Showing posts with label GHPTVNTN. Show all posts
Showing posts with label GHPTVNTN. Show all posts

Sunday, November 26, 2023

Thông tin về Tang Lễ Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ


Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Ban Báo Chí và Xuất Bản HĐHP xin kính gửi đến chư vị 
Thông Báo Lễ Tưởng Niệm Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ 
và một số thông tin liên quan đến Tang Lễ của Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.

1. Cáo Bạch: Đức Trưởng lão HT Thích Tuệ Sỹ thị tịch
https://hoangphap.org/cao-bach-duc-truong-lao-ht-thich-tue-sy-thi-tich/

2. HT Thích Tuệ Sỹ: Di chúc tang lễ
https://hoangphap.org/ht-thich-tue-sy-di-chuc-tang-le/

3. Tiểu sử Hòa Thượng THÍCH TUỆ SỸ
https://hoangphap.org/tieu-su-hoa-thuong-thich-tue-sy/

4. Chương trình Tang lễ Đức Trưởng lão HT Thích Tuệ Sỹ
https://hoangphap.org/chuong-trinh-tang-le-duc-truong-lao-ht-thich-tue-sy/

5. Thư cung thỉnh Lễ tưởng niệm Trưởng lão HT Thích Tuệ Sỹ
https://hoangphap.org/thu-cung-thinh-le-tuong-niem-truong-lao-ht-thich-tue-sy/

6. Thông bạch truy tán Công hạnh và Tưởng niệm Trưởng lão HT Thích Tuệ Sỹ
https://hoangphap.org/thong-bach-truy-tan-cong-hanh-va-tuong-niem-truong-lao-ht-thich-tue-sy/

7. Thông Báo Lễ Tưởng Niệm Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ
https://hoangphap.org/thong-bao-le-tuong-niem-truong-lao-hoa-thuong-thich-tue-sy/

8. Hoà Thượng Tuệ Sỹ và GHPGVNTN trong dòng sống của dân tộc và hướng đi của thời đại
https://www.voatiengviet.com/a/hoa-thuong-tue-sy-va-ghpgvntn-trong-dong-song-cua-dan-toc-va-huong-di-cua-thoi-dai/7368829.html

Văn Phòng Thư Ký Ban Báo Chí và Xuất Bản

Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia

Website: www.hoangphap.org

Email: hdhp.bbc@gmail.com; Điện thoại: +61 481 169 631
Nguồn: HĐHP

Saturday, October 28, 2023

Thông báo: Về việc phát hành Kỷ Yếu Tri Ân HT Thích Tuệ Sỹ

 

THÔNG BÁO

Về việc phát hành Kỷ Yếu Tri Ân HT Thích Tuệ Sỹ

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Kính bạch chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni,
Kính thưa chư vị thức giả, văn thi hữu, cùng Phật tử trong nước và hải ngoại,

Như quý vị đã biết, trước bệnh tình nguy ngập của Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, chúng tôi, những pháp lữ và những người học trò trực tiếp hay gián tiếp thọ nhận sự giáo huấn của Người, đã cố gắng trong một thời gian rất ngắn để thực hiện tập Kỷ Yếu này. Do hạn chế về thời gian, Kỷ Yếu chỉ là một tuyển tập đơn sơ gồm những sáng tác văn thơ, nhạc, họa, của chư Tôn Đức và văn thi hữu nhằm biểu lộ niềm tri ân đối với bậc Thầy lãnh đạo nòng cốt còn lại của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, một học giả Phật học uyên thâm hiếm có của Phật giáo Việt Nam. Và cũng chính từ giới hạn đó, chúng tôi đã không kịp nhận được đầy đủ bài vở của chư Tôn Đức, văn thi hữu cùng quý Phật tử có lòng quý kính gửi dâng Hòa thượng Tuệ Sỹ.

Nhân đây, chúng tôi xin cáo lỗi cùng một số tác giả đã gửi bài đóng góp nhưng vì trễ hạn hoặc nội dung không phù hợp nên không được đăng tải vào Kỷ Yếu.

Chúng tôi ước mong những bài vở được tuyển đăng nơi Kỷ Yếu này có thể thay mặt quý vị, nói lên cảm xúc và niềm tri ân vô hạn đối với Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ.

Tập Kỷ Yếu đang được tiến hành in ấn một số ít tại Việt Nam và phần lớn được in tại California, Hoa Kỳ. Số lượng in giới hạn, một phần vì thời gian cấp bách, phần khác vì ấn phí và cước phí không nhỏ (với tập sách khổ lớn, in offset 4 màu, dày hơn 500 trang), chúng tôi chủ yếu hoàn thành tập Kỷ Yếu với tất cả tấm lòng để cúng dường dâng lên Hòa thượng Tuệ Sỹ tường lãm, chứ không có nhu cầu thương mại, và cũng không có khả năng tặng sách miễn phí cho đại chúng khắp nơi trên thế giới. Vì vậy, quý vị nào có nhu cầu muốn có một tập Kỷ Yếu để tìm hiểu sâu hơn về cuộc đời và hành trạng của HT Tuệ Sỹ, để chia sẻ xúc cảm và ân tình của mình đối với bậc Ân sư, xin vui lòng đặt sách trên hệ thống Amazon Books (chỉ trả ấn phí và cước phí):

https://www.amazon.com/K%E1%BB%B7-y%E1%BA%BFu-tri-Th%C3%ADch-Tu%E1%BB%87/dp/B0CLZ5BLGG/ref=sr_1_1

hoặc đặt từ hiệu sách Barnes & Noble:

https://www.barnesandnoble.com/w/book/1144290440?ean=9798886660654

hoặc tùy hỷ ủng hộ và liên lạc với các tự viện sau đây khi có thông báo chính thức sách in đã hoàn tất:

a) Chùa Phật Đà, 4333 30th Street, San Diego, CA 92104 – U.S.A. Tel. (619) 283-7655

b) Chùa Phổ Từ, 17327 Meekland Ave, Hayward, CA 94541 – U.S.A. Tel.: (510) 481-1577

c) Trung Tâm Văn Hóa Pháp Vân, 420 Traders Blvd E, Mississauga, Ontario, L4Z 1W7, Canada. Tel.: (905) 712-8809

d) Chùa Viên Giác, Karlsruher Str. 6, 30519 Hannover, Germany. Tel.: +49 511 879 630

e) Tu Viện Quảng Đức, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia | Tel.: +61 481 169 631

Nguyện cầu hồng ân chư Phật từ bi gia hộ Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ được tiêu tai diên thọ để tiếp tục lãnh đạo Giáo Hội và dẫn đạo công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam.

Ban Phát Hành Kỷ Yếu kính ghi.

Nguồn: https://hoangphap.org/thong-bao-ve-viec-phat-hanh-ky-yeu-tri-an-ht-thich-tue-sy/

Sunday, August 20, 2023

VP. Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống: Thư Khánh Chúc Ngày Về Nguồn

 

GIÁO HI PHT GIÁO VIT NAM THNG NHT
VIN TĂNG THNG
______________

VĂN PHÒNG CHÁNH THƯ KÝ

THƯ KHÁNH CHÚC NGÀY HỘI VỀ NGUỒN

Kính lễ Thập phương hiện tiền Đại Đức Tăng-già,
Kính lễ Chư Tôn Trưởng Lão,
Chư Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng-già,

Nhân dịp Ngày Hội Về Nguồn, thay mặt Chư Tôn Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương Quốc nội, tôi kính cẩn gởi đến Chư Tôn Trưởng Lão đang hành đạo, hóa đạo tại Hải ngoại, cùng bốn chúng đệ tử, thành ý khánh chúc Ngày Hội Về Nguồn sung mãn nguồn Pháp lạc vô biên từ ân đức gia trì hộ niệm của Thập phương Chư Phật, Chư Đại Bồ-tát. Ước mong từ Về Nguồn, trong ý nghĩa sâu xa của nó, chuyển tải nguồn suối trong mát phát xuất từ thể tánh thanh tịnh hòa hiệp của Tăng-già, để bốn chúng đệ tử thấm nhuần hương vị Chánh pháp, tăng trưởng tín tâm bất hoại đối với Phật, Pháp, Tăng và Thánh giới. Trong một thế giới luôn biến động bởi những xung đột quyền lực thống trị và mâu thuẫn giáo nghĩa giữa các tôn giáo rất dễ dàng làm dao động tín tâm của chúng đệ tử Phật, dẫn đến tâm tư hoài nghi, do dự, phân vân giữa Chánh giáo và Tà giáo, không thể phân biệt đâu là giá trị được tán dương bởi Hiền thánh Giác ngộ và đâu là giá trị thế tục được thiết lập bởi tri thức cuồng vọng của thế gian, quyến rũ bằng hư danh và lợi dưỡng.

Trong bối cảnh đảo điên giá trị ấy, Ngày Hội Về Nguồn của Chư Tôn Trưởng Lão cùng bốn chúng đệ tử đang hóa đạo và hành đạo tại Hải ngoại đã và đang ghi đậm trong tâm tư dấu ấn bi kịch lịch sử của Phật giáo Việt Nam trong thời hiện đại. Những người con Phật đã cùng chung cộng nghiệp với dân tộc này, trong đất nước này, đã cùng chung những giai đoạn thăng trầm vinh nhục trong lịch sử, đã cùng hy sinh xương máu để bảo vệ giá trị nhân văn truyền thống dân tộc. Thế nhưng, sau cuộc chiến tàn khốc huynh đệ tương tàn, khi hòa bình vãn hồi trong hy vọng anh em cùng chung huyết thống một lần nữa cùng hòa hiệp để gầy dựng lại những gì đã gãy đổ, xoa dịu vết thương dân tộc gây ra bởi chiến tranh. Bình minh vừa ló dạng, mà dân tộc chưa từng thấy được bóng mặt trời, thì một lớp người vì lẽ sống, lẽ sống cho ấm no và đồng thời cũng là lẽ sống cho những giá trị tinh thần, đã từ giã quê hương để đi tìm quê hương mới, tưởng chừng có thể  thỏa mãn ước vọng chưa định hình về giá trị nhân phẩm, về lý tưởng tự do, nhân bản. Một cộng đồng cùng chung huyết thống tổ tiên mà trong chiến tranh đã bị kích động bởi hận thù giai cấp, mâu thuẫn ý thức hệ; cho đến lúc hòa bình, tình trạng phân hóa dân tộc càng trở nên trầm trọng. Hai bờ Thái Bình Dương rì rào sóng vỗ vẫn đang âm vang mối hận của những oan hồn chưa thể giải thoát khỏi oan khiên lịch sử.

Cùng chung oan khiên lịch sử dân tộc ấy, chúng đệ tử Phật, hàng xuất gia cũng như tại gia, một thời đã cảm thấy khó hành đạo một cách trong sáng trong giáo nghĩa của Đức Thích Tôn mà không bị lạc hướng, đành phải bỏ lại đằng sau các huynh đệ đồng phạm hạnh tự lưu đày trong chính quê hương của mình. Giá trị mới được định hướng bởi ý thức hệ mới, hình thành phẩm giá đạo đức mới với sự rao giảng một trật tự xã hội ưu việt nhất trong lịch sử tiến hóa của xã hội loài người, để được đại khối quần chúng tuyệt đối tin tưởng. Định hướng phát triển của Phật giáo Việt Nam đã được công bố, và là định hướng lịch sử duy nhất: Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội. Tiếp theo đó, từ định hướng cơ sở, hiện tượng trăm hoa đua nở của quá nhiều giáo phái Phật giáo, với nhiều đạo sư, thiền sư xuất hiện, tự chứng tỏ là chân truyền giáo lý từ chính Đức Phật. Đại diện duy nhất, tiếng nói duy nhất của Phật giáo Việt Nam hiện tại là Phật giáo theo định hướng chủ nghĩa xã hội, được lãnh đạo bởi Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam thông qua các hàng giáo phẩm để tập hợp quần chúng trong sứ mệnh cao cả của Phật giáo Việt Nam.

Phật giáo, từ những lời dạy của Đức Thích Tôn được truyền thừa trên 25 thế kỷ chưa từng xung đột với bất cứ ý thức hệ nào, tín ngưỡng tôn giáo nào. Đức Thích Tôn đã từng tuyên bố: Như Lai không tranh chấp với thế gian, chỉ có thế gian tranh chấp với Như Lai. Những gì kẻ trí trong thế gian nói đó là chân lý, Như Lai cũng nói đó là chân lý. Nhưng cứu cánh giáo nghĩa của Như Lai còn vượt xa hơn thế: cứu cánh giải thoát và giác ngộ. Tuy vậy, khi mà giáo lý thanh tịnh không nhiễm ô bị lu mờ bởi những giá trị thế tục, như vàng giả lưu hành phổ biến thì vàng thật biến mất khỏi thị trường. Cũng vậy, khi mà Tợ pháp hiện hành, Chánh pháp ẩn tàng trong thâm sơn cùng cốc. Phật giáo Việt Nam hiện tại với sự phát triển chóng mặt của nó về các kiến trúc đồ sộ song song với sự phát sanh khá nhiều giáo phái; đó là sự phát triển của căn bệnh béo phì.

Trong đà phát triển như được chứng kiến, Phật giáo Việt Nam đang trong quá trình biến chất trầm trọng. Những người tự nhận sứ mạng hoằng dương Chánh pháp, duy trì mạng mạch truyền thừa của Lịch đại Tổ sư, nếu không duy trì nổi Giáo nghĩa chân truyền từ Đức Phật, được lưu truyền, phiên dịch, giảng giải qua suốt 25 thế kỷ, lan dần từ Đông sang Tây; nếu không ý thức được giá trị cứu cánh mà Đức Thích Tôn đã tuyên thuyết trong suốt 45 năm, không phân biệt những điều hư ngụy và chánh giáo, tự mình diễn giải theo ý riêng, theo trí tuệ kém cỏi, hạ liệt, Phật giáo sẽ chỉ tồn tại như một thứ mỹ phẩm trang điểm cho các tổ chức thế tục, bảo vệ tham vọng quyền lực và quyền lợi thế tục mà thôi.

Mạng mạch Chánh pháp được truyền thừa và quảng bá, như đã được ký thác bởi Đức Thích Tôn, và như đã chứng minh trong lịch sử, thủy chung sở y trên sự tồn tại của Tăng-già. Nhưng nếu mỗi thành viên trong Tăng-già sinh hoạt không tuân một điều luật, một học xứ nào như được quy định trong Giới kinh Ba-la-đề-mộc-xoa, thì sự hòa hợp Tăng-già chỉ là một tổ chức ô hợp, như đàn quạ khi thấy đâu đó có mồi ngon cùng tụ tập lại, kêu la inh ỏi. Thánh điển Tam tạng được lưu truyền, được phiên dịch giảng giải trong nhiều hệ ngôn ngữ khác nhau, là sở y cho Tăng-già làm chỉ nam cho sự hưng thịnh. Từ những giáo nghĩa do Đức Thích Tôn công bố và diễn giải được tập thành Kinh tạng, từ những quy định pháp tắc ứng xử của chúng đệ tử giữa các cộng đồng thế tục được kết tập thành Luật tạng, những giải thích Kinh và Luật trải qua nhiều thế kỷ phát triển trong nhiều quốc độ khác nhau với những truyền thống văn minh dị biệt; đấy là những điều cần làm của bốn chúng đệ tử học đạo, hành đạo và hóa đạo trên nguyên tắc khế lý và khế cơ, vì cứu cánh an lạc của chính mình và của nhiều người.

Kính bạch Chư Tôn Trưởng Lão,

Nhân Ngày Hội Về Nguồn, trong niềm hỷ lạc từ nguồn suối quy nguyên, và cũng trong tưởng niệm những vong hồn oan khuất dưới lớp sóng Thái Bình Dương, chúng đệ tử Phật cũng từ nhân duyên này mà suy tư về sự hưng suy, chánh tín và tà tín của Phật giáo Việt Nam trong vận nước thăng trầm, cùng hòa hợp thành nhất thể thanh tịnh, trong bản thể thanh tịnh hòa hợp của Tăng-già. Trên cơ sở đó để định hướng cho sự phát triển của Phật giáo Việt Nam không bị lệch hướng, không bị biến chất để trở thành công cụ của bất cứ thế lực chính trị nào. Phật giáo Việt Nam chỉ có thể tồn tại theo một định hướng duy nhất: cứu cánh giải thoát và giác ngộ.

Thành kính đảnh lễ Chư Tôn Trưởng Lão, và khánh chúc bốn chúng đệ tử trong Ngày Hội Về Nguồn tự thân cảm thọ hương vị giải thoát của Chánh pháp trong sát-na hiện tại cho đến mãi về sau, để trưởng dưỡng thân tâm, kiên cố Bồ-đề tâm, cho đến tận cùng biên tế vị lai cứu cánh giải thoát và giác ngộ.

Nam-mô Hoan Hỷ Tạng Bồ-tát

Phật Ân tự, mùa An cư,
ngày 01 tháng Bảy, Phật lịch 2567 (16/8/2023)
Thừa ủy nhiệm Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương
Chánh Thư Ký,
kiêm Xử lý Thường vụ Viện Tăng Thống
Tỳ-kheo Thích Tuệ Sỹ

Tuesday, June 13, 2023

Thích Tuệ Sỹ: THE BUDDHA'S BIRTHDAY MESSAGE OF THE SUPREME CENTRAL COUNCIL SANGHA

Unified Buddhist Church of Vietnam (UBCV)

Supreme Central Council Sangha (Sangharaja Institute)

******

The Council Of The Supreme Sangha

___________________________________________________


THE BUDDHA'S BIRTHDAY MESSAGE OF 

THE SUPREME CENTRAL COUNCIL SANGHA

Buddhist Calendar 2567

Homage to the Sakya Muni Buddha, who was born peacefully in his marvelous manifestation at Lumbini Gardens 

“One person, mendicants, arises in the world for the welfare and happiness of the people, out of compassion for the world, for the benefit, welfare, and happiness of gods and humans. What one person? The Realized One, the perfected one, the fully awakened Buddha. This is the one person, mendicants, who arises in the world for the welfare and happiness of the people, out of compassion for the world, for the benefit, welfare, and happiness of gods and humans.” *

He is a Person who has surpassed all human cognitive and perceptual limitations. Humans are enslaved by deceptive feelings about themselves and the world; driven by irrational desires for survival; and preoccupied by irrational fears of invisible forces threatening life and death. In the terrible darkness of ignorance and desires, they are unable to find safety anywhere else and must seek refuge with the spirits of mountains, forests, gardens, trees, or shines.

He is a Person who emerges in the living world, the human world, during the Axial Age of human civilization, a time during which philosophical thought, science, and religion were shaped and oriented from the East and West. There appears to be no possible synthesis of these two sources of human civilization, and the only means of unification is through the use of force. They have alienated themselves, their own nature, by attributing their own abilities to their self-realization and self-liberation by seeking veneration for supernatural powers; but eventually, they realized that an individual can only survive safely under the leadership of a person who comprehends all human problems and has the capacity to protect others from violence. This wise and just individual is revered as the Lord of Mankind.

  Human society requires a just, wise, and perceptive ruler, the Lord of Men, just as the heavenly realm must be ruled by an omnipotent and omniscient Lord of Heavens, a wise and powerful Ruler of the Heavenly Realm, in order to protect all natural orders and ensure the safety of all living beings.

The history of human civilization was indeed oriented and shaped, endowed with thought, by this thinking since then, more than 25 centuries ago, but the historical fate of the world was only determined within 20 centuries; and the end of the world in the 20th century has become a fearful obsession of nearly all humans in different communities and religions around the globe. This obsession persists to this day, depending on the frequency of natural disasters or the threat of a world war. 

A few times per year, world leaders discuss the security measures or orders in various nations in order to avoid this threatening obsession. People are aware that these measures exist only in the text of resolutions and are not applicable to every nation.

Despite the fact that different nations follow different political systems, distinguished by their influence in the world, their leaders feel the need to maintain a glimmer of hope for a safe, peaceful, and happy global community. Consequently, it is essential to venerate a real person who existed in the actuality of human history. The Person chosen by world leaders is Sakya Muni Buddha, as He is the actual and concrete symbol of hope for world peace. This is not because He is a supreme saint or beyond, but because He is a Person like any other in the living world—a Person who has endured all the same sufferings as any other human being for an infinite number of times. That Person resided in the opulent Royal Palace of the ruling class, as if He were unaware of the sufferings of his fellow citizens, let alone all sentient beings.

When that Person was a teenager living in luxury and saw the fierce fighting for survival in a field, among the birds and fish, and between people and nature, he became constantly reflective on the meaning of life and death for all sentient beings. He went on an excursion outside the palace wall when his people were welcoming their future king in a spectacular event, and he saw an old man, a sick man, and a corpse. It was only for a brief moment, but those human conditions moved his compassionate heart. Since then, he has been determined to discover the true meaning of birth, old age, and death. Then, one night, while sleeping peacefully at the Royal Palace, that future King decided to give up everything, quietly riding his horse out of the palace wall, leaving behind all the hope of his powerful royal family and his people. 

That Person, after claiming to be fully enlightened, understood the meaning of human sufferings and discovered the path to the abolition of all sufferings. Whether publicly accepted or not by various communities of different cultures, the historical reality is clear: for over 25 centuries, the Enlightened Person's language and actions have never led to hatred, provocative fighting, or revolutionary violence in the circle of all Asian nations. In a world where hatred and irreconcilable dogmatic conflicts between various nations and religions, especially among the most powerful and developed nations aspiring to be world leaders, he deserves to be a symbol of hope for peace, tolerance, and compassion.

Significantly, despite the fact that only a handful of nations observe Buddhist traditions, all world leaders have unanimously agreed to designate the Buddha's Birthday as United Nations Vesak Day to express hope for world peace. In accordance with this resolution, the celebration of the Buddha's Birthday was held at the United Nations General Secretary's Office from 2000 to 2004, when the Royal Thai government began to host the UN Vesak Day, and in 2008, the Socialist Republic of Vietnam registered to host this event.

In all of those Vesak Day celebrations, the meanings of peace in the Buddha's teachings were praised in all great halls, but they only existed in the texts issued from those celebrations, not to mention the implications behind those praises, with the intention of promoting the status of some nations or political systems, in their mission to fight for world peace, or to clarify their policies of religious freedom amidst the suspicion of some other nations that they are promulgating these policies to suppress religious freedom.

At a time when nations are waging bloody wars for dominance over the rest of the world, representatives of a Buddhist nation can propose a peaceful resolution to all of these conflicts by citing the Buddha's words on loving-kindness as the best standard. But how does one transform a powerful individual with lofty goals into a compassionate and tolerant individual? With the exception of a few trite praises of the Buddha's words, there has been no concrete suggestion for practice.

True Buddhists frequently ask: Is there a Dharma door that can be practiced correctly, in accordance with the Buddha's true teachings, to develop great loving-kindness in people who do not have inborn good nature, not the gentleness and kindness of a deer that cannot develop further, among the innumerable Dharma doors that the Buddha taught to overcome the innumerable defilements that sentient beings encounter? The answer is possibly affirmative. Buddha is commonly regarded as the Great King of Medicine, a skilled physician who accurately diagnoses the causes of people's illnesses and prescribes the correct medication based on their health conditions and mental backgrounds. However, it is the patient's responsibility to take the correct dose of medication at the appropriate time or to take it based on his own incorrect understanding of medicine. 

The same can be said of Buddhist practitioners. Who is the Buddha and who is Mara in this world of fake news and conflicting ideas, which arise from the deceptive and erroneous perspectives of people with blind survival desires, making it difficult to distinguish between right and wrong? Consequently, the ultimate objective of liberation and enlightenment is an illusion or a strange mirage in the desert.

Vietnamese Buddhists can be proud of their more than two thousand years of living in harmony with Buddhism. This pride is merely a sense of self-satisfaction and contentment that we are deserving heirs to the Buddha's legacy. This pride, however, lacks the foundation and strength necessary to transform our own minds, improve our moral qualities and wisdom, walk firmly on the Noble Path, and avoid confusion between worldly values and the Noble Path. 

Since the Buddhist catastrophe of the Year of the Cat (1963), when a large number of young Buddhists were killed by the irrational ambitions of secular powers, the tragic and heroic fire of Buddhists has begun to burn. As a sacrifice to the existence of the True Dharma, they self-immolated their bodies, illuminating every step of our people's glorious evolution with tolerance and compassion.

This year, on the Buddha's Birthday, sixty years after the Buddhist catastrophe, the Chinese calendar completes a full circle, ushering in a new era in the tradition of Eastern and East Asian calendars. Since the establishment of the United Vietnamese Buddhist Congregation, there has been a period of historical inheritance, development orientation, and taking responsibility for the common interests of our people in order to develop our traditional tolerance, compassion in our educational and cultural mission, and social advancement. In the past decade, we have made modest contributions to a nation in shambles due to fighting between ideologically opposed brothers. After more than 50 years of peace, what have Vietnamese Buddhists accomplished, given that animosity and division between the North and South have not been resolved?

Under the oppressive power of ignorant forces who put so much pressure on the poor and disadvantaged classes during the pandemic, the fire of our traditional loving-kindness quietly warmed the hearts of our fellow people in difficult times, sharing every bowl of rice or bunch of vegetables to help them overcome the catastrophe that was threatening their lives.  They sought refuge only within themselves or among those unfortunate individuals. 

After sixty years of Buddhist calamity, Buddhists should practice transforming the light of loving-kindness into a bright torch for ourselves and those around us, keeping our Bodhicitta unshakeable, leading to Bodhi vows and Bodhi practices, and walking steadily on the Noble Path towards ultimate liberation and enlightenment for ourselves and many others.

Homage to Sakya Muni Buddha, the Blessed One, the Compassionate Father of all sentient beings.

The Buddha's Birthday - 2567. Phat An Temple, on the 8th of April, Year of the Cat (2023)

On the blessing of The Supreme Central Council Sangha

Chief Secretary of the Sangharaja Institute

Son of the Awakened One, Bhikkhu Thich Tue Sy



* Source: Ekapuggalavagga—Bhikkhu Sujato, https://suttacentral.net/an1.170-187/en/sujato?layout=plain&reference=none&notes=asterisk&highlight=false&script=latin


Saturday, May 27, 2023

Thông Điệp Phật Đản PL 2567

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
VIỆN TĂNG THỐNG
******
HỘI ĐỒNG GIÁO PHẨM TRUNG ƯƠNG


THÔNG ĐIỆP
PHẬT ĐẢN 2567

Nam-mô Lâm-tì-ni viên, Vô ưu thọ hạ, thị hiện đản sanh,
BỔN SƯ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT

Một Con Người, này các Tỳ-kheo, xuất hiện thế gian; xuất hiện thế gian vì nhiều tăng ích, nhiều an lạc cho thế gian; vì thương tưởng thế gian; vì mục đích cứu cánh, vì tăng ích và an lạc của trời và người. Một Con Người ấy là ai? Là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác.”

Một Con Người đã vượt qua tất cả mọi hạn chế của con người, trong hạn chế của tư duy và nhận thức, bị ràng buộc bởi những cảm nghiệm phù phiếm về bản thân và thế giới; bị thúc đẩy bởi khát vọng sinh tồn mù quáng, ám ảnh bởi sợ hãi trước những sức mạnh vô hình luôn luôn đe dọa sự sống và sự chết; trong bóng tối kinh sợ của vô minh và khát ái, không tìm thấy nơi nương tựa an toàn, nhiều người tìm đến nương tựa, cầu khẩn thần núi, thần rừng, thần vườn, thần cây, thần miếu.

Một Con Người đã xuất hiện trong thế giới sinh loại, trong thế giới nhân sinh; trong thời trục định hướng cho lịch sử văn minh nhân loại, định hướng cho tư duy triết học, khoa học, và tôn giáo, từ hai nguồn suối dị biệt Đông Tây, tưởng như không thể có một nền văn minh tổng hợp của nhân loại mà chỉ có thể hợp nhất bằng bạo lực, như con người đã từng quỳ lạy trước các hiện tượng thiên nhiên không thể hiểu, đã tha hóa năng lực tự giác ngộ và tự giải thoát của tự thân, tự tâm để sùng bái các uy lực thần thánh; cuối cùng phát hiện một cá nhân chỉ có khả năng tồn tại an toàn dưới sự lãnh đạo một cá nhân sáng suốt, biết rõ mọi vấn đề, có khả năng khống chế mọi người khác dưới sức mạnh của bạo lực; con người khôn ngoan, bằng năng lực của trí tuệ, biết khống chế mọi người bằng bạo lực, bạo hành, con người ấy được tôn sùng là đấng Nhân chủ. Xã hội con người cần một đấng Nhân chủ, công bằng và sáng suốt; cũng vậy, thiên giới hiển nhiên cũng được ngự trị bởi một Đấng Thiên Chủ, toàn trí và toàn năng, để quan phòng trật tự thiên nhiên và bảo đảm an toàn cho con người trong thế giới sinh vật.

Lịch sử văn minh nhân loại quả thực đã được định hình và định hướng tư duy kể từ đó, từ trên 25 thế kỷ về trước. Nhưng vận mệnh lịch sử của thế giới được tính chỉ trong 20 thế kỷ, và ngày tận thế của thế kỷ 20 đã trở thành ám ảnh đầy sợ hãi của hầu hết nhân loại trong các cộng đồng dân tộc và tôn giáo khác nhau trên quy mô thế giới. Ám ảnh ấy vẫn tùy thời xuất hiện cho đến nay từ những biến động do thiên tai cho đến những đe dọa chiến tranh thế giới.

Để tránh khỏi những ám ảnh đe dọa này, các nhà lãnh đạo các quốc gia trên thế giới đã thảo luận các biện pháp an ninh, trật tự trong các cộng đồng quốc gia mỗi năm. Tuy vậy, mọi người đều biết rằng những biện pháp ấy chỉ tồn tại trong các bản văn nghị quyết, không có dấu hiệu khả thi trong từng quốc gia cá biệt.

Dù vậy, các nguyên thủ quốc gia, tuy dị biệt về thể chế chính trị, được phân biệt theo thế lực ảnh hưởng quốc tế, cảm thấy cần giữ đốm lửa hy vọng về một thế giới an toàn, hòa bình an lạc giữa các cộng đồng nhân loại. Như vậy cần phải suy tôn một con người hiện thực, đã tồn tại hiện thực trong lịch sử của nhân loại. Con người ấy, các vị nguyên thủ ấy đã chọn lựa đức Thích-ca Mâu-ni như là biểu tượng hiện thực, cụ thể cho khát vọng hòa bình thế giới. Không phải vì Ngài là một vị thần linh tối cao, hay hơn thế; nhưng Ngài là một Con Người như mọi con người khác trong thế giới sinh vật; một Con Người tự nhận cũng đã chịu mọi đau khổ khốn cùng như mọi sinh vật khác, trải qua vô tận thời gian; và con người ấy đã từng sống trong cung vàng điện ngọc của giai cấp thống trị, tưởng chừng như không biết gì đến những đau khổ của thần dân của mình, nói chi đến đau khổ của muôn loài. Con Người ấy, trong tuổi thiếu niên phủ đầy nhung lụa, chỉ một lần chứng kiến cảnh tượng đấu tranh sinh tồn quyết liệt, tàn bạo trên một cánh đồng, giữa các sinh vật chim, cá bé bỏng, cho đến con người và tạo vật, đã không ngớt trầm tư về ý nghĩa sống chết của mọi loài chúng sinh. Rồi một lúc khác, trong tuổi thanh niên cường tráng, chỉ một thoáng chứng kiến một con người già yếu, một con người tật bệnh, và một con người đã chết, giữa vô số thần dân đang chào mừng vị Nhân chủ tương lai của mình trong cảnh tượng huy hoàng; chỉ một thoáng ấy, với tâm đại bi vô lượng, đã xúc cảm trước vô biên khổ lụy nhân sinh. Từ đó quyết chí tầm cầu ý nghĩa đích thực của sinh-lão-bệnh-tử. Rồi trong một đêm tối, giữa giấc ngủ êm đềm của cung điện, vị Hoàng đế tương lai quyết chí từ bỏ tất cả, cưỡi con tuấn mã âm thầm vượt thành, để lại đằng sau biết bao hy vọng của thần dân, và của thân quyến quý tộc quyền uy.

Con Người ấy, sau khi tuyên bố đã giác ngộ, hiểu rõ ý nghĩa khổ lụy nhân sinh, đã khám phá con đường dẫn đến cứu cánh diệt khổ. Sự công bố giáo lý diệt khổ ấy dù được công nhận phổ biến hay không bởi các cộng đồng văn minh dị diệt, nhưng sự thực lịch sử được thấy rõ: ngôn ngữ và hành vi của Con Người tự tuyên bố đã Giác ngộ ấy, trải dài trên 25 thế kỷ trong một vòng tròn Á châu rộng lớn, chưa hề dẫn đến hận thù, khiêu khích đấu tranh, bạo hành cách mạng, xứng đáng là biểu tượng cho hy vọng hòa bình, bao dung và nhân ái trong một thế giới có nguy cơ hủy diệt bởi hận thù tranh chấp từ các cộng đồng dân tộc, bởi mâu thuẫn giáo điều không thể bao dung giữa các tôn giáo, nhất là từ những tham vọng bá chủ thế giới của các cường quốc tự nhận văn minh thịnh vượng hàng đầu trong thế giới.

Điều có ý nghĩa là các nguyên thủ quốc gia, trong đó chỉ một số nhỏ là quốc gia có truyền thống Phật giáo, tất cả đồng thanh nghị quyết chọn ngày Phật đản làm ngày lễ Liên hiệp quốc, như là ngày khát vọng hòa bình của nhân loại. Sau nghị quyết ấy, lễ kỷ niệm Phật đản được tổ chức tại văn phòng Tổng thư ký Liên hiệp quốc từ năm 2000, cho đến năm 2004 về sau do chính phủ Hoàng gia Thái lan đăng ký tổ chức, và năm 2008 do chính phủ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt nam đăng ký tổ chức.

Trong các đại lễ kỷ niệm ấy, giáo nghĩa về hòa bình của Đức Thích Tôn được tuyên dương trong các hội trường, và cũng chỉ tồn tại trong các bản văn được công bố từ các hội trường. Đó là chưa nói đến ẩn ý sau các bản văn tuyên dương, với ý hướng nâng cao vị thế của quốc gia hay chính thể của mình trong sứ mạng đấu tranh cho hòa bình thế giới, hoặc để thanh minh chính sách tự do tôn giáo của chính thể mình trước nghi kỵ của một số quốc gia cần có quan hệ thân hữu, trong môi trường đấu tranh quyền lực khốc liệt của thế giới.

Trong thời kỳ đang diễn ra những trận chiến đẫm máu giữa các quốc gia tranh quyền bá chủ, đại diện chính phủ của một quốc gia Phật giáo có thể đề nghị biện pháp hòa giải xung đột dẫn lời Đức Phật, về từ bi, như là giải pháp tốt đẹp nhất. Nhưng làm thế nào để cải hóa một nhân vật đầy quyền lực, đầy tham vọng khó thỏa mãn trở thành con người từ ái bao dung? Không một đề nghị thực hành cụ thể nào ngoài những tán dương dẫn Phật ngôn một cách sáo rỗng.

Phật tử chân chính tự hỏi, trong số vô lượng pháp môn mà Đức Phật đã tuyên thuyết để đối trị vô lượng phiền não ô nhiễm của chúng sanh, hiện không có pháp môn nào khả dĩ tu tập một cách chánh hành, như lý để phát huy tâm từ quảng đại, chứ không chỉ là thiện bẩm sinh, hiền lành như một con nai, và chỉ chừng ấy chứ không thể lớn hơn? Câu trả lời: có thể. Đức Phật được xưng tán như là Đại y Vương, như một y sĩ thiện xảo, chẩn đoán chính xác nguyên nhân căn bệnh và bốc thuốc đúng bệnh thích hợp với thể chất, với cơ địa tâm địa, nhưng bệnh nhân phải uống thuốc đúng liều lượng, đúng thời gian chỉ định, hay tự dung nạp thuốc theo kiến thức y học tai hại của mình.

Người học Phật, tu Phật cũng thế. Trong thế giới nhiễu nhương, bởi những thông tin nhiễu loạn, từ những nguồn nhận thức điên đảo bởi khát vọng sinh tồn mù quáng, dẫn đến tà chánh khó phân, Phật với Ma khó biệt, thế thì cứu cánh giải thoát và giác ngộ được hướng đến chỉ mơ hồ như ảo ảnh, thậm chí là quái tượng, trong sa mạc.

Phật tử Việt nam có thể tự hào với lịch sử dân tộc và đạo pháp đồng hành trong suốt hai nghìn năm, niềm tự hào ấy chỉ để thỏa mãn, tự mãn, tự nhận ta là đệ tử kế thừa xứng đáng. Nhưng niềm tự hào ấy không đủ căn và lực để cải thiện tự tâm, để nâng cao phẩm chất đạo đức và trí tuệ, để vững bước trên Thánh đạo, không nhầm lẫn giá trị thế tục với Thánh đạo.

Kể từ mùa Pháp nạn Quý mão đau thương, máu của các Oanh vũ Phật tử bé bỏng đã đổ xuống vì tham vọng ngông cuồng của quyền lực thế tục và từ đêm hôm ấy, ngọn lửa BI HÙNG của Tăng-Ni Phật tử lần lượt bùng lên, tự đốt cháy thân mình để tự soi sáng mình bước đi trên Thánh đạo trong đời này và vô tận đời sau, để cúng dường cho sự tồn tại của Chánh Pháp rạng ngời trên Quê hương, soi tỏ bước đi của Dân tộc trong dòng tiến hóa vinh quang đầy bao dung và nhân ái.

Phật đản năm nay, sau ngày Pháp nạn Quý mão, trải qua 60 năm của một chu kỳ Hoa giáp, một vận hội thiên diễn trong truyền thống lịch pháp phương Đông, Đông Á, kể từ ngày Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất được thiết lập, ghi dấu một giai đoạn lịch sử truyền thừa, định hướng phát triển và tự đảm nhận sứ mệnh trong sự nghiệp chung của dân tộc, phát huy truyền thống bao dung nhân ái trong sự nghiệp giáo dục, văn hóa, tiến bộ xã hội; dù khiêm tốn nhưng cũng đã thành tựu được số nhỏ trong khoảng 10 năm của một đất nước đang bị tàn phá bởi cuộc chiến huynh đệ tương tàn; và nói chung, Phật giáo Việt nam đã làm được gì sau trên 50 năm hòa bình mà hận thù phân hóa dân tộc chưa được hóa giải?

Dưới những áp bức của các thế lực vô minh đang đè nặng lên tầng lớp quần chúng khốn cùng trong cơn đại dịch, đốm lửa tình tự dân tộc đã âm thầm sưởi ấm đồng bào trong những ngày cùng khốn, chia sẻ nhau từng đấu gạo từng bó rau để vượt qua tai họa rập rình bên bờ vực sống chết, không nương tựa nơi nào khác ngoài sự nương tựa chính mình và anh em cùng khốn như mình.

Để cúng dường Phật đản Quý mão, sau 60 năm Pháp nạn Quý mão, người con Phật tự mình tu dưỡng, để từ đốm lửa tình tự dân tộc ấy thắp sáng lên thành ngọn đuốc sáng cho chính mình và cho mọi người chung quanh, kiên cố Bồ-đề tâm, thắng tiến Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành, vững bước trên Thánh đạo tiến đến cứu cánh giải thoát và giác ngộ cho mình và cho nhiều người.

Kính lễ Đấng Tam giới Chí tôn, Tứ sanh Từ phụ,
Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật.

Phật đản 2567,
Phật Ân tự, mồng tám tháng Tư năm Quý mão
Thừa ủy nhiệm
Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương,
Chánh Thư Ký
Viện Tăng Thống
(Bản PDF có ấn ký)

                       Thiện Thệ Tử Thích Tuệ Sỹ

Nguồn: Hội Đồng Hoằng Pháp


Monday, May 24, 2021

TÂM THƯ của Hội Đồng Hoằng Pháp


TÂM THƯ


Đã nhiều năm rồi, Phật Tử Việt Nam cử hành đại lễ trong niềm hân hoan tự hào về một ngày lễ Vesak trọng đại được xưng danh một cách trang trọng là "Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc."


 Phật giáo là một trong bốn tôn giáo lớn của nhân loại. Con số Phật Tử dù vậy cũng chỉ khoảng 400-600 triệu. Với con số khiêm nhường đó, tiếng nói của Phật giáo không có ảnh hưởng gì đáng kể trong các quyết định của Liên Hiệp Quốc về vận mạng của các dân tộc trên thế giới. Phật Tử Việt Nam chính thức đón nhận "Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc" từ năm 2008. Từ đó đến nay, những phát biểu bởi các đại biểu từ nhiều nước tán dương Đức Phật quả là quá nhiều, nhưng chưa có bất cứ đóng góp thiết thực đáng kể nào cho khát vọng hòa bình của nhiều dân tộc bị áp bức, bóc lột bởi chính quyền của nước mình; bị đe dọa bởi tham vọng bá quyền của nước lớn.


Thực tế đang diễn ra như vậy không phải là minh chứng hiển nhiên cho giáo thuyết của Phật viển vông, không giải quyết được những vấn đề nóng bỏng của thời đại, sự thoái hóa của địa cầu. Chính vì những người tự nhận là Phật Tử, tự xưng là Như Lai Sứ Giả, đã không đánh giá đúng mức các giá trị thế tục vốn đã và đang cống hiến cho nhân loại nhiều phương tiện cần thiết để giảm thiểu những đau khổ hành hạ thân xác, và trong một số trường hợp, giảm thiểu những ưu tư bức bách dẫn đến rối loạn tinh thần, bất an, sợ hãi. Mặc dù Kinh điển, Luận thư nói không ít về nguyên lý khế lý và khế cơ. Thế nhưng, trong sự rao truyền giáo pháp hiện tại, khế lý và khế cơ bị che khuất bởi các hiện tượng ma quỷ chập chờn, bởi những khuyến cáo làm sao để được  âm hồn phò trợ, bởi khoa xem tướng để biết người này còn phước nhiều, hay người kia sắp hết phước; những điều mà chính Đức Thế Tôn đã cảnh giác Tôn giả Đại Mục-kiền-liên dù có năng lực thần thông cũng không được nói những điều chính mình thấy cho những người không thể thấy. Nói những điều mà người khác không thể thấy không thể biết, không thể chứng minh nó đúng hay sai; và điều này dẫn đến khả năng lừa gạt những kẻ nhẹ dạ, mù quáng dễ tin, và tất yếu diễn trò yếu ngôn hoặc chúng, nói những chuyện yêu ma quỷ quái để mê hoặc quần chúng.


Đó là hiện tượng thực tế đang diễn ra, nó xuyên tạc giáo nghĩa mà Đức Thích Tôn đã truyền dạy. Đó là điều mà Đức Thích Tôn đã ví dụ như chiếc thuyền tải đầy vàng đang lướt sóng ngoài khơi không bị chìm bởi sóng gió giông bão mà chìm vì chính trọng tải quá mức của nó.


Và thêm một thực tế lịch sử. Thủa xưa, khi vua tôi binh tướng nhà Trần, từ triều đình cho đến thôn dã, từ lão ông cho đến thiếu niên, đã hy sinh thân mạng vì sự sống còn của dân tộc, thì một số khác, trong đó có rất nhiều hoàng thân quốc thích, phản bội đất nước, chạy theo giặc. Khi hòa bình tái lập, hồ sơ những kẻ phản bội được dâng lên triều đình để trừng trị đích đáng. Vua Trần Nhân Tông tức thì truyền lệnh đốt đi tất cả, để cho dù kẻ thắng hay người bại, dù cho những kẻ phản bội hay những người trung thành, thảy đều là con dân cùng một tổ quốc, hãy quên đi những sai lầm quá khứ, hãy xóa đi dấu vết nghi kỵ, cơ hiềm, cùng nhìn nhau, cùng đối xử với nhau trong tình tự dân tộc. Đấy là ngọn cờ nhân ái, bao dung, không chỉ giương cao trên một đất nước nhỏ bé, mà còn trên đỉnh cao của lịch sử nhân loại tiến bộ trong một nền văn minh nhân ái. 


Tinh hoa ấy của dân tộc đã không được kế thừa. Gần nửa thế kỷ trôi qua từ khi hòa bình thống nhất được lập lại, hận thù dân tộc giữa các anh em cùng chung dòng máu tổ tiên lại không thể bao dung nhau. Và ngay chính trong giới Phật Tử, kế thừa Phật giáo truyền thống Trúc Lâm của Đức Điều Ngự Giác Hoàng cũng không thể quên đi những mâu thuẫn tị hiềm quá khứ, quyết loại trừ nhau. Ta không giải thoát được hận thù trong ta làm sao giải thoát hận thù nơi người. Không thể hòa hiệp vì không thể giải thoát hận thù, hoặc không thể quân phân quyền lợi; đây là quy luật tâm lý học, không thể chối cãi, lại càng không thể biện minh với bất cứ biện luận nào y trên Thánh giáo. 


Thế nhưng, khó khăn cho Phật Tử Việt Nam hiện không có đầy đủ Kinh điển để có thể phán đoán điều gì có hay điều gì không thấy có trong Kinh. 


Chính vì ý thức được điều này, Viện Tăng Thống GHPGVNTN, năm 1973, đã tổ chức hội nghị thành lập Hội đồng Phiên Dịch Tam tạng. Chư Tôn thuộc hàng Giáo Phẩm Trung ương, dưới sự chỉ đạo của Viện Tăng Thống, cùng với sự hỗ trợ của Chư Thượng Tọa Đại Đức đang phụ trách giáo dục tại các trường Cao Đẳng Phật Học và Đại Học, đồng vân tập về Viện Đại Học Vạn Hạnh để thảo luận cơ cấu  tổ chức, chương trình phiên dịch, quy định các quy tắc phiên dịch, phương thức duyệt sách, v.v... cho đến đề án xây dựng cơ sở Pháp Bảo Viện làm trụ sở của Hội Đồng Phiên Dịch.


Dự án vĩ đại này không tồn tại lâu, do tình hình chiến sự căng thẳng dẫn đến ngày 30 tháng Tư. Cho đến nay, trong số 18 thành viên của Hội Đồng Phiên Dịch lần lượt viên tịch, chỉ còn duy nhất  HT. Thích Thanh Từ trong trạng thái bất hoạt. Tâm nguyện của Thầy Tổ có cơ đứt đoạn. 


Những gian nan khổ nhọc trong chiến tranh khói lửa, những ức chế bởi thế lực cường quyền, một thời, Chư Tôn Giả ấy đã viết lên trang sử dày những công trình văn hóa giáo dục, không dày với những đấu tranh bạo lực. Hàng hậu bối, thế hệ tiếp nối, bằng ý chí, bằng tâm đức, bằng trí tuệ, như thế nào để kế thừa di sản cao quý ấy, để phát huy tinh hoa dân tộc ấy?


Nửa thế kỷ đất nước hòa bình, nhưng dân tộc thì không hòa bình. Nửa thế kỷ Đạo Pháp trùng hưng, nhưng Tổ ấn không trùng quang. Làm sao để thực hiện ý chỉ thi thiết giáo luật của Đức Thế Tôn, hóa giải những xung đột trong Tăng bằng biện pháp cuối cùng là "như thảo phú địa"? 


Hy vọng mong manh là một số ít các Thầy Cô trẻ, những vị chưa bị mê hoặc bởi các giá trị thế tục, chưa bị ô nhiễm bởi địa vị vinh quang được thế quyền phong tặng; những vị mà sơ tâm xuất gia chưa biến thành đồng ruộng hoang hóa, tạm đủ để gọi là ruộng phước cho nhiều người; những vị ấy sẽ bằng nghị lực tinh tấn, tự ý thức sứ mệnh của người xuất gia, cùng một thầy học, cùng hòa hiệp như nước với sữa, kế thừa những gì Thầy Tổ tâm nguyện mà chưa hoàn thành, giữ sáng ngọn đuốc Chánh Pháp trong đêm trường sinh tử tối tăm; giữ sáng và thắp sáng ngọn đuốc bao dung, nhân ái, để trao truyền cho các thế hệ tiếp nối, vì sự thanh bình phúc lạc của dân tộc, vì sự hạnh phúc an lạc của nhiều người, của muôn sinh. 


Để cho Đại Lễ Phật Đản được cung kính cử hành trong tâm của mỗi người con Phật, bốn chúng đệ tử hãy cùng dũng mãnh phát khởi Bồ-đề nguyện, quyết định Bồ-đề hành, thăng tiến không thoái chuyển trên Thánh đạo, vì pháp vị tịnh lạc và giải thoát tự tâm, vì sự tăng ích lợi lạc của cộng đồng dân tộc và nhân loại. 


Cầu nguyện Chánh Pháp trụ thế lâu dài, Dân tộc hòa hiệp tương thân tương ái. Cầu nguyện thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc.

                   Cẩn chí

Phật lịch 2565,

Tân Sửu, 20-5-2021

Cố vấn Chỉ Đạo HĐHP

Thiện thệ tử Thích Tuệ Sỹ










*1. Cơ-đốc giáo (2.3 tỷ tín đồ); 2. Hồi giáo (1.8 tỷ tín đồ); 3. Ấn-độ giáo (1.1 tỷ tín đồ); 

4. Phật-giáo (500 triệu tín đồ).

Nguồn: https://www.worldatlas.com/articles/largest-religions-in-the-world.html