Phật điều gì!” (tr. 50, Fu)

Năm 1947, ông đến chùa Da Jue để trở thành trụ trì và hiệu trưởng trường tiểu học Chùa Trắng. Ở đó, ông đã thành lập một tờ báo hàng tháng và đã bị bắt một vài lần bởi một nhóm “thổ phỉ” (hoặc, theo một số phe đảng, chính phủ Cộng sản hoặc Quốc dân đảng). Ông trở thành viện chủ của chùa Hua Zang ở Nam Kinh vào năm 1948 và biên tập phần bổ sung Ánh sáng huy hoàng cho tờ Xu Bao. Trong một số bài thuyết giảng mở rộng của mình, ông đã xem một cuốn sách khoa học về vũ trụ giải thích vai trò của tinh vân trong việc tạo ra các vì sao. Ông rất ấn tượng nên đã tự chọn tên Hsing Yun (Star Cloud) và thay đổi một trong những thẻ căn cước của mình. Sau đó, trong thời gian luôn phải di chuyển khắp nơi, ông đã làm mất các giấy tờ tùy thân khác và từ đó lấy tên Hsing Yun làm tên chính thức của mình.

Những người theo chủ nghĩa Mao đã tiếp quản hầu hết Trung Quốc vào năm 1949. Hsing Yun mất liên lạc với người mẹ góa của mình trong cuộc Nội chiến này. Ngoài ra, người thầy và người cố vấn vĩ đại của ông là Zhi Kai đã qua đời. Nỗi đau chia lìa hai người quan trọng này càng khiến ông quyết tâm hơn trong việc hoằng pháp. Để được ở một nơi ít hỗn loạn hơn hầu có thể xem xét lại ý định của cuộc đời mình, Hsing Yun và một số nhà sư khác đã tham gia một phái đoàn cứu trợ y tế từ Thượng Hải đến cảng Keelung ở Đài Loan.

Trong nhiều năm ở Đài Loan, Ông cũng phải chịu đựng rất nhiều gian khổ. Ông đến đây mà không có một xu trong mình. Gần như không thể tìm thấy thức ăn và nơi trú ẩn. Những người mới đến từ đất liền bị nghi ngờ. Ông sớm bị bắt cùng những người khác với cáo buộc hoạt động lật đổ vì họ đến từ Trung Quốc đại lục. Bầu không khí chính trị lúc bấy giờ vô cùng hoang tưởng. Cuối cùng, sau khi được trả tự do và nhiều tuần lang thang, ngôi chùa Yuan Kuang ở Chungli đã đón nhận ông. Để tỏ lòng biết ơn, ông bắt đầu phục vụ người khác bằng cách đảm nhận những công việc tầm thường như kéo xe, mua thức ăn, lấy nước, dọn dẹp nhà vệ sinh và đốn củi.

Vào thời điểm đó, Đài Loan được coi là một phần Phật giáo chống Trung Quốc (họ thiên về truyền thống Thiền tông Nhật Bản hơn) và có rất ít chùa, hầu hết đều ở “núi và rừng”. Bất chấp tất cả những vấn đề này, ông coi Đài Loan là “thế giới mới dũng cảm” đối với Phật giáo. Ông chuyển từ những công việc nặng nhọc để tham gia vào rất nhiều công việc giảng dạy (kể cả trong tù), viết lách và xuất bản cũng như thành lập một trường mẫu giáo. Tại chùa Yuan Kuang, dưới thời Master Miao Kuo, ông là tác giả đầu tiên của cuốn sách Hát trong im lặng.

Các tự viện Phật giáo ở Đài Loan không giống như các cơ sở sở hữu đất đai, tự túc của Trung Quốc. Quyên góp từ những người sùng đạo và đóng góp cho các tu sĩ là nguồn nuôi sống chính của họ. Trong những ngày đầu này, Đài Loan đang trong tình trạng khó khăn về kinh tế và hầu bao eo hẹp. Do đó, trong một thời gian dài, cộng đồng Phật giáo loay hoay để cố gắng tồn tại. Phật giáo chủ yếu dành cho các nghi lễ tang tế. Trí thức nhìn Tây, ảnh hưởng của Thiên chúa giáo và Tin lành gia tăng từ cấp lãnh đạo trở xuống.

Nhưng, Hsing Yun đã làm việc siêng năng với thái độ cởi mở, kiên trì, hoàn toàn sẵn sàng và khiêm tốn. Những ấn phẩm ban đầu của ông chủ trương cải cách, mở cửa và cứu vãn Phật giáo ở Trung Quốc và Đài Loan. Theo nhiều cách, những ý tưởng này cực kỳ mạo hiểm vào thời điểm đó. Nhưng càng bị ngăn cản, ông càng mạnh dạn và quyết tâm hơn. Ông luôn tỏ ra là một nhà cách mạng, ủng hộ những thay đổi tích cực và những bước phát triển mới để thay đổi cuộc sống và xã hội. Mục tiêu của ông là quảng bá Phật giáo, chăm sóc và phục vụ người khác. Ông hoàn toàn sẵn sàng cống hiến mọi thứ, thậm chí cả mạng sống của mình, cho sự nghiệp này.

Thường thì ông ấy sẽ “đi ngược dòng” với nền văn hóa lâu đời. Vào thời điểm đó, hầu hết “những người thờ cúng” đều có mối liên hệ với các ngôi đền gia đình, Đạo giáo, Nho giáo hoặc Mật Tổ. Thanh niên có thể bị thu hút bởi Phật giáo nhưng sau khi bắt buộc thực hiện nghĩa vụ quân sự, họ đã mất hứng thú và sa vào những cám dỗ của xã hội. Bất chấp những thử thách và gian khổ đó, ông đã viết bài vào ban đêm sau những ngày dài lao động chân tay. Ngay cả khi phải đi khất thực, ông nguyện sẽ làm việc cho giáo dục và truyền bá giáo lý của Đức Phật.

Hsing Yun được một cư sĩ Phật tử yêu cầu dạy Phật giáo ở Ilan vào năm 1952 tại chùa Lôi Âm, được xây dựng từ thời nhà Thanh. Các điều kiện ở đó rất cơ bản và hướng nội. Đài Loan vẫn quay cuồng với gần một thế kỷ dưới sự cai trị áp bức của Nhật Bản, tỷ lệ giáo dục thấp trong người dân và nỗi sợ hãi của người ngoài. Việc “vươn tay” của ông thường bị coi là đe dọa, nhưng ông vẫn kiên trì. Đây là cơ hội đầu tiên để ông thực sự thực hành quan niệm của mình về một hình thức Phật giáo Nhân văn. Ông thuyết pháp thường xuyên, chủ trì các buổi lễ tụng kinh, thành lập một dàn hợp xướng thanh niên Phật giáo để biểu diễn trước công chúng, viết cho tạp chí Awakening the World và Đạo Phật ngày nay, giúp đỡ các dự án xây dựng và giáo dục thanh thiếu niên cũng như quảng bá nghệ thuật. Cuối cùng ông đã có thể tạo ấn tượng tích cực với người dân Đài Loan.

________________________

[1] Thường thì thế giới phương Tây chưa phát triển vốn từ vựng để diễn đạt nhiều điều minh định của Phật giáo. Ngay cả những từ tiếng Anh phù hợp nhất của chúng ta cũng chưa có độ liên kết sâu cần thiết để truyền đạt ý nghĩa đầy đủ của các thuật ngữ truyền thống. Khi viết bài nghiên cứu này, tôi thường diễn giải, tổng hợp và/hoặc tóm tắt các bài viết của Grand Master (từ bản dịch tiếng Anh). Ngoài ra, một số câu nói thích hợp của ông tôi xin trích dẫn trực tiếp kèm theo những dẫn chứng phù hợp (nếu có) để bạn đọc tiện theo dõi.

Tôi đã cố gắng tránh xa việc sử dụng các từ đối ngẫu mang tính phán đoán nhất mà chúng ta có trong tiếng Anh, chẳng hạn như “good”/ “bad”, “right”/ “wrong”. Tôi đã chọn sử dụng các thuật ngữ thay thế như “tích cực”/”tiêu cực” và “đúng”/”không chính xác” vẫn còn mang tính nhị nguyên nhưng không hoàn toàn mang tính phán xét và, theo kinh nghiệm của tôi, xác thực hơn với giáo lý Phật giáo Nhân văn.

Nghiên cứu này không xuất phát từ ngôn ngữ gốc của Phật giáo như tiếng Pali và tiếng Phạn hay các tác phẩm Phật giáo Nhân văn bằng tiếng Trung Quốc (ngoại trừ các bài phỏng vấn). Tất cả các tài liệu nghiên cứu bằng văn bản đều bằng tiếng Anh, do đó độ chính xác của nó đối với mục đích ban đầu có thể không đầy đủ. Đối với các thuật ngữ Phật giáo truyền thống, tôi sử dụng cách đánh vần tiếng Phạn.

Còn tiếp

Humanistic Buddhism as Conceived and Interpreted by
Grand Master Hsing Yun of Fo Guang Shan

By Richard L. Kimball

Hsi Lai Journal of Humanistic Buddhism
V. 1 (2000) – pp. 1-52

ABSTRACT

The intention of this paper is to show how Humanistic Buddhism developed over 2500 years ago and has “re-become” in today’s world due in part to the determined and steadfast efforts of Grand Master Hsing Yun of the Fo Guang Shan Buddhist Order which has its main temple in southern Taiwan. From its beginnings in northern India by Sakyamuni Gautama to its current renaissance, Buddhism has gone through many transformations and developments. Grand Master Hsing Yun has attempted to capture the original essence of the Buddha’s teachings, especially those related to applications in today’s world, as well as to developing new interpretations appropriate to current needs. He has built his beliefs as well as actions not only on the original teachings of the Buddha but also on the experiences and insights of previous masters such as the 6th Patriarch of Ch’an, Ven. Hui Neng, and Ven. Tai Xu.

The Buddha taught ways for transcending earthly suffering as well as how to deal with day-to-day issues in this lifetime. He advocated equality of every human, the interconnectedness of all sentient beings, the sanctity of life and created principles related to developing positive living. In building upon these humanistic ideals, the Grand Master promotes integrating the Buddha’s teachings of kindness, compassion, joyfulness and equanimity into daily life for the benefit of both self and others. He has created a world-wide network of temples and chapters which work to bring Buddhism to every corner of this planet. It is his hope that through this process a Pure Land can be developed here so that all sentient beings can positively live their lives in order to move on to the higher levels of existence such as Bodhisattvahood, Buddhahood and Nirvana.
This paper shows how the Grand Master emerged out of the chaos of 1940s China to create the system of Fo Guang Shan which is substantially influencing many cultures through his writings, teachings and social actions. Finally, the future of Humanistic Buddhism is explored through studying the current structure of Fo Guang Shan and obtaining viewpoints from many members within it including the Grand Master himself.

INTRODUCTION

We are living in a modern era. Buddhism must change its traditional ways by coming out of the forest and entering into society. We must expand the functions of temples to serve the community through involvement in families, nations and the world … [i]n order to promote harmony, understanding and friendship among all humans. (Grand Master Hsing Yun)

Focus of this Paper

This paper on Humanistic Buddhism (hereafter written as HB), attempts to describe and explain the essence of Grand Master Hsing Yun’s ideas, teachings and practices. Because no one can fully or accurately interpret another’s beliefs, and because of the continuous “re-forming” of HB in today’s world, this presentation is a limited exposition based on my extensive readings, first-hand experiences, interviews and personal practice over the past several years. In addition, relevant written material related to the above topic has been incorporated in this discourse as supportive testimony. I will provide the reader the Grand Master’s perspective expressed within these parameters in which I have been working. [*]

The “what” (content) of HB will make up the core work of this paper, but also the “how” and the “why” are included as well because, according to Fernando; the “why” and “how” determine the “what” (see Antony Fernando, p. 127). Without the “how” and “why”, the “what” cannot be adequately understood. I believe that to deal with a topic as diverse and profound as HB, we need a broader vision than that obtained from basic information only. Therefore, this paper will illustrate the content of Grand Master Hsing Yun’s teachings as completely as possible, but also their origin and the process used in their development. The results of those ideas/beliefs/teachings put into practice in today’s world will also be presented. In this way the reader can sense, at a deeper level, the meaning of the Grand Master’s words in the context of HB. Both the historical and current contributions of Grand Master Hsing Yun will be offered. As far as possible, HB will also be related to the original Buddhist teachings by illustrations, references, quotes and explanations.

The main purpose of this paper, then, is to “bring him to life” for the English speaking community, so that more people can better understand Grand Master Hsing Yun’s contributions, their background, history and application in today’s world.

A BRIEF BACKGROUND OF THE DEVELOPMENT OF HUMANISTIC BUDDHISM

Master Hsing Yun has demonstrated that the deep-rooted pragmatism of Buddhism makes it a religion valid today and for all times. In addition to this, he shows us how to apply the teachings of the Buddha to our daily lives… [It is]

Significant Events in the Grand Master’s Life Relevant to His “Becoming” – Conditions at the Beginning

“HB is a new lotus blossom rising out of the mud and opening up to the world. ” (Grand Master Hsing Yun)

Early Years in Mainland China
He was born into a mid-level, peasant family in rural Jiangdu, Jiangsu Province of Eastern China in 1927 which was at the time in great social/political turmoil and under tremendous stress. Both poverty and civil war were rampant in the countryside where his new life began. Hsing Yun’s grandmother had been a devout Buddhist since she was seventeen. She was an important role model for him, especially her industriousness, frugality, kindness and ability to cope with the conditions in which they were forced to live. Under her influence, he began a vegetarian diet when he was only four years old. Somewhat later he attended a local primary school where he was considered a brilliant student.

“Mother I will be your pride!”, said Hsing Yun, when he was reportedly only 10 years old.

The economy at home, as underdeveloped as it was then, required that we cross a canal by boat to make purchases on the other side. During the Sino-Japanese war, no one would risk boating across even for ten or twenty cents. On seeing this, I, then but ten, volunteered my service. I would strip to my waist, tie my shirt around my forehead, and plunge right into the moving stream. In no time I would return with everything everybody had wanted. The villagers, giving me the thumbs-up, would say, ‘That second brother from the Li family sure is something!’ Realization of this unmistakable pride in my mother’s smile reassured me and I even vowed, ‘I’m going to be better still!’ (p. 6, Balley)

The following year, during the Sino-Japanese War, he escorted his fragile mother on a quest to find his father who had left home to do some business, but never returned. On the way they passed Qixia Shan temple and monastery near Nanjing. For some reason he gave the abbot Zhi Kai his word that he would receive the tonsure and renounce worldly life. His mother, held back her tears upon seeing his determination. She returned to Jiangdu alone. Again he said quietly, “Mother, don’t
worry. I will be your pride!”

Hsing Yun became a `sraama.nera (novice monk), was fully ordained at the age of 14 (the usual age was 18) and began receiving his moral education at Qixia Vinaya school and Jiao Shan Buddhist College which was noted for its hall dedicated to the combined practice of Ch’an meditation and Pure Land devotion.

The traditional temple teaching was by disciplining and reprimanding and not guiding and encouraging. Barring novices from returning home was based on the fear that exposure to outside influences might be distracting, and they would forget their quest for truth. Rigorous training was supposed to teach monks to prevail with mental fortitude. It entailed the endurance of pain and poverty. In the end they learned to let go of material life.

Hsing Yun adopted a traditional form of discipline that would not interfere with daily responsibilities. He ate one meal before noon, copied the sutras, carried out the prostrations drill late at night, practiced meditation, remained in silence for long periods of time, concentrated on Buddha’s teachings and did some retreats. He never went into lone seclusion for long periods of time. These exercises did not bring him immediate enlightenment, but bolstered his aspiration for and faith in Buddhism.

Many years of character building by way of a rather rigid and disciplined education in a large monastery setting enabled him not only to just smile at life’s adversities but also to delight in complying with others. He was given the names of Wu Che (Dharma name, inside – “Completely Wise”) and Jin Jue (Daily use name, outside-“Enlightened Today”).

Adult Years in Mainland China

China, especially after World War II was finally over, was a vast land of destitution. Even in temples, there often were not enough provisions to feed all the monks. They survived on very little. They had little to wear so were often shivering in the winter cold. Rags others threw away were converted into socks. Hsing Yun had no money. He couldn’t even mail any letters to his mother.

Admitted to Jiao Shan Buddhist College in 1945, he enjoyed reading books, newspapers and other information. By the time he left Jiao Shan in 1947, Hsing Yun had studied in the monastic system for close to ten years. He completed his training in Buddhist discipline, teaching and doctrine. He also experienced an immersion in the Mahayana spirit of the importance of both practice and understanding. Afterwards, with youthful ardor, he stepped into a gravely afflicted society and found himself embroiled in the survival of both the nation and his faith.

He lived in a struggling time — the belligerence of the warlords, the aggression of the Japanese, the strife between the Nationalists and Communists, the incursion of Western ideas and the suffering of the common folk. He promised to “revitalize” Buddhism in order to establish peace and tranquility. He could not stop thinking, “Don’t ask what Buddhism can give me. Ask what I can give Buddhism!” (p. 50, Fu)

In 1947 he arrived at Da Jue temple in order to become abbot and principal of White Pagoda Elementary School. There he founded a monthly newspaper and was arrested a couple of times by either a “bandit” group (or, by some accounts, the Communists or Nationalist government). He became director of Hua Zang temple in Nanjing in 1948 and edited the Splendid Light supplement to the newspaper Xu Bao. In some of his extensive readings he came across a science book on the universe which explained the role of nebulae in creating stars. He was so impressed he created the name Hsing Yun (Star Cloud) and put it on one of his ID cards. Later, in his time of always having to move around, he lost his other ID papers and thus took the name Hsing Yun as his official name.

The Maoists took over most of China by 1949. Hsing Yun lost contact with his widowed mother during this Civil War. Also, his great teacher and mentor Zhi Kai died. The pain of separation from these two important people made him more determined in his resolve to spread the Dharma. In order to be in a place with less turmoil so he could re-examine his life’s intentions, Hsing Yun and several other monks joined a medical relief mission and arrived from Shanghai at the port of Keelung in Taiwan.

Moving to Taiwan

For many years in Taiwan, he also endured great hardships. He arrived without a cent to his name. It was almost impossible to find food and shelter. Newcomers from the mainland were viewed with suspicion. He was soon arrested with others on allegations of subversive activities since they were from mainland China. The political atmosphere was extremely paranoid at that time. Finally, after his release and weeks of wandering, the Yuan Kuang temple in Chungli took him in. Out of gratitude, he began serving others by undertaking the menial tasks of pulling carts, buying food, fetching water, cleaning latrines and cutting wood.

At that time Taiwan was seen as somewhat anti-Chinese Buddhist (they were more into the Japanese Zen tradition) and had few temples, most of which were in the “mountains and forests.” In spite of all these problems he saw Taiwan as the “brave new world” for Buddhism. He moved on from the menial tasks and became involved in a lot of teaching (including in prisons), writing and publishing as well as founding a kindergarten. At Yuan Kuang temple, under Master Miao Kuo, he authored his first book, Singing in Silence.

The Buddhist monasteries in Taiwan were unlike the land-owning, self-sufficient establishments of China. Donations from devotees and contributions to the monastics were their main sources of sustenance. In these early days Taiwan was in economic plight, and purse strings were tight. Hence, for the longest time, the Buddhist community was busy just trying to survive. Progress had to wait. Buddhism was mostly for funeral ceremonies. Intellectuals looked West. Catholic and Protestant Christian influences increased from the presidential level on down.

But, Hsing Yun worked diligently with an open-minded, persistent, perfectly willing and humble attitude. His early publications advocated the reforming, opening and saving of Buddhism in China and Taiwan. In many ways these ideas were extremely dangerous to have at the time. But the more he was deterred, the bolder and more determined he became. He always seemed to be a revolutionary, advocating positive change and new developments in order to transform lives and society. His goal was to promote Buddhism and care for and serve others. He was perfectly willing to dedicate everything, even his life, to this cause.

Often he would be “going against the tide” of established culture. At that time most “worshipers” were connected to family, Daoist, Confucian, or Matsu Temples. Youths might be attracted to Buddhism but after compulsory military service, they lost interest and gave into the temptations of society. In spite of these trials and tribulations, he wrote articles at night after long days of manual labor. Even if left to beg, he vowed he would work for education and spreading the teachings of the Buddha.

Hsing Yun was asked by a lay Buddhist to teach Buddhism in Ilan in 1952 at the Lei Yin temple, which had been built during the Qing Dynasty. The conditions there were very basic and inward looking. Taiwan was still reeling from almost a century of Japanese oppressive rule, a low education rate among the people and fear of outsiders. His “reaching out” was often seen as threatening, but he was persistent. This was his first opportunity to really try out practicing his concept of a humanistic form of Buddhism. He gave regular lectures, officiated at chanting ceremonies, set up a Buddhist youth choir to perform publicly, wrote for Awakening the World magazine and Buddhism Today, helped with youth education and construction projects and promoted art. He finally was able to make a positive impression on the people of Taiwan.

________________________

[1] Often the Western world has not yet developed the vocabulary to express many of the insists of Buddhism. Even our most suitable English words do not yet have the depth of associations needed to convey the full meaning of the traditional terms. In writing this research paper I often paraphrase, synthesize, and/or summarize the Grand Master’s writings (from English translations). Also, certain pertinent statements by him I do quote directly with suitable references (if available) for the reader.

I have tried to stay away from the use of the most judgmental dualities we have in English such as “good”/ “bad”, “right”/ “wrong”. I have chosen to use alternative terms such as “positive”/ “negative” and “correct” /”incorrect” that are still dualistic but not quite as judgmental and, in my experience, more authentic to Humanistic Buddhist teachings.

This research does not come from the original language of Buddhism such as Pali and Sanskrit or Humanistic Buddhist writings in Chinese (except interviews). All written research material was in English, therefore its accuracy as to the original intention may not be complete. For traditional Buddhist terms, I use the Sanskrit spelling.

Buddhism engaged in service to others and grounded in monastic communities and lay organizations dedicated to Buddhist teaching and practices. It is his conviction that Humanistic Buddhism, in its practical implications, symbolizes the goals of all schools and sects of Buddhism in the world, and therefore, serves as a unifying concept for the redefinition and interpretation of the teaching of Buddhism for the benefit of humanity today. (Dr. Ananda W.P. Guruge)