Showing posts with label Cao Huy Thuần. Show all posts
Showing posts with label Cao Huy Thuần. Show all posts

Sunday, February 28, 2021

GS Cao Huy Thuần: Bonjour Bác Thám!

 

GS Cao Huy Thuần (em của Cố Niên Trưởng Tâm Huệ Cao Chánh Hựu) là người Pháp gốc Việt, hiện là giáo sư về ngành chính trị học tại đại học Picardie, Pháp. Ông sinh tại Huế, học đại học Luật Sài Gòn (1955-1960), dạy đại học Huế (1962-1964), xuất bản tờ báo Lập Trường (1964) trước khi qua Pháp du học. Đầu năm 1969, ông bảo vệ luận án tiến sĩ tại Đại học Paris và sau đó là Giám đốc Trung tâm nghiên cứu về Cộng đồng châu Âu tại Đại học Picardie. Hiện nay ông là giáo sư giảng dạy tại Đại học Picardie, Pháp. Cũng như một số trí thức Việt kiều khác, ông cũng thường xuyên về Việt Nam tham dự các cuộc hội thảo về các lĩnh vực chính trị, xã hội. Ông đã in rất nhiều tác phẩm bằng tiếng Pháp về khoa học chính trị và quan hệ quốc tế. Với tiếng Việt, ông cũng đã in và viết rất nhiều bài báo tại Việt Nam và được đánh giá là các tác phẩm văn chương chính trị.

Bác Lê Đình Thám có viết một bài rất ý nhị trong “Viên Âm” dưới nhan đề “Bonjour đức Phật”[1]. Đó là một trong những bài rất ngắn viết với giọng kể chuyện hóm hỉnh, đặt ngay từ đầu trong mỗi số báo. Mở “Viên Âm”, nghe được một tiếng cười như thế của Bác là vui rồi. Và quả là lạ lùng: Bác là bậc thầy trong “Viên Âm”, là tác giả của những bài viết bác học trong đó, là bậc đại cư sĩ luôn luôn một mực khăn đóng áo dài cung kính mỗi khi giảng dạy học tăng, vậy mà Bác lại cũng biết cười, mà còn dám cười với cả đức Phật, e bác Duy Ma Cật cũng phải né. Trong bài phát biểu này, tôi không dám nói những chuyện triết lý bác học cao xa của Bác, xin nhường cho các bậc tôn túc và học giả, chỉ xin được bonjour Bác Thám trong vài bài cực ngắn mà tôi sẽ đọc ở phần cuối. Bây giờ thì tôi xin góp vài ba nhận xét nhỏ về phong trào Chấn hưng Phật Học, trên ba điểm nổi bật: bối cảnh lịch sử; Phật học và Phật giáo; Phật học và khoa học.

I. Bối cảnh lịch sử

Nguyễn Lang, trong Việt Nam Phật giáo sử lược, đã nói rất rõ đâu là những nguyên nhân từ bên ngoài và từ nội bộ đã làm phát khởi và thúc đẩy phong trào chấn hưng Phật giáo. Ở đây, tôi không lặp lại những gì đã nói và đã biết, chỉ xin bổ túc thêm vài điểm.

1. Nguyên nhân từ bên ngoài

Từ bên ngoài, Nguyễn Lang có nêu ra, nhưng để bác bỏ, một “nghi ngờ” đến từ một phần dư luận cho rằng phong trào chấn hưng Phật giáo nằm trong kế hoạch của chính phủ bảo bộ. Hai yếu tố, theo tác giả, có thể đưa đến nghi ngờ đó: một, là nhà nước bảo hộ đã ký giấy cho phép thành lập các Hội Phật học một cách tương đối dễ dàng và mau chóng; hai, là sự có mặt của một số người được nhận định như là “người của chính quyền” trong lòng một số hội Phật học. Để giải thích rằng nghi ngờ đó không phải là dư luận của trí thức, Nguyễn Lang viện dẫn Phan Khôi, Huỳnh Thúc Kháng, là những người ở ngoài phong trào, lại cũng không ở trong nhà Phật, nhưng cực lực tán dương chấn hưng đạo Phật.

Tôi xin thêm một chút lập luận nữa để phản bác cùng với Nguyễn Lang. Vấn đề sẽ rõ hơn khi ta đi sâu vào hai thực trạng trong chính sách thuộc địa áp dụng cho cả  ba Kỳ, nhất là ở Trung Kỳ, nơi Pháp còn giữ Vua và triều đình An Nam, tuy chẳng có chút thực quyền gì, nhưng cái vỏ quân chủ vàng son vẫn còn dựa trên một nền văn hóa truyền thống chưa mất hẳn. Thực trạng thứ nhất là sự lúng túng bất khả giải quyết của Pháp giữa hai chính sách đồng hóa hay hợp tác. Thực trạng thứ hai là áp lực của hai thế lực chính trị cực kỳ mạnh ở thuộc địa, thế lực của phe thực dân bản địa, và thế lực của phe Gia Tô, cả hai hợp tác với nhau để kéo chính quyền bảo hộ vào con đường đồng hóa mà ai cũng thuộc câu đầu của bài học lịch sử như thuộc bùa chú: “tổ tiên chúng ta là dân Gô Loa”.

Nói chung, chính sách áp chế, đồng hóa, thường là thắng thế, nhưng không thành công. Ông Tàu đồng hóa chúng ta cả ngàn năm mà không được, sức mấy mà ông Tây Gô Loa-hóa dân An Nam trong vòng vài chục năm! Cho nên khi thất bại thì Tây thử lách qua con đường hợp tác xem sao. Viễn vông! Ông Toàn Quyền nào thử chơi con bài đó thì lập tức hai thế lực kia gây áp lực tại thuộc địa và tại chính quốc để triệu ông về mẫu quốc.

Thế nhưng, cả thế giới xung quanh Đông Dương đã biến động rồi vào những năm trước 1930. Nào Trung Hoa thức tỉnh với Tôn Dật Tiên, nào Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi, nào chiến thắng của nước Nhật da vàng trên nước Nga da trắng, nào ý thức độc lập âm ỉ như một ngòi súng sắp nổ ở Á châu, nào ảnh hưởng của tất cả những biến động đó trên tầng lớp sĩ phu ở Việt Nam, nào những rối loạn, nổi dậy, phản kháng bung ra khắp nơi trong nước, chống thuế, chống rượu, chống bất công, chống áp chế, nào Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Nguyễn Thái Học, Yên Bái… bao nhiêu biến động buộc chính quyền bảo hộ đặt lại một lần nữa, dưới áp lực của Quốc Hội Pháp, câu hỏi xưa như hồi thất thủ kinh đô: phải chăng chính sách thống trị, đồng hóa là không thể áp dụng được ở cái xứ An Nam này? Là bất lực như lấy thúng úp voi?

Trước đó lâu rồi, từ 1889, Tổng Khâm sứ Chavassieux đã than thở trong một văn thư gởi Toàn Quyền ở Hà Nội: “Văn minh và tôn giáo của ta không tương cận với văn minh và tôn giáo của họ; tất cả đều ngăn cách chúng ta, và truyền thống của quá khứ cũng như nền giáo dục dân tộc đã dựng lên trước mặt chúng ta một bức tường nghìn đời không sao vượt qua được. Chúng ta đã chọn con đường đúng chăng? Ngày nay mọi người đều đồng thanh trả lời là không”. Nhưng Toàn Quyền nào dám đổi chính sách? Toàn Quyền Paul Beau (1902-1907) thử đổi, chưa được gì đã bị triệu hồi vĩnh viễn, tội nghiệp trường đại học Hà Nội mới mở vài khoa đã bị đóng cửa. Cứ thế mà lúng túng cho đến khi tình trạng biến động khiến Quốc Hội Pháp phải chất vấn chính phủ để buộc phải thay đổi chính sách ở thuộc địa An Nam.

Người được đề cử để thực hiện chính sách hợp tác là Albert Sarraut, nhậm chức Toàn Quyền với hai lần qua Đông Dương: 1911-1914 và 1917-1919. Làm thế nào để, một mặt, ngăn ngừa sức dội của cách mạng dân quốc ở Trung Hoa; một mặt, để đối phó với những biến động ở trong nước? Chỉ có một cách thôi, theo Albert Sarraut: nắm lấy phong trào duy tân, chỉ đạo nó, dồn nó vào một hướng: “Ngay bây giờ chúng ta có thể tiên liệu được cách mạng Trung Hoa sẽ tăng cường tại Đông Dương tư tưởng dân tộc cùng các hoài bão của dân chúng về tiến bộ. Điều quan trọng là quá trình này phải được chúng ta điều khiển, vì nếu nó diễn ra ngoài sự kiểm soát của chúng ta, nền đô hộ của chúng ta sẽ bị đe dọa… Nam Kỳ, đã rất tiến bộ, có vẻ đã đến một tình trạng quân bình tương đối ổn định… Trung và Bắc Kỳ chính là nơi chúng ta phải cố lèo lái trào lưu các tư tưởng mớỉ”. Thế nhưng, một lần nữa, chính sách của Sarraut trong nhiệm kỳ đầu (1911-1914) không phải là hợp tác! Vẫn là đồng hóa, tuy rằng bây giờ, thời đại mới, không phải đồng hóa bằng tôn giáo như trước, mà đồng hóa bằng giáo dục. Đổi đầu óc của người An Nam bằng ngôn ngữ và văn chương Pháp, tẩy ảnh hưởng Khổng Mạnh ra khỏi trường ốc, rước vào bằng những tư tưởng mới của nước Pháp cách mạng 1789: “Trung Quốc đã chiếm và giữ được một ảnh hưởng to lớn tại xứ này bằng cách phổ biến ngôn ngữ và văn chương của nó. Vậy cũng chính bằng ngôn ngữ và văn chương Pháp mà chúng ta sẽ thực hiện cuộc chinh phục tinh thần tại Đế Quốc An Nam”. Thế là chết! Sarraut tự đưa thân vào cửa tử. Không phải chỉ vì phái bộ Gia Tô chống ông kịch liệt, mà vì người trí thức An Nam sẽ dùng roi của ông để quất ông. Những tư tưởng cách mạng, dân chủ cao đẹp của Pháp, thay vì được ông lèo lái, đã lèo lái trí thức Việt Nam vào con đường chống lại nô lệ thuộc địa.

Do đó, một lần nữa, chính sách hợp tác lại được cải biên và tên tuổi Sarraut được gắn liền với khẩu hiệu “Pháp-Nam đề huề” mà ông thực hiện trong nhiệm kỳ thứ hai. Lần này, để chận đứng lại, kiểm soát, dồn vào một phía những tư tưởng mới, ông thấy không có biện pháp nào hữu hiệu hơn là trở về “truyền thống ngàn đời” của dân tộc An Nam. Những bài diễn văn nổi tiếng nhất của tay Toàn Quyền thông minh này nhắm vào một trọng điểm: tán dương văn hóa Khổng giáo và hô hào hợp tác giữa hai văn minh Đông Tây. Từ đó mà có tờ Nam Phong với Phạm Quỳnh là đầu não[2].

Tôi nhấn mạnh điểm này vì đây là chìa khóa để tôi trả lời nghi vấn mà Nguyễn Lang đã nêu ra từ đầu. Tôi nhấn mạnh: “truyền thống ngàn đời” mà Sarraut nói là Khổng giáo. Người phà hơi, thổi sinh khí vào cho nó sống lại để làm đầy tớ cho ông. Quốc văn giáo khoa thư mà tôi học lúc nhỏ là luân lý Khổng Mạnh. Không thấy bóng dáng chùa chiền gì trong đó. Nam Phong là con bài của Sarraut, lấy thúng cũ úp voi mới, đặt dưới sự sắp đặt của bàn tay phù thủy Marty, chánh văn phòng chính trị của phủ Toàn Quyền, còn các sơn môn rần rộ học Phật, bắt đầu từ Nam Kỳ rồi lan ra Huế, trước khi các Hội Phật học ra đời, là tự phát, chẳng ai dắt dẫn. Tất nhiên, thời đại cũng tạo ra chút duyên thuận lợi, nhưng nguyên nhân phải tìm ở nơi khác: nơi cái ý thức không thể để cho Phật giáo suy đồi dần dần rồi tự diệt. Tôi trích một câu của Hòa Thượng Trí Quang: “Chí nguyện chấn hưng nền tôn giáo của dân tộc hết sức mạnh mẽ trong thời kỳ mà chỉ có những tổ chức gì của ngoại quốc đem đến mới được thực dân ngoại quốc bảo hộ”[3].

Chính cái ý chí ấy là nguyên nhân nội bộ của phong trào chấn hưng.

2. Nguyên nhân từ bên trong

Đạo Phật đã suy đồi từ lâu. Chỉ cần đọc một sắc Dụ của vua Gia Long ban  hành sau khi lên ngôi hai năm cũng đủ thấy tình trạng bi thảm trước đó và sau đó: ngay cả vua cũng chẳng biết Phật là gì, đạo Phật và “đạo” đồng bóng chắc cũng hao hao anh em ruột thịt với nhau trong mắt vua. Hòa Thượng Trí Quang tóm tắt trong bốn chữ tình trạng đối nội và đối ngoại của Phật giáo lúc 16 vị sáng lập Hội An Nam Phật Học nộp đơn xin thành lập: “pháp nhược ma cường”. Nguyễn Lang cũng đã nói nhiều, tôi khỏi lặp lại, chỉ xin trích thêm vài câu trong Viên Âm: “Phật học cách mấy trăm năm trở lại đây như đã bị cái trào lưu Nho học làm mai một đâu rồi; đến nay cái trào lưu Nho học đã nhược bại, Phật giáo mới có cơ xuất hiện, thì ôi thôi Tăng đồ đã lâu ngày thất học và tín đồ cũng ngẩn ngơ không biết đâu là chánh pháp, vì thế mà có nhiều tạp chí tuy là lấy tên truyền bá đạo Phật, mà tựu trung chứa đầy cả lý thuyết xằng xiên. Đối với người có con mắt trạch pháp thì không hại, nhưng đối với sự tín ngưỡng của số đông thì chẳng khác gì một con trùng độc ở trong máu người ta làm cho sức người này thêm kém sút. Bệnh tình ấy nguy cấp như thế, ai có phương thuốc gì điều trị không?”[4].

Có! Phương thuốc ấy là học Phật cho đúng với đạo của Phật. Học đúng đạo của Phật, ấy là “trừ tà hiển chánh”. Ấy là bước đầu của phong trào chấn hưng Phật giáo. A! nhưng Phật giáo hay là Phật học? Chấn hưng Phật giáo hay là chấn hưng Phật học?

II. Phật học và Phật giáo

Tại sao các Hội rần rộ tự động mọc lên ở Nam Kỳ rồi tự động lan ra Huế đều mang tên là Hội Phật Học? Chính phủ bảo hộ sợ cái chữ “Phật giáo” chăng? Hay là ở thuộc địa hồi đó chỉ có tôn giáo của Tây mới là đích thực tôn giáo thôi? Tôi hỏi câu này không phải là vớ vẩn. Tại vì tôi có chút suy nghĩ trên câu viết có chút vị đắng của Hòa thượng Trí Quang: “Từ năm 1932 đến năm 1945, Hội hoạt động dưới danh nghĩa mỉa mai là An Nam Phật Học Hội”[5]. Tôi lại càng không vớ vẩn khi tôi lại cũng có chút suy nghĩ trên cái chữ viết tắt mà chắc chắn là Bác Thám đã dịch và đã chua trong ngoặc đơn đàng sau “An Nam Phật Học Hội” trên “Viên Âm”: SEERBA. Nghĩa là: “Société d’Étude et d’Exercice de la Religion Bouddhique en Annam”. Bác quá giỏi tiếng Pháp, tại sao Bác không dịch cho đúng và cho gọn “Société d’étude et d’exercice du Bouddhisme” mà phải dùng thêm chữ “religion” làm gì cho nó luộm thuộm về  ngôn ngữ? Khó mà nghĩ rằng Bác đã không cố ý.

Huống hồ tôi lại còn có thêm chút suy nghĩ nữa: “Hội Phật học” thì chỉ cần dịch “Société d’étude bouddhique” là đủ, cần gì phải thêm “Ecercice”? “Étude” là học; “Exercice” là hành. Tôi đố ai dám nói Bác Thám không cố ý. Bác đã cố ý thêm chữ “hành” như thế vì ba lẽ: một là học mà không hành thì không phải đích thị là người học Phật; hai là học mà không hành thì không phải đích thị là “religion”; ba là… phải hiểu đàng sau tôn chỉ của Hội.

Tôn chỉ của Hội nằm ngay trong điều 2: “hoằng dương chánh pháp, lợi lạc hữu tình“. Thế nào là “hoằng dương chánh pháp”? Không ai cắt nghĩa rõ hơn Hòa thượng Trí Quang: “Hoằng dương chánh pháp là làm cho chân tinh thần được phát huy, thâm nhập vào tư tưởng và sinh hoạt của quần chúng. Nhưng hoằng dương chánh pháp bằng cách nào? Tóm tắt thì hai phương diện chánh yếu sau đây luôn luôn được chú ý đến: phần tự giác thì nghiên cứu và áp dụng chánh pháp, phần giác tha thì tận lực truyền bá chánh pháp đó bằng những phương tiện cần thiết[6]. Thế mà không phải “religion” thì là gì?

Có người hỏi “Viên Âm”: Hội có lập giới đàn không? “Viên Âm” trả lời: Có chớ! Và miêu tả cặn kẽ giới đàn sẽ được tổ chức như thế nào[7]. Thế mà không phải là “religion”?

Nhưng Hội nói rõ trong điều 3, và nói đúng sự thật, để Tây đừng lo mà cấp giấy phép: Hội không làm chính trị. Tôn chỉ ấy đúng muôn đời, xưa cũng như nay. Cho nên đừng đem chính trị hay kinh tế cơm áo gạo tiền mà suy diễn rồi đánh giá Hội. Đúng như Hòa thượng Trí Quang cắt nghĩa: “Hội dùng mọi phương tiện thiện xảo để áp dụng “tinh thần Phật học” vào đời sống cá nhân, vào tổ chức gia đình, vào hoàn cảnh xã hội, cao vọng xã hội thành xã hội Phật hóa, gia đình thành gia đình Phật hóa, cá nhân thành người bi, trí, dũng, hầu tạo thành một xã hội mới mà trình độ tinh thần ngang với trình độ vật chất, tiến bộ đều đặn”[8].

Có độc giả “Viên Âm” hỏi Bác Thám: Danh nghĩa của Hội là Phật học, thế thì phải chăng Hội đặt cái biết trên cái làm? Bác trả lời ngắn gọn, nhưng súc tích, đầy đủ, trọn vẹn: “Khi nào cũng phải biết trước rồi mới làm, nếu không biết mà làm càn thì bao giờ cũng sai lầm cả. Chẳng những Phật học, mà dầu khoa học hay các môn học thuật khác cũng vậy, thế nào cũng phải biết rồi mới làm, nhưng đến khi làm rồi thì mới có thể thiệt biết”[9].

Ngay trên cả cái biết, học và hành không bao giờ tách nhau ra được. Còn trên bình diện tôn giáo, phát triển bề sâu và phát triển bề rộng, nếu không đi đôi với nhau thì chết thôi, mà lại là chết đuối trên cạn. Xưa cũng vậy, nay cũng vậy, tiếng Bác Thám còn đó.

Một độc giả khác hỏi Bác: Hội không làm chính trị, vậy thì làm sao giải thích “tứ ân” mà các chùa tụng niệm hằng ngày? Ơn cha mẹ, đúng. Ơn thầy trò, đúng. Ơn chúng sinh, đúng. Còn cái ơn thứ tư kia mà hồi nhỏ mẹ tôi dạy tôi là ơn đối với quốc vương? Đối với vua Bảo Đại? Hồi 1932, “Viên Âm” phải nhớ ơn ông Toàn Quyền? Bác Thám trả lời thế này, quá phục: đó là ơn đối với Nhà nước. Và nói thêm: “Nhà nước chủ yếu làm cho nhân dân an cư lạc nghiệp và bảo vệ đất nước chống ngoại xâm, ơn ấy cần báo đáp bằng cách làm tròn nhiệm vụ người dân. Trong chế độ phong kiến, quốc vương tiêu biểu cho Nhà nước, nên trong các kinh dạy bảo vệ chủ quyền đất nước, hết lòng chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân thì mới thật có ơn. Đối với Nhà nước thật sự vì dân như thế, người đạo Phật cần phải thi hành triệt để mọi chủ trương chính sách của Nhà nước, phục vụ lợi ích của nhân dân, của Tổ Quốc thì mới báo đáp được công lao ấy”[10]. Nói gì hơn? Chính trị chẳng phải là vậy sao: Nhà nước xứng đáng, nhân dân xứng đáng. Sau này, Hòa thượng Trí Quang gọi “chính trị” ấy là “lẽ phải”, và nói Phật giáo là “lực lượng”, không phải lực lượng chính trị mà là “lực lượng của lẽ phải”[11]. Trên bình diện lý thuyết, “Viên Âm” cũng nói ý ấy: Phật giáo là đạo của Sự Thật[12], bởi lẽ đơn giản Phật giáo được đức Phật định nghĩa là “đạo Như Thật”.

Sự Thật ấy là của chung của nhân loại, Phật giáo đáp ứng một nhu cầu tôn giáo của nhân loại. Thế thì, lại một thắc mắc của độc giả “Viên Âm” về chuyện chính trị: thế thì Phật giáo có quốc gia xứ sở không? Câu trả lời của Bác Thám vẫn gọn nhẹ, súc tích, đầy đủ: “Đạo Phật, về mặt tùy duyên thiệt có quốc gia có xứ sở, thiệt có ích cho quốc gia và xứ sở, ai là người có lòng vì nước vì dân xin hãy nghiên cứu Phật học”[13].

Nghĩa là, Bác muốn nói, công cuộc chấn hưng Phật học không phải chỉ là để cho Phật giáo mà cho cả quốc gia xứ sở. Cái giai đoạn 1932 ấy là giai đoạn hãy còn giao thời với tất cả những nhá nhem của buổi giao thời: cái cũ đã tàn nhưng cái mới hãy còn xa lạ, tiến bộ khoa học đã mở nhưng nền tảng đạo đức đã lung lay. Hơn ai hết, Bác Thám là con người của khoa học, nhưng cũng hơn ai hết Bác thấy khoa học không thể thiếu vắng đạo đức Phật giáo. Cái tài của Bác đi đôi với cái tâm của Bác. Do đó mà đề tài khoa học và Phật học là đề tài lớn trong “Viên Âm”.

III. Phật học và khoa học

Giữa khoa học và Phật giáo có cái gì giống nhau? “Viên Âm” trả lời: cùng một mục đích là nhắm đến cái biết. Biết một cách chân thật, xác đáng. Trí thức con người được mở mang thì khoa học được mở mang mà đạo Phật cũng được mở mang. Giữa khoa học và Phật pháp còn có thêm một mục đích thứ hai giống nhau: khoa học cải tạo hoàn cảnh và mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại, Phật pháp cũng vậy. Nhưng, về điểm này, khoa học không phải bao giờ cũng đem lại hạnh phúc, trái lại có thể đem lại đau khổ, và vì vậy đạo Phật luôn luôn cần thiết cho nhân loại để tiến bộ và hạnh phúc thật sự.

Trên hai nhận định dễ thấy đó, “Viên Âm” cắt nghĩa vì sao mà có phong trào

Chấn hưng Phật học. Vì ba nguyên nhân, xin trích nguyên văn:

  1. Vì sự tiến hóa của trí thức người xứ ta về mặt luận lý;
  2. Vì khoa học tuy đánh đổ các sự mê tín nhưng tự mình vẫn không có năng lực để tạo thành hạnh phúc cho nhân loại;
  3. Vì phải có một đạo lý vững vàng để làm cho khoa học phục tình để đào tạo đức tánh của loài người.

Về nguyên nhân thứ nhất, lại xin trích nguyên văn. “Ngày xưa, người xứ ta theo Nho học, cái Nho học của Tống nho bắt phải nhất định theo lối biện luận của thầy Châu Tử, không được dời đổi chút nào, đến nỗi ai trái với Châu-chú trong khi thi cử đều phải mắc tội, cái tội lây đến bản sư nữa. Lối học như vậy là lối học chết sửng, nó khép trí thức con người vào trong khuôn hẹp hòi, cho nên luận lý học xứ ta trong mấy trăm năm về sau đây mỗi đời mỗi suy kém. Vậy nên trong thời kỳ Nho học thạnh hành, đạo lý cao xa của Phật giáo chỉ có thể duy trì trong sơn môn, chứ không thể truyền bá trong cái xã hội không biết luận lý ấy được. […] Phật pháp ý nghĩa rõ ràng, đúng đắn, có thiệt nghiệm, chắc chắn nơi tự tâm chớ không phải tin càng theo cha, không bắt quỵ luỵ tra hỏi một đấng thiêng liêng nào, nên rất hiệp với trí não không chịu ỷ lại, không chịu mê tín của khoa học”[14].

Xin cúi đầu bái phục Bác Thám, vì cái gì “Viên Âm” nói từ những năm 1932, bây giờ vẫn còn đúng y chang.

Về nguyên nhân thứ hai, khoa học đem lại lợi ích rất nhiều, nhưng coi chừng, khoa học là con dao hai lưỡi, kết quả hay hay dở là còn tùy theo lối dùng phải hay trái, nghĩa là còn tùy theo ở nơi chính con người. Tôi lại trích nguyên văn “Viên Âm”: “Như một con dao bén ở trong tay người đầu bếp thì có thể xắc đồ ăn mà nuôi sống cho kẻ khác, còn ở trong tay thằng ăn cướp thì để cắt cổ giết người, tùy theo chỗ dùng mà lợi hại có khác. Vậy chủ động dùng khoa học là gì? Là chơn tâm. Chơn tâm độc ác tham lam, thì khoa học là những máy móc để giết người, chơn tâm hiền lành ngay thẳng thì…”

Thì phải thế nào? Khuếch trương triết học ư? Khuếch trương thần giáo ư? Âu châu đã chứng kiến sự tương khắc giữa khoa học và thần giáo. May mắn cho ta là khoa học và Phật giáo không tương phản nhau. Do đó, “Viên Âm” kết luận chắc nịch: “Duy chỉ có Phật giáo là đạo lý vững vàng đủ làm cho khoa học phục tình để đào tạo đức tánh của loài người“. Đó là nguyên nhân thứ hai.

Nguyên nhân thứ ba, như vậy, là đức dục, một trong ba nhiệm vụ của giáo dục (trí dục, thể dục, đức dục) mà Bác Thám và “Viên Âm” đặc biệt chú trọng. Tuổi trẻ và nhi đồng là quan tâm hàng đầu của Bác. Đoàn thanh niên đức dục và Ban Đồng Ấu được mở mang một cách thành công, để lại hậu thân là Gia Đình Phật tử.

Vì đức dục quan trọng như vậy, tôi xin dài dòng thêm chút nữa để nói về buổi viếng thăm Hội của ông Phạm Quỳnh, lúc đó là Thượng thư Bộ Học của Nam triều. Bác Thám đọc một bài diễn văn nội dung rất cao vì ông Phạm Quỳnh là học giả xuất chúng thời đó. Tôi chỉ trích ra đây mấy lời cám ơn mở đầu của Bác:

“Hiện thời nay, chắc Cụ Lớn đã rõ, người nước ta xu hướng về con đường vật chất hầu mong làm đổ cả nền luân lý nước nhà, nếu chúng ta không đem Phật pháp mà vãn hồi chơn tâm thì không bao lâu nữa ắt sẽ bị cái hại luân lý suy đồi, lương tâm vùi dập”.

 

Nghe lại mấy câu ngày xưa mà tưởng như ngày nay. Khen chê Phạm Quỳnh, dư luận đã nói nhiều, và tôi cũng đã nói ở trên. Ở đây, riêng về buổi viếng thăm này, tôi chưa hề thấy một ông bộ trưởng giáo dục nào nói những câu như thế này trong đáp từ:

“Xét về mặt lịch sử thì dân tộc Việt Nam có đủ luân lý, đạo đức, học thuyết, tóm lại gọi là tinh thần một dân tộc, mà sở dĩ dân tộc này không lộn với dân tộc khác là bởi do tinh thần khác nhau đó vậy. Nói về tinh thần của một dân tộc, thì không phải một ngày một lúc mà có thể đào tạo cho thành, chính là phải trải qua mấy ngàn năm. Cái tinh thần Việt Nam của chúng ta đây, tất phải nhờ các học thuyết tạo thành, mà xét về đức dục thì một phần lớn là do công nghiệp của Phật học vậy. Phật học đã có ảnh hưởng về luân lý đạo đức trong dân tộc ta như vậy thì ai là người muốn bảo tồn tinh thần dân tộc Việt Nam tất phải tán thành cho Phật học”[15].

 

“Cụ Lớn” nói như vậy thì ai dám bảo là Cụ không lớn? Xin được đùa một câu như thế vì tôi sắp bắt qua tiếng cười của Bác Thám để kính chào Bác với tất cả kính yêu ngưỡng mộ trước một bậc đại cư sĩ hiếm hoi của thế kỷ.

IV. Bonjour Bác Thám!

Làm cho triết lý cao siêu của đạo Phật thành ra rõ ràng, dễ hiểu, trẻ trung, tươi mát, là mơ ước chung của bao nhiêu thế hệ Phật tử. Bác Thám dường như là người mở đầu. Bác là người đem cái ý nhị của bông đùa vào những mẫu chuyện rất ngắn mà thâm thúy đạo vị. “Bonjour đức Phật” của Bác là đại tếu, khó có ai tếu hơn. Chuyện bắt đầu như sau:

Một buổi sáng, anh chàng có tên là Ba Láp vào chùa, thấy bác Cửu Giới lạy Phật vừa ra. Ba Láp cười… xin trích nguyên văn đoạn mào đầu:
“- Chú rõ là mê tín, Phật tức tâm, tâm tức Phật, tôi có tâm, chú lạy tôi đây không hơn sao mà phải lạy Phật? Tôi chả lạy ai cả, mỗi buổi mai cứ đến trước bàn Phật nói: “Bonjour đức Phật” thôi.

Cửu Giới cười hả hả, lên ngồi trên ngựa chỉnh chệm và bảo:
– Anh lạy Cửu Giới đi.

Ba Láp trợn mắt:
– Xỏ lá, ai thèm lạy chú!

Thế tôi không có tâm sao? Ba Láp ngơ ngẩn:
– Chú có tâm nhưng mà… tôi không lạy.”

Bác dạy gì sau câu nói đó của Ba Láp trong mẫu chuyện cực ngắn ngang nhiên nằm trên trang đầu của một “Viên Âm” rất chi là đạo mạo? Bác giải thích cho Ba Láp vì sao ta lạy Phật, lạy Phật có lợi ích gì. Cười mà học… tiên học tếu hậu học văn[16].

Tếu thêm một chuyện nữa. Đời Tự Đức, có một ông tân khoa tiến sĩ xuất thân ở chốn quê mùa. Quý nhà nghèo mà học giỏi, vua thương ông tân khoa, đặc biệt mời ông vào cung xem một tuồng hát bội trong Duyệt Thị, lại cho ông được cầm trống chầu thưởng cho con hát. Xin chép nguyên văn:
“Vở tuồng hôm ấy là vở tuồng “Tống Nhạc Phi”. Người kép hát sắm vai Tần Cối rất đúng mực, nịnh từ giọng cười tiếng nói cho đến chưn tay bộ dạng, làm cho ông tấn sĩ mới tưởng thiệt, nổi giận đùng đùng, cầm roi chầu xông vào sân khấu đập tên kép hát lổ máu óc. Các quan lên can mà ông còn hết sức dằng xé, quyết đánh cho chết thằng nịnh là thằng Tần Cối. Một hồi lâu ông mới tỉnh lại, biết là tuồng hát thì hối hận vô cùng, cất mảo đi chân đến phục tội trước Ngai rồng”.

Bác dạy gì? Vấn đề rất cao xa, mà vô cùng dễ hiểu:
“Chúng ta vì vô minh nghiệp chướng mãi mãi trong sáu đường, hết thân này đến thân sau, nào khác chi một anh kép hát đóng tuồng trên sân khấu. Khi thì làm đàn bà, khi thì làm đàn ông, khi thì làm thiên thần, khi thì làm quỉ súc, đóng vai nào thì theo vai ấy, cũng vui, cũng khổ, cũng khóc, cũng cười, mà rốt cuộc có cái thân nào chắc là thân của mình đâu. Trong đường luân hồi, chúng ta đã đóng bao nhiêu vở tuồng…”[17].

Bài phát biểu đã dài, nhưng bệnh cười là bệnh hay lây, xin lạm dụng thêm một tiếng cười nữa của Bác:
“Đời xưa, một người con gái nhà giàu khờ dại lấy được một người chồng rất khôn ngoan. Một hôm, người vợ mua về một bình trà, gặp phải trà cũ, anh chồng uống không được, mới dặn người vợ rằng: Phàm mua trà Tàu phải mua mới, chứ trà cũ để lâu ngày thì không thể uống được. Vậy từ rày sắp sau phải cho nhớ đừng mua những thứ trà cũ nữa. Người vợ nghe lời chồng dặn lại hiểu lầm rằng hễ cái gì mới cũng tốt hơn cái cũ, nên hôm sau gặp người đến nhà bán lục bình thì người vợ đem cái lục bình xưa trong nhà ra đổi một cái lục bình mới, may nhờ người chồng hay được cản ngăn mới khỏi mất một vật quý báu vô giá”.

Bác dạy gì? Thì là tất cả những chuyện ta đã nói ở trên, chuyện của thời đại “Viên Âm”, của thời đại trước đó, của thời đại chúng ta, của văn hóa muôn đời: không phải cái gì cũ cũng dở, không phải cái gì mới cũng hay; vấn đề không phải là cũ hay mới, vấn đề là hay hay dở, lấy cái hay, bỏ cái dở.

Muốn cười với Bác thêm nữa, nhưng thôi, bài phát biểu đã dài, kính chào bái biệt, au revoir bác Thám.

Cao Huy Thuần

Tài liệu tham khảo

  1. Thích Trung Hậu và Thích Hải Ấn (sưu tập và giới thiệu), Tác phẩm của Bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, tập 5,
  2. Nguyễn Lang (19940, Việt Nam Phật giáo sửlược, tập 3, Nxb Văn Học, Hà Nội.
  3. Cao Huy Thuần (2002), Giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam, 1857-1914, Nxb Tôn giáo; Nxb Hồng Đức, Phương Nam (tái bản, 2014).
  4. Trí Quang (2009), Tâm Ảnh Lục, trọn bộ 4 cuốn, Nxb Văn hóa Sài Gòn, TP. HCM. 5. Viên Âm, số 15, 21,29

[ trích Kỷ Yếu Hội Thảo Khoa Học Cư Sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám và Những Đóng Góp Đối Với Hội An Nam Phật Học | PHẬT LỊCH 2562 | Ngày 10 & 11/4/2019 (06 & 07/3/Kỷ Hợi) | Tại Tổ đình Từ Đàm – Huế ]

_______________________________________

[1] Thích Trung Hậu và Thích Hải Ấn (sƣu tập và giới thiệu), Tác phẩm của Bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, tập 5, Nxb. Văn hóa Sài Gòn, tr115.
[2] Xin đọc thêm để rõ hơn: Cao Huy Thuần, Giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam, 1857-1914, Nxb Tôn giáo, 2002; nxb Hồng Đức / Phương Nam (tái bản) 2014, Chương Kết.
[3] Trí Quang (2009), Tâm Ảnh Lục, trọn bộ 4 cuốn, Nxb Văn Hóa Sài Gòn, tr 756.
[4] Thích Trung Hậu và Thích Hải Ấn (sưu tập và giới thiệu), Sđd, tập 6, tr176
[5] Trí Quang (2009), Tâm Ảnh Lục, Sđd, 755.
[6] Thích Trung Hậu và Thích Hải Ấn (sưu tập và giới thiệu), Sđd, tập 5, tr 140.
[7] Thích Trung Hậu và Thích Hải Ấn (sưu tập và giới thiệu), Sđd, tập 5, tr140.
[8] Trí Quang (2009), Tâm Ảnh Lục, Sđd, tr140.
[9] Thích Trung Hậu và Thích Hải Ấn (sưu tập và giới thiệu), Sđd, tập 5, tr 304-305.[10] Thích Trung Hậu và Thích Hải Ấn (sưu tập và giới thiệu), Sđd, tập 5, tr58
[11] Trí Quang (2009), Tâm Ảnh Lục, Sđd, tr133
[12] Viên Âm, số 15
[13] Thích Trung Hậu và Thích Hải Ấn (sƣu tập và giới thiệu), Sđd, tập 5, tr83.
[14] Viên Âm, số 15
[15] Thích Trung Hậu và Thích Hải Ấn (sưu tập và giới thiệu), Sđd, tập 5, tr207
[16] Viên Âm, số 21.
[17] Viên Âm, số 28.

Sunday, November 10, 2019

Đại lão Hòa thượng Thích Trí Quang: ‘Một trang lịch sử’

Đại lão Hòa thượng Thích Trí Quang: ‘Một trang lịch sử’

GS Cao Huy Thuần


Trưởng Lão Tỷ Kheo Thích Trí Quang (Ảnh: Thích Pháp Trí gởi)
Thầy tôi, Trưởng lão Hòa Thượng Thích Trí Quang, vừa thị tịch hôm qua, 8/11/2019. Di huấn để lại: không bàn thờ, không bát nhang, không báo tang, không phúng điếu, không vòng hoa, không đưa đám. Tôi chỉ xin phép Thầy thắp một nén nhang tưởng niệm.
Tôi có hai lần khai sinh. Lần thứ nhất khi tôi sinh ra. Cha mẹ tôi cho tôi hình hài, máu huyết. Nhưng tôi chưa biết tôi là ai, sống như thế nào, trên đường nào tôi sẽ đi. Sinh ra, tôi có hai mắt. Nhưng chưa thấy đường đời. Phải đợi đến khi lên chùa Từ Đàm, sau ngày ông Diệm bị lật đổ, tôi mới thấy con đường sẽ đi. Thảo nào chữ nghĩa bác học gọi con đường là đạo. Thấy đạo, tôi khai sinh cho tôi.
Đầu năm 1964, một nhóm giáo chức đại học Huế họp nhau tại trường Đại học sư phạm để quyết định về việc ra một tờ báo tranh đấu tiếp nối khí thế của “cách mạng” 1963, chống lại khuynh hướng lập một “chế độ Diệm không có Diệm” được người Mỹ ủng hộ. Trong dự định ban đầu, tờ báo là tiếng nói của lực lượng giáo chức và sinh viên Huế đã tham gia vào việc lật đổ Diệm.
Chuếnh choáng hơi men chiến thắng của một cuộc nổi dậy thành công, tham vọng của chúng tôi là biến đại học thành một thành trì chống độc tài. Tuổi trẻ thường có những giấc mơ phạm thượng. Buổi họp giao cho ba chúng tôi, anh Tôn Thất Hanh, anh Lê Tuyên và tôi, trách nhiệm suy nghĩ và điều khiển tờ báo. Tên của tờ báo, Lập Trường, là do chúng tôi đặt ra.
Lúc đó tôi 27 tuổi. Ít lâu sau buổi họp, tôi được mời ăn cơm với ông tướng chỉ huy Vùng I chiến thuật. Khi đó tôi mới thấy mình đang chơi một trò chơi quá so le trước gươm giáo, với một tuổi đời còn quá non và một tầm nhìn không xa hơn quyển sách. Quần chúng, tờ báo có. Nhưng dăm ba anh nhà giáo thì an ninh quân đội muốn tóm lúc nào chẳng được?
Nương thế “cách mạng”, chúng tôi ra báo không cần xin phép, nhưng anh sĩ quan tâm lý chiến đang ngồi ăn cơm chình ình trước mắt tôi, tôi qua mặt anh ta được chăng? Viết bài thì phải có lập trường chống Cộng hẳn hoi, anh ta khuyên nhủ thế, không chống Cộng tức là thân Cộng.
Tôi viết thế nào đây? Viết thế nào khi có một bức màn sắt chia hai giữa quân đội và quần chúng, một bên biện minh rằng đảo chánh Diệm là để chống Cộng tốt hơn, một bên đòi thanh trừng vây cánh của chế độ cũ để khỏi bị độc tài đàn áp nữa? Trong tình thế đó, Lập Trường là con chuột nhắt khốn đốn dưới nanh vuốt của ba con mèo: tướng tá, người Mỹ, và dư đảng Cần Lao của ông Diệm.
Về chiến thuật, chúng tôi có thể tạm thời tìm đường sống bằng cách khai thác mâu thuẫn quyền lực giữa các tướng tá cát cứ mỗi vùng để giữ một thế đứng độc lập ở miền Trung, làm đối trọng với thủ đô Sài Gòn. Nhưng đó không phải là một cái thế trường kỳ. Cũng về chiến thuật, chúng tôi có thể nói với người Mỹ: ông chống Cộng mà không có dân thì ông chống với ai? Ông hô hào tự do mà ông không để cho dân tự định đoạt vận mệnh của mình bằng lá phiếu thì ông tự do chỗ nào?
Nhưng đó là lấy lý nói với lý; trên thực tế người Mỹ đâu có làm chiến tranh vì lợi ích của dân Việt Nam? Chỉ với hai con mèo ấy thôi, chuột nhắt chúng tôi đã chưa biết tờ báo sẽ sống chết lúc nào. Nói gì con mèo thứ ba, các lực lượng tôn giáo quá khích, sinh ra và lớn lên nhờ chiến tranh. Chỉ với một lý luận này thôi, họ đã dồn chúng tôi vào chỗ bí: quốc sách đã là chống Cộng, vậy thì chỉ có chống Cộng với những lực lượng chống Cộng, không thể chống Cộng với những kẻ lừng khừng.
Chỗ dựa duy nhất của chúng tôi là quần chúng đang căm giận dư đảng của chế độ cũ. Nhưng quần chúng mà không có tổ chức thì khác nào gạch đá không có xi măng? Sự thế hiển nhiên thúc đẩy chúng tôi đi tìm xi măng. Nghĩa là lên chùa Từ Đàm! Chứ đâu nữa? Từ Đàm chẳng phải là nơi đã khởi đầu và tạo nội dung, hình hài, ngọn lửa cho cuộc tranh đấu hay sao?
Tôi phải kể rõ ngọn ngành như vậy để giải thích tại sao một tờ báo bắt nguồn từ đại học lại trở thành một tờ báo được xem như tiếng nói bán chính thức của Từ Đàm, nghĩa là của Phật giáo.
Chùa không làm chính trị: thái độ đó của Phật giáo chắc như đinh đóng cột. Lý tưởng của bọn trẻ chúng tôi cũng vậy, trùng hợp với chùa như bản chính với bản sao, có ông trời đóng dấu. Hồi đó, Sartre là ông thần triết lý của thời đại chúng tôi, và vở kịch “Les mains sales” của ông làm chúng tôi mê tít: chính trị là lĩnh vực của “những bàn tay bẩn” mà chúng tôi ghê tởm.
Chúng tôi đang say men tranh đấu, chưa thừa hưởng được bả rượu chính trị của các bậc trưởng thượng. Lên chùa Từ Đàm với tâm hồn phơi phới giống như đi tìm lại thời gian chưa mất, nói phỏng theo văn chương của Proust. Một lần nữa, tôi kể rõ ngọn ngành như vậy để trả lại cho César cái gì của César: tờ Lập Trường không phải là do chùa Từ Đàm lập ra, không phải là công cụ chính trị của Thầy tôi.
Thầy tôi, Trí Quang, ngồi trong phòng khách, nhìn ra sân khi chúng tôi đến. Thầy chào bằng một nụ cười, trên miệng và trên mắt. Hai mắt là cái hồn trên mặt Thầy. Mắt Thầy sáng quắc, dữ. Sau 1963, quần chúng thần tượng hóa lãnh tụ, kháo nhau “mắt Thầy có điện”.
Cặp mắt ấy quyến rũ tôi ngay từ phút đầu, không phải vì “có điện” mà vì nó trở nên hiền hòa ngay khi Thầy cười. Hai con mắt Thầy cùng cười với miệng, cái dữ biến đi đâu mất. Với cái hồn hiền hòa ấy trên mắt Thầy, tôi quên tuốt đã nói chuyện gì buổi chiều hôm đó, hình như chẳng có chuyện gì quan trọng, hình như cũng chẳng đề cập đến cả tờ báo, hình như giữa bản sao với bản chính có chuyện gì nữa đâu mà nói với ông trời.
Thế mà, khi từ giã Thầy, chúng tôi có cảm tưởng như mình đã là chiếc đũa trong một bó, muốn bẻ gãy cũng không dễ. Tờ báo ra đời sau đó. In ở nhà in đại học và trong sự chờ đợi nóng hổi của quần chúng, in bao nhiêu cũng không đủ bán, bán cũng không nghĩ đến chuyện thu tiền. Đó là giấy khai sinh thứ hai của tôi.
Tờ báo ra đời trong bối cảnh “cách mạng” 1963 bị phản bội. Lý lẽ của chiến tranh buộc người Mỹ ủng hộ tích cực những lực lượng chủ trương chiến tranh; những lực lượng này, được thể, quay lại trả thù những người đã tham gia lật đổ chế độ cũ. Diệm đổ, nhưng chính quyền Diệm vẫn còn y nguyên từ trung ương đến xã thôn, với bộ máy đàn áp không suy suyển.
Chiến tranh cho phép họ trả thù với một lý lẽ sơ đẳng và đui mù như bom đạn: chúng nó là cộng sản, chúng nó tiếp tay cho cộng sản, cộng sản mạnh lên là vì chúng nó. Chiến tranh còn cho phép họ trả thù những người cầm đầu phong trào một cách “hợp pháp” trâng tráo: tóm chúng nó đi lính là xong! Ai muốn hiểu những diễn biến chính trị trong những năm 1964-66 chỉ cần suy nghĩ trên sự đối đầu giữa hai tranh chấp về thừa kế: thừa kế Diệm hay thừa kế phong trào lật đổ Diệm.
Thừa kế Diệm tức là tiếp tục chiến tranh và dựa trên chiến tranh để nắm quyền. Thừa kế 1963 là đòi tuyển cử để lập một chế độ mới. Khí giới của phe kia là bom đạn. Khí giới của phe này là lá phiếu. Có một lúc, người Mỹ cũng bị phanh thây: họ thừa biết bom đạn không giải quyết được tất cả, làm chiến tranh mà không có dân thì khác nào lùa dân qua phía cộng sản. Nhưng, như một ngạn ngữ của họ đã nói, rốt cuộc “chim cùng lông thì cùng bay với nhau”.
Thế nhưng, oái oăm của thời cuộc, dân chúng cũng không phải là con số không, dù là trước mắt tướng tá. Lồng trong chiến tranh còn có một bối cảnh khác cũng lao xao binh khí: tranh giành quyền lực giữa các ông tướng chỉ huy các vùng chiến thuật.
Giữa họ với nhau, đảo chánh lật nhau không khó; giữ thế đứng của mình trong vùng cát cứ khó hơn, mà muốn thế phải dựa vào dân, trước hết là mấy ông “nhân sĩ” được dân nghe. Chúng tôi, ở miền Trung, có cái thế đó để đối đầu với các ông tướng ở Sài Gòn và đòi họ “cách mạng”.
Trong bối cảnh ấy, Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc ra đời tại Huế năm 1964. Do tờ Lập Trường chủ xướng, hành động này là để bảo vệ thành quả của 1963, chống lại một cuộc đảo chánh ở trung ương của phe tướng tá thân chế độ cũ.
Tổ chức này cũng vậy, không do Thầy tôi đẻ ra; lúc ấy Thầy đang ở Sài Gòn. Ai học lịch sử cách mạng Pháp đều biết Comité de Salut public. Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc là dịch nguyên văn tổ chức của Robespierre. Trong đầu bọn trẻ trí thức nửa mùa chúng tôi hồi đó, 1963 như được ủ hơi men của cách mạng 1789 thần thoại.
Ra đời chưa kịp khóc ba tiếng, các tỉnh ở miền Trung đã tức tốc đẻ theo, cùng một khuôn, một mặt, các HĐNDCQ địa phương. Tự động đẻ. Chẳng do chỉ thị một ai. Rồi cũng tự động, các HĐNDCQ khắp miền Trung kéo nhau về Huế để thống nhất đường lối. Tranh đấu trở thành chính trị.
Mà toàn là tự động! Ký giả ngoại quốc bắt đầu kéo nhau đến Huế, tưởng như sắp chứng kiến một màn thay bậc đổi ngôi. Người Mỹ lân la dọ ý chúng tôi về tướng Thi, tư lệnh Vùng I, tưởng như HĐNDCQ sắp sửa làm bàn đạp cho một người hùng mới. Miền Trung bỗng nhiên trở thành trung tâm chính trị mà Huế là đầu não một cách tự phát, tự phất.
Quần chúng hưởng ứng nhiệt liệt, chẳng cần biết lãnh tụ của HĐNDCQ là Bác sĩ Quyến hay là ai. Mơ hồ, họ chỉ thấy ai đó “đằng sau” tờ Lập Trường, nghĩa là Thầy tôi.
Họ thấy như vậy cũng không phải là vô căn cứ. Không có Thầy, sao lại có một “Thư về Huế” của Thầy đăng trong Lập Trường, ngày 23-5-1964? Thầy viết: “Tiếng “thầy” được kêu lên trong khi chết chóc, trong cơn điên loạn, trong những ngày Từ Đàm bị bao vây và tấn công như một chiến khu, tiếng “thầy” được gọi lên trong nước mắt và máu, tiếng “thầy” đó, tôi biết Phật tử Huế đã dành cho tôi”.
Giữa lãnh tụ và quần chúng, mấy ai có được sự gắn bó thiết tha như vậy. Chừng đó thôi, mấy lời tình cảm huyết lệ ấy đủ để quần chúng biết Thầy ở đâu mà đứng theo Thầy. Từ tờ Lập Trường cho đến HĐNDCQ, tôi lặp lại, trí thức ở Huế không phải là công cụ của Thầy, Thầy không nhúng tay vào bất cứ hành động nào của họ, nhưng không có Thầy thì họ không phải là họ, được dân thương đến thế.
Ai muốn hiểu Thầy tôi thì hãy hiểu Thầy qua ngọn lửa Quảng Đức, đừng lầm Thầy như một chính trị gia, vị thế đó thấp kém lắm, không xứng đáng với Thầy. Tự gánh trên vai trách nhiệm về ngọn lửa Quảng Đức, Thầy không thể cho phép thời cuộc phản bội lại ngọn lửa đó, chỉ thế thôi.
*
Nhưng thời cuộc không phải lúc nào cũng chiều Thầy. Miền Trung, trở thành một trung tâm chính trị, sẽ đưa Thầy vào một thế khó xử, khi tranh chấp giữa địa phương với trung ương leo thang đến mức ly khai. Ly khai? Sao nghe được! Nhưng bỏ quần chúng nửa đường, sao đành!
Thầy như một sĩ quan chỉ huy một chiến hạm bị địch bắn đắm, danh dự phải giữ là chịu đắm theo tàu. Đây là nguồn cơn của biến động miền Trung năm 1966. Một biến động đè nặng trong lòng Thầy, khó nguôi.
Bối cảnh của 1966 là chiến tranh lan rộng, tiến gần thành phố, ban đêm đại bác đã dội về tận Sài Gòn, làm rung cửa sổ. Từ chống chiến tranh, Phật giáo đứng lên đòi hòa bình, theo đề nghị của Thầy. Tiếng nói đó làm phiền cả hai bên, nhưng trực tiếp và sát cạnh là người Mỹ. Đòi cách mạng, họ còn nhịn. Đòi hòa bình, họ nổi khùng. Làm sao vượt qua chống đối của họ bằng chính triết lý căn bản của họ?
Thầy đòi bầu cử Quốc hội lập hiến. Trong khí thế sôi động ở miền Trung, Thầy nghĩ ảnh hưởng sẽ lan vào Sài Gòn và bầu cử sẽ bất lợi cho những ai chủ trương chiến tranh. Mà thật vậy! Không riêng gì miền Trung, toàn thể các tỉnh đến tận Sài Gòn, mọi tầng lớp dân chúng, chỉ trừ những lực lượng tôn giáo sống chết với chiến tranh, nhiệt liệt ủng hộ chủ trương bầu cử để thay thế chế độ tướng tá bằng một chính phủ dân sự.
Dân chúng biểu tình ở Sài Gòn, chiếm cả sân bay Tân Sơn Nhất, kêu gọi đình công, trương cả biểu ngữ “Yankee Go Home”. Miền Trung thì khỏi nói: ngay cả quân nhân, ngay cả tướng tư lệnh, cũng sát cánh với dân thường, cảnh sát, công an sát cánh với công chức, trí thức, sinh viên, thương gia, tạo nên một phong trào đòi hỏi bầu cử. Đố một ông tướng nào tại vị ở miền Trung mà dám đi ngược lại phong trào.
Đố Thiệu-Kỳ đưa được một tướng khác thay thế. Đố ông Kỳ lột chức được thị trưởng Đà Nẵng bằng cách nào khác hơn là dọa bắn vào đầu ông Mẫn. Phe quân đội chia hai: một bên là đồng minh của Thiệu-Kỳ, dựa trên những đảng phái và tôn giáo thánh chiến, sợ bầu cử sẽ có lợi cho Phật giáo; một bên là đồng minh của miền Trung, quân và dân hiếm khi một dạ một lòng như vậy.
Một lòng đến nỗi tư lệnh sư đoàn I huấn luyện quân sự cho sinh viên, thanh niên, phát vũ khí cho họ để bảo vệ Huế, tiếp ứng Đà Nẵng, dọa sẽ chống lại Kỳ nếu Kỳ dùng bạo lực.
Quân và dân sát cánh tại miền Trung thì người Mỹ sát cánh với Thiệu-Kỳ trong chiến dịch đàn áp và phân hóa Phật giáo. Họ sẽ phân hóa được bằng cách lập một cánh Phật giáo đối nghịch với Thầy tôi. Nhưng trước khi đó, họ thẳng tay đàn áp phong trào cái đã, tại Sài Gòn trước, tại miền Trung sau.
Phân hóa hay đàn áp, mục tiêu họ nhắm là Thầy tôi. Triệt hạ Thầy thì triệt hạ được phong trào hòa bình, đập nát được thanh thế miền Trung mà Westmoreland, mà Taylor, mà Lodge, mà Rostow xem như thành trì Phật giáo. Hơn thế nữa, triệt hạ Thầy tôi thì họ sẽ tương kế tựu kế tổ chức được một Quốc hội theo ý họ, gạt Phật giáo vĩnh viễn ra khỏi các cơ quan dân cử, leo thang chiến tranh. Súng đạn đi đầu lá phiếu.
Lấy cớ trừng phạt ly khai, ông Kỳ dồn đại quân ra Đà Nẵng, nhắm Huế. Dân chúng tự động đem bàn thờ ra ngoài đường để cản chiến xa từ Quảng Trị vào An Hòa. Trong vòng nửa giờ, các đường chính của thành phố Huế đã đầy bàn thờ Phật. Thầy nói: Thầy bị động.
Trước sự đã rồi, Thầy ra lệnh chính thức. Quần chúng thỉnh Phật ra đường, hương án trang nghiêm, tụng niệm như ở trong nhà, như ở trong chùa. Kỳ điều đình với Thầy. Thầy không trả lời. Kỳ giới nghiêm, tung tiểu đoàn “Trâu Điên” xung kích, bắn, bắt, đánh, đập, uống bia cho say rồi vung chai đập đánh, đánh cả sinh viên, học sinh.
Trước đó, binh sĩ Vùng I và sinh viên “quyết tử” đã quyết ăn thua đủ với Kỳ, dàn trận bên này đèo Hải Vân, chực nổ súng. Công binh đã đặt mìn, sẵn sàng phá hủy các cầu từ Đà Nẵng ra, từ Quảng Trị vào, cắt đứt tiếp vận từ Quảng Trị. Tại Huế, đại pháo và đại liên đã được bố trí dọc theo kỳ đài, chỉa xuống bộ tư lệnh giới nghiêm đóng tại Phu Văn Lâu. Quân nhân hỏi ý Thầy.
Đau xót: ông thầy tu trong Thầy không cho phép Thầy dùng bạo lực. Đưa bàn thờ ra đường là tranh đấu bất bạo động. Nổ súng là bạo động, Thầy đành bảo họ hủy mìn, dẹp súng. Nội chiến là chuyện Thầy không làm, dù hậu quả là cả quân lẫn dân Phật tử bị bắt, bị đàn áp sau đó.
Thất bại, Thầy đành chịu. Nhưng bất bạo động là kim chỉ nam của Thầy. Khí giới duy nhất của Thầy là tuyệt thực. Bị bắt và giải về Sài Sòn, Thầy tuyệt thực đúng 100 ngày.

Ảnh của Hạnh Phương
Trong biến cố 1966, một tờ báo lớn Mỹ đặt câu hỏi to tướng: Ông Trí Quang muốn gì? Muốn gì mà ông chống hết chính quyền này đến chính quyền khác? Muốn gì mà ông không biết nhân nhượng? Muốn gì mà ông đòi Quốc hội? Rồi muốn gì mà ông hết đòi Quốc hội lại chống Quốc hội?
Trong bấn loạn hỏa mù của đảo chánh và chiến tranh, của ngoại thuộc và nội chiến, nếu chịu khó nhìn và hiểu thì những gì mà Thầy tôi muốn cực kỳ đơn giản, có thể tóm gọn vào trong một bức thư, “Thư về Huế” mà tôi đã nói ở trên.
Thầy tôi muốn gì năm 1964? Dân đã lật ông Diệm thì cứ tưởng là rạng đông sẽ sáng sau đêm tối âm u. Nhưng ai ngờ! “Ai ngờ sự vận động để cải thiện chính sách thực đã không đơn giản như chúng ta tưởng. Đảo chính quá dễ nhưng cách mạng quá khó.
Hóa cho nên đời sống hiện tại của chúng ta và của tín ngưỡng chúng ta gần như vẫn ác mộng giống quá khứ và chưa chừng mà tiếp tục cả đến tương lai”. Thầy muốn gì? Muốn cái đuôi của ông Diệm không làm khổ dân và khổ Phật giáo.
Bằng cách nào? “Nỗ lực và nỗ lực một cách liên tục để chấm cho dứt những chính sách không phù hợp với sự sinh tồn của Dân tộc và Phật giáo, phát triển Phật giáo bằng sự thực hiện của bản thân mà không bằng cách làm thương tổn các tôn giáo khác, càng nêu cao đức tính Từ bi bao nhiêu lại càng thực hiện đức tính Vô úy bấy nhiêu: đó là “ý thức Phật tử” đơn giản vô cùng nhưng khó khăn vô tận”.
Đúng là khó khăn vô tận, vì Thầy thất bại năm 1966. Nhưng thế nào là “ý thức Phật tử” vào thời cuộc 1966? Là đại bác dội đêm, là chiến tranh, là phải hòa bình. Có người tưởng Thầy tôi đòi hỏi Quốc hội để chiếm đa số, để khuynh loát, để thủ diễn vai tuồng mới trên chính trường miền Nam.
Họ chịu khó nhìn chính trị ở miền Nam một cách lô gích thì biết Thầy tôi muốn gì: chừng nào còn chiến tranh, chừng đó còn người Mỹ; chừng nào còn người Mỹ, chừng đó còn bộ máy quân sự phục vụ chiến tranh; chừng nào còn bộ máy quân sự phục vụ chiến tranh, chừng đó còn những thế lực ăn theo chiến tranh; chừng nào còn những thế lực ăn theo chiến tranh, chừng đó Phật giáo còn bị đè xuống, chận họng.
Cách giải quyết vấn đề, đứng trên cương vị của một ông thầy tu, là tháo vất cái mắc xich đầu tiên, là chấm dứt chiến tranh! Thế là làm chính trị hay sao?
Thầy tôi mang đủ thứ tiếng. Có người nói Thầy thân Cộng. Có người nói Thầy thân Mỹ. Có lúc Thầy được đội cả hai cái mũ một lần. Lẳng lặng, Thầy nói với người thân: “Càng nhiều mũ càng tỏ ra thật không có mũ nào. Trái lại, càng nhiều mũ càng tốt: càng làm cao lên, và rõ ra, cái tư thế đặc biệt của Phật giáo. Nên Phật giáo không cần tránh mà còn cần đến cái tác dụng nghịch lý ấy”.
Chính cái nghịch lý ấy làm nên Thầy. Thầy là một nghịch lý to tướng. Một ông thầy tu có tầm cỡ và sức thu hút đặc biệt của một nhà chính trị lớn, lớn nhất miền Nam lúc đó, nhưng lại từ khước cái khả năng hiếm có ấy để làm ông thầy tu.
Câu hỏi mà các ký giả Mỹ đặt ra về Thầy không phải là không có căn cơ: họ bị Thầy thu hút như một tài năng chính trị, nên họ không thể tưởng tượng Thầy thật không muốn làm chính trị. Họ lầm.
Bây giờ thì chắc người ta hiểu Thầy hơn. Thời thế bắt buộc Thầy phải xông trận, như một người lãnh đạo. Nhưng đó là cái thế bất đắc dĩ của một ông thầy tu cỡ lớn, quá lớn để từ khước một trách nhiệm đặc biệt mà lịch sử bất thần đặt lên vai.
Nhưng Thầy không bị lịch sử lừa phỉnh để đi vào con đường khác với con đường của ông thầy tu. Cái vui thú của Thầy là lúc Thầy được xa cái chợ chính trị để làm cái việc của ông thầy tu là dịch kinh, giảng kinh. Trăm ngày tuyệt thực, đó là lúc Thầy vui. Vì Thầy làm được cái việc Thầy muốn: viết được hai bản thảo “Nghiên cứu Khởi tín luận” và “Khảo luận Tây du bằng Duy thức học”.
Ông thầy tu tuyệt thực như thế nào, với tâm trạng gì? Thầy nói: “Có hai việc mà tuyệt thực tuyệt đối phải có.
Một là phải có một tâm thức thanh thản, không buồn, không giận, không cầu hồ gì. Không cầu chết cũng không sợ chết, tiếp cận hoàn toàn với đức hỷ xả của Phật.
Hai là tuyệt đối không ăn, dĩ nhiên, cũng không uống, không chích bất cứ thứ gì”. Thân thì không ăn uống, tâm thì hỷ xả. Ấy là ông chính trị gia hay ông thầy tu?
Thầy tôi có thắng có bại trong hành động, như bất cứ ai hành động. Nhưng thắng, Thầy dành cho người khác hưởng; bại, Thầy nhận một mình. Thắng hay bại, Thầy đều cô đơn. Suốt đời, Thầy cô đơn. Sau mỗi tranh đấu thắng lợi, bao giờ cũng có lắm anh chính khách xun xoe sau lưng các lãnh tụ.
Ai tranh đấu bên cạnh Thầy chỉ hưởng cơm hẩm nước rau. Suốt đời, Thầy không nhân nhượng với cái gian, cái ác, cái xảo quyệt, cái ma lanh ma lẹ của bán buôn chính trị. Về riêng Thầy, có lần tôi nghe Thầy nói một câu bâng quơ: nước trong quá thì không có cá. Có gì để nhậu nhẹt trong cái am của Thầy đâu!
Ai chơi hoa, cắm hoa đều biết: dù hoa thanh khiết đến bao nhiêu đi nữa, sau ba ngày thì nước trong bình bắt đầu hôi. Có kẻ chỉ thấy hoa đẹp, không thấy nước hôi. Thầy thấy nước hôi, không dùng hoa đó để cúng Phật. Tôi học được ở Thầy cái nhìn đó để không sợ cô đơn trong cuộc đời. Và trong sự thật.
*
Thầy sống cô đơn như vậy từ sau 1975 đến nay, không màng thế sự, khen chê, không thanh minh, không tiếp khách. Thầy sống như Thầy đã tuyệt thực, thanh thản dịch kinh. Thầy sống như để trả lời câu hỏi về Thầy ngày trước: Thầy chỉ là một ông thầy tu không hơn không kém, bây giờ cũng như bao giờ.
Có điều là ông thầy tu này có cặp mắt sáng quắc, dữ thì thật dữ mà hiền thì thật hiền, khi dữ thì Vô úy, khi hiền thì Từ bi, hai chữ đỏ như son trong Lập Trường ngày trước. Tôi không biết nên nói gì với tuổi trẻ ngày nay ngoài hai chữ mà tôi đã học được ngày xưa.
Vô úy, ai cũng đã thấy nơi Thầy. Không sợ! Còn Từ bi? Từ bi không phải chỉ là lòng thương. Phải là lòng thương nào có thể vừa cho vui vừa cứu khổ. Điều này, Phật tử ai cũng rõ. Nhưng ít ai biết tại sao phải từ bi như là một định luật.
Thầy giảng: tại vì sống là tương quan, không ai có thể sống một mình, cho nên sống là phải giúp nhau, cho vui và cứu khổ lẫn nhau. Lòng từ bi đó tạo cho mình cái nhìn bình đẳng: thấy tất cả đều khổ, do đó mình phải cho vui và cứu khổ hết thảy.
Thầy giảng, tôi hiểu suốt. Và tôi biết đó là lý tưởng của Thầy, Thầy sống như vậy. Nhưng thắc mắc của tôi là ông thầy tu của tôi từ bi như thế nào trong những hành động mà dù muốn dù không cũng mang tính chính trị? Tôi đọc Thầy: “Cứu cánh của từ bi là thấy người với mình là một, thân người tức thân ta…
Do từ bi, mình tự đưa mình ra chịu khổ cho người. Xem tất cả như con một, thấy thân người như thân mình, thì còn có gì mà không làm nổi?”
Thầy tôi rất Thầy tôi ở mấy chữ “còn có gì mà không làm nổi”. Người ta nể Thầy, sợ Thầy, phe nào cũng sợ Thầy là vì ở Thầy toát ra mấy chữ ấy. Nhưng cái gì nơi người ta sợ Thầy? Cái gì sợ từ bi? Cái ác! “Nhất là vào thời đại này – Thầy viết – thời đại mà về mặt tâm lý ta có thể thấy rõ rệt khắp đây đó hiện thân của lòng tàn ác.
Tàn ác, như một ngọn lửa tỏa khói đen nghịt và cao ngất, phủ bọc lấy loài người đau khổ. Mà chống lại lòng tàn ác thì chỉ có lòng từ bi”.
Phải đọc thêm một câu nữa để thấy văn tức là người, giọng văn của Thầy thế nào thì Thầy sắc như thế ấy, hiện thân ra như thế ấy trước mắt đối phương, nghĩa là cái ác: “Bởi vậy, kẻ nào mỉa mai rằng thời đại này mà còn nói đến chuyện từ bi, thì kẻ ấy chính là kẻ đang tàn ác.
Kẻ nào trực tiếp hay gián tiếp làm tổn thương đến uy lực của từ bi là kẻ tội ác của nhân loại, kẻ gieo thảm họa cho loài người. Nếu phải thí dụ kẻ đó là kẻ ma quân thì ma quân ấy chỉ khiếp sợ mỗi một tâm lý độc nhất, tâm lý từ bi mà thôi”.
Tôi gặp Thầy tôi khi lịch sử Phật giáo và lịch sử chính trị miền Nam mở đầu một giai đoạn mới với ngọn lửa Quảng Đức. Lịch sử đã chọn Thầy tôi làm kẻ đứng mũi chịu sào trong giai đoạn đó vì lịch sử biết Thầy chống cái ác như thế nào với một tâm lý gì.
Bốn phương tám hướng đều thấy: ngọn lửa Quảng Đức là ngọn lửa từ bi. Riêng tôi, ở trong tầm mức thấp bé của một người thường, tôi thấy ngọn lửa đó tiếp tục cháy trong mấy câu hoài niệm Thầy viết cho Lập Trường nhân ngày giỗ đầu của 7 em bé bị đạn của lính ông Diệm bắn chết trước đài phát thanh Huế đêm Phật Đản 1963: “Tôi, cho đến bây giờ, vẫn không sao nguôi ngoai được tâm trạng của một người nhìn thấy đống xương thịt máu huyết bị hất vào một góc tường, xương thịt máu huyết của những kẻ thân yêu mới cười nói với mình trước đó không quá 10 phút! Biết bao giờ, hay sẽ không bao giờ, con người bớt tàn bạo, biết xấu hổ vì tội ác của mình, để con người đừng kinh hãi vì con người”.
Thầy tôi đi vào lịch sử chỉ vì thế: chỉ vì Thầy tự đưa thân ra gánh lấy cái khổ của quần chúng Phật tử, chỉ vì trong xương máu của Thầy có xương máu của 7 em bé trắng trong chết vì cái ác, chỉ vì Thầy lấy cái ác làm kẻ đồng hành khiêu khích không ngừng.
Về Thầy, tôi nghĩ chỉ có chuyện ấy là đáng nói. Còn tất cả chỉ là một nhầm lẫn to tướng không cần cải chính, bình luận: người ta tưởng nhầm Thầy muốn làm Richelieu, hồng y, thủ tướng của vua Louis XIII nước Pháp. Sự thực, Thầy tôi muốn cao hơn thế: Thầy muốn làm ông thầy tu.
Nguồn: BBC