Showing posts with label Nguyên giác. Show all posts
Showing posts with label Nguyên giác. Show all posts

Friday, August 7, 2020

Đọc Vĩnh Hảo: Lời Ca Của Gã Cùng Tử

Đọc Vĩnh Hảo: Lời Ca Của Gã Cùng Tử
Nguyên Giác
Là một nhà văn, một nhà thơ, một nhà báo, và là một người tuyên thuyết Phật pháp – trong vị trí nào, Vĩnh Hảo cũng xuất sắc, và nổi bật.
Tài hoa của Vĩnh Hảo đã hiển lộ từ các tác phẩm đầu thập niên 1990s, và sức sáng tác đó vẫn đều đặn trải dài qua hai thập niên đầu thế kỷ 21. Vĩnh Hảo viết truyện dài, truyện ngắn, làm thơ, viết tùy bút, viết tiểu luận – thể loại văn nào anh viết cũng hay, cũng nổi bật hơn người. Giữ được sức viết như thế thực là hy hữu. 
Thể hiện nơi ngòi bút rất mực văn chương, Vĩnh Hảo chính là một tấm lòng thiết tha với đất nước, với đạo pháp, với con người. Tấm lòng đó hiện rõ trong từng hàng chữ anh viết, đặc biệt là trong 100 Lá Thư Tòa Soạn của Nguyệt San Chánh Pháp, là nội dung của sách này với nhan đề Lời Ca Của Gã Cùng Tử.
Tuyển tập 100 lá thư này không chỉ thảo luận về tình hình giáo hội, về chuyện quê nhà, về những nỗi khổ của nhân loại, mà lúc nào cũng tuyên thuyết chánh pháp. Vĩnh Hảo viết về những trận cháy rừng ở California, rồi cũng nói về Khổ Đế và nêu lên Tứ Thánh Đế.  Vĩnh Hảo viết về những cánh hoa mùa xuân bắt đầu rơi xuống, để mùa xuân chuyển sang mùa hạ… rồi cũng nói về lẽ vô thường và vô ngã. Vĩnh Hảo viết về những người trong tứ chúng miệt mài ngày đêm chạy theo danh lợi, rồi cũng ngợi ca bậc hiền trí, những người có tâm nhẫn nhục như đất và bao dung như bầu trời, lặng lẽ và đơn độc đi vào nơi thâm áo kỳ tuyệt. Vĩnh Hảo viết về những gian nan trong các Phật sự hoằng pháp của người Việt tỵ nạn, và rồi ca ngợi Hòa thượng Thích Trí Chơn (1933-2011), người đã “làm tất cả việc với lòng chí thành, tận tụy, nhưng đồng thời buông bỏ tất cả, chẳng vướng mắc lưu giữ gì cho bản thân, từ vật chất đến tinh thần. Tạo dựng rất nhiều đạo tràng, hướng dẫn hàng ngàn phật tử, nhưng chỉ sống đạm bạc trong một căn phòng nhỏ chứa đầy sách báo để khảo cứu, trước tác, dịch thuật, giảng dạy. Có bằng cấp học vị mà không bao giờ phô trương; xuất bản bao nhiêu tác phẩm mà chẳng bao giờ khoe khoang, ra mắt. Âm thầm vãng lai hành đạo; lặng lẽ du phương hoằng pháp. Độc hành trì chí suốt bao năm trường cho việc văn hóa giáo dục.”
Vĩnh Hảo viết về những hỗn loạn và bất trắc của lịch sử, rồi ca ngợi những nhân vật tự nguyện hy sinh cho đạo pháp và quê hương như ngài Thích Quảng Đức, một ngọn lửa hiện thân của “tư lương và hành trang mà người con Phật đem vào cuộc đời, cứu độ chúng sanh, chính là trái tim, là lòng từ bi, là tâm bồ-đề.” Vĩnh Hảo viết về chức năng của văn hóa, giáo dục, canh tân xã hội, cải cách chính trị... rồi viết lời ca ngợi nhà văn Nhất Linh – Nguyễn Tường Tam (1906 – 1963), người quyên sinh bằng độc dược "để làm bất tử lý tưởng của mình, đồng thời cất lên nguyện vọng của quốc dân" trước cường quyền nhà Ngô.  
Vĩnh Hảo viết về những bước gập ghềnh của lịch sử quê nhà và giáo hội, và viết về các lựa chọn gian nan của những “Bậc đại sĩ gánh trọng nhiệm với đời, với đạo, nhiều khi bị đặt vào những cảnh huống khó xử, khó làm hài lòng tất cả. Cân nhắc việc lợi/hại, sinh/tử, còn/mất… có khi phải bạc trắng cả đầu trong một đêm hay nhiều đêm không ngủ...” Đó là quý ngài Trí Thủ, Huyền Quang với những “đường bay siêu tuyệt của chim bằng trên trời cao thẳm. Đường bay ấy, chim quạ nào mà hiểu nổi!”
Chất thơ trong các Lá Thư Tòa Soạn bàng bạc trong từng dòng chữ. Văn xuôi nhưng là thơ, là tiếng nói thiết tha của Vĩnh Hảo, một nhà văn cư sĩ đang mang chánh pháp vào đời. Chất thơ thường hiện rõ trong những đoạn văn đầu trong Lá Thư Tòa Soạn. Vĩnh Hảo viết thư theo kỹ thuật “Tiên tả cảnh, hậu thuyết kinh” --- nơi đó, vào đề bằng những chuyện lá mùa thu rơi với hoa mùa xuân tàn, rồi nói chuyện vô thường, vô ngã; vào đề bằng chuyện thời đại  “suy vong, nguy biến cùng cực của Phật giáo” và rồi nói về “những bậc bồ-tát hóa thân, lấy lòng từ bi mà cảm hóa nhân tâm, tỏa trí sáng mà khai mở cho kẻ lầm mê, đem đức uy dũng mà đương cự ác đảng, tà đạo” như ngài Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang.
Có những lúc, ngòi bút tài hoa của Vĩnh Hảo lộ ra xúc động đặc biệt, với lối đặt câu như kiệm lời, rất mực ngập ngừng… Như khi nhớ về người cha.
Thư tòa soạn số 54, tháng 05.2016 viết, trích:
Ôi, nhớ nụ cười của Cha.
Ngày con bỏ nhà đi hoang, Cha không buồn cản lối. Lặng lẽ ngó theo. Ngón tay điểm về đầu núi biếc có vầng trăng lơ lửng tầng không. Con ương ngạnh, hãnh tiến, không quay đầu. Ngày dài tháng rộng trôi lăn dòng đời cuộn sóng. Si mê khát ái dìm con ngập ngụa sình lầy. Chới với chơi vơi cũng chỉ níu được một ngón tay suông. Dật dờ lê theo bóng mộng. Khóc tràn những giấc mơ hoa. Thoạt khi tỉnh giấc, chỉ muốn quay về nũng nịu bên Cha, vòi một cái xoa đầu. Nhưng con đường, sao dài xa hun hút.  Ôi là nhớ, mắt hiền Cha vẫn dõi theo. Không lời oán trách con hư. Nhẫn nại ngón tay điểm nguyệt.”(ngưng trích)
Trong tận thâm sâu Vĩnh Hảo cũng là một người yêu thiên nhiên. Trên các trang thư Vĩnh Hảo là những mô tả về lá vàng mùa thu, về hoa mùa xuân, về dòng suối nhỏ, về tiếng chim hót ngoài vườn, về giàn bông giấy rực đỏ, về tia nắng buổi sớm, về tách trà nóng ban khuya, về bóng đêm tịch mịch… Thói quen viết của Vĩnh Hảo là nói về chuyện nhỏ rồi nói chuyện lớn, trước là nói về những gì được thấy, được nghe, được nhớ lại và rồi sẽ nói về những diễn biến lịch sử của đời, về những bậc đại sĩ “là người thấy biết và cảm nhận sâu xa thực trạng thống khổ của con người và cuộc đời, mạnh dạn dấn vào nơi hiểm nguy, mưu cầu lối thoát cho tất cả.”
Đọc kỹ, khi đọc rất kỹ, và khi đọc  rất chậm, chúng ta sẽ thấy trong văn xuôi Vĩnh Hảo không chỉ có chất văn, chất thơ, nhưng cũng đầy những sắc màu hội họa chen vào các âm vang nhiều nhạc tính.
Thí dụ như đoạn đầu Thư tòa soạn số 90, tháng 05.2019, trích:
Khuya dậy nghe tiếng dế gáy đâu đó ở vườn sau. Trăng hạ huyền mảnh khảnh phương tây. Bầu trời không mây, trong vắt, như tấm gương ảnh hiện một góc sáng, loang dần lên từ phương đông. Gió nhẹ mơn man cành liễu rũ. Hương thơm từ nhiều loài hoa sau vườn tỏa nhẹ vào cửa sổ để hé. Hai con quạ từ đâu bay về đậu trên cây phong, không gây tiếng động. Nỗi cô liêu bất chợt trùm cả hư không.” (ngưng trích)
Hay như trong đoạn đầu của Thư tòa soạn số 12, tháng 11.2012, trích:
Trời đã vào thu. Sớm mai, gió nhẹ bên ngoài đủ đưa khí lạnh len vào cửa sổ để hé. Nhìn ra vườn có thể thấy sương mù bao phủ những thân cây trụi lá, khẳng khiu; và đâu đó trên các lối đi, lá vàng khô chưa kịp quét dọn đã dầy thêm một lớp…” (ngưng trích)
Hai đoạn văn vừa dẫn là nói về cảnh, với văn phong thơ mộng của Vĩnh Hảo. Trong khi đó, khi nói về người, Vĩnh Hảo cũng có ngôn ngữ riêng, với cách viết y hệt như ống kính máy ảnh, như khi kể về một hòa thượng trưởng lão rất mực đáng kính mới viên tịch. Trong Thư tòa soạn số 23, tháng 10.2013, trích như sau:
Từ khi hành điệu với đầu xanh để chóp cho đến khi lông mày bạc phơ rũ xuống hai gò má nhăn nheo, Sư cụ đã học Phật một cách lặng lẽ non một thế kỷ nơi ngôi chùa lớn nhất thành phố. Trong cương vị trụ trì, hiếm người sống đơn giản dung dị như Sư cụ. Một căn phòng nhỏ, chiếc giường gỗ nhỏ, một vài cuốn kinh trên kệ sách nhỏ, một ghế xích đu phủ manh chiếu rách. Sư cụ là hiện thân của một trưởng lão tỳ kheo phạm hạnh, bần hàn, ngay nơi thị thành phồn hoa nhiệt náo. Kinh qua bao nhiêu thăng trầm lịch sử của ngôi chùa, của đất nước, Sư cụ vẫn vậy, vẫn là hành giả học Phật khiêm hạ sót lại từ thế kỷ trước. Có chút tiền là mua hoa quả cúng Phật, mua thực phẩm, thuốc men, đích thân đến bệnh viện biếu tặng những người khổ bệnh, nghèo đói. Bàn tay lần chuỗi không ngơi. Mắt từ trao gửi nhân thế. Chưa từng một lần cao đăng pháp tòa thuyết kinh giảng luật, mà bóng Sư cụ đã che rợp cả bầu trời quê hương, bảo bọc bao thế hệ hậu bối. Nhìn Sư cụ là thấy con đường xả ly, thấy cả khung trời tự tại giải thoát. Nếu chưa hiểu thế nào là học Phật đúng nghĩa, chúng ta có thể chiêm nghiệm cuộc đời của vị lão tăng ấy.” (ngưng trích)
Và ngôn ngữ đẹp tận cùng là khi Vĩnh Hảo tuyên thuyết Phật pháp. Như trong Thư tòa soạn số 4, tháng 3.2012, trích:
Hành trình của một người hướng về giải thoát, giác ngộ, là hành trình của buông xả. Buông xả sự chấp chặt vào bản ngã; buông xả những gì được cho là thuộc về bản ngã; buông xả luôn cả ý niệm là mình đã buông xả hay đang buông xả… Từ nội tâm đến ngoại giới, đều phải buông xả, không vướng mắc, không trói buộc vào bất cứ điều gì.” (ngưng trích)
Tuyển tập Lời Ca Của Gã Cùng Tử là một ấn phẩm mới của Vĩnh Hảo, nhưng cũng là chặng đường 10 năm của Nguyệt San Chánh Pháp, cũng là những bước gian nan của giáo hội trong nỗ lực hoằng pháp tại các chân trời xa quê nhà. Nhiều hơn những gì chúng ta có thể đọc trong các hàng chữ, ẩn sâu trong các trang sách tuyển tập chính là tấm lòng của nhà văn Vĩnh Hảo, và hành trạng của những người con Phật được khắc họa trong sách. Trân trọng chúc mừng những trang văn cực kỳ thơ mộng và thiết tha của Vĩnh Hảo.
GHI CHÚ:

Tác phẩm "Lời Ca Của Gã Cùng Tử" đang lưu hành ở: www.amzn.com/B088SSMNK2

Sunday, July 19, 2020

Ngừa Hoạnh Tử, Tăng Thọ, Niệm Tử

Ngừa Hoạnh Tử, Tăng Thọ, Niệm Tử
Nguyên Giác

Đại dịch coronavirus tính tới tuần lễ giữa tháng 7/2020 đã giết chết hơn 593,000 người trên toàn cầu, với hơn 13.9 triệu người lây nhiễm, theo thống kê của Johns Hopkins University. Trong đó Hoa Kỳ đã trở thành quốc gia bị tệ hại nhất, với hơn 3.6 triệu người lây nhiễm và ít nhất 138,979 người đã chết. Một vài thành phố ở Texas và Arizona mua hay thuê xe thùng đông lạnh để giữ xác, vì nhiều nhà quàn hết chỗ, không chôn kịp. Một số khu vực đông người gốc Việt ở Quận Cam, San Jose, Houston trong tuần qua tăng vọt số người đã có kết quả thử nghiệm dương tính. Trong những người chết vì đại dịch trong cộng đồng có những bạn còn trẻ, ở lứa tuổi 30s, 40s và cũng có bạn là Phật tử rất mực đạo hạnh. Bài này sẽ nói về các trường hợp chết khi tuổi thọ vẫn đang còn, về cách tăng thọ, và về pháp niệm sự chết theo lời Đức Phật dạy.

CHẾT HOẠNH TỬ
Đại dịch xảy ra là do duyên nhiều đời trước đối với các quốc độ đó, nhưng không phải ai cũng bị ảnh hưởng. Dù vậy, theo kinh Phật, chắc chắn rằng trong những người chết vì đại dịch có những người đã chết trong khi tuổi thọ vẫn đang còn, tức là chết yểu, chết sớm, chết không đúng thời, khi chưa hết tuổi thọ kiếp này. Người xưa gọi chết sớm, tức là khi nghiệp dữ khác bất ngờ xen vào trước khi nghiệp kiếp này mãn, bằng nhiều chữ: hoành tử, hoạnh tử, phi thời tử, bất lự tử, sự cố tử. Tiếng Anh gọi là “untimely death” hay “premature death” và Kinh Tạng Pali gọi là “uppachedaka death.” Trong khi Kinh Dược Sư, thuộc hệ Bắc Tông, giải thích rằng chết hoạnh tử có 9 loại khác nhau, Kinh Milinda Vấn Đạo thuộc hệ Nam Tông nói rằng chết hoạnh tử có 7 loại.
Kinh Milinda Vấn Đạo do ngài Indacanda dịch (một số bản dịch của các dịch giả khác có nhan đề là Kinh Na Tiên Tỳ Kheo, Mi Tiên Vấn Đáp) đã giải thích về việc chết không đúng thời, cũng như trái non bị rụng hay bị cắt từ cây xoài. Lời ngài Nagasena trong kinh này nói, trích như sau:
Tâu đại vương, bảy hạng người này chết không đúng thời, ngay trong khi tuổi thọ vẫn đang còn. Bảy hạng nào?
Tâu đại vương, người bị thèm ăn, trong khi không nhận được vật thực, có nội tạng bị tổn thương, chết không đúng thời, ngay trong khi tuổi thọ vẫn đang còn.
Tâu đại vương, người bị thèm uống, trong khi không đạt được nước uống, trái tim bị khô kiệt, chết không đúng thời, ngay trong khi tuổi thọ vẫn đang còn.
Tâu đại vương, người bị rắn cắn, bị hành hạ bởi tác động của nọc độc, trong khi không đạt được người chữa trị, chết không đúng thời, ngay trong khi tuổi thọ vẫn đang còn.
Tâu đại vương, người đã ăn vào chất độc, trong khi các bộ phận cơ thể chính và phụ đang bị nung nóng, trong khi không đạt được thuốc giải, chết không đúng thời, ngay trong khi tuổi thọ vẫn đang còn.
Tâu đại vương, người bị rơi vào ngọn lửa, trong khi bị thiêu đốt, trong khi không đạt được sự dập tắt, chết không đúng thời, ngay trong khi tuổi thọ vẫn đang còn.
Tâu đại vương, người bị té vào nước, trong khi không đạt được sự nâng đỡ, chết không đúng thời, ngay trong khi tuổi thọ vẫn đang còn.
Tâu đại vương, người bị thương tích bởi gươm đao, bị lâm bệnh, trong khi không đạt được thầy thuốc, chết không đúng thời, ngay trong khi tuổi thọ vẫn đang còn.
Tâu đại vương, bảy hạng người này chết không đúng thời, ngay trong khi tuổi thọ vẫn đang còn.” (1)
Tác phẩm “Abhidhamma in Daily Life” (A Tỳ Đạt Ma Trong Đời Thường) của Ashin Janakabhivamsa (2) giải thích về các trường hợp hoạnh tử. Những trường hợp “uppachedaka death” là chết không đúng thời, chết không tự nhiên, vì một số chúng sinh lẽ ra còn tuổi thọ và nghiệp lực còn cho phép họ sống. Nhưng vì một vài nghiệp ác đã làm trong quá khứ đột ngột trổ quả, gây ra cái chết không đúng thời. Bộ luận A Tỳ Đạt Ma giải thích rằng cái chết đó y hệt như một ngọn lửa đột ngột tắt vì trận gió bất ngờ, trong khi bấc và dầu vẫn còn, và cũng y hệt như có ai thổi mạnh làm tắt nến. 
Bộ luận này dẫn ra trường hợp ngài Moggallana (Mục Kiền Liên, là người Thần thông đệ nhất trong hàng đệ tử của Đức Phật), trong một kiếp lâu xa đã giết mẹ của ngài. Tội ác đó làm ngài chết thảm, ngay cả sau khi ngài đã đắc quả A La Hán, bị 500 tên cướp tấn công và giết. Vua Bimbisara (Tần Bà Sa La, hay Bình Sa Vương -- là đệ tử đầu tiên của Phật Thích-ca trong hàng vua chúa, ông đã cúng dường cho Phật và Tăng đoàn ngôi tịnh xá Trúc Lâm gần thành Rājagḱha, thủ đô xứ Magadha) trong một kiếp trước đã mang giày vào chùa với thái độ bất kính, và quả dữ là vua này bị chính con trai giết. Trường hợp khác: Hoàng hậu Samavati (của vua Udena tại vương quốc Cozambi) và hơn 100 cung nữ bị thiêu chết. Bà Samavati được Đức Phật ca ngợi là Đệ nhất tâm từ trong các môn đệ của ngài, và ngài kể rằng trong một kiếp trước, bà và các bạn dữ dùng lửa đốt chết một vị Bích Chi Phật trong khi vị này đang thiền định. 
Bộ luận này cũng nói rằng có một số cái chết trong khi còn tuổi thọ là vì quả dữ tới tức khắc vì một việc ác vừa mới làm. Đó là trường hợp Dusi ném đá vào đầu của vị trưởng tăng đoàn của Phật Kassapa, trường hợp Nanda đánh vào đầu ngài Shariputra, và trường hợp Vua Kalabu ra lệnh giết vị ẩn tu có tên là Bồ Tát Khanti Vadi. Cả 3 vị -- Dusi, Nanda và Vua Kalabu --- bị đất nứt ra và nuốt chửng xuống ngay trong kiếp đó, vì quả dữ tới trong khi còn tuổi thọ. Tương tự, người xúc phạm hay hạ nhục ba mẹ, người trưởng thượng cũng sẽ bị chết hoạnh tử.
Một điểm quan trọng nên nhớ rằng kinh điển không chỉ để tụng đọc, mà cần tu tập, thực hành. Vì nếu chỉ tụng đọc kinh điển hàng ngày mà không tự thực hành để chuyển biến tâm mình thì lợi ích chẳng bao nhiêu.
Trong một bài viết có nhan đề “Khảo Biện về Kinh Dược Sư” của Thầy Chúc Phú, nói rằng người trí tuệ cần tránh nhân duyên gặp nạn, và cần phải thực hành lời Phật dạy, chớ đừng nghĩ rằng tụng kinh hàng ngày là đủ, trích:
Trong kinh Phật thuyết cửu hoạnh, Phật dạy rằng, nếu như gặp phải voi say, ngựa chứng, bò điên, xe cộ, rắn độc, hầm hố, nước, lửa, chiến loạn, người say, kẻ xấu cũng như bao điều tệ ác khác… nếu bậc có trí tuệ thì sẽ biết và tránh các nhân duyên đó để bảo toàn tính mạng...
...Tụng kinh để trú tâm trong thắng pháp, để hiểu lời Phật dạy và sau đó thực hành. Diệu dụng của pháp Phật chính là ở đây. Siêng năng trì tụng kinh điển nhưng không thực hành, thì tuy có phước đức, nhưng rất nhỏ nhoi và khó có thể đem đến những kết quả ưu thắng.” (3)

PHÁP TĂNG TUỔI THỌ
Tới đây, chúng ta có thể nêu lên câu hỏi: làm cách nào để tăng tuổi thọ? Đức Phật đưa ra lời khuyên trong các kinh, có thể tóm lược rằng: phải ăn điều độ, phải giảm cân, phải cột niệm (giữ tâm tỉnh thức, mindful), phải thể dục bằng cách đi bộ, phải làm những việc thích nghi, giữ điều độ khi làm những việc thích nghi, phải hoạt động đúng thời, độc thân (hiểu là: không sắc dục, sống Phạm hạnh), giữ giới, sống gần bạn lành (thiện hữu tri thức), cúng dường bậc tu hành, kính lễ bậc trưởng thượng, bố thí bữa ăn.
Trong Kinh Tạp A Hàm SA-1150, Đức Phật khuyên Vua Ba Tư Nặc phải ăn điều độ và phải giảm cân, khi thấy “vua Ba-tư-nặc, với thân thể mập lớn, mồ hôi ướt đẫm, đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ dưới chân Phật, ngồi lui qua một bên, hơi thở hổn hển.”
Kinh SA 1150, bản dịch của hai thầy Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng, viết:
Bấy giờ, Thế Tôn nói vua Ba-tư-nặc: “Đại vương thân thể mập quá!”
Đại vương bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy! Con đang lo về cái thân quá mập và thường rất khổ sở, nhờm chán, hổ thẹn, vì cái thân mập béo này.”
Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ: “Người nên tự cột niệm, Khi ăn biết tiết độ; Thì các thọ sẽ giảm, Yên ổn mà sống lâu.” (4)
Lời khuyên rất khoa học của Đức Phật đã dẫn tới kết quả là, kinh viết: “Như vậy, từ đó trở đi, vua Ba-tư-nặc thân thể gầy thon lại, tướng mạo đoan chánh.”
Để tăng tuổi thọ, sau ăn kiêng là phải thể dục bằng cách Thiền đi bộ để có sức khỏe và ít bệnh. Thời của Đức Phật, làng này xa làng kia, rừng này xa rừng kia, do vậy đi bộ là chuyện hàng ngày của đời thường. Và phải đi trong chánh niệm, mà phải “walking meditation” (tức, Thiền đi bộ, hay Kinh hành).
Kinh AN 5.29 ghi lời Đức Phật dạy, bản dịch của Thầy Minh Châu:
Kham nhẫn được đường trường; kham nhẫn được tinh cần; ít bệnh tật; đưa đến tiêu hóa tốt đẹp các đồ được ăn, được uống, được nhai, được nếm; định chứng được trong khi kinh hành được tồn tại lâu dài. Những pháp này, này các Tỷ-kheo là năm lợi ích của kinh hành." (5)  
Đức Phật cũng dạy pháp tăng tuổi thọ qua hai Kinh AN 5.125 và Kinh AN 5.126, bản dịch của Thầy Minh Châu: 
Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, gia tăng tuổi thọ. Thế nào là năm? Làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời, và sống Phạm hạnh. Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, gia tăng tuổi thọ.” (Bản dịch Bhikkhu Sujato: Doing what is suitable, knowing moderation in what is suitable, eating food fit for consumption, activity at suitable times, and celibacy. These are the five things that promote longevity.)
Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, gia tăng tuổi thọ. Thế nào là năm? Làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, giữ giới luật, và có bạn lành. Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, gia tăng tuổi thọ.” (Bản dịch Bhikkhu Sujato: Doing what is suitable, knowing moderation in what is suitable, eating food fit for consumption, ethical conduct, and good friends. These are the five things that promote longevity.) (6)
Trong pháp tăng tuổi thọ, Đức Phật dạy trong Kinh Pháp Cú rằng phải biết tôn trọng, kính lễ bậc trưởng thượng, bản dịch Thầy Minh Châu viết:
109. "Thường tôn trọng, kính lễ

Bậc kỳ lão trưởng thượng,
Bốn pháp được tăng trưởng:
Thọ, sắc, lạc, sức mạnh." (7)

Trong Kinh AN 5.37, Đức Phật dạy rằng những người bố thí bữa ăn sẽ được tăng tuổi thọ, tăng nhan sắc, tăng an lạc, tăng sức mạnh và tăng biện tài. Bản dịch của Thầy Minh Châu viết:
“— Người bố thí bữa ăn, này các Tỷ-kheo, người thí chủ đem lại cho người thọ lãnh năm điều. Thế nào là năm?
Cho thọ mạng, cho dung sắc, cho an lạc, cho sức mạnh, cho biện tài. Cho thọ mạng, vị ấy được chia thọ mạng chư Thiên hay loài Người. Cho dung sắc, vị ấy được chia dung sắc chư Thiên hay loài Người. Cho an lạc, vị ấy được chia an lạc chư Thiên hay loài Người. Cho sức mạnh, vị ấy được chia sức mạnh chư Thiên hay loài Người. Cho biện tài, vị ấy được chia biện tài chư Thiên hay loài Người. Người bố thí bữa ăn, này các Tỷ-kheo, người thí chủ đem lại cho người thọ lãnh năm điều này.” (8)

TỈNH THỨC NHÌN CÁI CHẾT
Chắc chắn rằng chúng ta sẽ chết vào một lúc nào đó. May mắn lắm, nhiều phước duyên lắm, chúng ta sẽ chết bình an khi tuổi thọ đã mãn. Tuy nhiên, nhiều phần chúng ta không thể biết chắc rằng khi nào cái chết sẽ tới, đặc biệt là khi xảy ra rủi ro hoạnh tử. Do vậy, chúng ta phải chuẩn bị đón nhận cái chết cho đúng pháp. Y hệt như khi lên đường đi xa, phải bình tỉnh, không mê đắm bất kỳ những gì trong đời này và không mơ tưởng bất kỳ những gì mai sau. Thái độ tỉnh thức, không mê đắm, không vui thích dù là với sự sống hay sự chết, ghi lại qua bài kệ của ngài Sāriputta (Xá Lợi Phất, học trò hàng đầu, được Đức Phật khen ngợi là Đệ nhất trí tuệ trong giáo đoàn).  
Bản Việt dịch của Thầy Indacanda, trích:
Tôi không vui thích sự chết, tôi không vui thích sự sống, tôi sẽ lìa bỏ thân xác này, có sự nhận biết rõ, có niệm.
Tôi không vui thích sự chết, tôi không vui thích sự sống, và tôi chờ đợi thời điểm, giống như người làm thuê chờ đợi tiền công.” (9)
Tuy nhiên, nếu xảy ra cái chết hoạnh tử, công trình tu học của chúng ta sẽ về đâu? Đức Phật trả lời ngài Mahānāma rằng không có gì phải lo, vì bởi vì những người tu tập lâu ngày với tín, giới, sở văn, thí xả, trí tuệ (faith, ethics, learning, generosity, and wisdom) thời tâm của vị ấy thượng thặng, đi đến thù thắng. Kinh SN 55.21 ghi lời Đức Phật rằng dù chết cách gì đi nữa, người tu sẽ vẫn không bị đọa, cũng như ghè dầu, sữa hay bơ bị bể trên hồ nước sâu, thì ghè sẽ bể vụn, tan nát, chìm xuống nhưng dầu, sữa và bơ sẽ nổi lên. 
Kinh SN 55.21, bản dịch Thầy Minh Châu viết:
Ngồi một bên, họ Thích Mahānāma bạch Thế Tôn:
—Kapilavatthu này, bạch Thế Tôn, là phồn vinh, phú cường, dân cư đông đúc, quần chúng khắp nơi chen chúc, chật hẹp. Bạch Thế Tôn, sau khi con hầu hạ Thế Tôn hay các Tỷ-kheo đáng kính, vào buổi chiều, con đi vào Kapilavatthu, con gặp con voi cuồng chạy; con gặp con ngựa cuồng chạy; con gặp người cuồng chạy; con gặp cỗ xe lớn cuồng chạy; con gặp cỗ xe nhỏ cuồng chạy. Trong khi ấy, bạch Thế Tôn, tâm con nghĩ đến Phật bị hoang mang, tâm con nghĩ đến Pháp bị hoang mang, tâm con nghĩ đến chúng Tăng bị hoang mang. Rồi bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: “Nếu lúc ấy con mệnh chung, thời sanh thú của con là gì, sanh xứ đời sau chỗ nào?”
—Chớ có sợ, này Mahānāma! Chớ có sợ, này Mahānāma! Không ác sẽ là cái chết của Ông! Không ác là cái chết của ông! Này Mahānāma, với ai đã lâu ngày tâm tu tập trọn vẹn về tín, tâm tu tập trọn vẹn về giới, tâm tu tập trọn vẹn về sở văn, tâm tu tập trọn vẹn về thí xả, tâm tu tập trọn vẹn về trí tuệ; với người ấy, dầu thân có sắc này, do bốn đại hợp thành, do cha mẹ sanh, do cơm cháo nuôi dưỡng, có bị vô thường phá hoại, phấn toái, đoạn tuyệt, hoại diệt; dầu cho thân này ở đây bị quạ ăn, chim kên ăn, chim ưng ăn, chó ăn, hay giả-can ăn, hay các loại chúng sanh sai khác ăn; nhưng nếu tâm của vị ấy được lâu ngày tu tập trọn vẹn về tín, tu tập trọn vẹn về giới, tu tập trọn vẹn về sở văn, tu tập trọn vẹn về thí xả, tu tập trọn vẹn về trí tuệ, thời tâm của vị ấy thượng thặng, đi đến thù thắng.
Ví như, này Mahānāma, một người nhận chìm một ghè sữa bơ, hay một ghè dầu vào trong một hồ nước sâu và đập bể ghè ấy. Ở đây, các mảnh ghè hay mảnh vụn chìm xuống nước; nhưng sữa, bơ hay dầu thời nổi lên, trồi lên trên.” (10)
Kinh kế tiếp trong Tương Ưng Bộ là Kinh SN 55.22 ghi lời Đức Phật rằng dù chết cách gì đi nữa, người tu sẽ vẫn không bị đọa, cũng y hệt như một cây thiên về phía Ðông, hướng về phía Ðông, xuôi về phía Ðông, nếu bị chặt đứt từ gốc rễ, nó sẽ ngả về phía Đông, khi người tu có lòng tin bất động vào Phật, Pháp, Tăng và sống giữ giới hướng về thiền định ((Bản dịch Sujato: It’s when a noble disciple has experiential confidence in the Buddha… the teaching… the Saṅgha… And they have the ethical conduct loved by the noble ones… leading to immersion.) (10)  
Trong khi đó, Kinh AN 6.19 ghi lời Đức Phật dạy rằng phải tình thức và tinh tấn, nhìn thấy cái chết chỉ cách mình có một hơi thở, và phải tu học với tâm tinh tấn như thế mới có thể giải thoát. Tương tự, Kinh AN 6.20 ghi lời Đức Phật sách tấn, qua bản dịch của Thầy Minh Châu, trích:
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi đêm vừa tàn và ngày vừa an trú, suy tư như sau: “Các nhân duyên đem đến cái chết cho ta rất nhiều: “Con rắn có thể cắn ta, con bò cạp có thể cắn ta, hay con rít có thể cắn ta. Do vậy, ta có thể mệnh chung. Như vậy sẽ là chướng ngại cho ta. Ta có thể vấp ngã và té xuống. Cơm ta ăn có thể làm ta mắc bệnh khi ăn, hay mật có thể khuấy động ta, hay đàm có thể khuấy động ta. Các gió như kiếm có thể khuấy động ta. Và như vậy có thể làm ta mệnh chung. Như vậy sẽ là chướng ngại cho ta”. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy xét như sau: “Nếu ta còn có những pháp ác bất thiện chưa được đoạn tận, nếu ta lỡ mệnh chung trong ngày hôm nay, chúng có thể là chướng ngại cho ta”. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo trong khi suy xét như vậy, biết được như sau: “Ta có những pháp ác bất thiện chưa được đoạn tận, nếu ta lỡ mệnh chung ngày hôm nay, chúng có thể là chướng ngại cho ta”, thời này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy, để đoạn tận các pháp ác bất thiện ấy, cần phải tận lực tác động ước muốn, tinh tấn, tinh cần, nỗ lực, không có thối chuyển, chánh niệm và tỉnh giác. Ví như, này các Tỷ-kheo, áo bị cháy hay đầu bị cháy, thời để dập tắt áo ấy hay đầu ấy, cần phải tận lực tác động ước muốn, tinh tấn, tinh cần, nỗ lực, không có thối chuyển, chánh niệm và tỉnh giác.(11)
Trong Tăng Nhất A Hàm, Đức Phật dạy niệm sự chết trong Kinh EA 3.10, rằng hãy ngồi, chỉ niệm sự chết, không nghĩ gì khác, hình dung sinh mạng trôi đi không dừng, nhìn các căn tan rã... Bản dịch của hai Thầy Tuệ Sỹ và Đức Thắng, trích:
Thế Tôn bảo rằng: Tỳ-kheo chánh thân, chánh ý, ngồi bắt tréo chân, buộc niệm ở trước, không có tư tưởng nào khác, chuyên tinh niệm sự chết. Chết là mất ở đây, sinh bên kia; qua lại các đường, sinh mạng trôi đi không dừng, các căn tan hoại, như khúc gỗ mục nát; mạng căn đoạn tuyệt, giòng họ chia lìa, không hình không tiếng, cũng không tướng mạo. Như vậy, này các Tỳ-kheo, đó gọi là niệm sự chết, liền được thành tựu đầy đủ quả báo lớn, các điều thiện đủ cả, được vị cam lồ, đến chỗ vô vi, liền được thần thông, trừ các loạn tưởng được quả Sa-môn, tự đến Niết-bàn. Cho nên, này các Tỳ-kheo, luôn phải tư duy không rời niệm sự chết, liền sẽ được những thứ công đức thiện này. Như vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này.” (12)
Trong trận đại dịch COVID-19 hiện nay của thế giới, khắp bốn phương trời đều hiển lộ hung hiểm. Trong Kinh Phật có một hình ảnh tương tự là trận lũ lụt dâng nước khắp bốn phía, và chỉ có một hòn đảo Niết Bàn duy nhất là an ổn. Trong nhóm Kinh Nhật Tụng Sơ Thời, tức là nhóm kinh được chư tăng tụng hàng ngày trong những năm đầu Đức Phật hoằng pháp, có Kinh Sn 5.10, trích lời Đức Phật dạy rằng “không sở hữu gì, không nắm giữ gì” sẽ thoát được trận lũ lụt già chết. Bản dịch Nguyên Giác:
1093. [Đức Phật] Với những người đứng giữa dòng nước, trong khi lũ lụt kinh hoàng dâng cao thêm – với những người bị già chết tràn ngập, hỡi Kappa, ta sẽ nói về một hòn đảo.
1094. “Không sở hữu gì hết, không dính mắc gì hết” – đó là hòn đảo của pháp tối thượng, ta gọi đó là Niết Bàn, nơi đoạn diệt của già chết.
1095. Hiểu được Pháp này, những người chánh niệm sẽ được giải thoát ngay trong đời này. Họ sẽ không bị ma kiểm soát, cũng không làm tôi tớ cho ma.” (13) 
Chìa khóa ngắn gọn “Không sở hữu gì hết, không dính mắc gì hết” qua bản Anh dịch của ngài Thanissaro là: “For one stranded in the middle of the lake, in the flood of great danger — birth —overwhelmed with aging & death, I will tell you the island, Kappa. Having nothing, clinging to no thing: That is the island, there is no other.” (13)
Hòn đảo “Không sở hữu gì, không một pháp nào để dính mắc” trong bài kinh trên cũng là một lời dạy của Kinh Kim Cang: ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm (Khi không còn chỗ nào để dính mắc, thì kỳ tâm, tức là tâm vô sanh hay Niết bàn Diệu tâm, mới hiển lộ ra).  
Trong kinh Kim Cang cũng có bài kệ dạy pháp quán: “Nhất thiết hữu vi pháp / như mộng, huyễn, bào, ảnh / như lộ diệc như điện / Ưng tác như thị quán.” 
Có thể dịch là: “Tất cả các pháp hữu vi, đều như giấc mơ, như huyễn ảo, như bọt sóng [trên sông], như ảnh [hiện trong gương], như hạt sương, như chớp loé trên không. Hãy quán như thế.”
Trong Thiền Tông Việt Nam, lời dạy quán sự chết như thế nào? Có sinh, tất có tử. Có thể chuyển câu hỏi này là: nên quán các pháp sinh diệt như thế nào? Bất kỳ pháp hữu vi nào cũng đều phải theo luật sinh diệt, và có sinh tất có diệt. 
Thiền sư Viên Chiếu (999 – 1090) thời nhà Lý, trụ trì chùa Cát Tường, ở kinh đô Thăng Long, để lại một bài kệ trước khi viên tịch. Bài kệ 4 câu, trong đó 2 câu cuối là:
Nhược đạt tâm không vô sắc tướng
Sắc không ẩn hiển nhậm suy di.
(Dịch: Nếu đạt được tâm không, nơi đó chính là tâm vô tướng [signless] và chính là tâm vốn thật không hề có sắc [form] nào để hiển lộ, thì [bất kể] sắc và không có ẩn hay hiện, hãy cứ để mặc cho xoay vần.)
Lời dạy đó cũng có thể ghi qua cách khác: Thấy được chỗ hoàn toàn không có một pháp nào để tu hết. Có thể giải thích đơn giản thế này: Đó là sự tỉnh thức thường trực, khi tâm hướng về mắt, thì tất cả những gì được thấy đều tức khắc tan biến [như bọt sóng tan vào nước, như ảnh hiện tan vào tánh sáng rỗng lặng của gương]; khi tâm hướng về tai, thì tất cả những gì được nghe đều biến mất [như giọt sương tan dưới nắng mặt trời, như tia chớp tan biến vào hư không]; và khi tâm hướng về bất kỳ đối tượng nào của tâm thì tất cả các pháp đều tan biến như giấc mộng đêm qua. Thấy tâm như thế, sẽ không thấy có pháp nào để vin vào nữa, thì còn lấy gì để tu. Vì tâm không đó, chính là hòn đảo của pháp tối thượng. Đó chính là Thiền Tông Việt Nam.    

GHI CHÚ:
(1) Kinh Milinda Vấn Đạo: https://suttacentral.net/mil6.3.6/vi/indacanda 
(3) Khảo Biện về Kinh Dược Sư: https://thuvienhoasen.org/a27195/khao-bien-ve-kinh-duoc-su 
(7) Kinh Pháp Cú, Kệ 109: https://thuvienhoasen.org/p15a7961/pham-01-10
(9) Trưởng Lão Tăng Kệ, Xá Lợi Phất: https://suttacentral.net/thag17.2/vi/indacanda




.