Showing posts with label Nguyên giác. Show all posts
Showing posts with label Nguyên giác. Show all posts

Saturday, July 28, 2018

Nhật Bản và Tín Ngưỡng Quan Âm

Nhật Bản và Tín Ngưỡng Quan Âm
Nguyên Giác

Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, còn gọi là Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, có khi còn gọi là Đức Phật Quan Âm, được Phật tử nhiều quốc gia Châu Á thờ phượng vì hạnh nguyện hóa hiện nhiều thân tướng để cứu độ chúng sanh. Riêng đối với Nhật Bản, nơi nhiều tông phái Tịnh Độ thịnh hành, hình tượng Đức Quan Âm hiện diện trong rất nhiều chùa, trong các tuyến hành hương, và trong văn học. Bạn chỉ cần đi vào bất kỳ ngôi chùa nào tại Nhật Bản, nhiều phần là bạn sẽ gặp tượng Đức Quan Âm, hoặc là nghìn tay nghìn mắt gọi là Senju Kannon (Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm), hoặc là một hóa thân của ngài là tượng Đức Chuẩn Đề 18 tay, nhưng thường gặp nhất là tượng Quan Âm Nam Hải trong bộ áo trắng.
Chúng ta có thể đọc trong thơ của Basho (1644-1694) hình ảnh nhà thơ đứng nơi gác chuông Chùa Kannon (Quan Âm Tự) nhìn xuống núi, thấy mái ngói chùa trôi nổi trong các chùm mây hoa anh đào:
Mái ngói Chùa Quan Âm
trôi dạt xa trong mây
của các chùm hoa anh đào.
.
Hay là thơ của thi sĩ Taigu Ryokan (1758-1831):
Gió đã lặng rồi
nhưng hoa vẫn còn rơi
chim hát, tịch lặng trong mỗi lời chim.
Huyền nhiệm! Không có thể biết, không có thể học
Đức hạnh Ngài Quan Âm.
.
Tín ngưỡng Quan Âm gắn liền với văn học Nhật Bản, y hệt như tại Việt Nam hay Trung Hoa. Nhưng cũng gắn liền với khoa học kỹ thuật: chiếc máy ảnh hiệu Canon nổi tiếng thế giới, chiếc đầu tiên ra năm 1934 đặt tên là máy ảnh Kwanon (tức là: Quan Âm) – kiểu đầu tiên này là loại máy ảnh 35 mm đầu tiên của Nhật Bản. Tuy nhiên, sau khi ra thị trường Tây Phương, công ty đổi tên vì khó đọc chính xác, và khó viết cho đúng chánh tả, nên công ty Precision Optical Industry Co. Ltd. đổi tên là Precision Optical Industry Co. Ltd. năm 1934, và rồi đổi thành Canon Inc. năm 1969. Tên máy ảnh Canon là phát âm gọn của người Nhật Bản cho chữ Kannon (Quan Âm).
H1: Huy hiệu cũ của máy ảnh tiền thân của Canon (Quan Âm).

    Không chỉ văn học và khoa học kỹ thuật, hình ảnh Quan Âm in đậm trong tín ngưỡng  của dân Nhật Bản. Từ nhiều thế kỷ, Phật tử Nhật Bản có niềm tin rằng cần phải hoàn tất cuộc Hành Hương 100 Chùa Quan Âm – tiếng Nhật là Nihon Hyaku Kannon, tiếng Anh là “The  Japan 100 Kannon Pilgrimage.”

Tuyến hành hương 100 chùa đó chia làm ba tuyến đường độc lập nhau: tuyến Saigoku 33 Kannon, trong vùng Kansai, gồm 33 chùa; tuyến Bandō 33 Kannon, trong vùng Kantō, gồm 33 chùa; tuyến Chichibu 34 Kannon trong vùng Chichibu, Saitama, tuyến này ban đầu  chỉ 33 chùa, nhưng năm 1525 được xây thêm một ngôi chùa cho tròn 100 ngôi chùa để hành hương.
Tại sao con số 33 được ưa chuộng trong tín ngưỡng Quan Âm? Bởi vì trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (The Lotus Sutra), ghi rằng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giải thích cho Vô Tận Ý Bồ Tát về ý nghĩa của danh hiệu Quán Thế Âm là do vị Bồ tát này khi nghe âm thanh của chúng sanh xưng danh hiệu mình thì tức thời tầm thanh để cứu khổ. Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sanh bị các khổ não nghe đến danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, một lòng xưng danh Ngài thì ngay khi đó, Bồ Tát Quán Thế Âm tức thì quán sát âm thanh ấy, khiến cho họ đều được giải thoát. Và ngài hiện ra 33 ứng hóa thân, cũng là vô lượng thân trong sáu cõi để cứu độ.
Những gì chúng ta đọc trong sách sẽ khác với những gì chúng ta có thể thấy ở Nhật Bản. Và ngay cả chùa Nhật Bản cũng không giống gì với chùa Việt Nam. Một điểm dị biệt lớn là, trong khuôn viên Chùa Nhật Bản thường có một khu vực riêng để làm một ngôi đền Thần Đạo.
Trong chuyến đi thăm Nhật Bản trong tháng 4/2018, ngôi chùa đầu tiên tôi được dẫn tới thăm là Kiyomizu-dera Temple, tức là Thanh Thủy Tự, thời Đức Quan Thế Âm trên đồi Âm Vũ Sơn.
H2: Chùa Thanh Thủy Tự (Kiyomizu-dera) ở núi Âm Vũ Sơn, Kyoto.

H3: Ba dòng nước từ núi dẫn xuống, sau Chùa Thanh Thủy Tự.

H4: Cả thị trấn từ chân núi lên Thanh Thủy Tự nhìn đâu cũng thấy du khách chen nhau.

Người hướng dẫn đoàn du lịch từ Quận Cam (California) là anh Trần Nguyên Thắng, Giám đốc ATNT Travel & Tours (
www.atnttour.com). Cùng học với tôi từ thơ ấu, năm 1970 bạn Thắng có Tú Tài 2 xong là sang Nhật Bản du học, trở thành kỹ sư và làm việc với hãng Nhật hơn hai thập niên, sau đó mở công ty hướng dẫn du lịch trụ sở ở Quận Cam. Do có người hướng dẫn như vậy, kiến thức của bạn Thắng về lịch sử, văn hóa và xã hội Nhật Bản gần như toàn bích. Những bản văn trên các bia đá được Thắng dịch và giải thích bằng tiếng Việt rất rành mạch.
Thanh Thủy là nước trong. Kiyomizu-dera là một ngôi chùa độc lập ở phía đông Kyoto, là một phần của Di sản văn hóa cố đô Kyoto theo UNESCO. Theo lược sử trong tờ bích chương tiếng Anh của chùa, cho biết chùa này xây từ năm 778. Nguyên khởi vì nhà sư tên là Enchin có một giấc mơ về một dòng sông vàng chảy từ ngọn núi Otowa phía trên Kyoto. Khi thức giấc, nhà sư lên thăm ngọn núi đó, gặp một ông cụ đúng nơi thấy trong giấc mơ. Ông cụ Gyoei nói với nhà sư Enchin rằng ông cụ ở đó đã 200 năm, hàng ngày cầu nguyện Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Ông cụ Gyoei xin nhà sư Enchin vào thay chỗ, để ông cụ có thể ra đi hành hương và nói hy vọng sẽ quay lại. Trước khi ra đi, ông cụ chỉ vào một thân gỗ đã chặt, nói đó là gỗ tốt, nếu nhà sư muốn tạc tượng Đức Quan Âm.
Ông cụ Gyoei không bao giờ quay lại. Nhà sư Enchin mới đi tìm ông cụ, và chị thấy đôi giày ông cụ để nơi đỉnh núi. Nhà sư tin rằng ông cụ là một hóa thân của Đức Quan Thế Âm, nên cho dùng thân gỗ đã nói để tạc tượng Đức Quan Âm. Nhưng nhà sư Enchin loay hoay hoài, không tạc tượng được, suốt 20 năm. Lúc đó, có một lãnh tụ chiến binh (thời đó gọi là samurai) tên là Tamuramaro cảm ngộ ơn đức của nhà sư, nên bảo trợ việc xây chùa, cho gỡ toàn bộ căn nhà riêng của quan chức này và xây lại trên núi làm chùa cho nhà sư Enchin hoàn tất việc tạc tượng Đức Quan Âm.
Anh Trần Nguyên Thắng kể sự tích có hơi khác với sách hướng dẫn trên, nói rằng thời đó, phu nhân của lãnh tụ samurai kia bị sản nạn, sinh khó, cho nên vị tướng quân này mới chạy lên xin nhà sư Enchin cầu nguyện giúp. Nhà sư nói rằng nơi ngọn núi có 3 dòng nước nhỏ, và tướng quân nên hứng nước về cho phu nhân uống, trong khi nhà sư tụng kinh cầu nguyện. Cuối cùng mẹ tròn con vuông, tướng quân mới bảo trợ tất cả việc xây chùa thờ Đức Quan Thế Âm, và ngôi chùa này có tên là Thanh Thủy Tự, tức là nước trong tinh khiết.
Ngôi chùa bị cháy nhiều lần, và rồi được xây lại nhiều lần. Trong các quan chức giúp xây lại có Toyotomi Hideyoshi, vị tướng quân có công dẹp nạn sứ quân và thống nhất Nhật Bản vào thế kỷ thứ 16. Nhưng kiến trúc như hiện nay là xây hoàn tất năm 1633, với bảo trợ của Tokugawa Iemitsu, vị tướng quân đời thứ 3.
Có tin hay không là một chuyện, nhưng du khách tới là xếp hàng một tới 3 dòng nước được dẫn qua ống tre từ núi chảy xuống. Bạn Trần Nguyên Thắng hướng dẫn cách dùng gáo nước, sau khi múc nước từ từng dòng, đổ ra bàn tay và uống một chút, cầu nguyện hay không thì tùy, rồi đưa gáo nước vào dãy làm sạch vi trùng bằng tia sáng cực tím. Theo người Nhật tin tưởng, uống nước từ ba mạch nước này sẽ giúp thực hiện điều nguyện ước, ngoài ra còn sẽ trường thọ, khỏe mạnh và thành công trong việc học hay kinh doanh.
Đặc biệt trong khuôn viên Thanh Thủy Tự có một đền thờ của Thần đạo. Đền thờ này là đền Jishu (Jishu jinja) thờ Okuninushi - thần của tình yêu và đôi lứa. Bạn Trần Nguyên Thắng nói, dân Nhật gọi đền này là Đền Cầu Duyên, nghĩa là người cô đơn sẽ về gặp tình yêu thuận lợi. Nơi sân đền là hai tảng đá ngầm, nhô lên mặt đất một phần, cách nhau 18 mét: nếu người cầu duyên nhắm mắt, bước đi  từ tảng đá này sang đặt chân đúng lên tảng đá kia, thế nào cũng sẽ gặp mối lương duyên tốt đẹp.
Dĩ nhiên, chùa Kiyomizu-dera và đền cũng có những lá bùa khác nhau, có xin xăm. Nếu gặp xăm tốt, bạn sẽ cầm về nhà, chờ điều tốt lành tới. Nếu gặp lá xăm  xui xẻo, dân Nhật sẽ buộc lá xăm xui xẻo đó vào một nơi trước sân đền Thần Đạo, để mọi chuyện xui xẻo cho Đức Phật và chư Thần gánh chịu, hóa giải.
Ngôi chùa Thanh Thủy Tự thu hút đông du khách, do vậy cả thị trấn có đủ thứ kinh doanh trên lối đi từ chân núi lên chùa: tiệm ăn, tiệm kỷ vậy, tiệm cho thuê trang phục kimono để du khách chụp hình, tiệm bánh có đủ loại bánh đặc sản, tiệm trà, và vân vân. Nghĩa là, một ngôi chùa có thể nuôi sống cả một thị trấn.
Trong chuyến đi, đoàn du khách do ATNT hướng dẫn cũng tới thăm Công Viên Hòa Bình Heiwa-koen. Ngôi kiến trúc chính của công viên là Tứ Động Tâm, trên kiến trúc khắc 4 bức phù  điêu kể lại 4 hình ảnh thiêng liêng của Đức Phật: Khi Đức Phật đản sanh ở Lumbini (Lâm Tì Ni), khi Đức Phật thành đạo ở Bodhgaya (Bồ Ðề Ðạo Tràng), khi Đức Phật chuyển pháp luân-thuyết pháp lần đầu tiên cho năm anh em Kiều Trần Như ở vườn Sarnath (Lộc Uyển), và khi Đức Phật nhập Niết bàn ở Kusinara (Câu Thi Na).
Nơi đây đi vòng phía sau kiến trúc Tứ Động Tâm dẫn xuống một lối đi bộ hành ven rừng, dọc lối đi là 33 pho tượng Đức Phật Quan Âm, tượng trưng 33 ứng hóa thân để cứu độ chúng sinh. Mỗi pho tượng Đức Quan Thế Âm đứng hay ngồi theo những tư thế khác nhau, tùy hóa thân vào các cõi khác nhau.  Khi đứng trong công viên, có thể nhìn thấy phía xa là ánh mặt trời chiếu lên núi Phú Sĩ.
Kiến trúc tháp Tứ Động Tâm nơi Công viên Hòa Bình trên là do một chi nhánh của Nhật Liên Tông xây lên. Một trụ khổng lồ giữa sân trước, có khắc chữ Nhật đọc sang tiếng Việt là “Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh.”
H5: Nhóm du khách đi tour với ATNT chụp hình lưu niệm ở lối đi ven rừng Công Viên Hòa Bình có 33 tượng Phật Quan Âm.
H6: Ngôi chùa cổ nhất Tokyo, nổi tiếng Đức Quan Âm linh thiêng, với 30 triệu du khách/năm.


H7: Du khách chen nhau tại khu phổ tới ngôi chùa cổ nhất Tokyo mua sắm tưng bừng.







Trong khi đó, Tokyo có một ngôi chùa nổi tiếng linh thiêng khác là Chùa Quan Âm Asakusa. Nguyên cả một khu vực quanh chùa là thị tứ, bán đủ thứ, trong đó chùa chỉ là một phần nằm trong một góc Tokyo, nhưng chùa Phật Quan Âm Thiên Thủ (Senso-ji) này nổi tiếng cầu xin là được, theo niềm tin dân Nhật Bản.  Gọi như thế là cho tiện, thực ra theo Wikipedia, chùa có tên là Kinryū-zan Sensō-ji, dịch ra tiếng Việt là Thanh Long Sơn Thiên Thảo Tự. Chùa nằm trong khu phố cổ Tokyo. Đây là ngôi chùa cổ nhất tại Tokyo, mang nhiều lịch sử nhất. Kế bên chùa 5 tầng lầu là một ngôi đền Thần Đạo, trong khu chung quanh là cả một vùng phố thị buôn bán đủ thứ, trong đó du khách tới viếng Chùa Thiên Thủ trung bình mỗi năm là 30 triệu người, cả du khách trong và ngoài nước tới. Đây là một trong 10 chùa Nhật Bản đông du khách nhất.
Hãy hình dung một ngôi chùa nào ở Sài Gòn hay Hà Nội thu hút 30 triệu du khách một năm. Thí dụ, Chùa Vĩnh Nghiêm ở Quận 3, Sài Gòn nếu thu hút số lượng du khách đông như thế, nghĩa là cả một quận 3 sẽ sống thuần nhờ ngành du lịch. Niềm tin linh thiêng đã thu hút người tới để cầu xin.
Ngôi chùa đó xây riêng cho việc thờ phượng Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Theo truyền thuyết, một pho tượng Đức Quan Thế Âm được tìm thấy trên sông Sumida trong năm 628 bởi hai ngư dân, anh em Hinokuma Hamanari và Hinokuma Takenari. Trưởng làng, là ông Hajino Nakamoto, đã công nhận sự thiêng liêng của bức tượng và ông đã tu sửa ngôi nhà của mình thành một ngôi chùa nhỏ ở Asakusa, để người dân có thể thờ phượng Đức Quan Thế Âm. Ngôi chùa được xây dựng vào năm 645, và là ngôi chùa cổ nhất Tokyo. Trong những năm đầu của Mạc phủ Tokugawa, Tướng quân Tokugawa Ieyasu xem chùa này như đền thờ hộ mệnh của gia tộc Tokugawa.
Tự Điển Bách Khoa Mở ghi rằng một chiếc lồng đèn giấy lớn được treo dưới cổng Kaminari-mon ở lối đi chính dẫn vào khuôn viên của chùa. Đi qua cổng là con đường thẳng dẫn về phía bắc đến cổng Hozo-mon và điện Kannon-do (Quan Âm Đường). Con đường nằm ở hai cổng dài khoảng 250 mét, ngang qua phố Nakamise. Ở đây có các cửa hàng nhỏ san sát nhau, bán đủ mọi thứ, từ đồ lưu niệm đến những bánh bao manju và những con búp bê. Những chiếc quạt đầy màu sắc (có cả hai kiểu xếp được và không xếp được), ô dù và những chiếc lồng đèn, những chiếc áo happi, băng trò chơi điện tử…
Nếu bạn đang cư ngụ tại Nam California, và nếu bạn theo dõi băng tần truyền hình NHK của chính phủ Nhật Bản, trên làn sóng này vẫn thường chiếu hình ảnh về nhiều lễ hội  tại khu phố Asakusa của Tokyo – trong đó có nhiều lễ hội quanh năm, có lẽ là để thu hút du khách, nhưng nổi tiếng nhất là Sanja Matsuri, còn có tên là Sanja Festival vào tháng 5 hàng năm, trong đó các ngai thờ và các xe hoa được đưa tuần hành khắp trên đường phố trong ba ngày lễ hội, thường có  khoảng 1.5 triệu người tham dự lễ hội tưng bừng.
Đó là chỉ mới nói về tín ngưỡng Quan Âm trong chuyến đi Nhật Bản. Chuyến đi cũng ghé thăm nhiều ngôi chùa khác, nhưng không thờ riêng về Đức Quan Thế Âm Bồ Tát như các ngôi chùa kể trên. Mỗi ngôi chùa đều có những huyền thoại từ cả chục thế kỷ trước, có những niềm tin linh thiêng riêng. Thí dụ, như Thiên Long Tự (Tenryu-ji) ở chân núi Aashiyama, được bạn Trần Nguyên Thắng giải thích là tổ đình Thiền Phái Lâm Tế, nơi tấm tranh vẽ khổng lồ Bồ Đề Đạt Ma đặt ngay lối vào chánh điện. Hay ngôi chùa Todai-ji (Đông Đại Tự) thờ Đức Phật Tỳ Lô Giá Na của dòng Chân Ngôn Tông, nơi khuôn viên là cả trăm con nai hiền lành đi chen với người. Và một số ngôi chùa khác, không chuy6n biệt thờ Đức Quan Âm.
Nhật Bản là đất nước nhìn đâu cũng thấy hình ảnh đẹp, thơ mộng, sạch, tử tế… Cũng xin gửi lời cảm ơn người hướng dẫn Trần Nguyên Thắng, đã dịch các văn bia tiếng Nhật ra tiếng Việt rất cặn kẽ để giúp các thông tin đặc biệt cho bài viết này.


Sunday, July 22, 2018

Nghĩ Về Án Tử Hình

Nghĩ Về Án Tử Hình
Nguyên Giác

Người con Phật nghĩ gì về án tử hình?
Đứng về phương diện cá nhân, rất minh bạch rằng không Phật tử nào ủng hộ án tử hình. Đứng về phương diện quốc gia, thực tế là rất nhiều quốc gia -- nơi Phật giáo gần như quốc giáo, như Thái Lan, Miến Điện, Sri Lanka… -- vẫn duy trì và thực hiện án tử hình.
Tại Thái Lan, án tử hình dùng để trừng phạt cho 35 tội hình sự, trong đó có tội sát nhân và buôn ma túy. Miến Điện cũng thế. Điểm hay là ở chỗ, hai quốc gia này tuyên án tử hình, nhưng rất ít khi thi hành án tử.
Các quốc gia có đông dân số Phật tử -- như Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Singapore, Đài Loan… -- vẫn áp dụng án tử hình, và thường xuyên thi hành án tử.
Về phía kinh điển, lời dạy rất minh bạch. Kinh Pháp Cú, bản dịch của Hòa Thượng Thích Minh Châu viết:


129. Mọi người sợ hình phạt,Mọi người sợ tử vong.Lấy mình làm ví dụKhông giết, không bảo giết.


130. Mọi người sợ hình phạt,Mọi người thương sống còn;Lấy mình làm ví dụ,Không giết, không bảo giết.


Trong Kinh Trung Bộ 21 -- Kinh Ví dụ cái cưa, Đức Phật nói cụ thể rằng cho dù có bị một bọn cướp cưa tay, rồi cưa chân thì mình cũng đừng bao giờ khởi tâm căm giận, phải luôn luôn mở tâm từ bi hướng về những tên cướp đó. Bản dịch của Hòa Thượng Thích Minh Châu trích như sau:
“…Chư Tỷ-kheo, như những kẻ đạo tặc hạ liệt, dùng cưa hai lưỡi mà cưa tay, cưa chân; dầu vậy, nếu một ai ở đây khởi ý nhiễm loạn, người ấy do vậy không phải là người thực hành giáo pháp của Ta. Ở đây, chư Tỷ-kheo các Ông phải học tập như sau: “Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm; chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ; chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận. Chúng ta sẽ sống bao phủ người này với tâm câu hữu với từ. Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân”. Chư Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như vậy.”
Khó, rất khó vậy. Đó là phương diện tu học. Về phương diện trị nước, là khác. Vì khi quốc biến, người Phật tử phải ra trận, bất đắc dĩ phải phạm nghiệp sát, đó là lúc cần khởi Bồ đề tâm để không lạc tâm vào bất kỳ những niệm dữ nào.
Nhưng, câu hỏi là, án tử hình có hiệu lực trị an, có thể giúp xóa các tội về ma túy, sát nhân, cướp bóc hay không? Đây là cuộc tranh cãi lớn của nhiều thập niên vừa qua. Tất cả các quốc gia đang duy trì án tử hình đều xem đó là giải pháp ngăn cản tội ác hữu hiệu nhất.
Mạng Wikipedia ghi nhận rằng Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã thông qua, trong năm 2007, 2008, 2010, 2012 và năm 2014, các nghị quyết không ràng buộc kêu gọi đình chỉ tử hình toàn cầu, nhằm cuối cùng bãi bỏ. Tại các quốc gia thành viên Liên Âu, theo Hiệp ước Lisbon, Điều 2 của Hiến chương các Quyền Căn bản của Liên minh châu Âu cấm hình phạt tử hình. Ngoài ra, hội đồng châu Âu, mà có 47 quốc gia thành viên, cấm các quốc gia thành viên áp dụng luật tử hình. Ngược lại, nhiều quốc gia như Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Singapore... vẫn sẽ duy trì án tử hình với mục đích tạo hình phạt đủ sức răn đe với các loại tội phạm nghiêm trọng, nhằm đảm bảo an ninh chung cho xã hội. Hơn 65% dân số thế giới sống tại các quốc gia nơi có án tử hình, và bốn quốc gia đông dân nhất thế giới (Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Ấn Độ, Hoa Kỳ và Indonesia) vẫn đang áp dụng hình phạt tử hình và dường như sẽ không xoá bỏ nó trong một tương lai gần.
Tính đến cuối năm 2015, trên thế giới 65 quốc gia vẫn còn luật tử hình, 103 quốc gia đã hoàn toàn bãi bỏ luật này, 6 nước bãi bỏ cho những tội thông thường (chỉ tuyên tử hình với những tội đặc biệt như tội ác chiến tranh), và 30 bãi bỏ trên thực tế.
Có nhiều quốc gia giữ kín các thống kê về án tử hình.
Trong một thống kê về năm 2017, cho thấy Trung Quốc là nơi ra nhiều án tử hình nhất, và thực thi nhiều án này nhất thế giới. Rồi tới các quốc gia Hồi giáo.
Nếu nói rằng quốc gia đông dân, tất có nhiều án tử hình, điều này chỉ đúng với Trung Quốc, Pakistan… Riêng Ấn Độ (dân số: 1.32 tỷ dân trong năm 2016) rất ít dùng án tử hình; kể từ năm 1995 tới giờ, Ấn Độ chỉ thực thi 5 án tử hình.
Bhutan và Nepal là các quốc gia từ bi, đã chính thức hủy án tử hình từ lâu.
Khi nhìn về Khối ASEAN, chỉ duy nhất Cam Bốt là quốc gia duy nhất chính thức xóa bỏ án tử hình trong bộ hình luật. Nước Lào chưa chính thức xóa bỏ án tử, nhưng dường như không thi hành án tử nào.
Trong khi đó, Trung Quốc kêu án tử hình hơn 1,000s trường hợp và thực thi án tử hơn 1,000s trong năm 2017.
Nếu tính các án tử hình thực thi trong năm 2017, nhóm 10 quốc gia thi hành án tử nhiều nhất là (dấu + là ‘nhiều hơn’):

1. Trung Quốc (1,000s, hiểu là hơn cả ngàn trường hợp thi hành án tử); 2. Iran (507+);3. Saudi Arabia (146+);4. Iraq (125+); 5. Pakistan (60+);6. Egypt (35+);7. Somalia (24);8. Hoa Kỳ (23).

Nếu chỉ tính bản án tử hình nhiều nhất do tòa đưa ra, không đếm việc thi hành án, trong năm 2017, sẽ thấy nhiều nhất là nhóm 6 quốc gia này:

1. Trung Quốc (1,000s);2. Nigeria (641);3. Egypt (402+);4. Bangladesh (273+);5. Sri Lanka (218);6. Pakistan (200+).

Điều ngạc nhiên nhìn thấy, nơi Phật giáo gần như quốc giáo là Sri Lanka, nơi dân số chỉ khoảng 22.1 triệu người, lại kêu án tử hình nhiều thứ 5 thế giới, nhiều hơn cả Pakistan, nơi có 193.2 triệu dân. Nhưng con số án tử hình cho công dân Sri Lanka thực ra rất phức tạp.
Theo một phân tích, trung bình mỗi năm có ít nhất 150 công dân Sri Lanka, hầu hết là phụ nữ, bị xử tử hình. Họ là các phụ nữ xuất khẩu lao động sang Trung Đông (đa số là các nước Hồi giáo) làm tớ gái, bị các tòa kết án vì nhiều lý do, và rồi nằm trong quan tài hồi hương.
Thêm nữa, quốc gia Sri Lanka, sau khi cuộc nội chiến kết thúc năm 2009, trở thành một trung tâm ma túy thế giới. Điều này giải thích cho thấy vì sao Sri Lanka, nơi có nhiều thánh địa Phật giáo này, cũng có nhiều án tử hình. Có răn đe được hay  không cũng là chuyện để tranh cãi.
Điểm để suy nghĩ: nhiều án tử hình được minh oan. Nghĩa là, đã có nhiều người chết oan.
Như tại Hoa Kỳ, một thống kê cho thấy kể từ năm 1973 tới giờ, đã có 153 tử tội được minh oan để xóa án; may mắn, còn có hệ thống tư pháp xét đi, xét lại kỹ như thế. Một phần nữa, vì án tử hình tại Hoa Kỳ để nhiều năm sau mới thi hành án, và các luật sư biết cách kéo dài thủ tục kháng án để đi tìm thêm chứng cớ mới, nhằm cho thấy hoặc lời khai nhân chứng khó tin, hoặc chứng cớ ngoại phạm khả tín, hoặc cảnh sát làm sai thủ tục tố tụng…
Riêng trường hợp Việt Nam, một hồ sơ rất xúc động đang được chú ý: anh Đặng Văn Hiến bị kêu án tử hình và gia đình đang gửi đơn xin cứu xét, xin giảm án…
Báo Người Lao Động ngày 17/07/2018 viết:
Vừa đọc xong bản tin trên Báo Người Lao Động về việc Chủ tịch nước chỉ đạo kiểm tra việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án của chồng, bà Mai Thị Khuyên (vợ tử tù Đặng Văn Hiến) bật khóc và nói lời cảm ơn Chủ tịch nước.
Bà Khuyên cho biết mấy ngày qua bà đã tới nhiều cơ quan Trung ương gửi đơn xin cứu xét, giảm án tử hình cho chồng…”(ngưng trích)
Chủ tịch nước Trần Đại Quang sẽ ân xá anh Đặng Văn Hiến hay không, trong khi nhiều ngàn trí thức và các nhà vận động nhân quyền đã kêu gọi ân xá cho anh? Chúng ta không đoán được diễn tiến tương lai. Cũng không thể đoán được phản ứng của ông Chủ tịch họ Trần, người dường như trong gia tộc có nhiều thân nhân là tăng hay ni, nghĩa là những vị chủ trương hiếu sinh.
Bài viết này chỉ xin góp thêm một lời để xin tha mạng anh Đặng Văn Hiến, vì anh chỉ là nạn nhân trong một guồng máy xã hội  vận hành bất toàn như thế.

Wednesday, July 11, 2018

Đản Sinh Trong Đặc Khu Trung Quốc? - Nguyên Giác

Đản Sinh Trong Đặc Khu Trung Quốc?
Nguyên Giác
Seven giant lotus lanterns on Huong River - Photo: http://english.vietnamnet.vn

Đản sinh, là nói chuyện Đức Phật đản sinh. Đặc khu, là nói chuyện thị trấn Lumbini, nơi Đức Phật ra đời, và cũng là nơi một giáo sư Bắc Kinh bỗng nhiên “khám phá” rằng Lumbini thời xa xưa là một đặc khu của triều đình Thục Vương của Trung Hoa cổ thời. Nghĩa là, lịch sử Phật giáo sẽ bị một vài giáo sư TQ viết lại... Lo ngại là gần đây, báo Global Times của nhà nước TQ đã nói về một “nghiên cứu mới” rằng chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mang dòng máu người Hán, chớ không phải người Ấn Độ. Trong khi đó, cũng có thêm một nỗi lo khác cho Phật tử thế giới, là sức khỏe của Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Trong tuần lễ vừa qua, Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14 vừa tròn 83 tuổi. Viễn ảnh của nền văn hóa Tây Tạng tan biến trong biển người Hán tộc ngày càng thấy rõ. Đặc biệt là, nhà nước Trung Quốc đã nói minh bạch là sẽ lựa chọn và tấn phong người được xem là tái sanh của Ngài vào cương vị Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 15.
Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14 sinh ngày 6 tháng 7/1935.  Bản tin CNN hồi tháng 3/2018 nói rằng vị lãnh đạo Phật Giáo Tây Tạng sẽ không đi ra ngoài Ấn Độ thuyết pháp năm nay, vì tuổi già và sức yếu.
Sonam Dagpo, phát ngôn nhân chính phủ Tây Tạng lưu vong, nói rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma được mời đi nhiều nước, nhưng phải từ chối nhiều nơi vì tuổi cao, sức yếu. Tuy nhiên, Dagpo nói, tình hình sức khỏe của Ngài vẫn tốt, vẫn giữ lịch trình thuyết pháp trong Ấn Độ.
Tuy nhiên, điều lo ngại là vì, thời gian Ngài còn ở với chúng ta không lâu nữa, trong khi ước mơ trở về Tây Tạng của Ngài càng lúc càng xa vời.
Báo The Quint hôm 11 tháng 6/2018 loan tin rằng, Đức Đạt Lai Lạt Ma bị ung thư tiền liệt tuyến (prostate cancer) và được chữa trị tại Hoa Kỳ trong hai năm qua. Bản tin do phóng viên Rajeev Sharma của The Quint viết rằng nguồn tin riêng của báo này nói rằng bệnh của Ngài đã vào giai đoạn cuối của ung thư, rằng chính phủ Ấn Độ biết và quan sát từ hơn một năm nay, trong khi chính phủ TQ biết mới vài tháng nay.
Tuy nhiên, khi báo The Quint xin xác minh từ văn phòng chính phủ Tây Tạng lưu vong, Tsering Dhondup của viện Tibetan Policy Institute trả lời rằng sức khỏe Đức Đạt Lai Lạt Ma tốt, không có gì quan ngại, và sẽ có chuyến đi hải ngoại năm nay.
Đọc kỹ câu trả lời, chúng ta không thấy nói gì về có hay không có ung thư. Dĩ nhiên, đối với những bậc cao tăng như Ngài, chuyện bệnh có nặng thế nào cũng chỉ là do nghiệp, cũng chỉ là bình thường. Điều lo ngại là lịch sử dân tộc Tây Tạng sẽ bị thay đổi, bị lèo lái theo những ý đồ Hán tộc bành trướng.
Năm 2015, trong khi nói với báo giới quốc tế, Đức Đạt Lai Lạt Ma giễu cợt chính phủ TQ về chuyện tìm cách kiểm soát việc Ngài sẽ tái sanh. Ngài nói rằng chuyện tái sanh đó sẽ giải quyết chính thức vào lúc Ngài đón sinh nhật thứ 90. Nghĩa là, phải bảy năm nữa. Ngài cũng nói giỡn rằng Ngài có thể tái sanh trong thân nữ, nghĩa là tương lai sẽ chẳng hề gì khi có một phụ nữ giữ ngôi vị Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Mới vài năm trước, Đức Đạt Lai Lạt Ma lần đầu tới thăm Trung Tâm Nghiên Cứu Y Khoa Mayo Clinic tại Hoa Kỳ, và có dấu hiệu bệnh lý nơi Ngài. Tập san Phật giáo Lion's Roar ngày 28/9/2015 loan tin rằng Ngài tới khám bệnh ở Mayo Clinic, và theo lời khuyên các bác sĩ đã hủy bỏ nhiều buổi thuyết pháp trong lịch trình để về tịnh dưỡng ở Ấn Độ. Tuy nhiên, cũng không có tin cụ thể là bệnh gì.
Báo The Quint nói rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma được chữa trị bằng phương pháp “proton beam therapy” (liệu pháp tia dương điện tử) tại Mayo Clinic.
Bây giờ Ngài đã hủy bỏ tất cả những chuyến đi hải ngoại dự định, vì không đủ sức khỏe cho đường xa. Chỉ trừ một sự kiện Ngài chưa hủy bỏ: dự định sẽ thăm Thụy Sĩ vào tháng 9/2018 để tham dự lễ mừng 50 năm thiết lập Phật học viện Tibet Institute Rikon tại đây.
Tuy nhiên, trong một video ngắn vài phút, thông tấn The News Now của Ấn Độ ghi lại hình ảnh Đức Đạt Lai Lạt Ma tới dự một buổi lễ ở Đại học University of Jammu ngày 18/3/2018, chúng ta thấy dáng đi của Ngài không còn bình thường, và phải nương vào các phụ tá dìu đi. Xem: https://youtu.be/pBdmgV5KrJ8  từ phút 1:00 khi Ngài bước ra xe và đi vào hội trường.
Sang năm 2019 sẽ có nhiều kỷ niệm về chuyến đi của Ngài vào Ấn Độ. Sau cuộc nổi dậy 1959 thất bại của dân tộc Tây Tạng, Ngài cùng một đơn vị tàn quân băng đường bộ vượt núi Hy Mã Lạp Sơn để vào Ấn Độ ngày 30/3/1959, tới thị trấn Tezpur trong tiểu bang Assam của Ấn Độ ngày 18/4/1959. Một thời gian ngắn sau, chính phủ Ấn Độ đưa Ngài về thị trấn Dharamshala, và nơi đây trở thành trú xứ cho chính phủ Tây Tạng lưu vong tới giờ.
Một điểm để suy nghĩ: tới đúng cuối tháng 3/2019, mới tròn 60 năm Đức Đạt Lai Lạt Ma ra đi lưu vong. Vậy thì, tại sao chính phủ Tây Tạng lưu vong tổ chức các nghi lễ tưởng niệm “60 năm Tây Tạng lưu vong” vào đúng ngày Thứ Bảy 31/3/2018 tại Dharamsala?
Báo The Guardian ghi rằng trong lễ tưởng niệm, Thủ tướng Tây Tạng lưu vong Lobsang Sangay nói rằng Tây Tạng trong 60 năm qua bị người Trung Hoa tàn phá về văn hóa và căn cước.
Đếm cho đúng, lẽ ra là 1959 mới tròn 60 năm. Nhưng cũng có thể, các lễ tưởng niệm sẽ kéo dài trọn một năm?
Trong những thay đổi lớn do nhà nước TQ áp đặt vào sắc dân Tây Tạng có một điểm nổi bật về tôn giáo: Sắc lệnh 5 của Tôn giáo vụ về Quản lý việc tái sanh của các vị Phật Sống (Measures on the Management of the Reincarnation of Living Buddhas). Sắc lệnh 5 viết rằng một đơn xin công nhận một thiếu niên nào là cao tăng tái sanh phải do các tự viện Phật giáo nộp lên chính phủ để xét rồi mới công nhận một trẻ em nào là tulkus (đạo sư tái sanh). Nghĩa là, Đức Đạt Lai Lạt Ma tương lai phải do nhà nước TQ chỉ định.
Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng Ngài có thể sẽ tái sanh ở hải ngoại, thậm chí có thể sẽ không tái sanh… thế là Bắc Kinh nổi giận.  Thông tấn Reuters vào tháng 3/2015 ghi lời Zhu Weiqun, Chủ tịch Ủy ban Tôn giáo và Sắc tộc trong Quốc Vụ Viện Trung Quốc (tức, trong Quốc Hội TQ), nói rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma đời 14 đã “phản bội và không tôn trọng truyền thống” khi nói rằng có thể sẽ không còn chuyện tái sanh nữa.
Zhu nổi giận, nói: “Phút này, ông ta nói sẽ tái sanh làm người ngoại quốc… sang phút sau, ông ta nói sẽ tái sanh trong thân nữ giới. Nếu quý vị trao cho ông ta một hũ mật ong, ông ta sẽ vui vẻ nói rằng kiếp sau ông ta sẽ là một con ong.”
Lý do Zhu nổi giận cũng vì trước đó, Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng chuyện Quốc hội TQ chọn người tái sanh Đạt Lai Lạt Ma cũng y hệt như lãnh tụ Fidel Castro của Cuba lựa chọn Đức Giáo Hoàng cho đạo Thiên Chúa.
Tuy nhiên, TQ luôn luôn có độc chiêu, và thế gian không thể đo lường hết các mê lộ do Bắc Kinh bày ra. Trong đó có một “khám phá khảo cổ” mới, nói rằng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mang dòng máu người Hán, không phải người Ấn Độ.
Báo The Times of India trong ấn bản ngày 23/2/2018, có bản tin tiếng Anh “Chinese scholar slams claim that Gautam Buddha was of Chinese origin” (Một học giả Trung Quốc chỉ trích bài viết nói rằng Đức Phật Thích Ca là người Trung Hoa)… Bản tin này có thể tìm qua Google, khi gõ câu tiếng Anh trên.
Nghĩa là, hàng dỏm, hàng giả, hàng nhái cũng thấy có dấu tay Hán tộc trong cả khảo cổ học…
Báo Ấn Độ ghi rằng tờ báo quốc doanh Trung Quốc Global Times loan tin rằng một bài viết lưu hành rộng rãi trên mạng Internet tiếng Hoa kể từ ngày 1/1/2018, nói rằng một học giả người Nepal có tên là Amuhanson đã “khám phá” rằng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thực sự là người Trung Hoa, không phải Ấn Độ.
Bản tin nói rằng cùng bài viết đó đã lưu hàng trên mạng sohu.com tiếng Hoa hồi tháng 11/2017 mà không nhắc tên học giả Nepal nào. Bài viết nguyên thủy đó ký tên Li Liangsong, một giáo sư Đại Học Y Khoa Trung Hoa Bắc Kinh (Beijing University of Chinese Medicine) và là một chuyên gia về y khoa Phật giáo.
Li liệt kê ra 10 lý do ông “khám phá” như thế, thí dụ như sự kiện rằng Nepal, nơi có thị trấn Lumbini (nơi Đức Phật đản sanh) nằm trong một vùng từng được gọi là một đặc khu ("special district") của một đế quốc Trung Hoa thời cổ, và nội dung kinh điển Phật giáo có cho thấy văn hóa phát xuất từ miền Trung của Trung Quốc.
Li  không phải người đầu tiên tìm cách chứng minh rằng Đức Phật Thích Ca là người Hoa.
Một nghiên cứu có ảnh hưởng mà Li nhắc tới là "Rethinking the Origin of Buddhism" (Nghĩ Lại về Cội Nguồn Phật Giáo) của Zhang Rubai, một giáo sư đại học Chengdu University of Technology ở tỉnh Sichuan. Zhang tin rằng Phật giáo lan truyền từ TQ sang Trung Á và các vùng phía tây xuyên qua Ấn Độ, và sau đó quay trở về nội địa TQ. Nghiên cứu của Zhang in trong tạp chí của Chengdu University of Technology hồi tháng 1/2016.
Nghiên cứu của Zhang dựa vào các hình tượng Phật khắc trên vật dụng bằng ngà voi hay ngọc bích, cũng như một đầu tượng Phật thủy tinh từ triều đại Shu Kingdom (Vương Quốc Nhà Thục) – một vương quốc có từ 1,000 năm trước Tây lịch. Bây giờ, nước Thục cổ này nằm trong tỉnh Sichuan (Tứ Xuyên).
Năm 2009, Zhang ấn hành một cuốn sách về cổ vật văn hóa đào lên từ nơi di tích đổ nát có tên là Sanxingdui (tiếng Việt là: di chỉ Tam Tinh Đôi, hay là Gò Ba Ngôi Sao).
Tuy nhiên, tới 7 năm sau, Zhang mất mặt vì Viện bảo tàng Sanxingdui Museum trong tháng 3/2016 đưa ra chỉ trích Zhang rằng không có di chỉ cổ vật nào trong sách Zhang thực sự là từ khu di tích. Các nhà nghiên cứu tại Viện bảo tàng này nói rằng Zhang bịa đặt ra và viết về các điều vô nghĩa khi nói rằng Phật giáo phát xuất từ khu di chỉ Sanxingdui.
Bản nghiên cứu này khi phóng lên mạng xã hội Weibo, nói thẳng rằng, “Chúng ta chưa bao giờ thấy có ai không biết hổ thẹn như thế.”
Trong khi đó, Shen Guiping, một nhà nghiên cứu tôn giáo trong Học Viện Trung Ương Xã Hội Chủ Nghĩa (Central Institute of Socialism) ở Bắc Kinh, trả lời phỏng vấn từ tờ báo rằng, “Tôi không thấy ý nghĩa  nào trong nghiên cứu (Đức Phật là người Hoa). Các nghiên cứu như thế không giá trị, và phương pháp nghiên cứu lại sai. Nếu chỉ để chứng tỏ yêu nước, thì đó là ngạo mạn. Kiểu như thế cần kiểm soát, nếu không sẽ thành ra dị thường và rồi nguy hiểm.”
Có bài học nào nơi đây? Chúng ta đã thấy rồi đó: lịch sử Biển Đông đã bị các nhà nghiên cứu TQ bóp méo để trở thành tài sản nhiều ngàn năm trước của Phương Bắc.
Bây giờ phải coi chừng, có thể sẽ có một giáo sư sử học Bắc Kinh nào đó viết rằng An Dương Vương Thục Phán là cháu Thục Vương, kéo quân phương Bắc vào đánh tan vương quốc Văn Lang của dòng Hùng Vương, và rồi thiết lập một vùng có tên là Đặc khu Âu Lạc, nơi còn di tích là Thành Cổ Loa ở huyện Đông Anh, Hà Nội.
Đặc khu Âu Lạc? Hay Đặc khu Hà Nội? Hình như đó sẽ là một câu chuyện dài, đang còn chờ một giáo sư sử học nào đó của Bắc Kinh nghĩ ra…

x
x

Sunday, July 1, 2018

When The Birds Stop Singing

Những loài Chim ở Vietnam. Photo: www.vietnambirdshooting.com

When The Birds Stop Singing

(Translated by Nguyên Giác)


When the birds stop singing
When the butterflies and the bees disappear
When the mountains and forests become barren
When the lakes and ponds dry up
When the dead fish float about
When the air blackens the lungs
you will see you are sitting in a hell
despite you are sitting next to piles of dollars
in a golden palace or a jewel castle.
Hence I ask you
to give some dollars to help clean the earth.
When the birds stop singing
When the husband and wife bicker at each other
with abusive words, not sweet words.
When the friends start seeing one another
through the political eyes, not with brotherly kindness
and when the people gather
and have to guard against other political views
the world becomes a battleground. 
When you defend Trump
you would lose your job and be called a racist.
When you support Clinton and Obama
You would be called a traitor or a leftist.
Oh, the political division of people is so weird and terrible.
When the birds stop singing
people begin to compete to win the power
that will give them happiness
and lots and lots of money.
When the birds stop singing
then the kids hate to run after dragonflies and butterflies
Instead, they will addict to play the games
whose scenes are full of innocent killings
where they could wear suicide-bomb vests.
When the birds stop singing
and the deer have no water to drink
the small creek turns sad
 its life is going to end.
When the birds stop singing
the world still has only the Rock music, Football and Sex.
With skimpy clothing and sexy bodies
the girls are worshipped as the ancient “holy ladies.”
Millions of people are hungry for their images.
That is the religion in the electronic age,
a kind of religion that makes lots of money. 
Becoming unneeded goods
morality and spirituality will be exhibited only in museums.
When the birds stop singing
the software will be the smart brains
and humans will be lifeless corpses
- just like the machines that will move when the buttons are pressed.
When the birds stop singing
all weapons have to be invisible
and the robots will replaces the pilots
- thus, nobody would see the dropping bombs.
Then you and I will die
just like dying in a dream, very abruptly.
When the birds stop singing
the roses will wither soon
the sunflowers won’t bother to cry
the trucks will become the killing machine.
When the birds stop singing
people live for themselves, care not for others
and become the machines
- the machines that fulfill their sexual fantasies and kill enemies.
When the birds stop singing
you will want to be silent
Beware that you will be called a hypocrite
if you say moral words.
When the birds stop singing
prayers are useless.  
After the praying sessions, people get drunk
and will be more aggressive for the next killing action.
When the birds stop singing
half of the Mekong River will disappear
many cities will dip in the ocean water
- Jakarta, New Delhi, parts of Florida, and many others.
Moving to a safe place
the billionaires will buy mansions on Mars
The poor have to live here, waiting for death.
When the birds stop singing
despite billions of humans pray intensely
and even if the Savior comes here
the Earth will be just a hell.


Khi Con Chim Thôi Hót

Khi con chim thôi hót.
Khi con bướm, con ong không còn nữa.
Khi núi rừng trơ trụi.
Khi ao hồ khô cạn.
Khi cá chết nổi lều bều.
Khi không khí đen ngòm lá phổi.
Thì bạn có ngồi trong cung vàng điện ngọc.
Bên cạnh một đống đô-la.
Thì cũng chỉ ngồi trong địa ngục.
Vậy tôi xin bạn,
Bỏ bớt đô-la để lo cho trái đất này trong sạch.
Khi con chim thôi hót.
Khi vợ chồng không còn nói với nhau những lời dịu ngọt.
Mà bằng tranh luận chợ đời.
Khi bạn bè không còn nhìn nhau bằng tấm lòng huynh đệ.
Mà bằng nhãn quan chính trị.
Khi quần chúng gặp nhau,
Phải dò xét xem có cùng chính kiến.
Thì thế giới này sẽ là bãi chiến trường.
Khi bạn bênh Ô. Trump,
Coi chừng mất việc và là người kỳ thị.
Khi bạn ủng hộ Clinton, Obama,
Coi chừng người ta sẽ nói bạn là quân bán nước hay khuynh tả.
Ôi  sự chia rẽ thật kinh hoàng, kỳ lạ!
Khi con chim thôi hót.
Rồi chỉ còn tranh giành quyền lực.
Vì quyền lực đẻ ra hạnh phúc,
Và đẻ ra vô số bạc tiền.
Khi con chim thôi hót,
Khi bé thơ không còn thích đuổi chuồn chuồn, bắt bướm.
Mà chỉ thích chơi games.
Những trò chơi chém giết rất hồn nhiên,
Rồi có thể đánh bom tự sát.  
Khi con chim thôi hót.
Con nai không nước uống.
Con suối nhỏ cũng u buồn.
Thì mạng sống của suối cũng có ngày chấm dứt.
Khi con chim thôi hót.
Thế giới này chỉ còn nhạc Rock , Football và Sex.
Những cô gái hở hang có thân hình gợi dục,
Được tôn thờ như  “thánh nữ” thời xưa.
Hình ảnh gửi đi được triệu triệu người thèm khát.
Đó là thứ “tôn giáo” của thời kỳ điện tử.
Loại  “tôn giáo” hái ra tiền bạc.
Đạo đức, tâm linh rồi thành món hàng xa xỉ.
Là đồ trưng ở viện bảo tàng.
Khi con chim thôi hót.
Thì software  là bộ óc tinh khôn.
Con người ra, chỉ những xác không hồn.
Như chiếc máy và chỉ cần bấm nút.
Khi con chim thôi hót,
Tất cả vũ khí rồi sẽ phải tàng hình.
Những robot rồi sẽ thay người lái.
Để bom đạn dội xuống  mà không ai hay biết.
Lúc đó bạn và tôi sẽ chết,
Chết như mơ và chết thật tình cờ! (1)
Khi con chim thôi hót,
Những đóa hồng rồi cũng héo tàn.
Hoa hướng dương cũng chẳng buồn than khóc.
Xe vận tải kia rồi thành phương tiện giết người.
Khi con chim thôi hót.
Sống cho mình và chẳng biết có ai.
Con người ra rồi sẽ thành cỗ máy.
Máy làm tình và máy giết người thôi.
Khi con chim thôi hót,
Mà bạn nói ra những lời đạo đức.
Coi chừng người ta sẽ nói bạn là quân đạo đức giả.
Cho nên tốt hơn chúng ta im lặng.
Khi con chim thôi hót,
Thì nguyện cầu cũng chỉ là vô ích.
Vì nguyện cầu xong rồi ra ngồi ăn nhậu.
Thêm hung hăng, thêm can đảm giết người.
Khi con chim thôi hót.
Đồng bằng Sông Cửu Long sẽ mất đi một nửa.
Nhiều thành phố sẽ chìm sâu xuống biển.
Như Jakarta, New Delhi, Florida và nhiều nơi khác.
Những ông bà tỷ phú đâu chịu thiệt?
Sẽ mua nhà, xây dinh thự ở Hỏa Tinh.
Để kẻ nghèo sống ở đây chờ chết.
Khi con chim thôi hót,
Dù tỉ tỉ người cầu xin tha thiết.
Và cho dù “Đấng Cứu Thế” xuống đây.
Thì trái đất cũng chỉ là địa ngục.

Đào Văn Bình
(Trích trong Kinh Hạnh Phúc sắp xuất bản)


(1)   Lời của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn