Showing posts with label UNDV. Show all posts
Showing posts with label UNDV. Show all posts

Tuesday, May 31, 2022

Bạch X. Phẻ – W. Edward Bureau: Ba con đường đan xen dẫn đến hòa bình bền vững

 

Lời dẫn:  Đây là bài thuyết trình cho Đại Lễ Phật Đản của Liên Hiệp Quốc tổ chức tại Ninh Bình Việt Nam vào năm 2019. Bản tiếng Anh và tiếng Việt  ở phần link dưới. Nhận thấy, bản dịch Tiếng Việt được Ban tổ chức dịch không được chuẩn, nên chúng tôi lượt dịch lại ở phía dưới. Kính mong quý vị chỉ giáo nếu có những thiếu sót để thay đổi cho tốt hơn. Xin cảm ơn.

http://www.undv2019vietnam.com/Subtheme-01/en/21.pdf
http://www.undv2019vietnam.com/Subtheme-01/vi/13.pdf


Hội nghị UNDV 2019
Chủ đề phụ: “Lãnh đạo có Tâm vì Hòa bình Bền vững”

Ba con đường đan xen dẫn đến hòa bình bền vững

Tiến sỹ Bạch X. Phẻ (Phe Bach, Ed.D.)
Người sáng lập và Giám đốc điều hành của C. Mindfulness LLC
Trường trung học Mira Loma, SJUSD, Hiệp hội giáo viên California, Hoa Kỳ.

Tiến sỹ W. Edward Bureau, Ph.D. (Đã nghỉ hưu)
Đại học Drexel, Philadelphia, PA, Hoa Kỳ

Giới thiệu

Hòa bình bền vững gắn liền với chánh niệm trong từng giây phút hiện tại, con người và các mô hình thu nhỏ nơi đó chúng ta đang tồn tại. Thay vì tồn tại như một trạng thái tĩnh, hòa bình có tính hữu cơ và năng động, tự nó tạo ra những mơ hồ của “bất an”. Vì vậy, trở thành một nhà lãnh đạo có chánh niệm bắt đầu bằng việc thực hành Năm Chánh Niệm (Năm Giới) trong Bát Chánh Đạo (Xem Phụ lục A) và tìm kiếm sự bình an trong bản thân và tiếp tục chánh niệm bằng cách thể hiện sự bình an đó mỗi ngày. Việc làm này là hạt giống để từ đó các hệ thống và hoàn cảnh tự chúng có thể duy trì được sự hòa bình bền vững.

Suy nghĩ về cách lãnh đạo bằng chánh niệm có thể duy trì hòa bình, chúng ta phải xem xét cách thức mà chánh niệm có thể được nuôi dưỡng trong mỗi cá nhân và cách người đó có thể duy trì chánh niệm hàng ngày bất chấp những thách thức bên ngoài. Kết hợp thực hành chánh niệm với sự hiểu biết về “tư duy hệ thống” sẽ mở ra những con đường duy trì hòa bình trong và khắp các tổ chức, cơ quan chính phủ và các cấu trúc chính trị. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo, giáo viên và những người khác cũng phải nắm lấy “dòng chảy liên tục” và biết rằng cái tưởng dường như “kết thúc” chỉ mới là một sự “khởi đầu”. Hòa bình có thể giữ chúng ta trong hành trình vòng tròn thông qua các hệ thống và thời gian.

Do đó, có “Ba con đường đan xen dẫn đến Hòa bình bền vững”.

Học tập và Duy trì Hòa Bình dựa trên Thực hành Chánh niệm

Những nhà lãnh đạo muốn duy trì hòa bình mà không có hòa bình thì họ phải tìm cho ra và vun đắp nó trong chính họ. Đây không phải là vấn đề của ý chí hay điều gì là quan trọng mà thực hành chánh niệm phải được bắt đầu và liên tục thông qua việc thực hành hàng ngày. Chánh niệm thay đổi cuộc sống, vận dụng bộ não, giúp giảm đau đớn thể chất và cảm xúc, và nâng cao khả năng học tập. Thực hành chánh niệm trong một tổ chức mang lại một bầu không khí và văn hóa an bình, khoan dung và trân trọng hơn. Dạy người khác cách sống có chánh niệm và cách thực hành thiền định mang lại cho họ kỹ năng suốt đời để đương đầu với những áp lực của cuộc sống hiện đại trong một thế giới đầy biến động và gặt hái được sự hòa bình bền vững.

Hòa bình, hòa hợp phổ quát và những trách nhiệm chung được chia sẻ bắt đầu từ bên trong, và hòa bình nội tâm bắt đầu với chánh niệm và thiền. Các công trình nghiên cứu cho thấy chánh niệm và thực tập thiền trước khi bắt đầu các buổi họp nhóm hoặc vào giờ giải lao hàng ngày giúp mọi người cải thiện sự tập trung đồng thời giảm bớt lo lắng. Những tổ chức tập thể nào có thực hành chánh niệm có thể trở nên vui vẻ và ổn định vì mọi người có được sự thư giãn, cảm thấy hài lòng và buông bỏ được âu lo.

Tư duy có hệ thống như một con đường dẫn đến hòa bình bền vững

Trong một thời đại thay đổi nhanh chóng và không chắc chắn, các nhà lãnh đạo phải đối mặt với những tình huống phức tạp, những điều chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến sự hòa bình. Chỉ nhìn thấy và phản ứng với các phần cụ thể của hệ thống dẫn đến các phản ứng vụn vặt chỉ giải quyết được các vấn đề tức thì. Bằng cách nhìn nhận và gắn bó với hệ thống như một tổng thể hữu cơ, người lãnh đạo có thể cùng tạo ra hòa bình bền vững. Hiểu được rằng một hệ thống sống sẽ tự tái tạo, mở ra khả năng hòa bình và sẽ trở thành trung tâm trong các mối quan hệ, quá trình và nội dung của hệ thống.

Khi có cái nhìn mang tính hệ thống rộng lớn hơn, phong phú hơn thì sẽ không thể bỏ mặc cho những may rủi hoặc một cam kết mơ hồ xuất hiện. Giống như chánh niệm, tư duy hệ thống phải được học và thực hành hàng ngày. Trong các tác phẩm của Peter Senge và Otto Scharmer (Thuyết U) có các khái niệm và phương pháp để các nhà lãnh đạo trở thành người thực hành tư duy hệ thống. Làm như vậy họ mới có thể chuyên chú, vun bồi những thay đổi tích cực và tạo ra được sự bình an trong mỗi hệ thống và giữa các hệ thống với nhau, trong đó có cả Phật giáo.

Nắm bắt dòng chảy liên tục

Một số nhà lãnh đạo tin rằng, khi một cái gì đó được duy trì, nó đã đạt đến trạng thái tĩnh lặng và liên tục ở trạng thái đó theo với thời gian. Các nhà lãnh đạo và những người trong cùng một hệ thống có thể cố gắng bám chặt và giữ lấy hòa bình, không muốn thấy nó biến mất. Hòa bình, theo quan điểm này, không nên được duy trì. Tuy nhiên, hòa bình có thể tồn tại vĩnh viễn, nếu chúng ta chấp nhận rằng nó không có bắt đầu hay kết thúc. Đúng hơn, hòa bình là một hiện tượng năng động và tự nhiên, một hiện tượng liên tục chảy từ quá khứ đến hiện tại và tương lai.

Việc nắm bắt dòng chảy liên tục sẽ đưa hiện tượng hòa bình vào trong phương pháp thực hành chánh niệm hàng ngày của nhà lãnh đạo. “Thuyết O” (hai Tiến sĩ Bạch và Bureau) soi đường cho các nhà lãnh đạo tận tâm sống theo dòng chảy hòa bình. (Xin nói thêm  chữ “O” giống như vòng tròn viên dung là con đường tròn dung hoà, dung thông, đã hoàn tất, không có bắt đầu hay kết thúc, nhưng chúng ta có thể chọn một điểm trong vòng tròn dung hợp như sự bắt đầu. Chữ viên dung cũng có thể là sự dung hợp, là dung hòa với nhau trong một thể thống nhất, giữa lý và sự, giữa tướng và tánh. Đó cũng là một trong những yếu tố cần thiết tối ưu của từ bi và hòa bình). Sử dụng lại nhiều lần về bản chất, “Thuyết O” chảy vòng tròn qua các yếu tố: nhận thức, chấp nhận, ôm ấp, học hỏi, thực hành, chuyển đổi, chia sẻ và tái tưởng tượng. Là một nhà lãnh đạo tỉnh thức và sống với những điều trên, người đó sẽ sống với hòa bình, có hòa bình. “Là hòa bình” sẽ có hoà bình. Đó là một đề xuất khác về Phương pháp tiếp cận của Phật giáo đối với lãnh đạo toàn cầu và trách nhiệm chia sẻ với các xã hội bền vững.

Học tập và duy trì hòa bình dựa trên thực hành chánh niệm

“Chúng ta có thể chọn cách sống cuộc đời của mình ngay bây giờ. Chúng ta có thể nắm bắt bất kỳ khoảnh khắc nào và bắt đầu lại.” Và “Bạn cần thức dậy từ chế độ lái tự động của mình. Bạn phải sống sâu sắc và có ý thức hơn để bạn có thể chú ý đến từng khoảnh khắc.” – Thích Nhất Hạnh

Là một nhà giáo dục và thực hành đạo Phật, là tác giả chính (trong bài này) đã thực hành và giảng dạy Lãnh đạo Chánh niệm như một mô hình thực hành chánh niệm dựa trên sự bình an trong cuộc sống và trong công việc của mình (xem Phụ lục A, Lãnh đạo từ lòng Bao dung), hoặc như Malala Yousafzai (Người đoạt giải Nobel năm 2014) đã nói: “Hãy để chúng tôi mang lại bình đẳng, công lý và hòa bình cho tất cả mọi người. Không chỉ các chính trị gia và các nhà lãnh đạo thế giới, tất cả chúng ta đều cần phải đóng góp. Tôi. Bạn. Đó là nhiệm vụ của chúng tôi.” Chúng tôi có trách nhiệm mang lại thứ lãnh đạo tinh thần, bình an và chánh niệm cho chính mình và cho những người khác.

Chánh niệm là nhận thức về điều gì đó có thể quan trọng(Từ điển Merriam-Webster) hoặc như Từ điển Oxford định nghĩa, Ý thức hoặc nhận thức về điều gì đóPhục tùng hoặc sẵn sàng làm điều gì đó. Sự sẵn sàng làm điều gì đó là sự thực hành chánh niệm trong cuộc sống hàng ngày. Chánh niệm trau dồi sự chú tâm, khả năng tập trung và nhận biết; nó là nền tảng của thành công và là một kỹ năng đòi hỏi sự luyện tập để cho phép chúng ta cảm nhận được những cảm xúc mà không cần phản ứng, đáp trả thay vì dối trá lúc bị kích động. Chỉ riêng trong lĩnh vực giáo dục, theo Parker, và các đồng tác giả (2014), chánh niệm nâng cao năng lực tự điều chỉnh của trẻ em, cho thấy những cải thiện đáng kể trong các kỹ năng ứng phó với cuộc sống và giảm thiểu đáng kể tính hung hăng và các vấn đề trong giao tiếp. Black, D. S. và Fernando, R. (2014) cũng đưa ra thông tin là các giáo viên báo cáo rằng học sinh của họ đã cải thiện hành vi trong lớp học (tức là chú ý, tự chủ, tham gia vào các hoạt động và quan tâm / tôn trọng người khác). Hơn nữa, có hơn hàng trăm nghìn nghiên cứu về chánh niệm và hiệu quả của chánh niệm. Các nhà nghiên cứu đã báo cáo những lợi ích được thực nghiệm ủng hộ chánh niệm bao gồm: giảm lo lắng, giảm căng thẳng, tăng cường trí nhớ lúc làm việc, tập trung hơn, ít phản ứng cảm xúc hơn, nhận thức linh hoạt hơn, tăng mức độ hài lòng trong mối quan hệ, tăng trí tuệ cảm xúc và kết nối xã hội, tăng đạo đức, kiểm soát được nỗi sợ hãi, tăng chức năng miễn dịch, an vui hơn trong cuộc sống, tăng tốc độ xử lý thông tin, giảm tâm trí lan man, giảm huyết áp, tăng sự đồng cảm / lòng trắc ẩn, nâng cao hiểu biết về bản thân, cải thiện các mối quan hệ, điều chỉnh sự chú ý, hành vi, và cảm xúc, sức khỏe và hạnh phúc cũng như nâng cao kết quả học tập và các hoạt động trí tuệ khác.

Chánh niệm, như trong Chánh niệm ngay thực, trong Bát chánh đạo, là nghệ thuật sống, một quan niệm về một lối sống bình an, hài hòa và chuẩn mực nhằm nâng cao sự an toàn và hạnh phúc của gia đình, cộng đồng và xã hội. Như vậy, thực hành chánh niệm và thiền định hàng ngày là một cách sống. Nói một cách ngắn gọn, như Bạch (2014) đã chỉ ra, chánh niệm là năng lượng của sự ‘chú ý’, tự quan sát và nhận thức về khoảnh khắc hiện tại, không phán xét, và với thái độ tử tế và từ bi về những gì đang diễn ra xung quanh bạn và bên trong bạn. Chánh niệm đưa bạn trở lại khoảnh khắc hiện tại. Khoảnh khắc hiện tại là điều duy nhất mà chúng ta thực sự có được vì như một câu tục ngữ xưa đã nói: “Ngày hôm qua là lịch sử và Ngày mai là điều bí ẩn. Hôm nay là món quà – ở đây và bây giờ. (Đó là lý do tại sao nó được gọi là HIỆN TẠI)”. Vì vậy, các tác giả sử dụng Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo như một cách để sống, giảng dạy và lãnh đạo.

Boorom (2009) gợi ý rằng lãnh đạo có nguồn gốc trong tôn giáo, vì có mối tương quan trực tiếp giữa năng lực lãnh đạo và phẩm chất tâm linh. Marques (2010) khẳng định rằng “hoàn toàn có thể là tâm linh và chưa phải là có tôn giáo. Có nhiều người sống tâm linh nhưng là người vô thần, chẳng tin gì, hoặc chấp nhận nhiều tôn giáo” (tr.13). Đối với bà, “một người phục vụ tinh thần là một người chỉ đơn giản là duy trì các giá trị nhân văn tốt đẹp, chẳng hạn như tôn trọng, khoan dung, thiện chí, hỗ trợ và nỗ lực để xây dựng những gì tốt đẹp hơn ở nơi làm việc của mình” (trang 13). Trong công trình nghiên cứu của mình, DeVost (2010) khám phá ra rằng thực hành ‘khuyến khích trái tim’ – một trong năm giá trị lãnh đạo điển hình – có ý nghĩa tích cực. Theo Kouzes & Posner (1995), năm điều thực hành để lãnh đạo tốt là: “Thách thức quá trình, truyền cảm hứng cho tầm nhìn chung, giúp người khác hành động, làm gương và khích lệ trái tim” (trang 9).

Trong khi đó, các nhà lãnh đạo thường thực hành đời sống tinh thần cũng như niềm tin đạo đức và các giá trị nhân văn của họ. Như Northouse (2004) đã lập luận rằng đạo đức và lãnh đạo chính là “quan tâm đến các loại giá trị và đạo đức mà một cá nhân hoặc xã hội muốn có hoặc thấy phù hợp” (trang 342). Hơn nữa, ông chỉ ra rằng mô hình lãnh đạo nhân văn bao gồm năm thành phần: a) biểu hiện sự tôn trọng, b) phục vụ người khác, c) thể hiện sự công bằng, d) bày tỏ sự trung thực và e) xây dựng cộng đồng. Trong một nghiên cứu khác, Zhu, May, & Avolio (2004) định nghĩa lãnh đạo có đạo đức là “làm những gì đúng, công bằng và tốt” (trang 16). Zhu và cộng sự, (2004) nói thêm rằng các nhà lãnh đạo thể hiện các hành vi đạo đức khi họ đang làm những gì là đúng đắn, công bằng và tốt về mặt đạo đức và khi họ giúp nâng cao nhận thức đạo đức và thể hiện đạo đức của con chiên. Bass và Steidlmeier (1998) cho rằng một sự lãnh đạo thực sự mang tính chuyển đổi và hiệu quả phải dựa trên: a) phẩm chất đạo đức của người lãnh đạo và mối quan tâm của họ đối với bản thân và những người khác, b) các giá trị đạo đức được gắn trong tầm nhìn của người lãnh đạo, và c) đạo đức của các quá trình và các lựa chọn và hành động đạo đức xã hội mà các nhà lãnh đạo và tín đồ tham gia.

Thay vì là một đề xuất hay một ý tưởng cho các nhà lãnh đạo và tổ chức, sự quan tâm có thể được dệt thành cấu trúc của tổ chức. Làm như vậy phải có chủ ý và không thất thường, nhưng các tổ chức và các nhà lãnh đạo có thể cần một khuôn khổ để làm việc đó. Một trong những cách tiếp cận như thế được đưa ra bởi Viện bảo tồn và các công trình của Otto Scharmer, như được thấy trong cuốn sách thuyết U và thuyết U: Dẫn đầu từ tương lai khi nó mới xuất hiện (Schramer, 2017 và 2013). Viện tiếp tục tập hợp mọi người trên toàn cầu lại với nhau để học cách “vượt qua thuyết U” nhằm hướng tới sự thay đổi bền vững và hòa bình. Được hiểu từ cái nhìn ban công, việc tham gia vào sự thay đổi có chủ ý như vậy có thể biến đổi các hệ thống và con người trong chính họ, thay vì chỉ hy vọng vào sự thay đổi. Với phần lớn “tính không hòa bình” trong các hệ thống trên toàn cầu, chúng tôi -hai tác giả- tin rằng, thông qua việc thực hành các quá trình của thuyết U, con người có thể biến đổi các hệ thống.

Ý niệm và thực hành chánh niệm chuyển qua giai đoạn đầu của thuyết U. Chúng tôi phát triển năng lực để “đình chỉ” những định kiến ​​và phán đoán của chúng tôi. Trong ngôn ngữ của thuyết U, chúng tôi nhận thức được việc “tải xuống” những quan niệm ngăn cản chúng tôi nhìn bằng đôi mắt mới mẻ, và chúng tôi học cách quan sát (một cách tập trung) làm sao những định kiến ​​đó hình thành quan điểm của chúng tôi về con người, hệ thống và tình trạng con người. Cá nhân và tập thể, chúng ta học cách “buông bỏ” để “cho đi” những gì chúng ta không thể nhìn thấy trước đây, những gì có thể là bản thân chúng ta trong tương lai. Như chúng tôi đang làm, chúng tôi đang “dự đoán” – trạng thái vừa hiện tại trong thời điểm vừa cảm nhận được những gì có thể xảy ra trong tương lai. Do đó, sự phán đoán là “kinh nghiệm về sự xuất hiện của cái mới và sự biến đổi của cái cũ” (Scharmer, 2013).

Hình 1: Chuyển động U: Ba Không gian, Bảy Khả năng
I: Cảm nhận; III: Thực hiện: 1. Đình chỉ, 7. Định chế hóa; II: Hiện diện: Chuyển đổi cá nhân và ý chí, 2. Chuyển hướng, 6. Tạo mẫu, 5. Kết kinh, 3. Ra đi, 4. Để trở lại

Theo ngôn ngữ của thuyết U, có những “điểm mù” riêng và chung có thể khiến chúng ta mất khả năng trong việc tạo ra sự thay đổi về mặt ý thức xã hội và sự chuyển đổi mang tính hệ thống. Chính những điểm mù này đã bẫy chúng ta rơi vào những lối suy nghĩ hiện nay và mô hình hành vi hiện tại, trên cả hai bình diện cá nhân và hệ thống. Rồi đến lượt mình, những điều này cũng sẽ ngăn cản chúng ta tạo ra hòa bình toàn cầu bền vững. Nếu chúng ta có thể lưu tâm đến những điểm mù của mình, chúng ta có thể bắt đầu nhìn với một tâm hồn rộng mở, một trái tim rộng mở và một ý chí rộng mở. Mỗi một trong ba điều đó là thước đo con người. Làm thế nào chúng ta có thể đủ chánh niệm để sống trong “trạng thái cởi mở” của ba thước đo đó? Các quá trình của thuyết U, thông qua chánh niệm, cung cấp cho chúng ta những con đường có chủ ý để nắm lấy chúng và tìm kiếm hòa bình bền vững trong các hệ thống.

Hành trình luyện tập của tiến sĩ Phẻ!

“Thực hành chánh niệm có nghĩa là chúng ta hết lòng cam kết có mặt trọn vẹn trong từng khoảnh khắc hiện tại; mời gọi bản thân tiếp xúc với khoảnh khắc này trong nhận thức đầy đủ, với ý định có được tâm thanh tịnh, chánh niệm và sự bình an ngay tại đây và ngay bây giờ.” – Jon Kabat-Zinn

Thế giới ngày nay có những xu hướng suy giảm đạo đức trong hàng ngũ lãnh đạo. Các sở thích cá nhân, lợi ích và tham đắm dường như lớn hơn những giá trị và phúc lợi của cộng đồng. Các nhà lãnh đạo thường thiếu hiểu biết sâu sắc về thực hành các phương pháp lãnh đạo tinh thần của bản thân, vì vậy các tác giả này bắt đầu hướng nội để tìm ra giải pháp cho vấn đề này. Giải pháp bắt đầu bằng việc sống một cuộc sống có chánh niệm, và trong trường hợp này là sống theo Bát Chánh Đạo. Những phẩm chất lãnh đạo này nâng cao các thực hành tâm linh như lòng từ bi, trí tuệ, chánh niệm, hoặc hiểu biết có thể dẫn đến các hậu quả về luân lý và đạo đức.

Hành trình của Phẻ bắt đầu gia nhập vào tổ chức Gia đình Phật tử Việt Nam tại GĐPT Linh Quang năm 1991 và bắt đầu với vị trí lãnh đạo năm 1994 khi còn là sinh viên năm nhất đại học tại Đại học Nebraska, Lincoln. Anh tham gia Trại huấn luyện thành Huynh trưởng GĐPT năm 1996 tại Trại huấn luyện A Dục Lộc Uyển ở Houston, TX. Kể từ đó, Phẻ tiếp thu và thực hiện Lãnh Đạo (Thân giáo), anh đã viết một bài nghiên cứu sâu về lãnh đạo, có tựa đề là Lãnh đạo tại Hội Thanh niên Phật tử Việt Nam (VBYA) hay còn gọi là GĐPT. Đây là phần cuối của bài tiểu luận nghiên cứu trong cuốn sách Bản chất của Lãnh đạo Tư duy: Học tập Thông qua Chánh niệm và lòng Từ bi (Bach, 2015).

… Lãnh đạo GĐPT Việt Nam (VBYA) hay còn gọi là GĐPT phải tu tập và thực hiện giá trị của việc làm gương (Thân Giáo); đây chắc chắn là điều cần thiết cho sự thành công của tổ chức. Theo Bạch (2012), “Dẫn dắt bằng cách làm gương đúng là một bài học vô giá mà Đức Phật đã dạy cho chúng ta. Lãnh đạo dựa trên suy nghĩ, lời nói và hành động trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Những lời dạy của anh đã tiếp cận và biến đổi vô số người từ mọi tầng lớp xã hội. Sự phát triển hòa bình của nhân loại một phần lớn là nhờ những lời dạy giác ngộ của Đức Phật. Ngày nay, Phật giáo có thể là một giải pháp khả thi cho những khủng hoảng của con người” (trang 5). Anh tiếp tục đề nghị rằng các nhà lãnh đạo thanh thiếu niên Phật giáo nên thiết lập những khuyến nghị sau: 1) Thiết lập Tư duy Đạo hạnh và Luân lý; 2) Hiểu biết và diễn đạt nguyên lý nhân quả (Luật Nghiệp báo); 3) Suy nghĩ toàn cầu và hành động theo từng môi trường – trước tiên tạo ra sự khác biệt xung quanh bạn; 4) Tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi; 5) Có mặt cho nhau – (Trình bày như trong thuyết U), 6) Sức mạnh của sự thống nhất hoặc sự hợp tác với các tổ chức khác vì sự thay đổi bền vững; và 7) Hãy là một hành giả (Phật giáo), chứ không chỉ là một học viên (tr.6).

Là một nhà lãnh đạo, đặc biệt đối với những người lãnh đạo trong các cơ sở Phật giáo, người ta phải có tâm và có nền tảng vững chắc về Giáo Pháp (lời dạy của Đức Phật). Như Michael Carroll (2008) trong cuốn sách của ông, Nhà lãnh đạo có tâm, đã gợi ý mười tài năng của một nhà lãnh đạo có chánh niệm là: giản dị, đĩnh đạc, tôn trọng, can đảm, tự tin, nhiệt tình, kiên nhẫn, tỉnh thức, khéo léo và khiêm tốn. Carroll cũng cho rằng việc mang toàn bộ con người của chúng ta vào công việc: đồng bộ hóa, gắn kết toàn bộ, truyền cảm hứng cho sức khỏe và phúc lợi cho các tổ chức và thiết lập tính xác thực, tất cả kết hợp lại để xác định một nhà lãnh đạo thành công.

Hơn nữa, các nhà lãnh đạo nên sống một đời sống tinh thần và lãnh đạo bằng cách nêu gương tích cực. Đây là một nghiên cứu khác của Andre L. Delbecq (2008), giáo sư Phân tích và Quản trị Tổ chức tại Đại học J. Thomas và Kathleen L. McCarthy; và là giám đốc của Viện Tâm linh và Lãnh đạo Tổ chức tại Trường Kinh doanh Leavey của Đại học Santa. Delbecq (2008) gợi ý rằng các nhà quản lý, những người đang làm việc với ông ta, có những thay đổi tích cực thông qua thiền định và các kỷ luật tâm linh (trang 495):

  • Cải thiện khả năng lắng nghe — ít phần thống trị hơn
  • Kiên nhẫn hơn với người khác — ít phán xét và tự khẳng định mình hơn
  • Khả năng thích ứng tuyệt vời – ít muốn kiểm soát các sự kiện và những thứ khác
  • Tập trung tốt — ít bị phân tâm và lo lắng
  • Khả năng cống hiến bản thân để phục vụ thông qua công việc nhiều hơn — ít thất vọng hơn với gánh nặng và sự cáu kỉnh trong công việc
  • Nhiều hy vọng và vui vẻ hơn ngay cả khi gặp khó khăn — bớt hoài nghi và bi quan
  • Thanh thản và tin tưởng hơn về tổng thể
  • Tự tin hơn trong việc sử dụng năng lực cá nhân — hiểu biết sâu hơn về những hạn chế của bản thân, tin tưởng hơn những việc sẽ diễn ra
  • Kiên trì và siêng năng – ít rút lui và tự chủ khi bị căng thẳng.

Đối với Bạch, việc nuôi dưỡng tâm hồn của người lãnh đạo và sự trưởng thành bên trong chắc chắn rất quan trọng. Do đó, khía cạnh tinh thần của lãnh đạo là đặc biệt quan trọng và quan trọng đối với sự thành công trong bất kỳ tổ chức nào. Nói tóm lại, đã từng là một nhà lãnh đạo Phật giáo và là một nhà lãnh đạo trọn đời, ông Phẻ vẫn tiếp tục giảng dạy môn Lãnh đạo Chánh niệm cho các nhà giáo dục đồng nghiệp tại tiểu bang California và trên khắp nước Mỹ. Anh đã đào tạo hơn 3000 nhà giáo dục trong 5 năm qua (xem Phụ lục B).

Hệ thống tư duy như một con đường để duy trì hòa bình

“Chúng ta không bao giờ có thể có được hòa bình ở thế giới bên ngoài cho đến khi chúng ta sống hòa bình với chính mình.” Dalai Lama

“Niềm hy vọng sẽ sống khi mọi người còn nhớ đến nó.” Simon Wiesenthal.

Tạo ra hòa bình bền vững có thể phát triển từ việc chúng ta khám phá hai khái niệm: ‘Hòa bình là một hiện tượng năng động và hữu cơ, một hiện tượng kéo dài liên tục từ quá khứ đến hiện tại đến tương lai trong các hệ thống’ và ‘Một hệ thống sống sẽ tự tái tạo và mở ra khả năng hòa bình là trung tâm của các mối quan hệ, quy trình và bối cảnh của hệ thống.” Cả hai khái niệm đều có thể được đóng khung thông qua “tư duy hệ thống”. Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi bắt đầu khám phá cả hai, nhưng trước đó là lưu ý đến cách nào hạt giống của tiến trình hòa bình được tìm thấy trong các bài viết và phương pháp thực hành của Thích Nhất Hạnh và những người khác. Phần này kết thúc với một lưu ý về cách các hệ thống tư duy vì hòa bình là cầu nối từ thuyết U đến thuyết O (vòng tròn viên dung).

Quan trọng hơn, hãy lấy việc làm của Thiền sư Việt Nam Thích Nhất Hạnh là một ví dụ. Ngài là một nhà hoạt động vì hòa bình, một nhà văn, một nhà thơ, một học giả và một tu sĩ Phật giáo, và là người dẫn đầu trong phong trào chánh niệm. Công việc của Thiền sư Nhất Hạnh đã đưa thực hành chánh niệm vào văn hóa chính thống. Trí tuệ và sự thực hành chánh niệm của Ngài là sự chỉ dẫn và tiếp cận thực tế, điều này mang lại lợi ích cho các cá nhân, gia đình và tổ chức. Thích Nhất Hạnh (1993, 2007) nhấn mạnh: “Với chánh niệm, chúng ta nhận thức được những gì đang diễn ra trong cơ thể, cảm xúc, tâm trí của chúng ta và thế giới, và chúng ta tránh làm tổn hại đến bản thân và người khác”. Thiền sư cũng chia sẻ rằng: “Chánh niệm bảo vệ chúng ta, gia đình và xã hội của chúng ta, đồng thời đảm bảo một hiện tại an toàn và hạnh phúc cũng như một tương lai an toàn và hạnh phúc. Giới luật là biểu hiện cụ thể nhất của sự thực tập chánh niệm” (tr. 2).

Giới luật hay Sila (trong tiếng Sanskrit và Pali – ngôn ngữ cổ của Ấn Độ) là “quy tắc ứng xử bao gồm cam kết hòa hợp và tự kiềm chế với động cơ chính là bất bạo động hoặc tự do không gây tổn hại” (Bodhi, 2005). Nó có thể được mô tả theo nhiều cách khác nhau như đức hạnh (Gethin, 1998, trang 170; Harvey, 2007, trang 199), ứng xử đúng đắn (Gethin (1998), trang 170), đạo đức (Gombrich, 2002, trang 89; Nyanatiloka, 1988, và Saddhatissa, 1987, trang 54, 56), giới luật (Bodhi, 2005, trang 153) và giới luật.

Trong cuốn sách của mình, “Vì một tương lai có thể thành hiện thực: Đạo đức của người Phật tử đối với cuộc sống hàng ngày”, ngài khuyến khích chúng ta thực hành những giới luật mà chúng ta đã tuân thủ. Năm giới căn bản nhất của thời xưa (không sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối hoặc dùng rượu / chất nghiện) vẫn được áp dụng cho tất cả các Phật tử ngày nay (Bodhi, 2005; Thich, 1993, 2011). Thích Nhất Hạnh (Thích 1993, 2007, 2011) đã dịch những giới luật này một cách khéo léo và từ bi cho thời hiện đại của chúng ta và gọi chúng là “Năm sự rèn luyện chánh niệm”. Theo Thiền sư, chúng “đại diện cho tầm nhìn của Phật giáo về một tâm linh và đạo đức toàn cầu. Chúng là sự thể hiện cụ thể những lời dạy của Đức Phật về Tứ diệu đế và Bát chánh đạo, con đường của sự hiểu biết đúng đắn và tình yêu thương chân chính, dẫn đến chữa lành, chuyển hóa và mang lại hạnh phúc cho bản thân và cho thế giới”.

Ngoài ra, Thích Nhất Hạnh (Thích 1993, 2007, 2011) chỉ ra rằng “thực hành Năm phép tu tập Chánh niệm là để trau dồi cái nhìn sâu sắc về hiện-tại-đang-diễn-ra, hay Chánh kiến, có thể xóa bỏ mọi phân biệt, cố chấp, giận dữ, sợ hãi và tuyệt vọng.” Năm giới cổ xưa đã được điều chỉnh cho phù hợp với thời hiện đại của chúng ta dưới nhãn quan của Thích Nhất Hạnh với tên gọi Năm khóa rèn luyện chánh niệm. Chúng như sau:

Phương pháp huấn luyện chánh niệm thứ nhất – Đây là Giới Thứ Nhất: Bảo Vệ Sự Sống

Ý thức được những khổ đau do sự giết hại gây ra, con nguyện thực tập nuôi dưỡng tuệ giác Tương tức và lòng Từ bi, để có thể bảo vệ sự sống của mọi người, mọi loài và môi trường sống. Con nguyện không giết hại, không để kẻ khác giết hại và không tán thành bất cứ một hành động giết hại nào trên thế giới, dù là trong tâm tưởng hay trong cách sống hằng ngày của con. Thấy được rằng tất cả những bạo động do sợ hãi, hận thù, tham vọng và cuồng tín gây ra đều bắt nguồn từ cách tư duy lưỡng nguyên và kỳ thị; con nguyện học hỏi thái độ cởi mở, không kỳ thị, không cố chấp vào bất cứ một quan điểm, một chủ thuyết hay một ý thức hệ nào để có thể chuyển hóa hạt giống cuồng tín, giáo điều và thiếu bao dung trong con và trên thế giới.

Phương pháp huấn luyện chánh niệm thứ hai – Đây là Giới Thứ Hai: Hạnh Phúc Chân Thật

Ý thức được những khổ đau do lừa gạt, trộm cướp, áp bức và bất công xã hội gây ra, con nguyện thực tập chia sẻ thời giờ, năng lực và tài vật của con với những kẻ thiếu thốn, trên cả ba phương diện: tư duy, nói năng, và hành động trong đời sống hằng ngày. Con nguyện không lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải do mình tạo ra. Con nguyện thực tập nhìn sâu để thấy được hạnh phúc và khổ đau của người kia có liên hệ mật thiết đến hạnh phúc và khổ đau của chính con. Con biết hạnh phúc chân thực không thể nào có được nếu không có hiểu biết và thương yêu, trong khi đó đi tìm hạnh phúc bằng cách chạy theo quyền lực, danh vọng, giàu sang và sắc dục có thể đem lại nhiều hệ lụy và tuyệt vọng. Con ý thức được hạnh phúc chân thực phát sinh từ cách nhìn của con mà không phải từ bên ngoài đem tới. Thực tập tri túc giúp con sống hạnh phúc được ngay trong giây phút hiện tại để nhận diện những điều kiện hạnh phúc mà con đang có. Con nguyện thực tập Chánh mạng để có thể làm giảm thiểu khổ đau của mọi người, mọi loài, bảo hộ được trái đất và chấm dứt những nguyên nhân gây biến đổi khí hậu bất thường.

Phương pháp luyện chánh niệm thứ ba – Đây là Giới Thứ Ba: Tình Thương Đích Thực

Ý thức được những khổ đau do thói tà dâm gây ra, con nguyện thực tập theo tinh thần trách nhiệm để giúp bảo hộ tiết hạnh và sự an toàn của mọi người, mọi gia đình và xã hội. Con biết tình dục và tình yêu là hai cái khác nhau. Những liên hệ tình dục do sự thèm khát gây nên luôn mang tới những hệ lụy và đổ vỡ cho con và cho người khác. Con nguyện không ăn nằm với bất cứ ai nếu không có tình yêu đích thực và những cam kết chính thức lâu dài. Con sẽ làm mọi cách để bảo vệ trẻ em, không cho nạn tà dâm tiếp tục gây nên sự đổ vỡ của các gia đình và của đời sống đôi lứa. Con nguyện học hỏi những phương pháp thích ứng để chăm sóc năng lượng tình dục trong con, để thấy được sự thật thân tâm nhất như và nguyện nuôi lớn các đức Từ, Bi, Hỉ và Xả, tức là những yếu tố căn bản của một tình yêu thương đích thực, làm tăng trưởng hạnh phúc của con và của người khác. Con biết thực tập Tứ vô lượng tâm, con sẽ được tiếp tục đẹp đẽ và hạnh phúc trong tương lai.

Phương pháp huấn luyện chánh niệm thứ tư – Đây là Giới Thứ Tư: Ái Ngữ và Lắng Nghe (Lời nói yêu thương và Lắng nghe sâu sắc)

Ý thức được những khổ đau do lời nói thiếu chánh niệm và thiếu khả năng lắng nghe gây ra, con nguyện học hạnh Ái ngữ và Lắng nghe để có thể hiến tặng niềm vui cho người và làm vơi bớt nỗi khổ đau của người. Con nguyện tìm cách đem lại an bình và hòa giải giữa mọi người, giữa các quốc gia, chủng tộc và tôn giáo. Biết rằng lời nói có thể đem lại hạnh phúc hay khổ đau cho người, con nguyện học nói những lời có khả năng gây thêm niềm tự tin, an vui và hi vọng, những lời chân thật có giá trị xây dựng hiểu biết và hòa giải. Con nguyện không nói gì khi cơn giận đang có mặt trong con. Con nguyện tập thở và đi trong chánh niệm để nhìn sâu vào gốc rễ của cơn giận ấy, để nhận diện những tri giác sai lầm trong con và tìm cách hiểu được những khổ đau trong con và trong người mà con đang giận. Con nguyện học nói sự thật và lắng nghe sâu để có thể giúp người kia thay đổi và vượt thoát những khó khăn đang gặp phải. Con nguyện không loan truyền những tin mà con không biết chắc là có thật, không nói những điều có thể tạo nên sự bất hòa trong gia đình và trong đoàn thể. Con nguyện thực tập Chánh tinh tấn để nuôi dưỡng khả năng hiểu biết, thương yêu, hạnh phúc và không kỳ thị nơi con, để làm yếu dần những hạt giống bạo động, hận thù và sợ hãi mà con đang có trong chiều sâu tâm thức.

Phương pháp huấn luyện chánh niệm thứ năm – Đây là Giới Thứ Năm: Nuôi Dưỡng và Trị Liệu (Chế độ ăn uống cho một xã hội tri thức)

Ý thức được những khổ đau do sự tiêu thụ thiếu chánh niệm gây nên, con nguyện học hỏi cách chuyển hóa thân tâm, nuôi dưỡng sức khỏe cơ thể và tâm hồn bằng cách thực tập chánh niệm trong việc ăn uống và tiêu thụ. Con nguyện nhìn sâu vào bốn loại thực phẩm là đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực và thức thực để tránh tiêu thụ những thực phẩm độc hại. Con nguyện không uống rượu, không sử dụng các chất ma túy, không ăn uống hoặc tiêu thụ bất cứ một sản phẩm nào có độc tố, trong đó có mạng lưới toàn cầu, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình, sách báo, bài bạc và chuyện trò. Con nguyện thực tập thường xuyên trở về với giây phút hiện tại để tiếp xúc với những gì tươi mát, có khả năng nuôi dưỡng và trị liệu trong con và xung quanh con mà không để cho tiếc nuối và ưu sầu kéo con trở về quá khứ; không để lo lắng và sợ hãi kéo con đi về tương lai. Con nguyện không tiêu thụ chỉ để khỏa lấp khổ đau, cô đơn và lo lắng trong con. Con nguyện nhìn sâu vào tự tính tương quan tương duyên của vạn vật để học tiêu thụ như thế nào mà duy trì được an vui trong thân tâm con, trong xã hội, và trong môi trường sống.

Một hạt giống khác của sự lãnh đạo chánh niệm là thân giáo, dẫn dắt bằng gương sáng của mình. Hoà thượng Thích Minh Đạt (2011) tin rằng lãnh đạo ảnh hưởng bởi: 1) Truyền đạt thông qua hành động hoặc cách cư xử của bạn. Người ta phải sống một cuộc sống tâm linh và có đạo đức. Mang lại lợi ích cho bản thân và mang lại lợi ích cho người khác, từ đó tạo ảnh hưởng và đóng góp tích cực cho cộng đồng và xã hội của chúng ta. 2) Giảng dạy bằng lời nói yêu thương: tìm kiếm sự hiểu biết và trí tuệ. 3) Giảng dạy bằng cách thực hành Bát Chánh Đạo: Đầu tiên là Chánh niệm: tư duy của bạn phải mang tính xây dựng và luôn dựa trên những lời dạy của Đức Phật – Từ bi và Trí tuệ.

Để nhấn mạnh điểm này, người ta nên sống phù hợp với lời dạy của Bậc giác ngộ, Đức Phật. Tác giả đưa điều đó vào thực tiễn cuộc sống hàng ngày của mình. Ngài đang áp dụng và triển khai bằng cách giảng dạy nhiều khóa hội thảo cho giáo viên ở bang California. Một số hội thảo được đề cập là Lãnh đạo có Tư duy: Hội thảo Phát triển Chuyên môn dựa trên Chánh niệm dành cho Tất cả các Nhà giáo dục; Khoa học thần kinh của Chánh niệm: Nghệ thuật để trau dồi sự hiểu biết, sự tôn trọng, thành công trong học tập và sức khỏe xã hội-tình cảm; Chánh niệm trong lớp học; Sự quan tâm; Lãnh đạo có Tâm: Thực hành Chánh niệm cho một Lớp học Bình đẳng, An toàn về Tình cảm; Lãnh đạo có Tâm: “Chuẩn bị sẵn sàng” và “Làm tốt mỗi ngày” theo tinh thần của người Mỹ gốc Việt; và Kỹ năng cảm xúc xã hội cho cuộc sống.

Do đó, nếu chúng ta biết rằng hòa bình tăng lên từ bên trong các buổi thực hành chánh niệm hàng ngày của mỗi cá nhân, chúng ta không còn băn khoăn tự hỏi làm thế nào hệ thống mà con người tạo ra có thể trở thành máy phát ra những bối cảnh hòa bình lớn hơn. Điều gì tạo nên một “hệ thống” mà chúng tôi định nghĩa rất rộng – bất kỳ thiết kế nào do con người tạo ra để đáp ứng nhiều mục đích, có thể là tinh thần, chính trị, từ thiện, tài chính, v.v. Vậy làm thế nào để “hòa bình có thể là một hiện tượng năng động và hữu cơ, một hiện tượng liên tục chảy từ quá khứ đến hiện tại đến tương lai – trong các hệ thống?”

Trước tiên, chúng ta phải nhìn thấy các hệ thống trong tổng thể và biết rằng chúng là hữu cơ và đang sống. Mặc dù có nhiều phép ẩn dụ để nhìn từ những góc nhìn rộng, nhưng “góc nhìn ban công” giúp chúng ta học cách nhìn và biết hệ thống về tất cả sự phức tạp, động lực tăng trưởng và dường như trì trệ của hệ thống. Tuy nhiên, để trở thành một “nhà tư tưởng hệ thống”, chúng ta phải tạm dừng các phán đoán của mình về hệ thống, đặc biệt nhất là về những người trong đó. Chúng ta không thể nhìn thấy và tham gia vào một hệ thống hữu cơ, sống động nếu chúng ta bị những “điểm mù” hạn chế, chỉ nhìn vào những gì đã có trong hệ thống và nhìn vào những yếu tố của con người trong đó. Điều này dẫn đến “những thất bại tập thể” được mô tả rất rõ trong các tác phẩm của Scharmer. Nhìn từ ban công, nhìn mà không phán xét cung cấp cho chúng ta tầm nhìn từ ban công và mở ra khả năng đi lên phía bên phải của Thuyết U để đồng sáng tạo và đồng phát triển với những người khác trong “hệ thống hòa bình”.

Nếu có sự tuần hoàn ở đây, thì đó là điều này: Để nhìn từ ban công, ngưng các phán đoán của chúng ta, để đồng sáng tạo và đồng tiến hóa với người khác, chúng ta phải duy trì thực hành chánh niệm của mình. Làm như vậy chính là “hạt giống của việc làm gương” (Thích Nhất Hạnh). Đối với những nhà lãnh đạo sẽ cùng phát triển với những người khác trong một hệ thống để đạt được hòa bình bền vững, Tiến sĩ Phẻ Bạch đã nhắc nhở chúng ta rằng “Nhà lãnh đạo có tâm là người dẫn dắt từ trong ra ngoài bằng sự hiểu biết, từ bi và trí tuệ”. Các hệ thống có thể được chuyển đổi vì hòa bình bền vững bởi con người trong các hệ thống. Và do đó, con người trong hệ thống cũng có “ac lạc trong từng bước chân” – mượn cụm từ của Thích Nhất Hạnh. Bằng cách đó, chúng tôi hiểu rằng “một hệ thống sống sẽ tự tái tạo và mở ra khả năng hòa bình trở thành trung tâm của các mối quan hệ, quy trình và bối cảnh của hệ thống”.

Là những nhà lãnh đạo giàu lòng nhân ái với tầm nhìn bao quát một hệ thống, chúng ta có thể cùng phát triển với những người khác để tạo ra những hệ thống thể hiện hòa bình bền vững. Điều đó chúng ta có thể làm bằng cách chuyển qua “Thuyết U” để tạo ra các nguyên mẫu của các hệ thống mới nổi dựa trên nền tảng hòa bình và lòng trắc ẩn. Tạo ra các nguyên mẫu cho hòa bình và đánh giá chúng, như sẽ được thực hiện thông qua Thuyết U, không phải là một quá trình kết thúc. Chế độ xem và thực hành ban công của chúng ta sẽ luôn liên tục, xoay tròn và xuôi theo dòng như được tạo ra trong Thuyết O (vòng tròn viên dung).

Ôm chặt dòng chảy liên tục

“Sống 24 giờ với chánh niệm đáng giá hơn sống 100 năm mà không có nó.” – Đức Phật

 Thuyết “O” là sự tiếp nối của dòng chảy BuddhaDharma này. Chữ O không có đầu hay cuối. Nó biểu tượng cho sự trọn vẹn hay toàn vẹn và cuối cùng là sự trống rỗng. Như Watson (2014) đã nói, “một triết lý về tính không giúp chúng ta thừa nhận sự vô thường, sự ngẫu nhiên và cảm giác bi thảm của cuộc sống và phát triển thịnh vượng trên con đường trung gian giữa sự phủ nhận và sự xao lãng vô tâm và sự mất giá trị hư vô”. Một nét đẹp của thuyết chữ O là trung tâm của nền tảng của bất kỳ nguyên tắc Tam hợp nào trong Phật giáo như Phật, Pháp, Tăng; (Phật Pháp Tăng); Tam muội đào tạo / Tam Vô Lậu Học (Giới Định Tuệ): Đức hạnh cao thượng (adhisīla-sikkhā), Tâm hồn cao thượng (adhicitta-sikkhā), Trí tuệ cao thượng (adhipaññā-sikkhā); Bi-Trí-Dũng (Từ bi – Trí tuệ – Dũng cảm). Thuyết “O” có các giá trị cốt lõi là chánh niệm, tình yêu, sự hiểu biết, kiên trì, siêng năng, quyết tâm, hòa hợp, tin cậy, đáng tin cậy, vui vẻ, biết ơn, chính trực, trung thực và trách nhiệm.

 Theo truyền thống Phật giáo Nguyên thủy, việc theo đuổi Tam vô lậu học, như Thanissaro Sutra (trans.) (1998b) dịch từ văn bản Phật giáo có thể dẫn đến việc từ bỏ dục vọng, hận thù và si mê. Cuối cùng, bất cứ ai hoàn thành đầy đủ trong việc tu học này sẽ đạt được Nibbana (Niết bàn).

 Thuyết “O” có 8 thành phần, giống như Bát Chánh Đạo; những thành phần này là: nhận thức, chấp nhận, ôm ấp, học hỏi, thực hành, chuyển đổi, chia sẻ, tái tưởng tượng.

  1. Nhận thức: Đầu tiên và trên hết, chúng ta phải nhận thức rõ ràng hoặc nhận ra mọi thứ như nó đang ở trong hiện tại. Chúng ta cần thừa nhận rằng hòa bình bên trong tạo ra vẻ đẹp bên ngoài, và hòa bình bên trong là nền tảng cho một xã hội hài hòa hơn. Người ta phải nhìn nhận như vậy. Ví dụ, loài người sẽ không thể giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu và / hoặc hiện tượng hâm nóng toàn cầu nếu chúng ta phủ nhận điều đó. Chúng ta phải nhìn nhận rằng các hoạt động của con người là yếu tố chính dẫn đến cuộc khủng hoảng này. Chúng ta phải nhìn nhận và kiểm tra ở cả tầm vi mô và vĩ mô.

 Như thể một nhà hóa học nhận ra rằng mọi thứ đều được cấu tạo từ các tiểu phân nhỏ hơn và thậm chí là các hạt cơ bản và các thành phần cơ bản này tương tác và hoạt động như thế nào với nhau. Nhìn vào đại dương ngay từ cái nhìn đầu tiên, chúng ta có thể thấy nước, không gian, đường bờ biển và sự bao la của nó. Nhưng đó chỉ là cái nhìn vĩ mô của mọi vấn đề, ở cái nhìn vi mô, nó là tất cả sự liên kết hay có liên hệ với nhau, lực liên phân tử và lực hút giữa các phân tử. Chúng ta phải có một phương pháp tiếp cận khoa học để giải quyết bất kỳ vấn đề nào và ngay cả khi vấn đề đó bắt đầu với sự thừa nhận rằng chúng ta có vấn đề, và cần phải giải quyết nó. Chúng ta nhận ra rằng chúng ta có vấn đề, có trở ngại và chúng ta cần phải nêu rõ vấn đề đó để chúng ta có thể làm cho mọi thứ tốt hơn cho chúng ta.

  1. Chấp nhận: Sau thời gian nhận ra, người ta phải chấp nhận thực tế để có thể tiến tới. Chấp nhận là nghệ thuật của sự thoải mái. Ví dụ, nếu chúng ta không chấp nhận thực tế là không có hiện tượng nóng lên toàn cầu, thì chúng ta sẽ không thể tìm kiếm giải pháp.
  2. Ôm ấp – Đón nhận: Như Từ điển Merriam-Webster đặt nó, “embrace” là ‘ôm (ai đó) thật chặt trong vòng tay của mình, đặc biệt như một dấu hiệu của tình cảmchấp nhận (một niềm tin, thuyết, hoặc sự thay đổi) một cách sẵn sàng và nhiệt tình; kể cả hoặc chứa (một cái gì đó) như một bộ phận cấu thành.’ Dù là gì đi nữa, người ta phải sẵn lòng ôm ấp người khác như thể họ là một đứa trẻ đang khóc, trước hết người ta phải bế nó lên và vỗ về.
Tái tưởng tượng; Nhận thức; Chia sẻ; Chấp nhận; Chuyển hoá; Ôm ấp-Đón nhận; Thực hành; Học hỏi.
Thuyết O – Biến đổi bản thân, biến đổi tổ chức và xã hội
  1. Học hỏi: Như Từ điển Merriam-Webster định nghĩa, đó là “việc thu nhận kiến ​​thức hoặc kỹ năng thông qua học tập, trải nghiệm hoặc được giảng dạy.”

Trong thời kỳ thay đổi nhanh chóng và không chắc chắn, các nhà lãnh đạo phải đối mặt với những thứ phức tạp, những thứ sẽ và đang thách thức hòa bình. Chỉ nhìn thấy và phản ứng với các phần cụ thể của hệ thống dẫn đến các phản ứng phân mảnh để giải quyết các vấn đề tức thì. Bằng cách nhìn nhận và gắn bó với hệ thống như một tổng thể hữu cơ, người lãnh đạo có thể cùng tạo ra hòa bình bền vững. Việc hiểu rằng một hệ thống sống luôn tự tái tạo sẽ mở ra khả năng hòa bình và trở thành trung tâm trong các mối quan hệ, quá trình và bối cảnh của hệ thống.

  1. Thực hành: Như Từ điển Merriam-Webster đã định nghĩa rằng ‘quyết tâm theo đuổi hoặc dấn thân vào một nghề cụ thể, một công việc hay một lối sống’

Hòa bình bền vững neo giữ chính nó trong chánh niệm về hiện tại, con người và các mô hình thu nhỏ mà chúng ta sống. Thay vì tồn tại như một trạng thái tĩnh, hòa bình là hữu cơ và năng động, tự nó chảy quanh những mơ hồ của “sự thiếu vắng hòa bình”. Vì vậy, trở thành một nhà lãnh đạo có chánh niệm bắt đầu bằng việc thực hành Bát Chánh Đạo và tìm kiếm sự bình an trong bản thân và tiếp tục điều đó bằng cách thể hiện sự bình an mỗi ngày. Đây là mầm sống cho các hệ thống và hoàn cảnh có thể duy trì hòa bình lâu dài.

  1. Chuyển hoá: Như Từ điển Merriam-Webster đã định nghĩa, ‘thực hiện một sự chuyển đổi rõ rệt về hình thức, bản chất hoặc diện mạo của’, sau các giai đoạn học tập và thực hành, người ta phải chuyển đổi thành tốt hơn, từ tiêu cực thành tích cực. Chuyển hóa là nghệ thuật của sự tiến bộ. Không có nó, đơn giản là không có sự phát triển và thăng tiến.
  2. Chia sẻ: Bước tiếp theo sau khi chuyển hóa là nghệ thuật chia sẻ để đảm bảo rằng người khác thậm chí còn tốt hơn chính mình, như trong Quy tắc vàng. Khái niệm Paying It Forward của người Mỹ (câu tục ngữ, giống như nói “giúp ai đó rồi sẽ có người khác giúp lại mình”) là vô giá và khiến thế giới trở thành một nơi tốt đẹp hơn để sống.
  3. Tái tưởng tượng: Cuối cùng, khái niệm về sự trọn vẹn hay toàn vẹn là rất cần thiết trong cuộc sống con người của chúng ta. Chúng ta chỉ là những du khách đến hành tinh này; chúng ta sẽ đến và đi giống như những người khác, những gì chúng ta để lại là di sản của riêng chúng ta. Vì vậy, chúng ta phải làm tất cả những gì có thể khi chúng ta còn ở đây trên Trái đất để làm cho thế giới này trở nên hài hòa, hòa bình và tử tế hơn để con cháu chúng ta có thể sống và phát triển vượt bậc. Như vậy là toàn bộ vòng tròn đã hoàn chỉnh. Nhưng chúng ta cần tái tưởng tượng để tiếp tục công cuộc giáo hoá vì mọi sự không có bắt đầu và kết thúc trong thời gian và không gian vô cùng.

Thuyết chữ O này là một phương cách tỉ mỉ để nhắc nhở mọi người rằng chúng ta cần phải sống trong thời điểm hiện tại, không lo lắng về tương lai vì nó chưa đến và cũng như không để mắc kẹt trong quá khứ. Với chánh niệm và thiền định, sử dụng hơi thở làm mỏ neo, giúp chúng ta tập trung vào khoảnh khắc hiện tại và cho phép chúng ta hiện diện hoặc ‘định trước’ như trong thuyết chữ U. Cần phải thực hành để rèn luyện tâm trí của chúng ta để có được sự hiện diện trong hiện tại. Các phương pháp thực hành làm cho tâm trí ta tốt hơn theo thời gian, giống như các tế bào thần kinh có thể được quấn lại và ‘các tế bào thần kinh dẫn truyền với nhau sẽ kết nối với nhau’; nói cách khác, ‘những gì bạn thực hành sẽ phát triển mạnh mẽ hơn’, bao gồm chánh niệm, hòa bình và các giá trị nội tâm. Như trong bài viết của Thượng toạ Giáo sư Tiến sĩ Phramaha Hansa Dhammahaso, Giám đốc Văn phòng Hiệp hội Quốc tế các trường Đại học Phật giáo đã công nhận rằng hòa bình mang lại lòng nhân ái, hạnh phúc, đoàn kết và hòa hợp cho con người và xã hội.

Ngoài ra, tác giả chính của bài này đã viết một bài báo ngắn có tiêu đề: CHANGE: FEAR ME NOT – EMBRACE ME (Đừng sợ tôi- Hãy ôm tôi). Năm suy nghĩ về việc thúc đẩy sự thay đổi, đó là một ví dụ về dòng chảy liên tục này. (Phụ lục C), như thể không có bắt đầu và không có kết thúc.

Phần kết luận

Kết luận dự kiến ​​sẽ được rút ra từ bài báo này là để hiểu kinh nghiệm sống, niềm tin, thực hành và phong cách lãnh đạo và thực hành hàng ngày của chúng ta. Hòa bình, chánh niệm và chuyển hóa đang xảy ra bởi vì sự lựa chọn không phải do ngẫu nhiên. Khi suy ngẫm về Thuyết U, chúng ta học cách “buông bỏ” để “đón nhận” và chúng ta học cách “hiện hữu” – trạng thái vừa hiện hữu trong hiện tại vừa cảm nhận được những gì có thể xảy ra trong tương lai. Bằng cách đó, chúng ta tham gia vào Thuyết O – một vòng tròn hoàn chỉnh.

Thuyết O cũng cho thấy một quan niệm mạnh mẽ nhưng đơn giản: Làm một người tĩnh tốt hơn là một người động. Điều chính yếu trong phong cách lãnh đạo của các nhà sư Phật giáo Việt Nam là sự thực hành hàng ngày của họ đã làm thay đổi cuộc sống của những người trong cộng đồng của họ. Đó là ý tưởng sống từ trong ra ngoài; nó là ý tưởng của hòa bình. Các phát hiện cho thấy phong cách lãnh đạo này dựa trên sự khôn ngoan, hiểu biết, thực hành, bình tâm, hài hòa và từ bi. Tất cả những yếu tố này gắn liền với một sự hiện hữu có hòa bình.

Vì vậy, chúng ta có thể sống, “Ba con đường đan xen dẫn đến hòa bình bền vững”. Chúng ta có thể học và duy trì hòa bình dựa trên thực hành chánh niệm. Tư duy hệ thống có thể là một con đường để duy trì hòa bình. Chúng ta có thể sống và nắm lấy dòng chảy liên tục của Thuyết O (vòng tròn viên dung). Duy trì hòa bình thông qua ba con đường này có thể là điều tốt nhất cho nhân loại chúng ta.

___________

Lời cảm ơn: Xin gửi lời cảm ơn trân trọng đặc biệt đến hai vị hôn thê của chúng tôi, Nguyễn Thị Thanh Trang và Chris Bureau. Cảm ơn bạn Keith Carmona, giáo viên tiếng Anh chương trình International Baccalaureate của Trường Trung học Mira Loma, đã đọc bài nghiên cứu này.


Appendix A: Mindful Leadership.

Leading From Compassion

Flowing in Dr. Phe Xuan Bach’s prose and poetry are notions of intentional mindfulness within ourselves and with others. Such is the core of leadership that is being always present in this moment that we share with others. Mindful leadership is existential in nature, both timely and timeless.

A practicing Buddhist, Dr. Bach weaves the Dharma into both a concept and practice of leadership that transcends the common definitions of it in the West. In mindful leadership, we lead from the inside out, practicing the five “arts of living” as described in “The Art of Living According to Spirited Leaders.” Becoming a mindful leader is nurtured through daily meditation, a practice that grounds us with equanimity.

Of the Western interpretations of leadership, Dr. Bach’s intersects with servant leadership but deepens how we might understand and practice it through mindfulness, forgiveness, and peace. Such is reflected in his poem, “Leading By Example Leadership.” As leaders we embody what we would teach others, such as the practices of mindfulness that Dr. Bach teaches to Buddhist youth. We become examples of mindful leaders, as discussed in his article “Leading By Example – A Buddhist Approach in Leadership and Ethics.”

Looking outward, we lead with compassion, avoiding the mistakes of leading without it, so aptly described in Dr. Bach’s paper, “Learning from the Mistakes of Others – Leading Without Compassion.” We lead with the realizations that humans are beautifully complex and that what we do together are social endeavors. Our moments together seek harmony that springs from the wells of empathy and of suspending judgment about each other.

Leading ourselves and others through change, metaphorically, is the water in the river flowing around the rocks, always moving, always flowing. We learn to embrace change and let go of what we cannot control, a notion reflected in “Change: Fear Me Not – Embrace Me.” As mindful leaders our daily practice helps us find a constancy in the milieu of change and a peace in helping others navigate what would seem to be troubling waters.

A phenomenologist, Dr. Bach’s research focuses on the spiritual leadership roles of Vietnamese Buddhist monks in America. Emerging from their voices and his interpretations are the constructs and practices of mindful leadership, the threads of which appear in his writings here. Most recently, Dr. Bach presented his research at the United Nations Day of Vesak, 2015, in Bangkok, Thailand.

The universality of Dr. Bach’s conceptualization of compassionate, mindful, and peace-based leadership transcends time, nations, and contexts; it may move us toward completeness within ourselves and without with others. May the poems and prose within this collection give us pause for reflection and transformation.

W. Edward Bureau, PhD
Philadelphia, Pennsylvania
July 2015

 Appendix B:  Workshops and Presentations

Workshops and Presentations since July 2018

  1. March 23, 2019 California Teachers Association Good Teaching Conference South, San Garden Grove, CA
  2. March 16, 2019 – National Teachers Association, Leadership Summit Conference, Denver, CO.
  3. March 01, 2019 – CTA Equity and Human Rights Conference, San Jose, CA
  4. Feb 02, 2019 – California Teachers Association Good Teaching Conference North, San Jose, CA
  5. January 07, 2019 – SJUSD Professional Development for Elementary Educators at Fair Oaks Presbyterian Church, Carmichael, CA.
  6. November 13, 2018 – University of Girona, International Conference, Girona, Spain.
  7. November 09, 18 – SJUSD Professional Development for High School Educators at El Camino High School
  8. October 18, 2018. Presented at Plaza Vista School, Irvine, CA. https://www.sbtn.tv/tag/bach-xuan-phe/
  9. October 13, 2018. Presented at Cordelia Instructional Leadership Conference 2018, Vacaville, CA
  10. August 7, 2018. Presented at the CampEd 3 for Colton Joint Unified School District at Grand Terrace High School, Grand Terrace, CA. (2 sessions and more than 100 people showed up). A Vietnamese newspaper, wrote about this too. https://www.sbtn.tv/tien-si-bach-xuan-phe-gioi-thieu-loi-ich-thuc-tap-tinh-thuc-tai-hoc-khu-colton-joint/
  11. July 27, 2018 – Facilitator for CA Better Together Teacher Summit, Sacramento State University, Sacramento, CA.

San Juan Quarterly Workshops:

  1. Course Title: SJTA Offerings – MINDFUL LEADERSHIP:  A MINDFULNESS-BASED WORKSHOP FOR EDUCATORS

Course Code:    47 SRN:  1940247901

Session Dates: 09/18/18 @ 04:00 PM; 10/02/18;

01/22/2019 and 01/29/2019 @ 04:00 PM

Location: SJTA – 5820 Landis Avenue; Suite 1. Carmichael, CA  95608

Registrant Notes:

Must attend all (2) sessions to receive 6 credits.  No partial credit will be given.

  1. Course Title: SJTA Offerings. ADVANCED MINDFUL LEADERSHIP:

A MINDFULNESS-BASED WORKSHOP FOR EDUCATORS

Course Code:    47 SRN:   1940247905

Session Dates: 10/24/18 @ 04:00 PM; 11/07/18 @ 04:00 PM

03/06/2019 and 03/13/2019 @ 04:00 PM

Location: SJTA – 5820 Landis Avenue; Suite 1. Carmichael, CA  95608

Registrant Notes:

This workshop continues mindfulness training in greater depth. Practice of the research and practices of the mindfulness-based approach for use in the classroom will continue. Mindfulness helps teachers and students manage their emotional and mental stress, create well-being and refresh their energy. Its aim is to transform individuals and the classroom climate, while building and nurturing positive interpersonal relationships.

Must attend all (2) sessions to receive 6 credits.  No partial credit will be given.

 Appendix C: A Sample of Embracing Continual Flow

CHANGE: FEAR ME NOT – EMBRACE ME

Five thoughts on fostering change

“The universe is the echo of our thoughts and our actions.” The Dalai Lama

Most people are resistant to change. This is true for any society and for people from all walks of life.  Change requires more work, commitment and energy; and we often prefer the path of least resistance.  We enjoy being in our comfort zones, and tend to fear change, because it brings uncertainty and leads us into the unknown. Perhaps the greatest fear of all is the fear of the unknown.  Fear is natural, but if we recognize and embrace it, we can transform it into something positive and productive.

Like hatred and prejudice, fear is a very strong emotion, thus it can produce an enormous amount of energy.  That energy can be very destructive. We need to pause, reflect and recognize it.  In doing so, we will see that the cause of fear is the unknown. The people who fear change the most often feel insecure, unprepared and inadequate to conquer new endeavors. Sometimes, change makes them feel like victims and out of control. But in reality, we are in full control.

While we can’t control anyone else’s thoughts, speech, actions or emotions, we can control our own. Controlling our own thoughts, speech, actions and emotions is the first step when facing change. Once we recognize and face change with mindfulness, we can embrace and transform it. Here are the five thoughts that can foster change.

  1. Lay a foundation of compassion/love with a moral purpose
  2. Control your own emotions and well-being
  3. Be sincere with regard to your intention and mission
  4. Have confidence in your own abilities and flexibility
  5. Harvest the labor of love and be proud of the work you do

Nurturing change is the process of planting the seeds of compassion for the greater good. To put it succinctly, change is like a wild plant, it is easier to grow or react negatively. But it takes a lot of time and love to mold something unpleasant into something beautiful like a bonsai.  Changes present a great opportunity for fulfillment.  When we challenge ourselves, the end-result can potentially be extremely satisfying and beneficial for all.  So, why be fearful? Life is a constant process of change—it is impermanence.  Embrace and enjoy the beauty of it.

References

1.  Bach, P. (2015). An Essence Of Mindful Leadership: Learning Through Mindfulness And Compassion. LAP LAMBERT Academic Publishing, Germany.

  1. Bach, P. X. (2014). Mindful Leadership – A Phenomenological Study of Vietnamese Buddhist Monks in America with Respect to their Spiritual Leadership Roles and Contributions to Society. (Doctoral dissertation, Drexel University).
  2. Bass, B. M., & Steidlmeier, P. (1998). Ethics, character, and authentic transformational leadership. Retrieved from http://cls.binghamton.edu/bassSteid.html
  3. Bhikkhu, T. (1997). The healing power of the precepts. Retrieved from http://www.accesstoinsight.org/lib/authors/thanissaro/precepts.html
  4. Black, D. S., & Fernando, R. (2014). Mindfulness training and classroom behavior among lower-income and ethnic minority elementary school children. Journal of Child and Family Studies23(7), 1242-1246.
  5. Bhikkhu, Thanissaro (trans.) (1998b). AN 3.89: Sikkha Sutta – Trainings (2). Available on-line at http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/an/an03/an03.089.than.html.
  6. Bodhi, B. (2005). In the Buddha’s words – An anthology of discourses from the Pali Canon, – Wisdom Publications.
  7. Boorom, R. (2009). Spiritual leadership: A study of the relationship between spiritual leadership theory and transformational leadership. (Doctoral dissertation). Available from Proquest Dissertations and Theses database. (UMI No. 3377759).
  8. Carroll, M. (2008). The Mindful Leader: Awakening Your Natural Management Skills Through Mindfulness Meditation, Trumpeter.
  9. Dalai Lama. (1999). Ethics for the new millennium. New York: Riverhead Books.
  10. Dalai Lama. (2011). Beyond religion-Ethics for a whole world. Boston: Houghton Mifflin Harcourt.
  11. Dhammahaso, H. (2015). Buddhism and World Crisis. The 12th International Buddhist Conference on the United Nations Day of Vesak 2015. 28-30 May, 2015. Bangkok, Thailand.
  12. Deer Park Monastery. (2014). Thich Nhat Hanh: Biography of our teacher Thich Nhat Hanh. Retrieved from http://deerparkmonastery.org/about-us/thich-nhat-hanh
  13. DeVost, R. (2010). Correlation between the leadership practices of lead ministers and the workplace spirituality of their churches as reported by church members. Available from Proquest Dissertations and Theses database. (UMI NO. 3454721)
  14. Fox, M. (2014). Understanding Peace. New York: Routledge.
  15. Kabat-Zinn, J. (1999). Full catastrophe living: Using the wisdom of your body and mind to face stress, pain and illness. New York: Bantam Doubleday Dell Publishing Group, Inc.
  16. Kabat-Zinn, J. (2003). Mindfulness-based interventions in context: Past, present and future. Clinical Psychology: Science and Practice10(2), 144-156.
  17. Kouzes, J. M., & Posner, B. Z. (1995). The leadership change: How to keep getting extraordinary things done in organization. San Francisco: Jossey-Bass.
  18. Marques, J. (2010). Spirituality, meaning, interbeing, leadership, and empathy: SMILE. Interbeing, 4(2), 7.
  19. Northouse, P. (2004). Leadership theory and practice (3rd). Thousand Oaks, CA: Sage Publication
  20. Rahula, W. (1974). What the Buddha taught (Revised and Expanded ed.). New York: Grove Press.
  21. Scharmer, O. and Kaufer, K. (2013). Leading from the emerging future: From ego-system to eco-system economies. San Francisco, CA: Berrett-Koehler.
  22. Scharmer, C. O. (2007). Theory U. Cambridge, MA: The Society for Organizational Learning.
  23. Thich, H. N. (1976). The miracle of mindfulness: An introduction to the practice of meditation (Mobi Ho, Translation). Boston, MA: Beacon Press.
  24. Thich, H. N. (2007). For a future to be possible: Buddhists ethics for everyday life. Berkeley, CA: Parallax Press.
  25. Thich, H. N. (2011). Fidelity: How to create loving relationship that last. Berkeley, CA: Parallax Press.
  26. Thich, N. H. (1991). Peace is Every Step. New York, Bantam Books.
  27. Thich, M.-D., (2011, July 11). Leadership Model and Practice: An interview with the Most Venerable Thich-Minh-Dat/ Interviewer: Phe Bach.
  28. Watson, G. (2014). A Philosophy of Emptiness. The Wise Brain Bulletin. Vol. 8,4.
  29. Zhu, W., May, D.R., & Avolio, B.J. (2004). “The impact of ethical leadership behavior on employee outcomes: The roles of psychological empowerment and authenticity.” Journal of Leadership & Organizational Studies, 11 (1), 16.
https://hoangphap.org/phe-x-bach-three-intertwined-paths-to-leading-for-sustainable-peace/

https://hoangphap.org/bach-x-phe-w-edward-bureau-ba-con-duong-dan-xen-dan-den-hoa-binh-ben-vung/