Toàn cảnh Xứ Vũng - Photo: Internet |
XỨ VŨNG
Nguyễn Khánh Tiến
Quê tôi là Vũng Bấc, Vũng Nồm. Hai làng nhỏ ven biển, cách nhau một bãi tha ma, phía tây có nhiều động cát tiếp nối nhau mênh mông như sa mạc, phía đông có núi cao chắn sóng tạo nên nhiều thắng cảnh biển đẹp, hùng vĩ mà Eo Gió là một điển hình…
Ngay tên làng cũng là “phong thổ”, vì mặt làng đất trũng nước lớn thường lấn sát vào bờ, khi ấy trông biển giống như một cái vũng bao la, nên bên này hứng ngọn gió bấc được gọi là Vũng Bấc, còn bên kia hứng ngọn gió nồm được gọi là Vũng Nồm… Ngày xưa đó là thôn Hưng Lương và thôn Xương Lý thuộc xã Phước Lý, quận Tuy Phước. Còn từ 75 đến nay thì trên bản đồ hành chính ghi là xã Nhơn Lý, thành phố Qui Nhơn, tỉnh Bình Định...!
Sẵn đây tôi xin nói thêm: Ngày xưa, những thương lái ghe bầu, trong hải trình Bắc-Nam của mình, họ đã có một trường ca để dễ nhớ khi chỉ những địa danh dọc biển. Khi đến quê tôi, họ đã mô tả như sau:
“…Vũng Nồm, Vũng Bấc xa khơi
Trong vịnh, ngoài vời có CỎ cùng CÂN…”
Như vậy Hòn Cỏ, Hòn Cân là máu thịt của quê tôi, nó đã mang cái tên đó từ rất xa xưa lắm rồi, có khi đồng thời với các Chúa Nguyễn nam tiến nữa hổng chừng, chứ không phải mới có từ thời Pháp thuộc đâu. Nên không ai được quyền đổi tên Hòn Cân thành “hòn ông căn” như đã ghi trong hải đồ nhé, người dân của quê tôi sẽ không đồng tình với cái tên lạ hoắc đó đâu nghen..!
Thuở nhỏ, ngoài tiếng võng đong đưa à ơi ru em của mẹ, trong những đêm trăng tôi còn được nghe những câu hò mộc mạc : “Ngó lên hòn núi chóp vung/ Ngó xuống dưới Vũng tám cô chưa chồng…”, hay “Năm Minh người đã nên người/ Lời ăn tiếng nói miệng cười có duyên/ Bảy Dữ phận gái thuyền quyên/ Dăm ba chỗ nói chưa yên chỗ nào…”của một nghệ sĩ vô danh nào đó, mà cái hồn của họ dường như còn mãi trong tôi.
Núi chóp vung là núi Bà vọng phu ở Kẻ Thử, Cát Chánh. Người có tên Năm Minh là cô năm Trợ, cô chỉ có duy nhất một người con trai, khi tôi biết thì cô tuổi đã xế chiều rồi và rất thương con cháu. Cô có một cá tính đặc biệt là những ngày rằm hay đầu tháng, cô thường mặc áo dài lên chùa lấy nước về cúng Phật, và cô luôn đội bình nước ấy trên đầu, từ chùa về đến nhà một cách thành kính, mặc kệ người cười. Còn Bảy Dữ là cô bảy Từ Thế Lai, cô đã theo chồng là một Hoa kiều vào Sài Gòn lập nghiệp. Nghe nói chồng cô làm ăn rất phát đạt, đã thành chủ nhân của một công ty xuất nhập cảng lớn, nên cô đã bỏ xứ ra đi biền biệt, chỉ chút dư âm thời con gái là còn ở lại cùng quê hương trong những câu hò... Năm (1982), tôi có hai lần gặp cô tại Sài Gòn, lúc này cô đã già lắm rồi nhưng vẫn còn nét quí phái, nghe nói cô chuẩn bị đi xuất cảnh để đoàn tụ cùng con cháu, nên đường về quê của cô chỉ còn trong mộng mà thôi…
Những tháng hè, buổi trưa trời nắng chói chang, chúng tôi thường trốn cha mẹ rủ nhau đi tắm trộm. Sau khi lặn bắt cua ghẹ thỏa thích, lại đào giếng lấy nước ngọt xối, rồi mới về nhà luộc cua ghẹ ăn. Đó là chuyện chỉ bên Bấc (còn gọi là bên Giếng) mới có, vì khi nước cạn chỉ cần ra cách mé sóng chừng vài ba mét, moi cát sâu chừng vài ba tấc là sẽ có một giếng nước ngọt, uống và tắm thoải mái… Theo tôi nghĩ, thế nào nơi đây cũng được đoàn binh thuyền của chúa Nguyễn Ánh, đã có lúc phải dừng chân lấy nước ngọt rồi. Vì trong những cuộc chinh chiến Nam-Bắc hằng năm theo ngọn gió mùa, là cứ vào mùa gió nồm chúa Nguyễn Ánh cho chiến thuyền căng buồm ra Bắc đánh phá Tây Sơn, rồi đến mùa gió bấc ông lại xuôi chiến thuyền về Nam dưỡng quân. Đường dài và trường kỳ như thế, thì phải có điểm cung cấp nước ngọt dọc theo biển. Mà như thế thì quê tôi là nơi vô cùng thuận lợi, để tiếp nước cho đoàn binh thuyền của ông..!
Khi chiều về thì chúng tôi lại chơi trò đánh củi, đánh trổng, thả diều. Rồi lại đi theo những ông già say sưa rất dễ thương ở trong làng : chòm trên Trị An có ông Tồn, chòm giữa Long Bình có ông Nhẫn và ông Thiệu, chòm dưới Sơn Hải có ông Mẫu (cha anh Nhìn). Đó là những ông già mỗi chiều sau khi uống rượu, các ông thường kéo theo một bầy trẻ nhỏ ra bãi, hát hò, ca lý mọi… hoặc nói những câu bông đùa thật vui nhộn. Mà lúc đó chúng tôi mê các ông, giống như mê mấy ông hề hát bội, đã về làng hát trong những dịp cúng tế lăng đình, vì các ông đã cho chúng tôi những nụ cười thật sảng khoái, hồn nhiên…
Rồi tối đến, chúng tôi lại tiếp tục chơi bịt mắt bắt dê, cưỡi ngựa ném khăn hay trò u quạ. Cứ thế tôi đã lớn lên bằng tình thương của nội bên Bấc và ngoại bên Nồm, nhưng cái bãi tha ma huyền bí ấy đã làm cho tình tôi cách trở…
Vì tuổi thơ tôi luôn bị ám ảnh bởi những câu chuyện kể ma mị hoang đường, mà về ngoại hay trở lại nội tôi đều phải đi giữa lòng tha ma hoang vắng, chung quanh mình chỉ toàn là bụi lùm và mồ mả âm u. Nếu về ngoại, thì khởi đầu tôi phải đi ngang qua một trường học bỏ hoang cạnh đình làng, gần đó là một gốc bàng cổ thụ, cành lá che phủ nhiều mảng tường rong rêu hoang phế của một ngôi miếu cổ, mà người ta đồn rằng đã có người nhìn thấy một bóng ma áo trắng, ngồi trên cây bàng xõa tóc dài phơ phất, than khóc nỉ non. Cái khung cảnh rùng rợn lạnh người ấy, cứ bắt tôi phải liên tưởng đâu đây có những oan hồn đang gục đầu bên nấm mộ, hay miên man lo sợ bầy ma gà Hời luẩn quẩn theo chân…
Cái cảm giác sợ hãi ấy, cứ đeo mãi theo tôi cho đến khi khôn lớn. Sau này, có một lần vào khoảng 03 giờ sáng, bận việc nhà gấp tôi phải một mình đi từ ngoại bên Nồm về nội bên Bấc, dưới ánh trăng bàng bạc tôi dặn lòng mình là không sợ. Nhưng khi qua khỏi ngõ ấp, tôi bắt đầu lo lắng và đi thêm chút nữa, đến gần khu gò mả tôi thấy hơi run, nên đã bắt ấn và luôn miệng niệm chú “Án ba ni…”. Có lẽ tự tin hơn nhờ câu chú, nên tôi vẫn mạnh dạn bước chân, mặc dù cái sợ vẫn còn đó. Cho đến khi vào giữa bãi tha ma, qua khỏi ngôi mộ nội ông A và gần đến khu mộ ông Quề. Thì tôi gần như bị ngợp thở vì tim đập loạn xạ, một luồng khí lạnh ngắt từ đầu chạy dọc xuống sống lưng, rồi chạy ra cả hai tay hai chân làm người tôi tê cóng, bước đi không còn vững nữa. Lúc này tôi có ý định quay lui nhưng đường đã khá xa, nên đành cắn răng cắm đầu hổn hển loạng choạng bước tới, tai tôi lúc đó ù vang nhiều âm thanh mơ hồ ghê rợn, mồ hôi đổ ra như tắm và khi về tới trường học rồi mà tôi vẫn chưa hoàn hồn… Đó cũng là lần sợ ma khủng khiếp nhất đời tôi..!
Thuở còn học trường làng, cũng bãi tha ma này, tôi đã trốn học theo bạn bè lang thang tìm hái cò ke, dủ dẻ, lữ long hoặc “ra oai” rượt đuổi những chú bê con, hay chận bắt những con giông đang tìm đường lẩn trốn. Rồi cũng nơi đây trẻ hai làng đã hung hăng chơi trò giặc giã, cũng xung phong ném đá, tấn công giành từng ụ đất bụi gai. Cũng lỗ đầu, mẻ trán, trầy vai… để cha mẹ phải rầy la vì tội dám tạo cảnh “tương tàn” với bà con nội ngoại… Khi chúng tôi lớn hơn một chút, thì cũng chính giữa lầu nơi đây, là vận động trường bóng đá chân đất “đỉnh cao”, mà cầu thủ của cả hai bên, cứ mỗi trận đá là một phen “trống mái”..!
Quê tôi có hai bãi biển cát trắng, nước xanh trong tuyệt đẹp. Mỗi bên một bãi, tha hồ mà phơi nắng, châm sóng hoặc thả diều. Ngoài ra bên kia núi còn có Eo Gió, là một thắng cảnh với non xanh nước biếc, đã làm cho biết bao du khách ngày xưa và cả hôm nay, phải ngỡ ngàng khi đứng ngắm cảnh trời nước mênh mông. Và ngoài khơi xa, trên Biển Đông còn có ba hòn Cân, Cỏ, Sẹo như ba chàng lính ngự lâm sừng sững, đứng bảo vệ và trang điểm cho thắng cảnh thiên nhiên này…
Bãi biển bên Nồm ngắn, nước sâu nằm dưới chân Dốc Cá cao vời vợi. Ngày xưa, dốc cao ít nhất là 50m, muốn đi từ xóm Cũ lên xóm Mới hay lên Dốc Cá chơi, người ta phải leo lên theo một đường nghiêng như bậc thang tam cấp và phải nghỉ một, hai chặp mới lên được tới dốc. Nơi đây là chốn hẹn hò lý tưởng của đôi lứa, cũng là nơi gặp gỡ của những nhóm bạn bè thân. Vào những đêm trăng thanh gió mát, ngồi nghe tiếng sóng vỗ thì thào như những lời tự tình dưới chân mình, thì không còn thú vị nào hơn.
Hồi đó, trên đỉnh Dốc Cá này, từng có một ngôi nhà thờ Thiên Chúa, mái ngói đỏ au và đỉnh cao Thánh Giá nhọn hoắt, như muốn vươn lên chọc thủng cả trời xanh. Nhưng vào khoảng năm (1964-66), khi đó quê tôi là vùng tranh chấp và chính quyền Cách Mạng (CM) đang kiểm soát, (lúc ấy ở thôn quê gọi là CM chứ không gọi là VC hay CS). Nên ngôi nhà thờ ấy đã bị đập phá, tháo dỡ ra từng cái đòn tay rui mè rồi chất đống đốt, mặc cho một ít giáo dân ngơ ngác đứng nhìn…
Ngồi trên đỉnh Dốc Cá này, chúng ta sẽ thấy rõ nó nối liền với dãy núi có bãi tắm Kỳ Co, nơi mà khách du hôm nay thường về đây nghỉ dưỡng. Kề đó là Vũng Bầu có hang yến sào, mà mỗi năm đã mang lại lợi tức rất lớn cho tỉnh nhà. Còn xa hơn nữa là Hòn Khô và xa tít tắp là Cù Lao Xanh mờ ảo. Trên mặt biển, ban ngày thì lưới đăng, lưới cao vây bủa. Còn những đêm tối trời thì đèn câu, đèn mành sáng cả một vùng trời, như một thành phố nổi lung linh…
Bãi biển bên Bấc dài hơn, lài hơn nên nước cạn hơn. Nếu từ trên núi, đứng chỗ nổng An Tông nhìn xuống, thì trông nó như một tấm lụa bạch khổng lồ, trải dài từ Vũng Bấc lên đến Kẻ Thử. Nó là mặt tiền của những động cát trắng mênh mông giáp biển, mà phần hậu của những động cát chập chùng đó là giáp đầm Thị Nại. Trong giữa những động cát ấy là những cái trảng cằn cỗi, nhưng vẫn trang điểm được chút màu xanh cây lá, nên chúng tôi một thời đã lùng hái chiêm chiêm, dủ dẻ, cam đường… chẳng biết mỏi chân.
Vào thời ông Diệm bãi biển này là nơi buôn bán cá, mực rất nhộn nhịp. Nó cũng là con đường huyết mạch, nối liền với các xã thuộc Phù Cát, Tuy Phước. Và nếu vào Khe Đá vượt đầm Thị Nại, thì sẽ tới Qui Nhơn rất gần. Thời đó xe cộ và người lên, kẻ xuống dập dìu. Với những người đi bộ thường là gánh gạo hay ngô, khoai về biển. Còn người đi xe đạp thường là những nậu rổi, từ trên quê xuống biển mua cá, mực chở về đồng. Thỉnh thoảng cũng có vài chiếc xe “máy dầu”, của những người quảng cáo thuốc sơn đông mãi võ, với những màn xiếc và ảo thuật rất tài tình. Rồi lại có những xe nước mía hoặc xe bán cà-rem đến, đã làm cho chúng tôi vô cùng thích thú…
Tôi nhớ có một lần ông Thanh ở Xóm Chuối hay Bến Đò gì đó, dùng ngựa chở hai canh rượu ra làng tôi bán. Bữa đó cùng đi với ông còn có chú ngựa con lon ton theo mẹ, còn chúng tôi thì lon ton theo chú ngựa con. Khi ông Thanh vào quán thím Nhân giao hàng xong, ông cột chặt con ngựa mẹ vào cột và ông lên nhà chú Nhân. Thế là chúng tôi cùng nhau reo hò rượt đuổi chú ngựa con, làm chú sợ hãi chạy xuống tận dưới gành. Chú ngựa con vừa chạy vừa hí kêu mẹ, ngựa mẹ thấy vậy cũng lồng lộn và hí vang trời. Thế rồi ngựa mẹ dựt đứt được dây cột, vừa hí vừa phi nước đại xuống gành. Lúc ấy tôi thấy nó phi nhanh về hướng con nó, tôi đã chạy lại đứng chận đầu và dang hai tay ra cản đường. Không ngờ, đã bị nó phi thẳng vào người và bay qua luôn, còn tôi thì bị té ngã ngửa nằm dài trên bãi biển, nhưng may quá chẳng sao. Chứ chỉ cần nó chọt hoặc đạp trúng một móng chân vào bụng, thì chắc là xanh cỏ từ ngày ấy rồi, đúng là tuổi thơ chơi dại, giờ nghĩ lại vẫn còn hú hồn..!
Biển bên Bấc những đêm không trăng, thì đèn măng-xông của ghe câu ghe mành sáng chói chi chít, tạo thành một hàng dài ngút mắt như dải Ngân Hà từ trời cao rụng xuống… Sáng ra thì thuyền ghe tấp nập đánh bắt. Ngay góc Bãi Dứa với Bờ Lầu là nơi hành nghề của lưới đăng, chỗ hòn Cao là lưới thưa, trong hòn Câu là lưới chù. Ở đầu xóm thì lưới tai, lưới quát đang gạn kéo. Còn ngoài khơi xa là những chiếc mành chà, những đôi lưới cao đang nỗ lực chèo để bủa lưới khi thấy cá hồ (bởi thời điểm này máy nổ chưa phổ biến).
Vào khoảng xế trưa vì gió nồm săn, nên những chiếc ghe câu dễ ở quê, cũng như những ghe An Dũ (đi lựa trọ ở Vũng Bấc, chuyên nghề câu cá nhám), không thể đi thẳng vào bến được. Nên phải lần lượt dong buồm lên hướng gò muốn xanh, rồi mới trở lèo xuôi buồm về bến cuối làng, giữa những cánh chim nhạn đang bay lượn, đã tạo nên một khung cảnh thanh bình nên thơ tuyệt đẹp...!
No comments:
Post a Comment