Showing posts with label Phan Tấn Hải. Show all posts
Showing posts with label Phan Tấn Hải. Show all posts

Friday, May 1, 2020

Nguyên Giác: Đọc “Mõ Trâu: Dẫn Nhập Vào 10 Bức Tranh Chăn Trâu”

Sách vừa mới ấn hành trong tháng 4/2020 — nhan đề “Mõ Trâu: Dẫn Nhập Vào 10 Bức Tranh Chăn Trâu” – là phiên bản tổng hợp từ các bài giảng của Hòa Thượng Thích Phước Tịnh về Mười Bức Tranh Chăn Trâu dựa trên mười bài thơ của Thiền sư Quách Am (khoảng thế kỷ 12, Trung Quốc) do Thầy Tuệ Sỹ dịch sang tiếng Việt.
Bên cạnh mười bài giảng của Thầy Phước Tịnh là mười bài Thiền Ca Chăn Trâu được kẻ nhạc, do nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc sáng tác, dựa theo thơ Thầy Tuệ Sỹ. Sách in trên giấy đẹp, khổ vuông 8.5X8.5 inches, dày 90 trang. Sách “Mõ Trâu” do Tâm Nguyên Nhẫn thực hiện chỉ 30 ấn bản để tặng, theo các pháp thoại do Doãn Hương sưu tập lời giảng của Thầy Phước Tịnh về Thập Mục Ngưu Đồ. Doãn Vinh vẽ bìa và phụ bản. Nguyễn Đình Hiếu trình bày. Tâm Tường Chơn biên soạn.
Bài này sẽ nhìn Thập Mưu Ngục Đồ qua bản đồ học Phật của Đấng Thế Tôn. Trong hai tạng Kinh A Hàm và Nikaya, Đức Phật đã từng so sánh tiến trình tu tâm như việc chăn bò. Trong Phật Giáo Tây Tạng, cũng có một hướng dẫn tương tự như tranh chăn trâu, nhưng là lộ trình chín giai đoạn chăn voi.
A HÀM, NIKAYA: CHĂN BÒ, THIỀN TÔNG VÀ HẠNH BỒ TÁT
Trong Kinh Tạp A Hàm SA 1249, bản dịch của Thầy Tuệ Sỹ và Thầy Đức Thắng, Đức Phật dạy về kỹ năng tu tâm tương tự như kỹ năng chăn bò, với 11 pháp người chăn bò cần khéo biết. Cũng nên ghi nhận về Kinh SA 1249 và kinh tương tự bên Tạng Nikaya là Kinh MN 33, nội dung là chăn giữ đàn bò lớn, hàm ý phương pháp tăng thịnh tứ chúng, như dường nhóm kinh này là khởi đầu của Hạnh Bồ Tát để gìn giữ cho chúng sanh an ổn, và để tự mình an ổn và làm an ổn cho người khác. Như vậy, tu không có nghĩa là lui vào ven rừng, góc núi riêng tự lo cho mình an ổn, mà phải làm cho đàn bò hưng thịnh, tức là xuống núi, như chúng ta có thể suy đoán theo ngôn phong Thiền Tông, là thõng tay vào chợ hoằng pháp.
Trích Kinh SA 1249 như sau:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Người chăn bò nếu có đủ mười một pháp, sẽ không thể làm cho bò tăng trưởng, cũng không thể giữ gìn bầy bò lớn được an ổn. Những gì là mười một? Không biết sắc; không biết tướng; không biết trừ trùng; không băng giữ vết thương; không un khói; không biết chọn đường; không biết chọn chỗ nghỉ; không biết chỗ qua sông; không biết chỗ cho ăn; vắt hết sữa của bò; không biết chăm sóc con đầu đàn. Đó gọi là người có đủ mười một pháp thì không thể chăn giữ đàn bò lớn. Cũng vậy, Tỳ-kheo có đủ mười một pháp, không thể tự mình an ổn, cũng không thể an ổn cho người khác. Những gì là mười một điều? Không biết sắc; không biết tướng; không thể trừ trùng hại; không băng vết thương; không thể un khói; không biết đường chánh; không biết chỗ dừng nghỉ; không biết chỗ vượt qua; không biết chỗ để ăn; vắt hết sữa của bò; hoặc có Thượng tọa đa văn kỳ cựu, tu phạm hạnh lâu, được Đại Sư khen ngợi, mà không hướng đến các phạm hạnh có minh trí để khen ngợi đức độ kia, khiến tất cả tôn kính, phụng sự, cung dưỡng.” (1)
Tương tự, Kinh Trung Bộ MN 33 bản dịch của Thầy Minh Châu cũng ghi  rõ: “Này các Tỷ-kheo, người chăn bò đầy đủ mười một đức tánh này có thể chăn giữ đàn bò, khiến đàn bò trở thành hưng thịnh.”[1]
Phương pháp tu tâm theo hình ảnh chăn bò được ghi trong Kinh SA 1249 cũng là phòng hộ sáu căn, trích: “Thế nào là không băng vết thương? Mắt thấy sắc, theo đó nắm giữ hình tướng. Do không thủ hộ mắt, khiến cho tham ưu thế gian, pháp ác bất thiện chảy lọt vào tâm mà không thể phòng hộ. Tai mũi, lưỡi, thân, ý lại cũng như vậy. Đó gọi là không băng vết thương.”
Dẫn bò theo đường chánh là đưa tâm mình về, và đưa tâm chúng sanh vào Bát Chánh Đạo, trong khi pháp chăn thả bò được Kinh SA 1249 dạy là: “Thế nào là không biết chỗ chăn thả bò? Bốn Niệm xứ và pháp luật Thánh hiền, gọi là chỗ chăn thả bò. Ở đó mà không biết như thật, thì đó gọi là không biết chăn thả bò.”
Trong hai kinh A Hàm và Nikaya vừa nêu, Đức Phật cho biết có nhiều cách đưa bò qua sông. Trong đó, có pháp ẩn mật, có pháp hiển lộ. Có pháp cú nghĩa sâu xa mà người tu có thể tự biết nhưng không thể diễn rộng chỉ rõ. Nghĩa là, lời nói có khi có thể không nói được cảnh giới tự chứng xa lìa ngôn ngữ (văn phong này của Đức Phật như dường là những khởi đầu cho Thiền Tông, tức là Thiền pháp truyền từ ngài Bồ Đề Đạt Ma).
Trích Kinh SA 1249: “Thế nào là không biết chỗ vượt qua? Không biết Tu-đa-la, Tỳ-ni, A-tì-đàm, không biết tùy thời đến thưa hỏi thỉnh thọ, rằng, ‘Thế nào là thiện, thế nào là bất thiện, thế nào là có tội, thế nào là không có tội; tạo những pháp nào là pháp thù thắng không phải ác?’ Đối với pháp ẩn mật thì không thể khai phát, đối với pháp hiển lộ thì không thể hỏi rộng, đối với cú nghĩa sâu xa đã tự biết mà không thể diễn rộng chỉ rõ. Đó gọi là không biết chỗ vượt qua…”
Trong Kinh MN 33 ghi đoạn văn đó là tìm chỗ dễ cho bò vượt sông, trích:
“…”thế nào là Tỷ-kheo biết chỗ nước có thể lội qua? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thỉnh thoảng có đến gặp những Tỷ-kheo đa văn, được trao cho truyền thống giáo điển, những bậc trì Pháp, trì Luật, trì matika (các bản tóm tắt) có hỏi, có trả lời các vị ấy: “Thưa Tôn giả, điểm này là thế nào? Ý nghĩa này là gì? Những bậc Tôn giả ấy làm cho hiển lộ những điều chưa được hiển lộ, làm cho rõ ràng những điều chưa được rõ ràng, và đối với những nghi vấn về Chánh pháp, các vị đoạn trừ nghi hoặc. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo biết rõ chỗ nước có thể lội qua.”
— Bản Anh dịch của Thầy Sujato: “Those venerables clarify what is unclear, reveal what is obscure, and dispel doubt regarding the many doubtful matters.”1 (NG dịch: Các vị thầy đó làm sáng rõ những gì chưa rõ, tiết lộ những gì còn ẩn tàng, và xóa bỏ nhiều chỗ ngờ vực.)
— Bản Anh dịch của Thầy I.B. Horner: “These venerable ones disclose to him what was not disclosed, they make clear what was not made clear, and on various doubtful points of Dhamma they resolve his doubts.” (1) (NG dịch: Các vị tôn túc này tiết lộ cho học nhân những gì chưa được tiết lộ, làm rõ những gì chưa được làm rõ, đoạn nghi nhiều điểm về Pháp.)
Nghĩa là, có những pháp chưa được vị Thầy hiển lộ minh bạch, sẽ chờ tới đúng thời sẽ hiển lộ để đoạn nghi cho học trò. Đối với Thiền Tông, vị thầy sẽ chờ đúng thời để chỉ cho học nhân Bản Tâm, hay Bản Thể Diệu Hữu Chân Không của Tâm. Đây là phong thái rất mực Thiền Tông.
Trong khi đó, Kinh Trung Bộ MN 34 nói về Hạnh Bồ Tát, quán sát về những cách để làm sao lùa được tất cả bò qua sông.  Đặc biệt, đàng nào rồi cũng qua sông, kể cả “con bò còn nhỏ mới sanh, con bò này nhờ chạy theo con bò mẹ, vừa chạy, vừa kêu, sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, cũng qua bờ bên kia một cách an toàn”… Bò mới sanh, còn bú, vừa kêu vừa chạy theo bò mẹ, cũng qua sông an toàn; đó là các vị tùy pháp hành, tùy tín hành.
Trích Kinh MN 34, bản dịch của Thầy Minh Châu, cho thấy hạnh nguyện cứu độ chúng sinh, kể cả lo cứu bò con mới sanh:
Ngày xưa, này các Tỷ-kheo, tại Magadha có người chăn bò có trí, vào cuối tháng mùa mưa, trong mùa gặt hái, sau khi quán sát bờ bên này sông Hằng, sau khi quán sát bờ bên kia sông Hằng, đuổi đàn bò qua bờ bên kia tại Suvideha, tại chỗ có thể lội qua được. Người đó đuổi đi đầu những con bò đực già, những con đầu đàn. Những con này sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, qua bờ bên kia một cách an toàn. Rồi người đó đưa qua những con bò đực lớn mạnh, những con bò đực có được huấn luyện. Những con này sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, qua bờ bên kia một cách an toàn. Rồi người đó đuổi qua những con bò đực con, lớn, những con bò cái con, lớn. Những con này sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, qua bờ bên kia một cách an toàn. Rồi người đó đuổi qua những con bò con nhỏ, những con bò con còn bú. Những con này sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, qua bờ bên kia một cách an toàn. Này các Tỷ-kheo thời xưa ấy có con bò còn nhỏ mới sanh, con bò này nhờ chạy theo con bò mẹ, vừa chạy, vừa kêu, sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, cũng qua bờ bên kia một cách an toàn. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, vì người chăn bò ở Magadha là người có trí, vào cuối tháng mùa mưa, trong mùa gặt hái, sau khi quán sát bờ bên này sông Hằng, sau khi quán sát bờ bên kia sông Hằng, đuổi đàn bò qua bờ bên kia tại Suvideha, tại chỗ có thể lội qua được.”2
KIM CANG THỪA: BỨC TRANH CHĂN VOI
Trong khi đó, truyền thống Phật Giáo Kim Cang Thừa, xuất phát từ Tây Tạng và đang ảnh hưởng lớn tại Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Hoa, Nepal, Ấn Độ, Bhutan, Nga và nhiều nước khác, có pháp tu tâm theo lộ trình chín giai đoạn chăn voi.
Trong khi thể loại tranh chăn trâu có hai cách trình bày chính — Đại Thừa và Thiền Tông — với nhiều thiền sư khác nhau đề thơ cho 10 giai đoạn, tranh chăn voi của Kim Cang Thừa thống nhất, chia làm 9 giai đoạn. Chư tổ Trung Hoa chọn hình ảnh con trâu cho quen thuộc với nền văn hóa trồng lúa, trong khi chư tổ Tây Tạng chọn hình ảnh con voi cho quen thuộc với đời sống của người miền núi. Con voi tượng trưng cho tâm. Nếu voi rừng hoang dã, người dân làng xóm sẽ kinh hoàng. Như thế, nhu cầu là thuần hóa voi rừng, tức luyện tâm. Thêm nữa, dấu chân voi dễ nhìn thấy trong rừng vì là dấu chân to nhất, trong khi voi rừng phá hoạt nhiều nhất thì voi đã thuần lại có công nhiều nhất cho làng xóm. Đồ hình luyện voi này gọi là Chín Giai Đoạn An Tâm (Nine Deepening Stages of Calm-Abiding).
Theo các dẫn giải của các bản văn Kim Cang Thừa, đồ hình chăn voi ban đầu cho thấy voi có màu tối, tượng trưng tâm mờ nhạt và u ám. Hình ảnh vị sư trong đồ hình là người tu thiền. Màu sậm của con khỉ trong đồ hình tượng trưng sự tán tâm, không tập trung, và do vậy con khỉ hướng dẫn con voi chạy đi mọi nơi, chạy theo các đối tượng khác nhau; nơi người, tượng trưng tâm tán loạn chạy theo căn trần. Nhà sư trong đồ hình cầm sợi dây và móc sắt, tượng trưng cho chánh niệm tỉnh giác, kéo voi về đúng lối, tức là tỉnh thức với lối voi đi, cho khỏi chệch hướng.
Ngọn lửa trong đồ hình tượng trưng nhiệt tâm của nhà sư, tinh tấn thiền định. Ngọn lửa ban đầu lớn, rồi dọc theo đồ hình sẽ từ từ nhỏ lại, trong khi con voi đen từ từ chuyển sang voi trắng; ý nghĩa là tâm thuần hơn, dễ định tâm hơn, không cần nhiều nỗ lực mà voi vẫn đi đúng lối. Ban đầu là con khỉ dắt voi đi, nhưng sau khi nhà sư làm chủ được voi, sư dắt voi đi, khỉ chỉ còn chạy lẹt đẹt theo sau voi để quấy rối, níu kéo voi. Voi từ từ trắng nơi đầu trước, lan dần màu trắng xuống thân; ý là người tu thiền chủ yếu làm thanh tịnh tâm trước, trong khi các dư nghiệp khác sẽ từ từ nhuộm trắng sau.
Trong giai đoạn 1 và 2 của đồ hình chăn voi, người tu giữ giới, học pháp nghĩa để tin nhân quả, vững tín tâm và không lui sụt, và tập định (chỉ, samatha) theo hoặc là pháp theo dõi hơi thở, hoặc là pháp lắng nghe, hoặc cả hai. Giai đoạn 3 và 4 vẫn học sâu thêm pháp nghĩa, bớt tán tâm và định vào sâu hơn. Giai đoạn 5 và 6, nhờ chánh niệm vững vàng, mặc dù định chưa thuần nhất, nhưng người tu đã vững vàng nhận biết tất cả những gì đang xảy ra và biết mình đang làm gì. Giai đoạn 7 và 8, hai pháp chỉ và quán đều thuần thục, định tâm của người tu không bị gián đoạn nữa, voi thuần trắng từ giai đoạn 8. Giai đoạn 9, tâm hoàn toàn an tĩnh, tâm tự nhiên an nghỉ, nhà sư cỡi voi với tay phải cầm thanh kiếm lửa, tượng trưng dùng chi và quán chứng ngộ tánh không (realization of voidness) của vạn pháp.
MƯỜI TRANH CHĂN TRÂU
Với các nhà sư Việt Nam, hình ảnh chăn trâu tượng trưng cho luyện tâm từ xa xưa đã được nói tới. Thầy Thích Đức Thắng trong bài viết nhan đề “Con Trâu Đất – Một Biểu Tượng Độc Đáo của Tuệ Trung” đã nêu một số câu thơ của ngài Tuệ Trung Thượng Sỹ (1230–1291) về cách chăn trâu cũng như luyện tâm. Trong khi đó, Thiền Sư Quảng Trí (thời nhà Lê) biên soạn tập sách nhan đề “Thập Mục Ngưu Đồ Tụng Luận Giải” — sách này được nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn dịch và chú thích, cũng được Thầy Thích Thông Phương dịch và Thầy Thích Thanh Từ bình giảng. Trong khi đó, nhà nghiên cứu Tâm Minh Ngô Tằng Giao biên soạn một sách tổng hợp nhan đề “Phật Dạy Luyện Tâm Như Chăn Trâu” được NXB Diệu Phương ấn hành năm 2010, với nhiều bản vẽ tranh chăn trâu và thơ tụng từ nhiều thiền sư.
Nơi đây, chúng ta chỉ trình bày về sách “Mõ Trâu: Dẫn Nhập Vào 10 Bức Tranh Chăn Trâu” (viết tắt: Mõ Trâu, hoặc MT) mới ấn hành, do Thầy Phước Tịnh giảng, thơ của Thầy Tuệ Sỹ. Chữ “mõ trâu” nghe xa lạ với giới trẻ thành phố, cả trong và ngoài VN. Lời Thưa giải thích: Mõ trâu là một chiếc hộp bằng gỗ hay bằng tre, bên trong có treo những thanh gỗ nhỏ, được buộc vào cổ trâu bằng sợi dây thừng. Khi trâu di chuyển, các thanh gỗ nhỏ lúc lắc gõ vào hộp gỗ, tạo ra những “âm thanh lọc cọc vui tai”… Trong sách Mõ Trâu: Bản chữ Hán là của Thiền sư Quách Am (thế kỷ 12, còn gọi là Quách Am Sư Viễn); Bản thơ tiếng Việt là của Thầy Tuệ Sỹ; lời bình của Thầy Phước Tịnh. Đây là tranh chăn trâu Thiền Tông, nên trâu thuần trắng ngay từ khi mới được dò ra. Tất cả các thơ trong bài này đều do Thầy Tuệ Sỹ dịch. Tuy nhiên, cần ghi nhận rằng phiên bản trong sách này có khác một số chữ so với một số bản trên mạng, cùng dịch giả Tuệ Sỹ.
Bức tranh thứ nhất là Tầm Ngưu, tức Tìm Trâu (sách Mõ Trâu, trang 5-9).
Nức lòng vạch cỏ rong tìm
Non xa, nước rộng, đường chim mịt mù
Sức cùng dạ mỏi tìm mô?
Rừng phong bóng ngả nghe hồ ve ngâm.
Bốn câu thơ dịch trên của Thầy Tuệ Sỹ cho thấy người tu vạch cỏ tìm, mà không thấy trâu, trong khi “bóng ngả” cho thấy đêm sắp về, ngày sắp tắt. Thầy Phước Tịnh bình rằng trong khi đời người chóng qua, tu mà chệch hướng thì thê thảm, trong khi “Cuộc đời càng về già, chúng ta càng nhìn thấy mịt mù trước mặt, không biết khi nào sẽ rơi vào hố sâu thăm thẳm của cái chết” (MT, trang 9)…
Bức tranh thứ hai là Kiến Tích, tức Thấy Dấu (sách Mõ Trâu, trang 11-15).
Dấu chân bên suối ven rừng,
Cỏ thơm che lối biết dừng nơi đâu.
Dù cho núi thẳm rừng sâu
Trời cao mũi rộng, nơi nao dấu mày.
Thầy Phước Tịnh bình rằng thấy dấu chân trâu bên suối, ven rừng, thấy mũi con trâu cao đụng trời xanh, chỉ cho “tâm Phật sáng ngời trùm khắp chính ta.” Như vậy là thấy tâm, thấy dấu chân trâu ở suối, rừng, nhưng cỏ che lối vì còn thanh, sắc, suy tư cuốn hút. Dấu chân trâu có thể nhận ra rằng: không có tâm, thì không thể có cảnh, vì cảnh theo tâm mà hiện. Đó là lý do nói mũi trâu nằm ở cả trời cao, núi thẳm, rừng sâu.
Bức tranh thứ ba là Kiến Ngưu, tức Thấy Trâu (sách Mõ Trâu, trang 17-21).
Trên cành chim hót líu lo,
Gió lay, nắng ấm bên bờ liễu xanh.
Chỗ này thôi hết chạy quanh
Đầu sừng bề bộn, họa hình khó thay.
Nghe tiếng chim, thấy gió lay, cảm nhận nắng ấm, nhận ra màu sắc liễu xanh… vậy là thấy đầu và sừng trâu rồi, vì chính trong cái thấy nghe hay biết chính là dấu tích của tâm, là thấy tâm rồi. Thầy Phước Tịnh bình rằng “Tuy có thể thấy được trâu nhưng nó vẫn thoáng ẩn thoáng hiện, mờ ảo, rối rắm, chập chùng, không rõ ràng nền hình ảnh nó vẫn chưa rõ nét.” (MT, trang 20)
Bức tranh thứ tư là Đắc Ngưu, tức Bắt Được Trâu (sách Mõ Trâu, trang 23-27).
Trăm đường mới chộp được mi
Tánh hung, sức bạo, làm chi được nào.
Đôi khi nhảy đến đồi cao
Lại trong mây nổi, dạt dào buông lung.
Thầy Phước Tịnh bình rằng người tu phải khéo mới nắm được mũi con trâu, vì “Con trâu vốn tính hung bạo, sức lực rất mạnh nên thật là khó mà ghì giữ nó. Nó lôi mình đi mà mình không có cách gì để khống chế lại được…” (MT, trang 26) Thầy ghi nhận rằng hình ảnh trâu chạy hung hăng là “tham sân, buồn giận, bất an…” (MT, trang 27) cứ lôi kéo người tu hoài.
Bức tranh thứ năm là Mục Ngưu, tức Chăn Trâu (sách Mõ Trâu, trang 29-33).
Dây roi mang sẵn kè kè
Sợ mi tung vó theo bè trần ai.
Bao giờ thuần tánh hăng say,
Roi giàm vứt bỏ mà mày vẫn ngoan.
Thầy Phước Tịnh bình rằng, “chúng ta phải luôn thực tập phòng hộ (cầm dây, dùng roi) để coi chừng con trâu tâm thức của mình. Chúng ta chăm sóc như cho đến khi thân đi dâu, tâm theo đó, tâm không rời thân trong mọi nơi chốn, mọi thời điểm… Hãy nhận diện tỏ tường rằng những ý thức, suy nghĩ như tham sân, chấp trước, tự tôn, tự hào… biểu hiện mạnh mẽ hay âm thầm, cũng là những thứ sở hữu của ta. Đó đơn thuần chỉ là dòng chảy (hiện hành) của những hạt giống thức tâm sinh diệt mà không phải là trạng thái thanh nguyên của tâm thức ta.” (MT, trang 32-33)
Bức tranh thứ sáu là Kỵ Ngưu Quy Gia, tức Cỡi Trâu Về Nhà (sách Mõ Trâu, trang 35-39).
Lưng trâu thong thả ta về
Sáo lên vi vút ngoài đê ráng chiều.
Lời ca tiếng diệp phiêu diêu
Tri âm nào phải ra điều nói năng.
Thầy Phước Tịnh bình rằng chữ “tri âm” gốc từ chữ Hán nói về những người bạn rất thân, không cần nói gì với nhau mà vẫn hiểu nhau, nhưng nơi đây còn có nghĩa: “…chữ tri âm ở đây hàm ý hướng nội; nghĩa là điều phục được tâm, sống được với tâm, lúc nào mình cũng an trú trong chánh niệm, không cần khởi lên tiếng nói thì thầm. Một khi sống được với năng lượng chánh niệm vững chải và giàu có của tự tâm, chúng ta có thể biết rõ đời sống tu tập của mình; ta có thể quan sát tâm ý một cách rõ ràng mà không cần ai chỉ bảo. Khi ấy tâm tự an trú trong niệm và định mà không cần phải tác ý dẫn dắt công phu.” (MT, trang 38)
 Bức tranh thứ bảy là Vong Ngưu Tồn Nhân, tức Quên Trâu Còn Người (sách Mõ Trâu, trang 41-45).
Cõi trâu về đến quê xưa
Lỏng tay thả quách, người vừa rảnh rang.
Trời cao nắng ấm, mộng vàng
Dây roi chăn dắt có cần nữa đâu.
Trong hình, trâu biến mất rồi (thấy vô tâm) trong khi mặt trời hiện lên sáng rỡ (bản tâm với chánh niệm chiếu sáng) và chú mục đồng ngồi bó gối (tức rảnh tay), roi và dây vứt nơi góc nhà vì không cần nữa. Thầy Phước Tịnh bình rằng giai đoạn bó gối này là đạt được “phẩm tính thong dong khi thiền tập”… Thầy giải thích đó là khi ý thức nhận biết sáng tỏ trong mọi động tác, “Cách thiền tập này có tên là Niệm thân hành; hàm nghĩa mọi cử động của thân dù chỉ là ngheo mắt nhướng mày hay một co giãn của cơ bắp ta đều phải nhận biết tỏ tường. Niệm nghĩa là tâm nhận biết bình lặng, không có tiếng nói thì thầm. Chỉ đơn thuần là sự nhận biết sáng tỏ, phủ sóng toàn thân, như mặt trời phóng ánh sáng phủ trùm hành tinh một cách liên tục, không một kẽ hở, không một giây ngưng…” (MT, trang 45).
Bức tranh thứ tám là Nhân Ngưu Câu Vong, tức Người Trâu Đều Quên (sách Mõ Trâu, trang 47-51).
Người trâu roi vọt chẳng còn
Trời xanh bằng bặt tinh mòn mỏi tinh
Lò hồng sạch dấu tuyệt vời
Đến đây Phật Tổ và mình không hai.
Trong hình, chỉ còn một hình tròn, trong khi tất cả (trâu, người, cảnh) đều biến mất. Thầy Phước Tịnh bình rằng, “Hiển nhiên là ta vẫn còn một hình hài con người; vẫn ăn, vẫn thở, vẫn cười bình thường; vẫn đi đứng sinh hoạt trên hành tinh như bao người. Như vậy, trạng thái sáng tỏ, rỗng không, vắng lặng của thiền giả thể nghiệm do công phu quán chiếu ở đây là muốn nói đến các phần thọ, tưởng, hành, thức của ta không còn nơi để bám víu, không còn chỗ để chấp chặt, không còn thấy đây là bản ngã của ta để tự hào, kiêu ngạo hay ưu tư phiền muộn. Đây gọi là đạt đến giai đoạn thấy người cũng không mà cảnh cũng không. Người và trâu đều không (người trâu đều quên).” (MT, trang 50)
Bức tranh thứ chín là Phản Bổn Hoàn Nguyên, tức Trở Về Nguồn Cội (sách Mõ Trâu, trang 53-57).
Phí công về đến nhà xưa
Đâu bằng ngay đó lặng lờ bặt duyên.
Trong am bặt hết nẻo huyền
Nước trôi hoa thắm an nhiên một trời.
Trong hình không còn người, không còn trâu, chỉ là cành liễu bên dòng sông, với hoa lá bay… Thầy Phước Tịnh dẫn ra câu chữ Hán “Tịnh như trực hạ nhược manh lung” trong đó chữ “nhược manh lung” là “như là mù và điếc”… Thầy bình rằng, “Đâu bằng ngay bây giờ và ở đây, hãy là người vô sự, không cảnh nào đến với mắt, với tai mà có thể làm cho tâm thức ta xao động…  đối với hành giả tu tập, cái thấy, cái nghe vẫn tỏ rõ nhưng không âm thanh, sắc tướng nào làm cho họ sinh lòng phân biệt ghét thương, ưu tư, phiền muộn nên gọi là nhược manh lung. Am trung bất kiến am tiền vật – Ngay nơi thấy nghe nhận biết tỏ tường từng pháp trần sinh khởi và hoại diệt, nhưng tâm không vướng vào một pháp nào nên gọi là như tuồng câm điếc. Trong am (hay trong tâm) không thấy gì ngoài sự rỗng không, tĩnh tại, lặng lẽ” (MT, trang 56)
Bức tranh thứ mười là Nhập Triền Thùy Thủ, tức Thõng Tay Vào Chợ (sách Mõ Trâu, trang 59-63).
Lưng trần, chân đất, chợ người
Cát lầm bụi vẫn ta cười say xưa.
Thần tiên mấy biết cũng thừa
Cây khô thoắt đã đong đưa nhụy vàng.
Thầy Phước Tịnh bình rằng, “Bức tranh số 10 có tên Nhập triền thùy thủ, dịch nghĩa là Thõng tay vào chợ. Nếu chưa quen với cách diễn đạt của Thiền Tông, chúng ta sẽ rất ngạc nhiên vì không thấy nét gì là thiền đạo trong bức tranh này cả. Ở đây vẽ hình một ông già bụng to, ăn mặc xốc xếch và một chú mục đồng với cây gậy quảy bầu rượu đằng trước, phía sau là một con cá chép, đang cùng nhau đi phố… ý nói tới đây hành giả đi vào phố thị, hàng quán rất thong dong, tức là đi vào cuộc đời mà không ngần ngại, cũng không còn bị ràng buộc, dính mắc hay bị dẫn dắt vào ham muốn, đam mê dục lạc (ngũ dục)… Hành giả khi tu tập đến giai đoạn thõng tay vào chợ thì cho dù cát bụi có bôi bẩn hình hài vẫn luôn nở nụ cười đầy nét hồn nhiên thánh thiện; phiền nhiễu thời gian có thế nào cũng không thể bén vào họ được.” (MT, trang 62-63)
Nếu đối chiếu mười tranh chăn trâu của Thiền Tông, với tranh chăn voi qua chín giai đoạn của Kim Cang Thừa, chúng ta thấy hành giả đều cần trải qua kinh nghiệm chứng ngộ tánh không. Trong pháp chăn voi, khởi đầu là tu định, hoặc theo dõi hơi thở, hoặc lắng nghe, và liên tục dùng cả chỉ và quán cho tới khi voi thuần thục, hết quậy phá, là để tâm an nghỉ tự nhiên trong chánh niệm, từ đây hướng về chứng ngộ tánh không (hành giả cầm thanh kiếm lửa, tượng trưng thấu suốt được tánh không). Trong pháp chăn trâu, chứng ngộ tánh không là tranh thứ 8 khi trâu người đều quên, tức là nhận ra tánh không, và tranh thứ 9 là về cội nguồn, lúc đó chỉ thấy cảnh (cây liễu, dòng sông) hiện lên nhưng không còn có ai (nơi đây nói, y hệt như mù và điếc). Tranh chăn trâu thứ 9 gợi nhớ tới bản Kinh Bahiya Sutta3, khi Đức Phật dạy rằng hãy để cái được thấy nghe hay biết chỉ là cái được thấy nghe hay biết, tức là chỉ có cảnh trần hiện lên nhưng không hề có ai (ý như mù, điếc)…
Và tuyệt vời của tranh chăn trâu Thiền Tông là tranh số 10, khi hành giả thõng tay vào chợ. Đây là hạnh Bồ Tát, để tìm phương tiện hoằng pháp, như lời Đức Phật dạy là đi lùa bò qua sông, bò lớn có lối qua sông thì dĩ nhiên, nhưng ngay cả bò con còn bú, còn kêu mẹ vẫn được hành giả tìm lối cạn để lùa qua sông. Có vẻ như hình ảnh này cho thấy Đức Phật không bỏ chúng sinh nào hết, và hoàn toàn không có chuyện Thế Tôn vào Niết Bàn là biến hẳn đi luôn.
Sách “Mõ Trâu: Dẫn Nhập Vào 10 Bức Tranh Chăn Trâu” chưa ấn hành rộng, nhưng dự kiến sẽ đưa lưu hành trên mạng Amazon trong năm nay. 
______________________________________
[1] Kinh SA 1249 – https://suttacentral.net/sa1249/vi/tue_sy-thang
Kinh MN 33, bản Việt: https://suttacentral.net/mn33/vi/minh_chau
Kinh MN 33, bản Sujato: https://suttacentral.net/mn33/en/sujato
Kinh MN 33, bản Horner: https://suttacentral.net/mn33/en/horner
3 Bài Pháp Khẩn Cấp – Bahiya Sutta: https://thuvienhoasen.org/a14273/bai-phap-khan-cap-bahiya-sutta

Sunday, April 19, 2020

Mùa dịch: Tôn giáo, khổ đau, và thi ca

Cư sĩ Nguyên Giác Phan Tấn Hải (Ảnh: Quảng Pháp)
Nhân loại đang đối phó với một trận dịch bệnh vô cùng nguy hiểm. Những mong manh của đời người hiển lộ ra rõ ràng hơn. Những khổ đau không còn là chuyện nghe nói của ký ức hay chỉ đọc trong sách vở, nhưng là những gì hôm nay chúng ta nhìn thấy ngay ngoài phố, góc chợ và màn hình điện thoại. Giữa các khổ đau trùng trùng của phận người như thế, tôn giáo đã trở thành nơi nương tựa thiết thân cho nhiều người, trong đó các lời cầu nguyện và than khóc được ghi vào âm nhạc và thi ca như các bậc thang hướng về cõi an lành, nơi đó đi song song với khổ đau là hy vọng. Bài này sẽ khảo sát về bốn tôn giáo lớn của nhân loại qua mắt nhìn thi ca về khổ đau và hướng tới hy vọng, sẽ viết theo thứ tự đông tín đồ nhất — Thiên Chúa Giáo nhiều hệ phái (31.5% dân số thế giới), Hồi Giáo (23.2%), Ấn Độ Giáo (15.0%), Phật Giáo (7.1%) — trong đó 3 tôn giáo lớn nhất tin vào Đấng Sáng Tạo, duy chỉ Phật Giáo nói rằng không hề có Thượng Đế nào trên đời này cả.
Các chuyên gia y tế định nghĩa dịch bệnh bằng 3 từ tiếng Anh: outbreak, epidemic, pandemic. Chữ “outbreak” chỉ cho sự bùng phát bất ngờ nhiều trường hợp bệnh dịch, có thể là một cộng đồng dân số nhỏ, hay trong một hay nhiều quốc gia, có thể kéo dài vài ngày và ngay cả vài năm. Như loại dịch cúm (influenza) trở đi trở lại thường niên, được xem là “outbreak” — tức là mức độ nhẹ nhất trong các dịch bệnh. Chữ “epidemic” chỉ mức độ nghiêm trọng hơn, khi dịch bệnh lây nhanh chóng tại một nước hay nhiều nước. Năm 2003, dịch bệnh SARS lây lan nhiều nước, làm chết gần 800 người toàn cầu, được xếp loại là “epidemic.” Nhưng COVID-19 (tên cũ là coronavirus) là “pandemic” — tiếng Việt dịch là “đại dịch” — như đại dịch cúm 1918-1919 làm chết khoảng từ 20 triệu tới 40 triệu người toàn cầu.
Có một điểm cũng nên ghi nhận: trong tháng 4/2020 khi dịch bệnh COVID-19 lên tới cao điểm hay gần cao điểm tại nhiều quốc gia, tháng 4 hàng năm là Tháng Thi Ca Hoa Kỳ (National Poetry Month). Một trùng hợp có vẻ tình cờ, phải chăng thơ là một trong những lời than khóc định mệnh nhất của phận người chúng ta…  Tính tới tuần lễ thứ nhì của tháng 4/2020, sau ba tháng  dịch bệnh tàn phá, thống kê Liên Hiệp Quốc cho thấy nhân loại có thêm 190 triệu người thất nghiệp, đó là số người làm việc toàn thời gian bị sa thải trong thời gian ba tháng qua. Trong khi đó, 2.7 tỷ người làm việc toàn cầu bị ảnh hưởng vì kinh tế bị thiệt hại vì dịch bệnh. Tại nhiều quốc gia như Việt Nam, có lẽ các con số thống kê không chính xác được, nhưng hiển nhiên là khổ đau đã tới gần trong xương tủy và bao trùm trên mọi hoạt động xã hội.
Thiên Chúa Giáo: Kinh Thánh và Dịch Bệnh
Thời xa xưa, kinh hoàng nhất là Dịch hạch (plague). Các nhà nghiên cứu tìm thấy chữ “plague” khoảng 100 lần trong Kinh Thánh Thiên Chúa Giáo, phần lớn trong sách Cựu Ước. Trận dịch được các nhà thần học nhắc tới nhiều nhất là tại Ai Cập, trong thời sinh tiền của ông Moses. Lúc đó Kinh Thánh viết rằng Thượng Đế đưa dịch bệnh xuống cho loài người để trừng phạt tội bất kính và thờ ngẫu tượng (sách Exodus 32:35). Tuy nhiên, quan điểm về dịch bệnh dưới mắt Thiên Chúa Giáo đang có một phần thay đổi, như trường hợp Đức Giáo Hoàng Francis mới tuần trước nói rằng đại dịch coronavirus nhân loại đang gặp hiện nay là một trong các “phản ứng của thiên nhiên” đối với một nhân loại không giữ gìn cân bằng sinh thái. Ngài cũng nhắc tới tai họa do nhân loại tàn phá thiên nhiên, như cháy rừng Úc Châu, như hiện tượng băng tan vùng Bắc Cực.
Trong khi Công Giáo cho rằng linh mục và giáo hội là trung gian giữa Thượng Đế và con người, các hệ phái Tin Lành nói không có trung gian nào cần tới vì Chúa Trời trực tiếp tới với từng người trên địa cầu. Theo thống kê của báo Pittsburgh Post-Gazette trên một bản tin ngày 3 tháng 2/2020, ghi rằng trong khi tín đồ Thiên Chúa Giáo suy giảm tại Mỹ, vẫn có hơn 17% người thành niên tại Mỹ tham dự trong một ca đoàn nhà thờ, tức là khoảng 1/6 người thành niên tại Mỹ. Do vậy, một hoạt động truyền thống nổi bật trong nhà thờ Tin Lành là âm nhạc, vì xem nghệ thuật như chiếc cầu trực tiếp giữa Trời và người. Nhiều nhạc sĩ và ca sĩ Hoa Kỳ nổi tiếng từ thời thơ ấu đã hát trong ca đoàn nhà thờ, như các ca sĩ sau đây hát cho nhà thờ Tin Lành từ thuở nhỏ: Whitney Houston, Britney Spears, Diana Ross, Tina Turner… Riêng Tina Turner (sinh năm 1939, thắng 12 giải thưởng âm nhạc Grammy Awards) về sau quy y theo Đạo Phật, và từ 1973 trở thành một thành viên tích cực của Nichiren (một hệ phái Phật Giáo xuất phát từ Nhật Bản).
Ca khúc “All the People Said Amen”
Nhạc sĩ Matt Maher , tên đầy đủ là Matthew Guion Maher, sinh tại Canada năm 1974, hiện cư ngụ tại Hoa Kỳ. Maher nổi tiếng với các ca khúc ngợi ca Thượng Đế và tình yêu. Các đĩa ca khúc của ông được nhiều giải thưởng. Ca khúc phổ biến của ông là “All the People Said Amen” trong đó chữ Amen là chữ thường đặt cuối các bài kinh, bài cầu nguyện của Thiên Chúa Giáo. Amen có nghĩa là “xin được như nguyện.”
Ca khúc này tiếng Anh, dịch ra tiếng Việt như sau.
Tất Cả Mọi Người Nói Lời Amen
[ca khúc của Matt Maher]
Bạn không đơn độc, nếu bạn cảm thấy cô đơn
Khi bạn thấy sợ hãi, bạn không là người duy nhất
Chúng ta tất cả đều như nhau
khi cần được xót thương
để được tha thứ và để được tự do
đó là tất cả những gì bạn cần dựa vào
Tạ ơn Chúa, đó là tất cả những gì bạn cần
và tất cả mọi người nói lời Amen
và tất cả mọi người nói lời Amen
Hãy gửi lời tạ ơn tới Thiên Chúa
vì ngài là tình yêu bất tận
và tất cả mọi người nói lời Amen.
—  —
Ca khúc Even If
Ca khúc nhan đề “Even If” (Ngay cả nếu) là sáng tác của MercyMe, một ban nhạc chuyên về nhạc thánh ca Ky Tô, thành lập năm 1994 từ thành phố Edmond, Oklahoma. Ban nhạc gồm các nhạc sĩ Bart Millard, Robby Shaffer, Nathan Cochran, Michael Scheuchzer và Barry Graul.
Ca khúc “Even If” ra đời năm 2017, liên tục nhiều tuần lễ đứng đầu danh sách các ca khúc Ky Tô trên danh sách chấm điểm của Hot Christian Songs. Nơi đây sẽ trích dịch.
Ngay cả nếu
[ca khúc của MercyMe]
… Lời nói rằng chỉ cần một chút đức tin có thể di chuyển cả núi
Vâng, như thế là tốt
bởi vì một chút đức tin là tất cả những gì con có bây giờ
Nhưng Thượng Đế, khi ngài quyết định để ngọn núi bất động
xin cho con sức mạnh để hát
với trọn linh hồn con
Con biết Ngài có quyền năng và con biết Ngài có thể
hãy đưa tay quyền năng của Ngài cứu con qua trận cháy
nhưng ngay cả nếu Ngài không
niềm hy vọng của con là riêng Ngài…
Bài thơ “Lockdown”
Linh mục Richard Hendrick là một sư huynh trong dòng tu Capuchin Franciscan, hiện cư ngụ và làm việc ở Ireland. Bài thơ nhan đề “Lockdown” (Phong Tỏa) của tu sĩ này phổ biến tuần qua và được nhiều cộng đồng Thiên Chúa Giáo ưa chuộng tức khắc. Thi sĩ Richard Hendrick nhiều năm hướng dẫn Thiền chánh niệm trong truyền thống Thần Bí Ky Tô, và cũng là tuyên úy trong nhiều bệnh viện và nhà tù Ireland. Chữ OFM sau tên tu sĩ này là chỉ về dòng tu. Trong bài thơ có chữ thường dùng của Thiền chánh niệm, như thở và lắng nghe. Bài thơ sẽ được dịch đầy đủ như sau.
Phong tỏa
[thơ của Richard Hendrick, OFM]
Vâng, có sợ hãi
Vâng, có cô lập
Vâng, có kinh hoảng mua hàng
Vâng, có bệnh đau
Vâng, có ngay cả chết.
Nhưng,
Người ta nói như thế tại Vũ Hán sau quá nhiều năm ồn ào
Bạn có thể nghe lại tiếng chim
Họ nói như thế sau chỉ vài tuần lễ vắng lặng
Bầu trời không còn dầy đặc khói
Để bây giờ là xanh và xám và trong trẻo.
Họ nói như thế trên đường phố thị trấn Assisi
Người ta đang hát cho nhau nghe
Vọng qua những quảng trường vắng
Với cửa sổ mở ra
Để những ai cô đơn
Có thể nghe âm thanh của gia đình quanh họ.
Họ nói rằng một khách sạn ở phía Tây Ireland
đang tặng miễn phí các bữa ăn, giao tận nhà cư dân.
Hôm nay một thiếu nữ tôi quen
đang bận rộn trao tờ rơi với số điện thoại của cô
tới khắp nhà khu phố
để các cụ cao niên có thể gọi khi cần.
Hôm nay, các nhà thờ Thiên Chúa Giáo, Do Thái Giáo, Hồi Giáo
đang sửa soạn mời vào
và cho nơi cư ngụ cho người vô gia cư, người bệnh, người mệt mỏi
Khắp thế giới mọi người chậm lại và tự xét mình
Khắp thế giới mọi người nhìn sang hàng xóm trong một cách mới
Khắp thế giới mọi người thức dậy thấy một thực tại mới
để xem chúng ta cao thượng ra sao
để xem chúng ta bé nhỏ xiết bao
đối với những gì chúng ta thiết thân
đối với Yêu Thương.
Như thế chúng ta cầu nguyện và nhớ rằng
Vâng, có sự sợ hãi
nhưng không có giận ghét.
Vâng, có sự cô lập
nhưng không phải là cô đơn.
Vâng, có kinh hoảng mua hàng
nhưng không có sự kém tử tế
Vâng, có đau bệnh
nhưng không có dịch bệnh trong linh hồn
Vâng, có cả sự chết
nhưng luôn luôn có sự tái sinh của yêu thương.
Hãy thức tỉnh với chọn lựa của bạn để sống bây giờ
Hôm nay, hãy thở
Hãy lắng nghe, phía sau tiếng ồn từ nỗi sợ của bạn
Các con chim đang hát trở lại
bầu trời đang trong trẻo
mùa xuân đang tới.
Và chúng ta luôn luôn được Tình Yêu bao bọc.
Hãy mở cửa sổ linh hồn bạn
và dù bạn không thể
chạm xuyên qua quảng trường vắng kia,
Hãy cất tiếng hát.
Hồi Giáo: Yêu thương và hy vọng
Các nhà thần học Hồi Giáo vẫn bất đồng về môt số giáo lý. Nhưng tất cả tín đồ Hồi Giáo đều tin rằng Thượng Đế tạo ra vũ trụ và tiếp tục điều hành các chuyện trần gian. Do vậy, xuất hiện một vi khuẩn hay siêu vi khuẩn là hành vi sáng tạo của Thượng Đế, để cảnh cáo hoặc trừng phạt. Do vậy thái độ đối với dịch bệnh là phải vâng phục, nương tựa vào Thượng Đế bảo vệ người công chính, như lời dạy của nhà Tiên Tri Muhammad: “Trước tiên, hãy buộc con lạc đà lại, và rồi tin cậy vào Thượng Đế.” Bỏi vì “Thượng Đế tạo ra dịch bệnh là sẽ tạo ra thuốc chữa trị, chỉ trừ một bệnh: tuổi già.”
Nhà Tiên Tri Muhammad đã dạy về cách ly khi có dịch bệnh: “Nếu ngươi nghe dịch bệnh bùng phát nơi nào, chớ vào đất đó; nếu dịch bùng phát nơi ngươi đang cư trú, chớ rời nơi ngươi đang ở.”
Lịch sử Hồi Giáo có ghi về trận dịch hạch “The Plague of Emmaus” còn gọi là “Plague of ‘Amwas,” nguyên nhân dịch hạch từ  bọ chét chuột, bùng phát năm 639 tại thị trấn Emmaus (Amwas) tại Palestine, làm chết khoảng 25,000 người, trong đó có nhiều người từng thân cận với Giáo chủ Muhammad.
Nhưng nói tới Hồi Giáo là phải nói tới nhà thơ Rumi, tên đầy đủ là Jalal ad-Din Muhammad Rumi (1207 –1273), cũng là nhà thần bí khuynh hướng Sufi, chủ trương hòa bình và yêu thương. Những bài thơ tình của ông có thể hiểu chữ “you” là “em” hay là “bạn” và cũng có thể hiểu là “cuộc đời” hay “Thượng Đế.” Như bốn dòng thơ sau:
Đây là cách tôi sẽ chết
trong tình yêu tôi có cho em:
Như các vầng mây
tan vào ánh nắng.
(Thơ Rumi)
Tương tự, bài thơ sau, nhan đề “A Moment Of Happiness” (Một Khoảnh Khắc Hạnh Phúc) cũng thường được tín đồ Hồi Giáo trích dẫn, kể về hai người yêu thương nhau và trở thành một.
Một Khoảnh Khắc Hạnh Phúc
Một khoảnh khắc hạnh phúc
em và tôi ngồi nơi hàng hiên
hai người, em và tôi, nhưng là một trong hồn.
Chúng ta cảm nhận dòng nước đời sống nơi đây
em và tôi, với vẻ đẹp ngôi vườn
và các con chim đang hát.
Các vì sao đang nhìn chúng ta
và chúng ta sẽ chỉ cho họ thấy
cái gì là một miếng trăng lưỡi liềm gầy.
Em và tôi, không còn gì riêng, sẽ cùng nhau
không khác gì một giả thuyết ngưng đọng, em và tôi.
Các chim vẹt trên thiên đường sẽ say sưa
như chúng ta cười bên nhau, em và tôi.
Trong một thân trên trái đất này
và trong thân khác trên đất ngọt ngào vô tận.
(Thơ Rumi)
Một bài thơ khác của Rumi cũng thường được nhắc tới để trấn an khi hoang mang lo sợ, mang cả tính thần học và tình yêu, có tên là “Quatrains” (Các đoạn bốn câu).
Các Đoạn Bốn Câu
Đừng để cổ họng em co lại
vì sợ hãi. Hãy nếm từng hơi thở
cả ngày và đêm. Trước khi cái chết
khép miệng em lại.
 Không có tình yêu trong tôi, nếu không có em đời này
không hơi thở nào trong tôi mà không có em đời này. Tôi từng nghĩ
tôi có thể buông bỏ ước mơ này, rồi dù như thế
nhưng tôi không thể tiếp tục làm người.

(Thơ Rumi)
Ấn Độ Giáo: Kiến Tạo và Hủy Diệt
Ấn Độ Giáo là tôn giáo xưa cổ nhất thế giới, khởi phát từ hơn 5 ngàn năm trước Tây lịch, gồm nhiều tôn giáo chia sẻ chung một số giáo lý. Tên gọi Ấn Độ Giáo (Hinduism) chỉ có từ thế kỷ thứ 6 Tây lịch do người Ba Tư gọi về nhóm tôn giáo của người sống bên kia sông Indus River. Đầu thế kỷ thứ 9, các học giả người Anh dùng chữ “Hinduism” để chỉ nhóm tôn giáo có truyền thống dựa vào các bộ sách Veda. Có 3 vị thần chính: Brahma là Đấng Sáng Tạo vũ trụ, Vishnu là thần giữ gìn vũ trụ, và Shiva là thần phá hoại vũ trụ.
Nhà thơ nổi tiếng nhất Ấn Độ là Rabindranath Tagore (1861-1941), thắng Giải Nobel Văn Học năm 1913. Tagore được nhiều bình luận gia gọi là nhà thơ vĩ đại nhất mà Ấn Độ từng có được. Trong bài thơ nhan đề “Unending Love” (Tình yêu bất tận) của Tagore, chữ “you” cũng đa nghĩa như cách của các nhà huyền học thần bí. Được dịch như sau.
Tình yêu bất tận
Tôi như dường đã yêu em trong vô lượng hình thể, vô lượng thời gian
trong đời này sang đời kia, thời này sang thời kia, vĩnh viễn.
Trái tim tôi bị mê hoặc, đã làm và rồi làm lại chuỗi dây chuyền các ca khúc
mà em giữ như món quà, mang vòng quanh cổ em trong nhiều hình thể
trong đời này sang đời kia, thời này sang thời kia, vĩnh viễn.
Bất cứ khi nào tôi nghe các chuyện xưa về tình yêu, nỗi đau xưa cổ của nó
chuyện xưa cổ của nó về xa nhau hay bên nhau.
Khi tôi nhìn sâu vào quá khứ, tận cùng rồi em hiện ra
giữa vùng ánh sáng cột đèn bằng ánh sao xuyên bóng đêm thời gian:
em trở thành hình ảnh của những gì được nhớ vĩnh viễn.
Em và tôi đã trôi nơi đây trên dòng sông mang từ nguồn suối
Nơi trái tim thời gian, tình yêu chúng ta cho nhau.
Chúng ta đã đùa chơi bên nhiều triệu tình nhân, đã chia sẻ cùng
nỗi ngọt ngào mắc cỡ khi gặp nhau, cùng những giọt lệ buồn khi chia tay
Tình yêu xưa nhưng trong khuôn dạng cứ mới hoài và mới nữa vĩnh viễn.
Hôm nay được chất đầy để nơi chân em, nó đã thấy ngừng lại nơi em
Tình yêu của tất cả những ngày cả trong quá khứ và vĩnh cửu:
Niềm vui phổ quát, nỗi buồn phổ quát, đời sống phổ quát.
Ký ức của tất cả những mối tình hòa nhập với tình yêu này của chúng ta —
Và các ca khúc của tất cả các nhà thơ trong quá khứ và vĩnh cửu.
[thơ Tagore]
Phật Giáo: Từ khổ đau tới giải thoát
Phật Giáo là một tôn giáo độc đáo: nói rằng không có Đấng Sáng Tạo nào trên đời này. Người sáng lập Phật Giáo cũng độc đáo: Đức Phật là vị giáo chủ duy nhất đã làm thơ và làm tới hàng chục ngàn bài thơ. Quan điểm Phật Giáo nhìn về đại dịch COVID-19 rất nhẹ nhàng: nó chỉ là một trận dịch trong vô lượng đợt sóng thần của nhân loại, nơi bị cuốn vào chu kỳ bất tận của sinh lão bệnh tử.
Trong khi các tôn giáo khác nói rằng dịch bệnh là ý Trời, Phật Giáo nói rằng không có Trời nào đâu và rằng tất cả là do nghiệp. Nhưng khi hỏi tận cùng của chuỗi nhân duyên, như trường hợp nhà sư Mālunkyaputta thắc mắc với nhiều câu hỏi, Đức Phật từ chối trả lời, chỉ nói rằng Ngài là bậc Y Vương, giúp nhổ mũi tên tẩm thuốc độc và chữa trị vết thương, chứ không bận tâm kể ra chuyện mũi tên từ đâu bắn tới.
Đức Phật dạy về ba pháp ấn của đời sống: Khổ, Vô Thường, Vô Ngã.  Chính trong thời kỳ dịch bệnh, các pháp ấn này được nhận diện rõ ràng. Sinh ra đời là khổ, bệnh là khổ, đại dịch là khổ. Vô Thường cũng được nhìn thấy rõ ràng nơi thân người và nơi các chuyển biến xã hội. Tuần trước còn khỏe mạnh, nhiễm bệnh xong là nằm gục ở bệnh viện nhiều ngày, may thì thoát chết, rủi thì từ trần. Kinh tế đang tưng bừng du khách ở Nha Trang, Đà Nẵng… thế rồi dịch bệnh bùng nổ ở Vũ Hán, bỗng chống bãi biển Nha Trang và Đà Nẵng vắng hoe, nhiều khách sạn, nhà trọ, tiệm ăn đóng cửa thê thảm. Pháp ấn Vô Ngã cũng thấy rõ: không ai chủ động được thân và tâm của họ, thân này chúng ta chia sẻ với hàng triệu hay hàng tỷ vi trùng và vi khuẩn, thế rồi khi coronavirus tới, thân này bị nó chiếm đoạt dễ dàng, may ra thì bác sĩ giành lại được thân này  cho khỏi bị Cô Vy bắt đi.
Ghi nhận, Đức Phật cũng là giáo chủ duy nhất trên thế giới làm thơ. Ngay vào thời điểm Thành Đạo, Đức Phật làm bài thơ, về sau được ghi vào 2 bài kệ trong Kinh Pháp Cú. Chữ “nhà” trong thơ này là chỉ “thân và tâm.” Hai bài kệ này như sau:
  1. “Lang thang bao kiếp sống / Ta tìm nhưng chẳng gặp, / Người xây dựng nhà này,/ Khổ thay, phải tái sanh.”
  2. “Ôi! Người làm nhà kia / Nay ta đã thấy ngươi!/ Ngươi không làm nhà nữa./ Đòn tay ngươi bị gẫy,/ Kèo cột ngươi bị tan / Tâm ta đạt tịch diệt, / Tham ái thảy tiêu vong.” (Bản dịch HT Thich Minh Châu)
Đối với người đã giải thoát, tất cả bệnh hay đại dịch đều trở nên vô nghĩa, vì so với “già và chết” thì đại dịch cũng chỉ là một trận nước lũ, cũng không phải là cái gì ghê gớm.
Ngài Bhalliya có bài kệ trong sách Trưởng Lão với ký số Thag 1.7, bài thơ sẽ viết xuôi như sau:
Tựa như dòng nước lũ mạnh mẽ cuốn trôi chiếc cầu bằng cây sậy vô cùng yếu ớt, vị nào xua tan đạo binh của Thần Chết, có sự chiến thắng, có sự kinh sợ đã được xa lìa, vị ấy đã được huấn luyện, vì thế đã được hoàn toàn giải thoát, có nội tâm ổn định.” Đại đức trưởng lão Bhalliya đã nói lời kệ như thế.
(Thag 1.7 — Bản Việt dịch của Bhikkhu Indacanda)
Khổ đau cõi trần là vô lượng. Sử Phật Giáo kể lại, rằng nhiều phụ nữ từ khổ đau vì có con nhỏ từ trần đã quyết định xuất gia, tu học tìm đường giải thoát. Như trường hợp bà Ubbiri thương khóc vì đứa con gái sơ sinh chết. Đức Phật đã chỉ cho thiếu phụ này thấy nơi nghĩa trang bà an táng xác con bà, rằng cũng chính vùng đất nghĩa trang đó, bà đã an táng nhiều ngàn đứa con mà bà sinh ra trong nhiều kiếp trước. Nỗi đau đớn cùng cực trong tâm, cùng với vô lượng công đức nhiều đời có sẵn, bà Ubbiri sau khi nghe bài pháp ngắn của Đức Phật đã ngay tức khắc từ một bà mẹ thương tâm đã chứng liền thánh quả A La Hán. Khi bà nhìn thấy vô lượng khổ đau của kiếp người mà bà vừa giải thoát xong, vị Thánh Ubbiri làm một bài thơ, đoạn đầu là lời Đức Phật dạy, hai đoạn sau là thơ của bà Ubbiri:
“Bà khóc lóc ở trong rừng rằng: Ôi Jīvā con ơi! Này bà Ubbirī, hãy trấn tĩnh bản thân. Tất cả tám mươi bốn ngàn cô gái đã được thiêu đốt ở nơi hỏa táng này đều có tên Jīvā, bà buồn rầu cho cô nào trong số đó?”
Quả thật, Ngài đã rút ra mũi tên khó nhìn thấy đã được cắm vào trái tim, là việc khi tôi bị sầu muộn chế ngự, Ngài đã xua đi nỗi sầu muộn về người con gái cho tôi.
Hôm nay, tôi đây, có mũi tên đã được rút ra, không còn cơn đói, đã chứng Niết Bàn. Tôi đi đến nương nhờ đức Phật bậc Hiền Trí, Giáo Pháp, và Hội Chúng.’”
Trưởng lão ni Ubbirī đã nói những lời kệ như thế.
(Thig 51-53 — Bản Việt dịch của Bhikkhu Indacanda)
Một trường hợp đau đớn cũng đã xảy ra cho thiếu phụ giai cấp thượng lưu Patacara: bà chứng kiến cái chết của toàn bộ gia đình, chồng bà và hai đứa con nhỏ, ba mẹ và và anh/em bà trong nhiều sự kiện tai họa xảy tới dồn dập trong vài ngày. Nỗi đau khổ làm cho bà mất trí, lang thang. Gặp Đức Phật trong làng, được Đức Phật dạy về lý vô thường, bà Patacara tức khắc chứng quả Dự Lưu và được nhận vào Ni đoàn. Một thời gian sau, một hôm bà tưới nước rửa bàn chân và nhìn thấy dòng nước chảy xuống — tâm bà ngay lúc đó đột nhiên lìa chấp thủ, được hoàn toàn giải thoát. Thánh Ni Patacara để lại bài kệ như sau:
“Trong khi cày thửa ruộng với những cái cày, trong khi gieo những hạt giống ở đất, trong khi nuôi dưỡng các con và vợ, những người thanh niên tìm kiếm tài sản.
Được đầy đủ giới, là người thực hành lời dạy của bậc Đạo Sư, không biếng nhác, không loạn động, tại sao tôi không chứng đắc Niết Bàn?
Sau khi rửa hai bàn chân, tôi chú ý ở những chỗ nước (đã được đổ xuống), và tôi đã nhìn thấy nước rửa chân từ đất cao đi đến chỗ thấp.
Do đó, tôi đã khiến tâm được định, tựa như (người xa phu điều khiển) con ngựa hiền thiện thuần chủng. Sau đó, tôi đã cầm lấy cây đèn rồi đi vào trú xá.
Sau khi xem xét chỗ nằm, tôi đã ngồi xuống chiếc giường nhỏ. Sau đó, tôi cầm lấy cây kim khều cái tim đèn. Sự giải thoát của tâm đã xảy ra, tựa như sự lụi tàn của cây đèn.”
Trưởng lão ni Paṭācārā đã nói những lời kệ như thế.”
(Thig 112-116 — — Bản Việt dịch của Bhikkhu Indacanda)
Từ khổ đau tới giải thoát… cũng là trường hợp của thiếu phụ Kisa Gotami. Bà ẵm xác đứa con sơ sinh đi lang thang, hỏi xin thuốc cứu mạng con. Đức Phật nói rằng bà hãy đi xin vài hạt cải trong bất kỳ gia đình nào mà chưa từng có ai chết. Hạt cải là món ăn thường dùng trong bếp các gia đình Ấn Độ, thế nhưng tất cả các ngôi nhà trong ngôi làng mà bà  tìm thuốc lại từng có người chết. Bà nhận ra sự thật: hễ có sanh là có diệt. Lúc đó bà chứng quả Dự lưu. Và đọc lên mấy dòng thơ:
Không có luật nào trong làng thế này, không cả luật thành phố
Không có luật nào trong gia tộc này, hay trong gia tộc kia
Cho toàn thể thế giới — và cho cả chư thiên cõi trời
Đây là luật: Tất cả đều vô thường.
 Đặc biệt, một bản kinh Phật được nhiều quốc gia Phật Giáo Nam Tông trân trọng như Hộ Kinh để tự bảo vệ là Kinh Từ Bi (Metta Sutta). Bản dịch của Thầy Nhất Hạnh trích như sau:
Nguyện cho mọi người và mọi loài đươc sống trong an toàn và hạnh phúc, tâm tư hiền hậu và thảnh thơi.
Nguyện cho tất cả các loài sinh vật trên trái đất đều được sống an lành, những loài yếu, những loài mạnh, những loài cao, những loài thấp, những loài lớn, những loài nhỏ, những loài ta có thể nhìn thấy, những loài ta không thể nhìn thấy, những loài ở gần, những loài ở xa, những loài đã sinh và những loài sắp sinh.
Nguyện cho đừng loài nào sát hại loài nào, đừng ai coi nhẹ tính mạng của ai, đừng ai vì giận hờn hoặc ác tâm mà mong cho ai bị đau khổ và khốn đốn.
Như một bà mẹ đang đem thân mạng mình che chở cho đứa con duy nhất, chúng ta hãy đem lòng từ bi mà đối xử với tất cả mọi loài.
Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải, lòng từ bi không bị bất cứ gì làm ngăn cách, tâm ta không còn vương vấn một chút hờn oán hoặc căm thù. Bất cứ lúc nào, khi đi, khi đứng, khi ngồi, khi nằm, miễn là còn thức, ta nguyện duy trì trong ta chánh niệm từ bi. Nếp sống từ bi là nếp sống cao đẹp nhất.
Nghĩa là, dưới mắt Phật Giáo, chuyện đại dịch thực ra nhẹ nhàng. Đâu có bằng các nỗi thống khổ trong đời. Và từ khi nhận ra các sự thật về khổ, con đường giải thoát sẽ hiện ra với Bát Chánh Đạo.
Lời cuối bài, xin thành kính cầu nguyện cho dịch bệnh sớm tiêu trừ, và xin gửi lời chúc an lành tới tất cả độc giả.
Nguyên Giác Phan Tấn Hải