[AN LẠC TRONG VÔ MINH]
Một người nọ, với thân thể ghẻ lở, luôn luôn phải cào, phải gãi, và phải ngồi suốt bên lò lửa để hơ nóng, cho bớt sự ngứa hành hạ. Với con ghẻ ấy, sự kiện như vậy là hưởng thụ lạc thú tuyệt vời. Càng gãi, càng cào rách thân thể, càng có được những cảm giác khoan khoái, nhưng cũng đồng thời ghẻ lở càng gia tăng. Ghẻ lở càng gia tăng, lại càng phải gia tăng sự gãi và như vậy lại gia tăng cảm giác khoái lạc.
Rồi thì, gia đình, những người thân thích không ghẻ lở, thương hại và tìm phương cứu chữa. Người ta mời một y sỹ chuyên khoa da liễu, và lôi con ghẻ ra khỏi lò lửa, ngăn cản không để nó cào cấu cho rách nát thân thể thêm, sau đó, giải phẩu các mụt ghẻ, xức thuốc trị ghẻ, và cho uống những liều thuốc trị ghẻ. Tất cả sự việc và quá trình điều trị này làm cho con ghẻ đau đớn. Nó oán hận y sĩ, oán hận những người thân thích đã hành hạ nó. Nó khóc lóc, nguyền rủa.
Nhưng, cố nhiên, một khi ghẻ lở không còn, nó sẽ kinh nghiệm được những cảm giác của một thân thể không ghẻ ngứa, và rồi nó sẽ phải cảm ơn những người đã áp bức nó điều trị. Đức Phật được gọi là “kẻ phá hoại sự sống” là như vậy.
A man who gets scabies might have to scratch himself all the time and manage to be close to a fire with the hope of relieving his unpleasant feeling. From his view, such actions may bring about wonderful enjoyment. The more strongly he scratches and tortures his body, the more satisfied he feels, and the severer his itches become. The more his itches increase, the more he scratches and enjoys himself. Then his family and friends, who are moved to pity by his suffering, seek to help him. So a physician is summoned, and the patient is taken away from the fire and kept from injuring his own body any more. He is forced to have his body cleaned, his infected boils treated, and take medicine. The process of treatment has made him painful and angry. He blames the physician for having destroyed his body; he is deeply resentful of his relatives' ill behaviors. He cries bitterly and curses all. Nevertheless, once he recovers himself, he surely experiences what his pure body without any scabies is like. And then he will learn to be deeply grateful to those who have forced him to undergo such an unpleasant treatment. It is in this sense that the Buddha was ever mistakenly called a "life-destroyer" (bhūnahuno).
[SINH RA THẤY MÌNH ĐÃ LÀ NÔ LỆ]
Trong thế gian, những người tự đặt ra cho mình mục đích cao cả, vĩ đại để đạt đến, không nhiều lắm. Dù hiểu các phẩm định từ "cao cả", "vĩ đại" theo nghĩa nào, tất nhiên chỉ nói trong ước lệ của thế gian.
Thiện Tài, thanh niên phú hộ, sinh ra từ một gia đình cự phú, không lệ thuộc vào ai cả; nhưng tự thấy lệ thuộc một điều nguy hiểm bậc nhất, đó là bị khống chế bởi Ma Vương, vua của Sự Chết, ngự trị thế gian bằng sự chết.
Đội quân để khống chế thế gian trong quyền uy ban phát sự chết, đó là đội quân phiền não. Đào hào sâu phòng ngự bằng hố thẳm ái dục, xây dựng thành cao bảo vệ bằng kiêu mạn các thứ. Khi trực nhận được thực trạng như vậy, khi thấy chung quanh ta thế lực khống chế bằng đe dọa sợ hãi; khiến ta kinh sợ trong từng bước đi, vì không dễ gì biết những thứ vui giận thất thường nơi các ông chủ; cho nên chỉ cần lơ đãng một chút, chỉ một sát-na đã mất mạng.
Khi nhận ra điều ấy, những ai mong cầu thoát ly, quyết chí lấp bằng hố ái dục, san bằng thành lũy kiêu mạn, xóa bỏ ngai vàng ngự trị của Ma vương, chúng sinh ấy được nói là đã phát Bồ-đề tâm.
We are born slaves by nature - to the God of Death.
BỐN CỬA VÀO ĐẠO
Nói cụ thể, bậc Hạ Sỹ Đạo tu Phật trước hết bắt đầu bằng bốn ngõ, gọi là Bốn Nhập Đạo Yếu Môn:
Do thường xuyên thực hành những điều này, người tại gia tích lũy kho tàng trí tuệ cho mình, thiết thực trong đời này và đời sau. Trí tuệ có được là do tích lũy qua quá trình nghe, học hỏi, rồi tư duy, chiêm nghiệm, và y theo đó mà khai triển, phát triển những gì được gọi là thiện pháp. Khai triển và phát triển, là cách nói khác của tu tập.
Practically speaking, the ordinary lay people enter Buddha-dharma through the fourfold principal gate:
- accompanying the noble,
- studying the perfect dharma,
- thinking in accordance with dharma, and
- practicing dharma in accordance with dharma.
In doing so constantly, they enrich their treasure of wisdom in their present and next lives. The wisdom produced in the process of studying, contemplating and meditating lends foundation to cultivation and development of what is called wholesome dharma. In other words, to practice dharma is to cultivate and develop it.
“To practice the Bodhisattva path is to cultivate loving-kindness and compassion more and more greatly.”
Tu tập cho tâm từ bi càng lúc càng rộng lớn thêm lên, đó là thực hành Bồ-tát đạo.
[NHẬN THỨC & GIÁC NGỘ]
Ở đây, có một người lạc lối trong rừng hoang đầy nguy hiểm, chợt cảm thấy an ổn. Do bởi đâu? Điều chắc chắn là khi nhận biết ra ta đang ở đâu, chung quanh này, gần đây hay xa hơn, có những gì.
Vậy thì, sự thực quá hiển nhiên, cái làm cho người ấy cảm thấy an toàn, và tất nhiên cùng lúc với cảm giác sung sướng, đó chính là sự hiểu biết.
Nhận rõ được sự thực, nhận biết thực tế ta đang ở đâu, ta đang làm gì, và nếu đó là nhận thức cứu cánh, nghĩa là biết rõ sự sống và sự chết, biết rõ sau đời này, sau khi thân thể này mục rã, ta sẽ là gì, ở đâu, biết một cách chắc chắn, tự mình biết, tự mình thấy, chứ không do ai khác; nhận thức ấy được gọi là giác ngộ, hay bồ-đề.
Tuy vậy, nhận thức và giác ngộ là hai giai đoạn diễn ra trước sau như một quá trình nhân quả. Do nhận thức chính xác mà đạt được giác ngộ.
Why would a man who has been lost in a dangerous jungle suddenly feel unworried? It is certain that he might find out where he is and what is around him, near and far. Thus, all that can make him feel safe and, at the same time, pleased is his own knowledge of the situation in which he is caught up. Similarly, if we can, on our own, know exactly where we are, and what we are doing, and where we are destined to go in the next life, and what we would become after our bodies are destroyed, we have attained a kind of knowledge called bodhi or enlightenment in Buddhism. Nevertheless, knowledge and enlightenment are considered to be two consecutive stages of a causal process; and the latter may be achieved thanks to the former alone.
[THÁNH CẦU & PHI THÁNH CẦU]
Đức Thích Tôn tự thuật lại quá trình tìm đạo giải thoát của mình, có hai loại tầm cầu: Thánh-cầu và Phi-thánh-cầu.
Phi thánh cầu là những ước nguyện thấp kém của người đời. Bị chi phối bởi khổ lụy nhân sinh, đi tìm cái gì để thoát ra khỏi những hạn chế bất toàn hiện tại, chúng tìm đến, hướng đến, mong cầu những cái vẫn bị hạn chế trong hữu hạn.
“Ta cũng vậy, trước khi chưa thành chánh giác, khi còn là bồ-tát, Ta tự mình ô nhiễm lại tìm cầu cái ô nhiễm.
“Rồi ta suy nghĩ, sao Ta tự mình ô nhiễm lại tìm cầu cái ô nhiễm?...
“Sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị ô nhiễm, Ta tầm cầu cái không bị ô nhiễm, vô thượng, an ổn, thoát khỏi các khổ lụy, niết-bàn."
“Beholding the morning star,
I wonder
Who would be
For me
To take refuge in !!!”
"Nhìn sao mà ngỏ sự tình. Ai người Đại-giác cho mình quy y." - Tuệ Sỹ Thượng Nhân
Phát Bồ-đề tâm và thành tựu Bồ-đề quả là trọn vẹn tất cả sự nghiệp của Bồ-tát. Tuệ Sỹ Thượng Nhân
[BỒ-ĐỀ TÂM]
Hạt giống Bồ-đề không được gieo vào một cánh đồng trừu tượng nào xa xôi, cũng không chờ đợi để được gieo vào một vùng đất hứa thần thoại nào khác, mà nó được gieo xuống ngay trên sa mạc sinh tử này, khô cằn với những đau khổ triền miên của chúng sinh này. Rồi hạt giống ấy cần phải được tưới bằng nước ngọt của từ bi để lớn mạnh, để đến thời trổ hoa giác ngộ.
Nói cách khác, phát Bồ-đề tâm và thành tựu Bồ-đề quả là trọn vẹn tất cả sự nghiệp của Bồ-tát.
As of 8/1/24
THE SONG OF THE REALIZATION OF THE PATH
By King Trần Nhân Tông
It is altogether disastrous
Whoever understands this truth
Is called the Awakened.
Constantly meditating on this,
I have ceased clinging to the body.
With satisfaction in mind,
I can laugh uproariously.
All has been cut down—
Either respect for merit and fame
Or concern about wealth and prosperity;
How inferior they might appear—
the Ch’in and Han dynasties!
Content with life in poverty,
I have sought a place to discipline myself.
Secluded in the high mountains,
Hiding in the wilderness,
Where joyfully the gibbons
Make friends with me.
In deserted forests and mountains,
I let go of mind and body.
Peacefully I often occupy myself
Simply with cleaning the shrine
And worshiping the Buddha.
Reading sūtras, reciting the Buddhas’ names,
Praising saints, may I be able
To repay the Four Favors * of the Three Worlds!**
My mind is rid of defilements,
And my awakening is made bright;
Neither a shadow of distinction between “this” and “that,”
Nor a trace of conflict between I-ness and other-ness.
Secular ties are cut down;
Praises and blames are all thrown away.
Days and nights
I earnestly train my mind.
Standing in the midst of the world,
I am not moved by its constant transitions;
Sitting on the high mountain,
My mind is set free.
Following the Buddhas,
I vow to get perfectly awakened;
Singing the tune of Non-Arising,
I am at peace in the course of Zen training.
Everyone is aware
That everything is like a figment of imagination;
When awakened from one’s dream,
Tears would be found to flow.
Being aware that body is constant in change,
No other than a drifting cloud,
And everything in essence is empty,
Just like bubbles on the sea,
One would seclude oneself
In the quiet mountains
To concentrate all one’s mind on practice,
However poor life therein might be.
There would be no more interference
With others’ good or evil.
When mouth shut and ears covered,
Misfortune can cause no troubles at all.
Pacification of body and formation of life
Should be carried out in accord with one’s nature.
This body may be donated as offerings
Whether to birds or fishes.
No longer concerned about the body,
Whether it would be properly cared or not;
Basically composed of earth, water, fire and air,
It would work its way spontaneously.
Throughout the Void,
The dharma-body is constantly existent,
Greatly perfect and magnificently bright.
According to Zen doctrine,
The dharma-eye is once opened,
The Buddhist teaching will spread forever
Just as the echo of a sound made in a cave.
As far as students of the Way are concerned,
Though their number is great,
It is factually scarce for a bamboo
To turn into a dragon.
Owing to their confused mind,
North is mistaken for South.
Zen on the tip of a finger —
All is gone instantaneously.
The gātha reads,
A peaceful life with awakened mind in tranquility.
Into the shade of pines is blowing the cool breeze.
With a sūtra on the bed under a tree,
The two words “purity” and “release”
Are more precious than ten thousand coins of gold.
———-
* Favors of the Triple Gem, masters and parents, dharma-friends, all sentient beings.
** Skt., kāmadhātu (World of Desire), rūpadhātu (World of Form), arūpyadhātu (Formless World).
Nguyên tác: ĐẮC THÚ LÂM TUYỀN THÀNH ĐẠO CA — Vua Trần Nhân Tông
Sinh có nhân thân,
Ấy là hoạ cả;
Ai hay cốc được,
Mới ốc là đã.
Tuần này mà ngẫm,
Ta lại xá ta;
Đắc ý cong lòng,
Cười riêng ha hả.
Công danh chẳng trọng,
Phú quý chẳng màng;
Tần Hán xưa kia,
Xem đà nhèn hạ.
Yên bề phận khó,
Kiếm chốn dưỡng thân;
Khuất tịch non cao,
Náu mình sơn dã.
Vượn mừng hủ hỷ,
Làm bạn cùng ta;
Vắng vẻ ngàn kia,
Thân lòng hỷ xả.
Thanh nhàn vô sự,
Quét tước đài hoa;
Thờ phụng bụt trời,
Đêm ngày hương hoả.
Tụng kinh niệm bụt,
Chúc thánh khẩn cầu;
Tam hữu tứ ân,
Ta nguyền được bả.
Niệm lòng vặc vặc,
Giác tính quang quang;
Chẳng còn bỉ thử.
Tranh nhân chấp ngã.
Trần duyên rũ hết,
Thị phi chẳng hề.
Rèn một tấm lòng,
Đêm ngày đon đả.
Ngồi cong trần thế,
Chẳng quản sự thay.
Văng vẳng ngàn kia,
Dầu lòng dong thả.
Học đòi chư Phật,
Cho được viên thành;
Xướng khúc vô sinh.
An thiền tiêu sá.
Ai ai xá cốc,
Bằng huyễn chiêm bao;
Xẩy tỉnh giấc hoè,
Châu rơi lã chã.
Cốc hay thân huyễn,
Chẳng khác phù vân;
Vạn sự giai không,
Tựa dường bọt bể.
Đem mình náu tới,
Cảnh vắng ngàn kia;
Dốc chí tu hành,
Giấy sồi bô bả.
Lành người chẳng chớ.
Dữ người chẳng hay;
Ngậm miệng đắp tai,
Hề chi hoạ cả.
An thân lập mệnh.
Thời tiết nhân duyên;
Cắt thịt phân cho,
Dầu là chim cá.
Thân này chẳng quản.
Bữa đói bữa no;
Địa thuỷ hoả phong,
Dầu là biến hoá.
Pháp thân thường trụ,
Phổ mãn thái hư,
Hiển hách mục tiền,
Viên dung loã loã.
Thiền tông chỉ thị,
Mục kích đạo tồn;
Không cốc truyền thanh,
Âm hưởng ứng dã.
Phô người học đạo,
Vô số nhiều thay;
Trúc hoá nên rồng,
Một hai là hoạ.
Bởi lòng vờ vịt,
Trỏ Bắc làm Nam;
Nhất chỉ đầu thiền,
Sát na hết cả.
Kệ rằng:
Cảnh tịch an cư tự tại tâm,
Lương phong xuy đệ nhập tùng âm.
Thiền sàng thọ hạ nhất kinh quyển,
Lưỡng tự thanh nhàn thắng vạn câm.
A WORLDLY LIFE WITH JOY ON THE PATH
By King Trần Nhân Tông
Part 2
Mind is once awakened,
It is not necessary to seek any other way.
Sustaining illuminating nature conduces to peace of mind;
Right view comes when illusions are left behind.
Attachment to I-ness and Other-ness cut down,
There appears the true character of “diamond.”(4)
Greed and hatred abandoned,
Then comes the marvelous nature of perfect enlightenment.
The Pure Land (5) is essentially the pure mind,
No more preoccupied with the Western Paradise. (6)
And Amitābha is the very illumination,
Not busy seeking the way to the Realm of Bliss. (7)
Observing body and mind, cultivating mindfulness,
Not for the purpose of reaping apparent fruits;
Preserving morality, fighting with flux,
Not owing to aspiration for fame and merit.
Eating vegetables and fruits,
No worry about taste—bitter or hot.
Covered with paper or coarse cloth,
No concern about the body—white or black.
If just pleased with morality,
A hermitage deserves much more than a celestial palace.
If constantly inspired by humaneness and uprightness,
Only three tiles are more valuable than a pavilion.
Notes:
(4) Skt. vajra, a symbol of the indestructible. Here it stands for true reality, śūnyatā or emptiness, the essence of everything existing. This emptiness is indestructible like diamond, that is, imperishable and unborn or uncreated.
(5) Skt., sukhavatī, the realm where followers of the Pure Land school are said to be reborn to continue with their cultivation of Perfect Enlightenment under Buddha Amitābha.
(6) Another designation of the Pure Land.
(7) Another designation of the Pure Land.
“The Buddha appeared as an educator on earth. It is thanks to his particular teachings that countless sentient beings have been liberated from the fetters of ignorance and defilements, and the endless cycle of rebirth, in order to be able to start a new life, eternal in the light of wisdom and compassion.”

No comments:
Post a Comment