Showing posts with label Tâm Nhiên. Show all posts
Showing posts with label Tâm Nhiên. Show all posts

Monday, February 14, 2022

Tâm Nhiên: NGÚT NGÀN GIỮA ĐẠI DƯƠNG BÁT NGÁT


Hình: Tác giả Tâm Nhiên cung cấp

Lời dẫn: Hôm nay (15. 2. 2022) là sinh nhật Thầy Tuệ Sỹ.

Xin đăng 33 bài thơ này, thay lời chúc mừng ngày Thầy hiện hữu trên mặt đất, trần gian.
Năm 2018 Thầy Tuệ Sỹ ra hải đảo Lại Sơn, ngút ngàn ngoài biển trời Kiên Giang, an cư ba tháng hạ trên đồi cao Vô Trú Am.

Du sỹ này làm thị giả và những bài thơ sau đây được sáng tác trong thời gian hy hữu đó. 


NGÚT NGÀN GIỮA ĐẠI DƯƠNG BÁT NGÁT

33 bài thơ
Kính tặng Tuệ Sỹ, một Thiền sư có tâm hồn Thi sỹ dị thường.

ĐÔI MẮT TUỆ SỸ
Như Long Tượng mắt mở trừng sáng rực
Một hôm gầm sấm dậy khắp nhân gian
Làm chấn động cả sơn hà đại địa
Rền ngân vang tận rú thẳm non ngàn
Đôi mắt ấy như mặt trời chiếu diệu
Thiêu rụi tàn ngàn bóng tối u minh
Vô lượng quang sáng bừng lên trí tuệ
Đại bi tâm hàm dung chứa bao tình
Đôi mắt đó lặng trầm sâu đại hải
Hòa chan nhau máu lệ nỗi đau đời
Từ nhãn thị chúng sinh đầy thương cảm
Mà đọa đày trong cuộc lữ chao ơi!
Ôi đôi mắt lặng nhìn xuyên tam thế
Cõi tồn lưu huyễn mộng khói sương lồng
Lòng trăng hiện giữa đêm dài sinh tử
Thõng tay vào phố chợ bước dung thông

IM LẶNG SẤM SÉT
Những phương trời viễn mộng đi
Thi ca tư tưởng bước kỳ tuyệt qua
Đọa đày một thuở ta bà
Nỗi đau rực cháy thấy ra tột cùng
Ôi! Giấc mơ Trường Sơn rung
Rúng hồn tim máu chợt bùng vỡ mơ
Kinh thiên động địa sững sờ
Đâu chân diện mục của Thơ với Thiền?
Mặc như lôi ngồi tịch nhiên
Nghe ban sơ vọng ngân huyền diệu âm
Những điệp khúc cho dương cầm
Từ vô tận ý vang thâm thiết niềm

HƯƠNG VỊ MỘT TÁCH TRÀ
Sớm tinh mơ đốt trầm ngồi đối ẩm
Rót giọt sương vào ly gió muôn trùng
Trộn lẫn nắng nghìn thu trong một cốc
Trà thi ca cùng thưởng thức vài chung
Nghe lý sự tan trong niềm im lặng
Chén trà xanh thanh đạm tỏa vờn hương
Hương vị đó có trời cao đất rộng
Hòa quyện nhau thành diệu nghĩa vô lường
Một tách trà chứa càn khôn vũ trụ
Đủ tương phùng sông suối biển ngàn khơi
Mời toàn thể mười phương cùng nhau uống
Nguồn sơ nguyên uyên mặc vốn không lời

VÔ LƯỢNG TÌNH THƯƠNG
Chén trà chứa cả đại dương
Ôi tình linh diệu vô lường vô biên
Nâng ly sạch hết ưu phiền
Tan nghìn u tối bừng nguyên sơ này
Hương trà thoảng ngát đồi cây
Ấm lòng tỏa quyện hiển bày sơ tâm
Lời thơ trên mắt lặng trầm
Thầm nghe trực tiếp niềm thâm cảm nào
Chao ơi! Trời đất tiêu dao
Ngời xanh ánh nguyệt chiếu vào sâu xa
Mới hay trong một chung trà
Hòa vi diệu pháp reo ca giữa hồn
TRÊN ĐỒI CAO VÔ TRÚ AM
Ven triền đảo nhấp nhô gành đá tảng
Ngát rừng cao hoa lá trổ bao dung
Lòng như đại hải mênh mông chứa
Cả vô biên vô lượng cái tuyệt cùng
Trùng khơi hỡi bao la hòa sóng vỗ
Vỗ huyền ngân cung bậc đại dương cầm
Âm ba có lúc rung thần khí
Lúc im lìm nín bặt lặng hồn câm
Trầm nhịp võng đong đưa vầng nhật nguyệt
Sáng từng luồng ảo dị khói vô vi
Thái hư rỗng suốt cười mật hạnh
Cánh chim qua chẳng lưu lại vết gì

NGOÀI HẢI ĐẢO LẠI SƠN
Nắng vàng bay giữa phong quang
Trùng khơi hải đảo ngút ngàn Lại Sơn
Trên đồi cao nhịp võng vờn
Thoảng nghe hương vị cô đơn tuyệt cùng
Cô liêu ca hòa thung dung
Từ tâm loang thấm chập chùng cỏ cây
Rừng hoang lau lách mọc đầy
Trèo non lội suối sương mây ngát trời
Kể từ cuộc lữ rong chơi
Đã qua mấy triệu năm rồi phải không?
Từng đau rợn máu lệ hồng
Từng thương vô hạn xót trong tim sầu
Chừ đây giữa biển lòng sâu
Lặng nghe tận đáy địa cầu nói chi
Tịch nhiên chẳng một lời gì
Mà vô lượng nghĩa hòa vi diệu huyền

TRÙNG NGỘ Ở NƠI NÀY
Ngoài hải đảo ngút ngàn vạn dặm
Giữa muôn trùng sóng vỗ mênh mông
Sớm mai bát ngát nhìn vũ trụ
Thấy càn khôn trong một giọt sương lồng
Trên tuyệt đỉnh ngàn cao hùng vĩ
Thật không ngờ xuất hiện bóng Thiền sư
Hùng tâm tráng khí vang đầu gậy
Dội huyền âm rền khúc hát đại từ
Đại hỷ xả hòa vô công dụng hạnh
Rúng ngân dài tận góc bể chân mây
Biển núi bừng reo theo sỏi cát
Hát mừng vui trùng ngộ ở nơi này

TỊCH MỊCH NÚI BIỂN NGÀN
Một mình tịnh khẩu sâu xa
Trên đồi cô tịch căn nhà pháp không
Dựa lưng vào núi mây lồng
Trùng dương trước mặt ngắm mông mênh trời
Mỗi ngày một bữa cơm thôi
Đủ cho điệu thở nhẹ vời rỗng rang
An bình tịnh hạnh thanh nhàn
Trang kinh vô tự thành trang thơ này
Viết lên dòng nước biển mây
Lời chi tuyệt đối hiển bày nhất nguyên
Sáng bừng thực tại hiện tiền
Yên tâm là nụ cười viên dung hòa

BI TRÁNG MỘT HỒN THƠ
Bừng hiện sơ nguyên ngời ánh nguyệt
Biển tâm sóng gió lặng u trầm
Con mắt Hoa Nghiêm im lặng thấy
Toàn thể cuộc đời giữa diệu thâm
Từ ái hoài rung nguồn xúc cảm
Khi chúng sinh đầy nước mắt rơi
Thiên lý độc hành từng chứng kiến
Máu lệ thế gian thấm tận lời
Lời thơ bi tráng còn âm vọng
Trong cõi tồn sinh khiến giật mình
Vô thanh mà động hồn nhân thế
Để giải oan tình thoát hãi kinh

CÔ HÀNH ĐỘC LỮ
Dặm trường vạn lý du hành
Qua ngàn lau trắng đồi tranh cỏ vàng
Bụi đời nhẹ gót rỗng rang
Dọc đường tạm trú khi hoàng hôn buông
Bàn chân dẫm nắng mưa nguồn
Bước rừng núi vượt qua truông suối ghềnh
Hết rồi những chuyện tuổi tên
Đã buông xuống giữa khói bềnh bồng sương
Cô hành độc lữ trên đường
Nghìn phương rốt lại một phương tâm này
Thấy rồi muôn thuở xưa nay
Cũng từ tự tánh hiện bày cả thôi

RÚNG ĐỘNG TIẾNG LONG TƯỢNG RỐNG
Lên đỉnh Ông Rồng nhìn mây trắng
Bát ngát ngàn sương giữa muôn trùng
Cây Thiên tuế lặng trầm tịch mịch
Cuộn tròn như lý sự viên dung
Thiên tuế nghìn năm nằm chờ đợi
Bừng lên sinh khí hạo nhiên tràn
Tiếng Long Tượng rống làm rúng động
Khiếp vía kinh hồn cáo chồn hoang
Tháo chốt nhổ đinh rời tù ngục
Mở dây ràng buộc trói cột mình
Bước tiêu dao dạo vô sở trú
Đùa chơi hý lộng với tồn sinh
Sinh tử có không trò huyễn mộng
Sống chơi chết cũng vậy chơi thôi
Chơi không dính mắc vào đâu hết
Nên tự do đi cảm hóa đời

NHÌN XUỐNG CÕI PHÙ DU
Trèo lên tuyệt đỉnh núi cao
Ồ mây sóng lượn cuộn trào bay lên
Nhấp nhô trắng xóa đầu ghềnh
Mênh mang trời biển lặng mênh mang đầy
Ngó nhìn xuống cõi đời say
Dưới kia nhỏ bé đang dày xéo nhau
Lô nhô lúc nhúc loạn nhầu
Cứ tranh giành giật cứ xâu xé hoài
Chạnh niềm thương kiếp trần ai
Mãi còn hỗn độn đêm dài vô minh
Sao chưa thức dậy vươn mình
Ca bài giải thoát điêu linh phận người?

TRÊN ĐỈNH NÚI ÔNG RỒNG
Lên Ông Rồng hay lên Lô Sơn đỉnh
Núi rừng ơi! Chạm bóng mây trời
Gió lồng lộng thổi bừng vắng lặng
Mắt tuệ ngời tỏa chiếu nghìn nơi
Trên chót vót ngàn cao nhìn xuống
Muôn trùng xanh bát ngát đại dương
Hương Chánh pháp bay đầy thiên địa
Vị cô liêu chơn mỹ đẹp dị thường
Hương vị đó cô liêu diệu tuyệt
Từng tế bào mạch máu trổ bông
Sớm nay hít thở đầy buồng phổi
Đồi diêu mang thể nhập pháp giới đồng

LÊN NÚI MA THIÊN LÃNH
Suối truông ngập lá ven triền
Trèo lên dốc đứng giữa thiên nhiên này
Gậy thiền nghiêng cánh chim bay
Lượn phong quang ngợp trắng đầy mây trôi
Dừng chân bên thạch động ngồi
Màu rêu xanh lặng nghe hơi núi trầm
Thoáng vèo qua mấy nghìn năm
Mà rừng sâu vẫn còn thầm ngát hương
Hương chi thi vị lạ thường
Quyện vào hương tích hòa tương cảm cùng
Đường sương nắng trải mông lung
Dấu chân tiền kiếp trên vùng hoang sơ

KHÔNG CÓ CÁI CHI LÀ TỰ NGÃ
Ngút tận mù khơi trời hoang đảo
Văng vẳng đồi trưa vọng tiếng chim
Im lặng lắng nghe mây ngàn hát
Vang trong sóng vỗ biết bao niềm
Nghìn năm sóng vỗ trào vô ngã
Rạt rào trên biển lớn mênh mông
Mộng huyễn phù du bèo bọt nổi
Sóng tan thành nước chảy theo dòng
Sóng nước tuy hai mà vốn một
Nên sinh hay diệt vắng mặt rồi
Cũng ngay ngũ uẩn thân mình đó
Chân tánh nhiệm huyền hiện hữu thôi
Trùng trùng duyên khởi muôn vạn pháp
Đủ duyên thì hiện hết thì tan
Không có cái chi là tự ngã
Hòa chan vũ trụ trỗi cung đàn

NƯỚC CHẢY MÂY TRÔI
Muôn dòng nhập cuộc rong chơi
Hòa chan cát bụi ngút vời phiêu nhiên
Lên núi ẩn xuống chợ triền
Bước chân vân thủy theo duyên thuận tùy
Như nước chảy chẳng dính chi
Như mây bay chẳng mắc gì thế gian
Dù rực rỡ hay điêu tàn
Vui lòng chấp nhận hân hoan như thường
Dù trăm thảm họa tai ương
Cũng không than oán can trường đến đi
Xem như chẳng xảy ra gì
Gốc từ vô ngã nên chi mỉm cười

ĐỀ THƠ MỜ SƯƠNG KHÓI NÚI
Núi Đề Thơ gập ghềnh lên tận đỉnh
Nhìn xuống sâu hun hút dưới chân đồi
Trời biển ngát lâng lâng vờn lan tỏa
Lượn hương ngàn mây nước khói sương trôi
Những tảng đá lạ lùng cao sừng sững
Đứng uy hùng xem lịch sử trôi qua
Gậy Thiền sư gõ trên đầu sử lịch
Mấy nghìn năm vang dội khắp sơn hà
Đá nhập định chuyển rung hồn xuất cốt
Bỗng nhiên nghe tiếng vỗ một bàn tay
Một tiếng vỗ vô thanh mà chấn động
Bùng vỡ ra cả vũ trụ phơi bày

ĐỒI ĐÁ TẢNG HOANG SƠ
Về đây vất hết danh từ
Trút đi khái niệm toàn hư huyễn rồi
Ý nào chưa nói trên môi
Đã vang sóng vỗ thành lời thơ bay
Bay tan theo bọt sóng này
Chỉ còn điệu thở ở ngay bây giờ
Trên đồi đá tảng hoang sơ
Giữa ngàn khơi lộng không chờ đợi chi
Ơi trời xanh quá xanh rì
Tận cùng cuộc lữ là tri kiến mình
Tịch nhiên im vắng lặng thinh
Tịnh hồn sâu thẳm nghe tình tự ca

HÒA CÁT BỤI ĐỜI VỚI TỈNH MÊ
Xưa kia có lão Thiền sư nọ
Phiêu hốt một ngày lên núi chơi
Tuyệt đỉnh cô phong gầm một tiếng
Lạnh cả không gian chấn động trời
Còn nay có bậc trượng phu ấy
Cũng bỏ lên rừng ngắm đồi hoang
Lấy mây khói quyện làm bút viết
Bài thơ biếu tặng nắng sương ngàn
Biếu tự do cho cây lá cỏ
Cho suối nguồn trôi tự tại kia
Tặng hết mênh mông tam giới mộng
Không còn chi giữ chẳng chi lìa
Xuống núi lại qua cùng thế sự
Hòa cát bụi đời với tỉnh mê
Huyễn hóa mà thôi cười thương hết
Nên bước tùy duyên rất cận kề

MÊ NGỘ
Khi mê thì chấp chặt đời
Ngộ rồi trôi chảy như chơi thôi mà
Thánh phàm Phật Chúa quỷ ma
Danh từ khái niệm chỉ là giả danh
Khi mê thì tập tu hành
Ngộ rồi đối nghịch tan nhanh chóng liền
Hết mâu thuẫn thuận tùy duyên
Thõng tay vào giữa chợ triền dạo rong
Khi mê thì dính kẹt vòng
Ngộ rồi cởi trói dung thông đi về
Thực ra đâu có ngộ mê
Tuệ đăng xóa hết trò hề thế gian

CƯỜI GIỮA TỊCH KHÔNG
Cánh đại bàng bay qua đại dương
Lượn vờn chao trào bọt sóng dị thường
Bên ghềnh biển tiền thân về thấp thoáng
Ngát hồn xanh lấp lánh thanh lương
Chợt cơn mưa vừa đổ ngoài hiên
Mà nghe vang pháp vũ mát rượi liền
Đồi hoang dại cỏ cây đều mới lạ
Đá tảng ngồi thanh thản an nhiên
Trăng ngàn soi dọi chiếu vào trong
Nghìn xưa nay thấy hiện giữa lòng
Mặt mũi đó ồ vô ngôn thuyết
Huyền gặp huyền cười giữa Tịch Không

DIỆU THƯỜNG HƯƠNG VỊ CÔ LIÊU
Đại dương như một cung đàn
Ngày đêm vỗ nhịp diêu mang sớm chiều
Diệu thường hương vị cô liêu
Thoảng quanh gành đá hải triều âm dư
Lẫn trong khói sóng bay vù
Trên đồi cao bóng hoang vu chạm trời
Thênh thang giữa cuộc lữ chơi
Đến đâu cũng vậy thấy rồi như nhiên
Thấy chi cũng tuyệt diễm huyền
Miên man sáng tạo cõi uyên nguyên nào
Cung cầm mật pháp truyền trao
Cảm rung cùng tận nghe rào rạt ngân

THÕNG TAY VÀO CHỢ
“Làm trai dốc chí xông trời đất
Chớ dẫm Như Lai bước đã qua”
Quảng Nghiêm bỗng hét lên như thế
Ồ nghe rúng chuyển khắp sơn hà
“Đỉnh non có buổi leo lên thẳng
Gầm dài một tiếng lạnh hư không”
Không Lộ gầm chi mà sấm sét
Dội vang rúng động cõi bụi hồng
“Đi cũng thiền ngồi cũng thiền
Nói im động tịnh thảy an nhiên”
Huyền Giác phát ngôn như vậy đó
Cho nên dứt tuyệt hết ưu phiền
“Một cõi Vĩnh Hằng thu đáy mắt
Nghe tình du tử chợt xôn xao”
Tuệ Sỹ đi về cùng nhập diệu
Tiêu dao như trăng nước ra vào

ĐỌC TRIẾT HỌC VỀ TÁNH KHÔNG
Đọc Triết học về Tánh Không
Là xem những chữ trên dòng suối kia
Trôi qua luôn mới lạ kìa
Ngữ ngôn rực rỡ như tia chớp lòe
Ừ nghe lại cái tánh nghe
Thấy lại cái tánh thấy nè tuệ minh
Lật qua nếp gấp hồn mình
Chạm trời tuyệt đối nên thinh lặng cười
Lý và sự rỗng rang chơi
Không tâm không cảnh không người không ta
Chơn Không Diệu Hữu chan hòa
Có mà chẳng kẹt vào ta hay người

THƯỞNG THỨC THIỀN LUẬN
Thiền là sự tương giao sinh động
Trực tiếp ngay đây trước mắt liền
Biết mình rỗng suốt luôn trong sáng
Không hề đối đãi chẳng nhị nguyên
Thiền là nghệ thuật cao tột nhất
Cái đẹp nguyên sơ của con người
Như tình yêu đó chân thiện mỹ
Vốn tự bao giờ mới tinh khôi
Diệu quan sát trí liền trực nhận
Rất nhanh chóng lẹ mỗi phút giây
Tuyệt chưa mưa nắng trăng sao chuyển
Quanh đây diệu hảo trổ bông đầy
Vô phân biệt trí cười như thị
Y nhiên vạn pháp cứ vào ra
Đúng sai phải quấy dung thông hết
Vào ra tự tại cái đang là

TUỆ SỸ VĂN TUYỂN QUÁ TUYỆT VỜI
Muôn nghìn kinh một chữ Tâm
Từ thiên thu nọ sáng rằm trăng thơ
Tan bao u tối mịt mờ
Ngời soi mặt mũi ban sơ giữa lòng
Muôn nghìn kinh một chữ Không
Không tham chấp nhiễm nên bồng tênh chơi
Chơi trên mặt đất tuyệt vời
Tuệ Sỹ văn tuyển muôn nơi chốn tình
Tám mươi bốn nghìn pháp kinh
Pháp nào áp dụng cho mình hợp luôn?
Chẳng đâu xa ấy cội nguồn
Là tâm ý thức từ muôn thuở rồi

NGHE TUỆ SỸ GIẢNG KIM CANG
Chuyện sướng khổ buồn vui đều vắng lặng
Ghét hay thương được mất tựa mây trời
Phiền não bồ đề thiên đường địa ngục
Cũng đều do mê vọng khởi lên thôi
Vì ảo giác tưởng có này có nọ
Có tài năng tốt xấu những khen chê
Nên dốc lòng ra chạy theo đeo bám
Tham sân si tác hại mãi ê chề
Cứ nhiễm vướng lo âu đầy sợ hãi
Giật giành nhau khổ lụy quá chất chồng
Bỗng nhiên xuất hiện cây tuệ kiếm
Chém sạch làu hoa đốm rụng hư không
Mộng huyễn cả hơn thua trò danh lợi
Rơi tàn tro dưới gươm báu Kim cang
Tâm không dính vào đâu cười như thị
Thì tự nhiên mặt đất trổ hoa ngàn

ĐỌC LUẬN THÀNH DUY THỨC
Đời hay đạo một cung cầm
Phàm hay thánh cũng do tâm thôi mà
Tâm ý thức chẳng đâu xa
Ngay nơi tánh biết quyện hòa điệu chơi
Từ tánh biết hiện chiếu ngời
Thấy ra tà chánh thảnh thơi vẫy chào
Vào ra thực tại chiêm bao
Đến đi hý lộng cười khào như không
Như đại dương lượn giữa lòng
Tiêu dung mọi thứ đục trong nọ này
Đùa với tỉnh rỡn với say
Mỉm cười như thị chớ bày đặt chi

CẢM NHẬN HUYỀN THOẠI DUY MA CẬT
Duy Ma Cật vẫn thung dung bước
Chốn trà đình tửu quán chẳng ngại chi
Thõng tay vào chợ cười rong dạo
Chẳng cần tu hay chứng đắc gì
Vì đã thấy ngọn ngành Tánh giác
Nên hòa chơi với kẻ mê lầm
Bước chân Bất nhị vô phân biệt
Khiến mọi người ai cũng sáng tuệ tâm
Tự do hát bài ca tự tại
Giữa chập chùng sắc tướng âm thanh
Thanh sắc có không như huyễn mộng
Pháp là đây ngay đó thực hành
Hành vô sự rỗng rang đi đến
Thênh thang về chuyển hóa vô ngôn
Mang lại nguồn vui cho thiên hạ
Thượng thừa chơi khơi mở cuộc sinh tồn

CẢM TÁC THẮNG MAN GIẢNG LUẬN
Bờ Nhất thừa bến muôn chiều
Làm cho tất cả cùng tiêu dao hòa
Về nương tựa Phật Thích Ca
Là nương tựa chính ruột rà Tâm linh
Pháp thân thường trụ trong mình
Từ vô lượng kiếp vốn minh mẫn rồi
Bồ tát đạo vào muôn nơi
Tùy duyên hóa độ chuyển hồi phục nhanh
Bố thí Ái ngữ Lợi hành
Và Đồng sự nữa là thanh thoát lòng
Bốn nhiếp sự như nước trong
Làm tươi nhuận mát bao hồng hào xinh
Thắng Man hiểu chính nơi mình
Sẵn Như Lai tạng chẳng sinh diệt gì
Pháp thân không đến không đi
Vượt ngoài sinh tử ồ kỳ tuyệt thay!

NGUỒN SÁNG TẠO VÔ BIÊN
Trùng trùng sóng bên triền non biển núi
Đảo ngàn khơi rờn xanh ngát hoang mờ
Những tâm khúc không lời trầm bổng lướt
Dưới trăng vàng thoáng hiện cõi nguyên sơ
Bờ dương liễu phất phiêu màu sương đọng
Giọt man thiên huyền diệu quá thâm trầm
Niềm bí mật tận lòng sâu u ẩn
Dâng trào lên vang dội hải triều âm
Tình vạn đại yêu người không bờ bến
Nên lời thơ ngân bất tuyệt thiên thu
Thi nhân mở suối nguồn thương ảo diệu
Cho trần gian tàn rụng bóng sa mù

CUỘC LỮ THIÊN THU
Ngợp lòng xanh ánh trăng lồng
Mông mênh trên biển lặng trông huyền hòa
Nghìn năm trong một sát na
Hiện sờ sờ giữa đang là đây thôi
Cười theo lãng đãng mây trời
Thân như sương khói nên chơi rong hoài
Ngoại phương trời bước khoan thai
Vô vi là cuộc đi dài thiên thu
Đơn hành ca khúc tuyệt trù
Như cơn gió lạ thoảng vu vơ cùng
Từ vô thủy đến vô chung
Chưa từng sinh diệt trên vùng tâm uyên

KHÔNG CÓ VẤN ĐỀ CHI NỮA HẾT
Chất ngất đầu non trời diệu viễn
Tuyệt đỉnh cô phong lặng bóng ngồi
Vời trông bỗng thấy vô lượng kiếp
Heo hút muôn trùng nước mây trôi
Từ khi thiêu rụi ngàn khái niệm
Đốt sạch tín điều lý thuyết kia
Rỗng rang thoát vượt ngoài ba cõi
Bốn phương chẳng dính cũng chẳng lìa
Bước chân vân thủy không chỗ trú
Vô công dụng hạnh hữu với vô
Mượn luôn thanh sắc muôn loài vật
Làm chỗ giao du chốn giang hồ
Nhận biết hiện tiền ngay lập tức
Nên cứ thư nhàn vạn pháp không
Không có vấn đề chi nữa hết
Đến đi tùy thuận giữa bụi hồng

Tâm Nhiên
(Vô Trú Am, tháng 8. 2018)

Saturday, February 15, 2020

TUỆ SỸ TRÊN NGÕ VỀ IM LẶNG


TUỆ SỸ TRÊN NGÕ VỀ IM LẶNG
Tâm Nhiên


Giữa thiên đường rong chơi lêu lổng
Cõi vĩnh hằng mờ nhạt rong rêu
Ta đi xuống quậy trần hoàn nổi sóng
Đốt mặt trời vô hạn cô liêu

Tuệ Sỹ là ai mà thơ hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế? Tuệ Sỹ quê Quảng Bình, sinh năm 1943, nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hán, Phạn, Pali. Khi mới vừa 26 tuổi đã viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ.

Cùng đứng tên trong nhóm chủ trương tạp chí Tư Tưởng của Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, trước năm 1975, Tuệ Sỹ cũng là giáo sư giảng dạy Thiền tông, Trung quán luận ở Đại học Vạn Hạnh và Cao đẳng Phật học viện Hải Đức, Nha Trang, nổi bật lên như một hiện tượng độc đáo, gây bao nguồn cảm hứng cho những tâm hồn ưa thích thiền học, thi ca và phiêu lãng.

“Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết mọi chân trời mới cũ từ Đường thi Trung Hoa tới siêu thực Tây phương.”* Bùi Giáng đã nhận định như thế về Tuệ Sỹ qua bài thơ Không đề:

Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn

Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng?

Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn

Trừ thi sĩ Bùi Giáng ra, khi nói về Tuệ Sỹ thì có lẽ không ai đủ tư cách, thẩm quyền bằng triết gia Phạm Công Thiện: “Có sống bên cạnh Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát từ ngày này qua ngày khác, trong những hoàn cảnh khác nhau thì mới may ra cảm nhận đôi chút tác phong thiền sư kín đáo toát ra một cách tự nhiên, một cách vô công dụng hạnh từ đời sống thường nhật và tinh thần diệu nhập của hai vị. Tôi xin gọi hai vị này là thiền sư với tất cả đắn đo thận trọng, với tất cả ý nghĩa cao đẹp và như thực của một danh xưng xung thiên chí.”

Như vậy, chúng ta có thể gọi Tuệ Sỹ là một thiền sư thi sĩ với ý nghĩa trọn vẹn, tốt đẹp nhất của danh từ. Còn tiến sĩ kỳ tài Lê Mạnh Thát, bạn thân thiết, cận kề Tuệ Sỹ là nhà Phật học, Sử học quảng bác, lão luyện, uyên thâm, một con người quán tuyệt cổ kim, thông tuệ, siêu quần bạt chúng, cũng bằng tuổi Tuệ Sỹ.

Giống như Tuệ Trung Thượng Sỹ thời Trần thuở xa xưa, Tuệ Sỹ bây giờ cũng là một thiền sư thi sĩ đích thực. Điều đó chứng tỏ qua những tác phẩm thâm viễn, uyên áo, nhất là thể hiện qua phong cách sống đạm bạc, đơn sơ giản dị mà rất nghệ sĩ phiêu bồng, thong dong phóng khoáng, khai mở thông lộ tự do cho con người, biết mỉm cười vô úy, “uy vũ bất năng khuất” trên tinh thần Đại bi tâm trầm hậu giữa muôn chiều diệu dụng với đời sống thực tại cái đang là.

Năm 1973, Tuệ Sỹ vừa đúng 30 tuổi, viết Tô Đông Pha những phương trời viễn mộng, một tác phẩm thâm thúy tuyệt trù, trữ tình lai láng, tràn đầy chất nhạc và thơ, mở ra con đường phong quang sáng tạo, ngạt ngào hương vị thi ca hòa chan cả trời thơ đất mộng không cùng: “Đạt đến cõi thượng thừa của Thơ như người học Thiền chứng chỗ Không tịch của Đạo, cái đó vừa khó vừa dễ. Học Thiền ba mươi năm đày đọa thân tâm mà không thành. Phẫn chí bỏ đi, bất chợt thấy một cánh hoa rơi, cõi Không tịch cũng hoát nhiên, đột ngột mở ra. Chỗ ảo diệu đó, khó giảng cho thông. Cho nên không thể nào lấy tay chỉ thẳng vào cõi thơ, rồi bảo đây là chân diện mục của nó… 

Thơ phát ra từ những khổ lụy và những nguyện ước khơi vơi của cuộc tồn sinh, từ độ đó, Thơ đi vào những thảm họa hoành sinh của lịch sử. Từ buổi bình minh, Thơ vang vọng những lời tình tự thiết tha, từ tiếng chim thư cưu nơi cồn cát đến những đêm dài trằn trọc... Thơ dấn bước đi vào cuộc lữ…

Thơ phát ra từ cuộc lữ đọa đày rồi trở lại đọa đày cuộc lữ. Cuộc lữ là trường thể nghiệm lịch sử tồn sinh thảm họa của Thơ và Thơ mở rộng những phương trời lữ thứ. Quê hương nguyên thủy chỉ là những âm vang của lịch sử, vang dội ngân dài trong những phương trời viễn mộng. Cho nên đất của Thơ là đất trích, là những vùng đày ải, đường của Thơ là quán trọ, là những bước đường ngược gió. Mặn nồng nơi đất trích, lân la nơi quán trọ, cuộc thể nghiệm dây dưa với hằng triệu vấn vương và cũng là cuộc thể nghiệm cho khước từ tuyệt đối…

Bởi cách điệu trầm trọng như thế, nên Thơ là phong vận tài hoa, đẹp như những cụm mây trời trong nắng sớm.”**

Tuệ Sỹ nói về cõi thơ Tô Đông Pha mà vô hình chung cũng dường như nói về cõi thơ của chính mình. Thật vậy, cõi thơ Tuệ Sỹ bước đi bi tráng giữa dòng sử lịch kinh hoàng của thời hiện đại. Đơn sơ mà kỳ vĩ, bi ai mà hùng tráng, im lặng mà sấm sét, tĩnh tọa mà phiêu bồng, đó là cõi thơ trầm thống, khốc quỷ kinh thần của Tuệ Sỹ, một thi sĩ thượng thừa, một tài hoa đủ điệu, một tâm hồn cô liêu cùng tuyệt với hồn thơ thâm viễn, uyên mặc u ẩn, ngân dài trên giai điệu trầm tư lãng đãng:

Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn
Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về

Để cho trời thơ phiêu phưỡng, bước đi lồng lộng, độc hành ca giữa đỉnh cao và hố thẳm, làm kẻ rong chơi từ thuở hồng hoang hỗn độn, phiêu hốt tang bồng, rong rêu, lêu lổng trong cuộc mộng trần sa :

Ta làm kẻ rong chơi từ hỗn độn
Treo gót hài trên mái tóc vào thu
Ngồi đếm mộng đi qua từng đọt lá
Rủ mi dài trên bến cỏ sương khô

Vì lêu lổng mười năm trời nói mộng
Ôm tình già quên bẵng tuổi hoàng hôn
Một sớm nọ nghe chim buồn đổi giọng
Người thấy ta xô dạt bóng thiên thần 

Đất đỏ thắm nên lòng người hớn hở
Đá chưa mòn sao lòng dạ trơ vơ
Thành phố nọ bởi sương mù nắng quái
Nên mười năm quên bẵng mộng giang hồ

Cuộc rong chơi phiêu bạt, lãng tử giang hồ vô tận đến nỗi quên bẵng hết những chuyện mộng mị chiêm bao, hồn thi nhân chuếnh choáng, xuất thần lâng lâng rồi chợt bỗng hóa thân thành cánh chim én mùa xuân bay qua dòng sông chiều tàn hoang vắng hay làm cánh bướm chao nghiêng, tung lượn xôn xao giữa mưa nắng phong trần:

Một con én một đoạn đường lay lất
Một đêm dài nghe thác đổ trên cao
Ta bước vội qua dòng sông biền biệt
Đợi mưa dầm trong cánh bướm xôn xao

Bóng ma gọi tên người mỗi sáng
Từng ngày qua từng tiếng vu vơ
Mưa xanh lên tóc huyền sương nặng
Trong giấc mơ lá dạt xa bờ

Người đứng mãi giữa lòng sông nhuộm nắng
Kể chuyện gì nơi ngày cũ xa xưa
Con bướm nhỏ đi về trên cánh mỏng
Nhưng về đâu một chiếc lá xa mùa?

Năm tháng vẫn như nụ cười trong mộng
Người vẫn đi như nước chảy xa nguồn
Bờ bến lạ chút tự tình với bóng
Mây lạc loài ôi tóc cũ ngàn năm



Ngàn năm rồi mà sao vẫn còn mãi lạc loài hỡi mây trắng hoằng viễn miên du? Nhà thơ chợt lặng thầm trầm tư thắc mắc, chẳng biết chiếc lá vàng úa rụng xa mùa kia sẽ về đâu giữa phong ba, bão loạn? Nhưng rồi bỗng thấy “năm tháng vẫn như nụ cười trong mộng” nên cứ để mặc nhiên cho dòng thơ trôi chảy qua nghìn bến bờ xa lạ nhòa nhạt hoang vu tận cuối bãi mịt mù. Thi nhân chạnh lòng trắc ẩn trong ngậm ngùi, khắc khoải, xót xa cho bao kiếp người phải hốt hoảng, kinh hoàng vượt trùng dương để tìm kế sinh tồn. Cưu mang nung nấu một nỗi niềm tâm sự mênh mông, không biết bày tỏ cùng ai nên chẳng biết nói gì hơn là để cho tiếng lòng ngân lên cung bậc sầu thương vô hạn trước những lượn sóng cuồng phong chìm nổi giữa sinh tử ba đào:

Một bước đường thôi nhưng núi cao
Trời ơi ! Mây trắng đọng phương nào
Đò ngang neo bến đầy sương sớm
Cạn hết ân tình nước lạnh sao?

Một bước đường xa xa biển khơi
Mấy trùng sương mỏng nhuộm tơ trời
Thuyền chưa ra bến bình minh đỏ
Nhưng mấy ngàn năm tống biệt rồi

Cho hết đêm hè trông bóng ma
Tàn thu khói mộng trắng Ngân hà
Trời không ngưng gió chờ sương đọng
Nhưng mấy nghìn sau ố nhạt nhòa

Cho hết mùa thu biệt lữ hành
Rừng thu mưa máu dạt lều tranh
Ta so phấn nhụy trên màu úa
Trên phím dương cầm hay máu xanh

Hình ảnh máu màu xanh bầm tím rơi xuống như mưa mù thảm đạm thật khiếp đảm làm sao, gợi ra bao cảnh xiêu hồn lạc vía ở địa ngục âm u mù tăm tối. Ơi chao! Địa ngục đó chẳng phải ở dưới lòng đất sâu kín kia mà lại ở ngay trên mặt đất trần gian này mới đau đớn, rợn người khủng khiếp chứ! Từ khi chứng kiến biết bao oan khiên, nghiệt ngã, biết bao khổ lụy đọa đày diễn ra một cách khốc liệt, tàn bạo, vô nhân đạo, vô lương tâm trên khắp mọi miền thế giới đó, nhà thơ nhạy cảm của chúng ta đã thấm thía một nỗi buồn vạn cổ sầu trong vô lượng xót thương:

Ôi nỗi buồn từ ngày ta lạc bước
Cố quên mình là thân phận thần tiên

Cốt cách, phong vận của thi nhân vốn là ở cõi tự do tiêu sái, tiêu dao, bay bổng chất ngất một trời thần tiên huy hoàng tráng lệ. Thế mà cũng đành phải cố quên đi tất cả, vì ma quỷ A tu la tham sân si đã hiện hình như người, dùng bạo lực thâm độc, dốc hết tốc độ tham tàn, sân hận, si mê giáng xuống những tai ương thảm họa, trong cơn điên đảo loạn cuồng. Buồn quá phải không, buồn chết lặng quặn lòng đau tê tái giữa chập chùng bóng tối u mê:

Lửa đã tắt từ buổi đầu sáng thế
Một kiếp người ray rứt bụi tro bay
Tôi ngồi mãi giữa tha ma mộ địa
Lạnh trăng tà lụa trắng trải rừng cây

Khuya rờn rợn gió vèo run bóng quỷ
Quỷ run run hôn mãi lóng xương gầy
Khóc năn nỉ sao hình hài chưa rã
Để hồn tan theo đốm lửa ma trơi

Khi tâm tư chưa là gỗ mục
Lòng đất đen còn giọt máu xanh ngời

Một khi đối diện với quỷ ma giữa ban ngày thì hầu hết chúng ta đều hãi hùng khiếp sợ, nhưng ở đây, kỳ lạ thay, nhà thơ vẫn hào hùng vô uý, khi biết mình đang giáp mặt với thập tử nhất sinh. Một mình lẫm liệt hiên ngang bất khuất, dấn bước lên đường dưới gầm trời bão loạn cuồng si. Đi về đâu hỡi Long Thọ, Mã Minh, Thế Thân, hỡi Tăng Triệu, Bồ Đề Đạt Ma, Huệ Năng, hỡi Tô Đông Pha, Lý Hạ, Vương Duy, hỡi Duy Ma Cật, Thiện Tài, Thắng Man, hỡi Suzuki, Nietzsche, Heidegger…giữa điêu tàn tan hoang trên mặt đất ? Rồi lặng hồn lắng nghe đồng vọng vang lên những lời kinh Hoa Nghiêm hùng tráng:

Trang phục bằng khôi giáp Nhẫn kiên cố
Thanh gươm Trí trong cánh tay Đại bi
Nguyện đấng Đại Hùng dũng mãnh hướng dẫn con
Trực diện chiến đấu với ma quân

Với cánh tay Đại bi cầm thanh gươm Đại trí, thi nhân còn mặc thêm áo giáp Vô sanh pháp nhẫn nữa thì cũng thừa sức dấn mình vào địa ngục trần gian, trực diện đương đầu với đảo điên, chuyển hóa ma vương, quỷ sứ đang quờ quạng, loạn cuồng trong bóng tối vô minh. Cuộc thế trận sinh tử kinh hồn, một lần tận tường giáp mặt là một lần thấu triệt lẽ vô thường huyễn ảo quá đỗi mong manh trong cõi người ta và cũng chính từ đó, thi nhân mới phát Bồ đề tâm, phát đại nguyện thượng thừa, gánh vác lên vai vô số khổ lụy đoạn trường của nhân gian như chính lời Tuệ Sỹ nhắc nhở rạt rào : “Bồ đề tâm, đó là chí nguyện nóng bỏng của một chúng sinh tự thấy mình đang sống trong cảnh tối tăm giữa đọa đày khổ nhục, mong tìm một con đường sáng, không những để giải thoát bản thân khỏi những đe dọa áp bức mà còn là để giải thoát cho tất cả những người cùng cảnh ngộ. Bồ đề tâm, đó là ý chí kiên cường, bất khuất của một con người bị cột trói trên ngọn lửa rực cháy, bị chà đạp dưới những sức mạnh tàn khốc bởi tham vọng điên cuồng của chính ta và của một tập thể ma quái chung quanh ta. “Vui sướng gì, thích thú gì giữa ngọn lửa tam độc không ngừng thiêu đốt? Bị bao phủ trong bóng tối, sao không đi tìm bó đuốc?” Không có tâm nguyện đó, không có ý chí đó, Bồ tát đạo chỉ là một con đường xa xôi, không tưởng, thần thoại hoang đường và Phật thừa không hơn một tiếng nói suông của một người mê sảng trong giấc ngủ ngày.”*** Thi nhân thấy như vậy bằng đôi mắt sâu thẳm rực lửa tam muội của chính mình nên vẫn thường vô vi tùy duyên nhẹ bước vào ra giữa ta bà đây đó :

Đây khúc nhạc đưa hồn lên máu đỏ
Bước luân hồi chen chúc cọng lau xanh
Xô đẩy mãi sóng vàng không bến đỗ
Trời lênh đênh ma quỷ rắc tro tàn

Vẫn khúc điệu tự ngàn xưa ám khói
Ép thời gian thành rượu máu trong xanh
Rượu không nhạt mà thiên tài thêm cát bụi
Thì ân tình ngây ngất cõi mong manh

Ôi tiết nhịp thiên tài hay quỷ mị
Xô hồn ta lảo đảo giữa tường cao
Trưa dài lắm ta luân hồi vô thủy
Đổi hình hài con mắt vẫn đầy sao

Từ vô thủy đến vô chung, cuộc luân hồi khởi sự từ đâu chẳng biết, chỉ hay rằng từ lúc nghe đồng vọng những trận gió phù trần tận chốn miền thiên thu vi vu thổi tới giữa vạn đại miên trường:

Đá mòn phơi nẻo tà dương
Nằm nghe nước lũ khóc chừng cuộc chơi
Nghìn năm vang một nỗi đời
Gió đưa cuộc lữ lên lời viễn phương
Đan sa rã mộng phi thường
Đào tiên trụi lá bên đường tử sinh

Sinh tử là một việc trọng đại như thi nhân đã có lần nói tới trong lời tựa Vô môn quan của thiền sư Vô Môn, do Trần Tuấn Mẫn dịch : “Nơi đây, sa mạc vẫn cứ thiên thu cô tịch trong cơn gió bức bách của hư vô. Lẽ sống và lẽ chết cứ mãi bập bềnh trên hư ảo. Tâm hồn miệt mài nóng cháy, nhưng không cháy tan nổi những giấc mộng hãi hùng của hư vô và huỷ diệt.” Hư vô đã trở thành một thứ chủ nghĩa đang huỷ diệt mặt đất một cách trầm trọng đau thương, gây bao tang tóc não phiền, khiến thi sĩ nghe ra nghèn nghẹn tận đáy hồn:

Một ước hẹn đã chôn vùi tang tóc
Cánh chim trời xa mãi giữa lòng sâu
Nghe một nỗi hao mòn trong thoáng chốc
Một mùa thu một vạn tiếng kêu gào

Khuya còn lạnh sương mù và gió lốc
Thở hơi dài cát bụi cuốn chiêm bao
Bên cửa sổ bên kia đồi sao mọc
Một lần đi là vĩnh viễn con tàu

Đi để nhớ những chiều pha tóc trắng
Mắt lưng chừng trông giọt máu phiêu lưu

Giọt máu nào phiêu lưu, lạc nẻo xa nguồn trôi tan tác, lao đao trong nỗi hao mòn tàn tạ, trong cơn gió lốc kinh hồn rờn lạnh buốt xương da? Đi là đi mất, đi biền biệt, biến tan như sợi khói mỏng manh giữa bầu trời gió lộng, không bao giờ trở lại nữa, nhưng vừa đi vừa ngoái nhìn để lắng nghe những tiếng gào kêu thống thiết của nhân gian, của thập loại chúng sinh đang quằn quại rên siết trong bao đổ nát đoạn trường, dâu bể tan hoang đầy thảm hoạ tồn sinh bức bách rợn ngần:

Tiếng ai khóc trong đêm trường uất hận
Lời ai ru trào máu lệ bi thương?
Hồn ai đó đôi tay gầy sờ soạng
Là hồn tôi tìm dấu cũ quê hương

Ai tóc trắng sững sờ trên tuyết lãnh
Bước chập chờn heo hút giữa chiều sương
Viên đá nhỏ mấy nghìn năm cô quạnh
Hồn tôi đâu trong dấu vết hoang đường?

Hoang đường nào còn in trên dấu vết lênh đênh? Tên tuổi nào cô liêu đến bạc trắng cả mái đầu ? Sầu thế kỷ điêu linh nào cứ ngân dài mãi trong não nề thê thiết:

Tang thương một dải tóc huyền
Bãi dâu ngàn suối mấy miền hoang vu
Gởi thân gió cuốn xa mù
Áo xanh cát trắng trời thu muộn màng

Chênh vênh hoa đỏ nắng vàng
Gót xiêu dốc núi vai mang mây chiều
Tóc huyền loạn cả nguyên tiêu
Lãng du ai ngỡ cô liêu bạc đầu

Cô liêu, cô đơn, cô độc, cô lữ là bước đi kỳ cùng của người thi sĩ dị thường. Bước đi chênh vênh, khập khễnh bên này cát bụi phù du, bên này bờ Thị Ngạn Am xao xác cọng lau gầy sậy yếu lặng phất phơ. Thở cùng hương trái đắng và hương nắng buồn trong mắt biếc nhiều diệu vợi uyên tư:

Gà xao xác gọi hồn ta từ quá khứ
Về nơi đây cùng khốn với điêu linh
Hương trái đắng mùa thu buồn bụi đỏ
Ôi ngọt ngào đâu mái tóc em xinh

Từng tiếng lẻ loi buồn thống thiết
Nghe rộn ràng từ vết lở con tim
Từ nơi đó ta ghi lời vĩnh biệt
Nắng buồn ơi là đôi mắt ân tình

Còi xa vắng giữa trưa nào lạc lõng
Môi em hồng ta ước một vì sao
Trưa dài lắm nhưng lòng tay bé bỏng
Để vươn dài trên vầng trán em cao

Em ở đây chính là hình ảnh cuộc đời. Cuộc đời nếu nhìn từ chân đế, vốn là tuyệt trần Chơn mỹ, vốn là Vô sinh bất diệt, vốn là Niết bàn, Tịnh độ như thị như nhiên. Biết được điều đó, cho nên lòng thi nhân tự bao giờ vẫn vô cùng khoan dung rộng lượng, thương yêu nhân loại trong vô ngôn lặng lẽ, trong tận cùng dung nhiếp âm thầm, chia sẻ với muôn loài vạn vật trần ai:

Ta sống lại trên nỗi buồn ám khói
Vẫn yêu người từng khoảnh khắc chiêm bao
Từ nguyên sơ đã một lời không nói
Như trùng dương ngưng tụ ánh hoa đào
Nghe khúc điệu rộn ràng đôi cánh mỏi
Vì yêu người ta vói bắt ngàn sao

Vô biên vô lượng thương yêu con người tha thiết mà không bao giờ nói mình yêu thương gì hết cả, đó mới chính là thương yêu đích thực nhất. Phải chăng chỉ có những tấm lòng Bồ tát mới có thứ tình yêu vô điều kiện, vô phân biệt như vậy? Một tình yêu rộng rãi Đại bi tâm nhập diệu, kết tinh thành bản tình ca mà thi sĩ thường lắng nghe từ hun hút biển ngàn, sông núi giữa trời đất mênh mang:

Ngọn gió đưa anh đi mười năm phiêu lãng
Nhìn quê hương qua chứng tích điêu tàn
Triều Đông hải vẫn thì thầm cát trắng
Chuyện tình người và nhịp thở Trường Sơn

Mười năm nữa anh vẫn lầm lì phố thị
Yêu rừng sâu nên khóe mắt rưng rưng
Tay anh vói trời cao chim chiều rủ rỉ
Đời lênh đênh thu cánh nhỏ bên đường

Mười năm sau anh băng rừng vượt suối
Tìm quê hương trên vết máu đồng hoang
Chiều khói nhạt như hồn ai còn hận tủi
Từng con sông từng huyết lệ lan tràn

Mười năm đó anh quên mình sậy yếu
Đôi vai gầy từ thuở dựng quê hương
Anh cúi xuống nghe núi rừng hợp tấu
Bản tình ca vô tận của Đông phương

Bản tình ca vô tận ấy, thi nhân vẫn nghe hoài rung ngân bất tuyệt trên những dặm dài long đong lữ thứ ở dọc đường quán trọ bơ vơ, bên làng mạc, thôn ấp đìu hiu, cạnh ven rừng sơn dã hay quanh triền sông thị trấn tiêu điều hoặc trên ghềnh suối truông ngàn hoang vắng tịch liêu giữa những chiều sương khói chơi vơi bềnh bồng trống trải:

Em trải áo trên hoa rừng man dại
Để hoa rừng nước cuộn biết yêu nhau
Nhưng nước cuộn xóa đời ta trên bãi
Để hoa rừng phong nhụy với ngàn lau

Em xõa tóc cho cây khô sầu mộng
Để cây khô mạch suối khóc thương nhau
Ta cúi xuống trên nụ cười chín mọng
Cũng mơ màng như phố thị nhớ rừng sâu

Ta chiến đấu nhọc nhằn như cỏ dại
Thoảng trông em tà áo mỏng vai gầy
Ôi hạnh phúc chợt thấy mình nhỏ bé
Chép tình yêu trên trang giấy thơ ngây

Ta cúi xuống trên chân người bụi đỏ
Để nhìn sâu trong vết tích hoang đường
Ta sống lại trên môi cười rạng rỡ
Để nhìn sâu trong ngọn nến tàn canh

Bằng ánh mắt từ tâm thâm cảm, nhà thơ bi tráng của chúng ta nhìn sâu vào lòng đời với nụ cười bao dung rạng rỡ. Thở cùng điệu hát bản tình ca nhã nhạc vang lừng trên núi rừng cô tịch hay giữa ngày hội lễ rộn ràng dưới phố thị xôn xao, nhà thơ đều im ắng lắng nghe trong từng khoảnh khắc lặng trầm, cảm nhận sâu xa vì biết chỉ là chiêm bao huyễn mộng trong khói bụi chập chờn: 

Em mắt biếc ngây thơ ngày hội lớn
Khóe môi cười nắng quái cũng gầy hao
Như cò trắng giữa đồng xanh bát ngát
Ta yêu người vì khoảnh khắc chiêm bao

Em là nàng thơ, là hình ảnh cuộc sống. Cuộc sống nếu nhìn từ tục đế thì đầy những thăng trầm, điêu linh khổ lụy từ nghìn xưa đến ngày nay. Khổ đế là sự thật thứ nhất mà Đức Phật đã chỉ bày cách đây gần ba nghìn năm rồi. Giống như đại văn hào Hermann Hesse phát biểu: “Dù có bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn yêu thương trần gian điên dại này” nhà thơ Tuệ Sỹ cũng vậy, cũng hết lòng thương yêu con người, dù kiếp người có tàn xiêu hiu hắt:

Ai biết mình tóc trắng
Vì yêu ngọn lửa tàn
Rừng khuya bên bếp lửa
Ngồi đợi gió sang canh

Một hình một bóng cô đơn ngồi trên tuyệt đỉnh núi lạnh xanh rờn, sẵn sàng chờ đợi một điều gì có thể xảy đến, đôi mắt thi nhân cúi nhìn xuống cuộc đời đang chìm trong bóng tối mù sa mà cảm thương một nỗi u buồn xót xa sầu khôn tả:

Ta không buồn còn ai buồn hơn nữa
Người không đi sông núi có buồn đi
Tia nắng mỏng soi mòn khung cửa
Để ưu phiền nhuộm trắng hàng mi

Ta lên bờ nắng vỗ bờ róc rách
Gió ở đâu mà sông núi thì thầm
Kìa bóng cỏ nghiêng mình che hạt cát
Ráng chiều xa ai thấy mộ sương dầm?

Ráng chiều xa bãng lãng bóng hoàng hôn nhân loại đang phủ trùm vàng vọt xuống khắp vùng sông núi Đông phương. Cho dẫu đường đời giăng bẫy đầy hầm hố cách ngăn, khó khăn trắc trở gì gì đi nữa, thi nhân vẫn nhận diện, tỉnh thức trước những sự kiện đang diễn biến, vì đã bừng ngộ thấy : “Ngay trong phiền não tức là Bồ đề, ngay trong những nguy hiểm đáng sợ hãi của sinh tử cũng chính là Niết bàn an ổn. Sợi dây bị tưởng lầm là con rắn, nhưng không phải hủy diệt sợi dây để diệt trừ ảo giác gây nên sợ hãi. Ngoài những gì vô thường được thấy, được kinh nghiệm bằng chính mắt, tai, mũi, lưỡi này, không tồn tại một thế giới chân thường, đại lạc hay đại ngã nào khác. Đó chính là thực tại Nhất nguyên tuyệt đối.”**** 

Phải chăng, đó là cái thấy bằng Trí tuệ siêu việt ? Một khi nhà thơ có cái nhìn tuệ giác đó rồi thì những sầu khúc thê lương kéo dài trong đợi chờ não nuột suốt mười lăm năm trường đọa đày viễn mộng như lời thơ tiên tri trước cuồng phong bão tố mịt mùng cũng chẳng hề dao động mà vẫn như như tự tại vô ngại:

Tôi vẫn đợi những đêm xanh khắc khoải
Màu xanh xao trong tiếng khóc ven rừng
Trong bóng tối nỗi gì tha thiết mãi
Một vì sao bên khóe miệng rưng rưng

Tôi vẫn đợi những đêm đen lặng gió
Màu đen tuyền ánh mắt tự ngàn xưa
Nhìn hun hút cho dài thêm lịch sử
Dài con sông tràn máu lệ quê cha

Tôi vẫn đợi suốt đời quên sóng vỗ
Quên những người xuôi ngược Thái Bình Dương
Người ở lại giữa bàn tay bạo chúa
Cọng lau gầy trĩu nặng ánh tà dương

Rồi trước mắt ngục tù thân bé bỏng
Ngón tay nào gõ nhịp xuống tường rêu
Rồi nhắm mắt ta đi vào cõi mộng
Như sương mai như ánh chớp mây chiều

Chút thân bé bỏng dù bị tù ngục lưu đày vì sự ngộ nhận của thế lực vô minh, nhưng ngay trong dầu sôi lửa bỏng, trong đêm dài sinh tử đó, thi nhân đã nhập thần, đại thiền định, thấu thị tất cả vạn pháp “như sương mai như ánh chớp mây chiều” làm vỡ bùng rơi rụng bóng tối để rực ngời lên ánh phong quang, hiển lộ vô ngần thần lực vô vi. Một câu thơ khiến bay dậy âm vang sấm sét, mặc như lôi từ trong kinh Kim Cang làm phấn chấn bất khả tư nghì: 

Tất cả pháp hữu vi
Như huyễn mộng bọt nước
Như ánh chớp sương mai
Thường quán tưởng như thị

Trùng trùng vạn pháp muôn loài vạn vật núi sông, rừng biển, thiên nhiên vũ trụ và con người đều như mộng như huyễn , như bọt nước như sương mai…Phải thường xuyên thấy rõ ràng như thế. Tuệ Sỹ cũng nhiều lần nói : “Tất cả giáo pháp của Phật đều hướng đến diệt trừ tự ngã. Tôi đang tồn tại, đó là một hiện thực, đồng thời cũng là một ảo ảnh. Đau khổ là một sự thực. Cái tôi đang đau khổ ấy lại là ảo ảnh. Cái ta ảo ảnh được bọc trong vỏ trứng vô minh, nó được định hình bằng vọng tưởng thành thân thể ta, linh hồn ta, sở hữu của ta, tài sản của ta, cho đến núi sông này là của ta, tài sản này là của ta, ta là tài sản này, sông núi này là của ta, ta là sông núi này. Cho nên, khi tán gia bại sản, khi sông núi sụp đổ, cái ta vọng tưởng cũng sụp đổ thì có kẻ trầm mình xuống sông hoặc treo cổ trên cành. Vì thế, khi nghe nói cái ta này là ảo ảnh, là không thực, người nghe có thể kinh hoàng như nghe sét đánh ngang tai. Tiếng sét đó là từ Kim Cang Bát Nhã. Duy có điều, mọi người đều mù, chỉ thấy bóng tối, mọi người đều điếc, chỉ nghe tiếng vo ve. Làm sao có thể thấy cái ta chỉ là ảo ảnh? Làm sao nghe được tiếng sấm từ kinh Kim Cang? Với những ai có mắt để thấy, có tai để nghe, kinh Kim Cang sẽ chỉ đường để đối diện với ảo ảnh của cái tôi và chỉ cách vận dụng kim cang xử đập vỡ vỏ trứng vô minh bao bọc tự ngã.”

Khi thi nhân lãnh hội, quán chiếu sâu xa, thấy tất cả vạn pháp như ảo ảnh, mộng huyễn như vậy thì hoát nhiên hiển lộ, bừng sáng lên một phương trời Tánh Không lồng lộng nên hết thảy mọi khổ nạn điêu linh trầm thống đều chuyển hóa thành lửa tịch mịch, tự nhiên đốt cháy hết những kinh hoàng khủng khiếp của địa ngục trần gian và sầu khúc thê lương trở thành “Bản tình ca vô tận của Đông phương” hay biến thành Những điệp khúc cho dương cầm thâm thúy dưới ngàn trăng sao xao xuyến lặng bồi hồi:

Nỗi nhớ đó khát khao luồn sợi tóc
Vòng tay ôm cuộn khói bâng khuâng
Uống chưa cạn chén trà sương móc
Trên đài cao em ngự mấy tầng
Lên cao mãi đường mây khép chặt
Để xoi mòn ảo tượng thiên chân
Ồ, nguyệt quế ! Trắng mờ đôi mắt
Ồ, sao Em ? Sao ấn mãi cung đàn?
Giai điệu cổ thoáng buồn u uất
Xưa yêu Em xao động trăng ngàn 

Từ xưa đến nay vẫn điệp khúc cung đàn trường ca Đại bi tâm trầm lặng ngân rung trên cung bậc Bất nhị giữa cõi người ta vô thủy vô chung. Chúng ta hãy lắng nghe, thưởng thức những giai điệu tài hoa của nhạc sĩ tế nhị cảm giao hòa :
Ta nhận chìm thời gian trong khóe mắt
Rồi thời gian ửng đỏ đêm thiêng
Đêm chợt thành mùa đông huyễn hoặc
Cánh chim bạt ngàn từ quãng Vô biên
Từ đó ta trở về Thiên giới
Một màu xanh mù tỏa Vô biên
Bóng sao đêm dài vời vợi
Thật hay hư chiều nhỏ ưu phiền
Chiều như thế cung trầm khắc khoải
Rát đầu tay nốt nhạc triền miên
Ôm dấu lặng nhịp đàn đứt vội
Anh ở đâu khói lụa ngoài hiên?

Ngoài hiên chiều phất phới bay qua những vệt nắng nhạt nhòa phôi pha trong bóng tà huy thấp thoáng lan dần nhẹ tỏa xuống mềm mại những sợi khói mênh mang :

Nắng lụa đỏ phủ tường rêu xám bạc
Lá cây xanh nghiêng xuống mắt mơ màng
Người có biết mặt trời kia sẽ tắt?
Ta yêu người từ vết rạn thời gian

Thời gian và không gian trộn lẫn hòa quyện tan vào trong cùng một tấu khúc rung cảm, bồng tênh lênh láng, dạt dào du dương, vi vu vi vút nguồn cảm xúc khôn dò của người em thi ca quá tuyệt diệu trong tự tình khúc rung động chan hòa :

Tự hôm nào suối tóc ngọt lời ca
Tay em rung trên những phím lụa ngà
Thôi huyễn tượng xô người theo cát bụi
Vùng đất đỏ bàn chân ai bối rối
Đạp cung đàn sương ứa đọng vành môi
Đường xanh xanh phơn phớt nụ ai cười
Như tơ liễu ngại ngùng lay nắng nhạt
Lời tiễn biệt nói gì sau tiếng hát
Hỏi phương nào cho nguyện ước Trường Sơn
Lời em ca phong kín nhụy hoa hờn
Anh trĩu nặng núi rừng trong đáy mắt
Mờ phố thị những chiều hôn suối tóc
Bóng ai ngồi so phím lụa đàn xưa 

Tiếng đàn miên man réo rắt lặng hồn dưới bàn tay phấn chấn thân yêu, dìu dặt vọng vang bàng hoàng qua những điệp khúc cho dương cầm thâm tình thấm thiết mãi ngân nga từ cõi mộng không lời, hỡi vầng trăng gầy tịch nhiên soi chiếu trong vườn sương khuya mờ ảo lung linh ngời lấp lánh long lanh:

Nhà đạo nguyên không khách
Quanh năm bạn ánh đèn
Thẹn tình trăng liếc trộm
Bẽn lẽn núp sau rèm
Yêu nhau từ vạn kiếp
Nhìn nhau một thoáng qua
Nhà đạo nguyên không nói
Trăng buồn trăng đi xa

Chao ơi! Yêu thương nhau đã từ muôn triệu kiếp rồi, hỡi vầng trăng thanh thoát vàng hoa mộng như nàng thơ gầy yểu điệu, lặng lẽ chia phôi. Thôi buồn làm chi nữa phải không? Thôi cứ thản nhiên để cho hồn thơ dệt phím nhạc ngàn đời những tơ đàn diệu âm trầm bổng ngát xanh huyền:

Tóc em bay trong sương chiều khói biếc
Dệt tơ trời thành khúc hát bâng khuâng
Tình hay mộng khi Trường Sơn xa hút
Đến bây giờ mây trắng gởi tin sang
Hồn tôi đi trong rừng lang thang
Cọng lời ru từ ánh trăng tàn
Mắt em nhỏ ngại ngùng song cửa
Nghe tình ca trên giọt sương tan
Gót chân em nắng vàng xưa viễn phố
Những ngón hồng ngơ ngác giữa đường chim
Ôi ta nhớ như đêm dài thượng cổ
Sợi tóc mềm lơi nhịp hát trong tim

Trong tim hồn rộn ràng bao nhịp hát hoang sơ từ thượng cổ vọng về, nghe như điệu hát Trang Tử tiêu dao du, bên bờ sông xa mù Dương Tử, hay như lời thơ ngâm nga của Milarepa trên tuyệt đỉnh ngàn cao Hy Mã Lạp Sơn chập chờn sương khói tỏa thiên thu hoặc như khúc hát nghêu ngao Phóng cuồng ca của Tuệ Trung Thượng Sỹ, trong cơn xuất thần nhập diệu, đại hòa điệu chơi cùng nhật nguyệt, thiên địa tuần hoàn. 

Thế là, bát ngát bồng tênh trên ngõ về im lặng, tiếng thơ trầm hùng Tuệ Sỹ như ánh trăng huyền nguyên thủy, chiếu diệu xuyên qua ngút ngàn bóng tối vô minh làm bừng hiện rực ngời lên trên cung bậc ngôn ngữ thi ca đầy sáng tạo và sáng tạo tân kỳ như Tuệ Sỹ từ thuở thanh xuân đã nghe tận thần hồn: “Ngôn ngữ không còn là một hình ảnh héo hắt của Thực tại sai biệt và sai biệt. Nó không đi chơi vơi trên Thực tại mà đóng vai trò truyền thông như tiếng gọi từ trên một đỉnh trời Tuyệt đối vô tri, từ trên một đỉnh núi ngàn đời bất khả xâm phạm, luôn luôn thách đố bước tiến của con người. Nó đánh mất đi cái cụ thể nghèo nàn trong tầm mắt thường nghiệm của phàm phu để dẫn đến một chân trời rực rỡ của sáng tạo.”*****

Con đường mây trắng thênh thang sáng tạo đã vượt qua những mộng tàn năm tháng cũ, dù vẫn còn chút dư hương của một thời đọa đày viễn mộng u sầu:

Màu nắng xế ôi màu hương tóc cũ
Chiều chơ vơ chiều dạt mấy hồn tôi
Trời viễn mộng đọa đày đi mấy thuở
Mộng kiêu hùng hay muối mặn giữa trùng khơi
Vén thanh sắc đổ mù khơi về đối diện
Cuộc ân tình lơi lả vội chia phôi
Trăng nằm xuống duỗi dài hai bến hẹn
Một dòng sông vồn vã động chân trời

Ơi chao ! Đã chia phôi, từ biệt cuộc ân tình nhân thế từ dạo đó, kể từ ngày như Nguyễn Du xa xưa từng chứng kiến giữa trần ai: “Trải qua một cuộc bể dâu. Những điều trông thấy mà đau đớn lòng” nhà thơ Tuệ Sỹ cũng đi về theo thể điệu phiêu nhiên, quy hồi Vĩnh cửu với nụ cười sâu lắng tự tri:

Khói ơi! Bay thấp xuống đi
Cho ta nắm lại chút gì thanh xuân
Ta đi trong cõi Vĩnh hằng
Nhớ tàn cây nhỏ mấy lần rụng hoa

Vĩnh hằng chẳng ở đâu xa mà ngay trong từng sát na hiện tại, ở đây và bây giờ, ngay trong tiếng ve sầu hay từng nhịp thở nhẹ nhàng giữa lòng phố bụi lao xao:

Ve mùa hạ chợt về thành phố
Khóm cây già che nắng hoang lương
Đám bụi trắng cuốn lên đầu ngõ
Trên phím đàn lặng lẽ tan hương
Tiếng ve dội lăn tăn nốt nhỏ
Khóc mùa hè mà khô cả đại dương

Ngôn ngữ thi ca thường chứa nhiều ẩn dụ, tượng trưng hàm súc như vậy, chúng ta tha hồ suy diễn, lãnh hội, cảm nhận theo đủ cách điệu riêng tư của mình thôi. Đọc thơ Tuệ Sỹ là lang thang bước dạo chơi vào một thế giới diêu mang kỳ ảo vô vàn:

Một ngày chơi vơi đỉnh thác
Nghe bồn chồn tiếng gọi hư không
Giai điệu nhỏ dồn lên đôi mắt
Mặt hồ im ánh nước chập chờn
Mặt hồ im tảng màu man mác
Ảnh tượng mờ một chút sương trong
Quãng im lặng thời gian nặng hạt
Tôi nghe đời trong tấu khúc Thiên hoang

Tấu khúc Thiên hoang vang rền, đồng vọng trong tận đáy lòng Không tánh vô biên, khiến cho thi nhân tự mình thưởng thức hương vị cô liêu của cuộc sống. diệu thường:

Tự tâm tự cảnh tự thành chương
Tự đối bi hoan diệc tự thưởng
(Cô độc cảnh tâm thơ tự xuất
Tự ngắm buồn vui tự thưởng thức)

Thế thì, tuyệt cùng ẩn ngữ thi ca Tuệ Sỹ là gì? Làm sao chỉ ra được, khi ngôn ngữ cứ lấp lánh ẩn hiện trong ánh sáng phát ra từ tâm cảm thông tuệ thâm trầm? Có ai nắm giữ được những tiếng dương cầm âm thanh thánh thót, phiêu diêu, dịu dàng vang ngân bất tận từ giữa lòng bàn tay của người nghệ sĩ tài hoa?

Đã rời khỏi Thị Ngạn Am ở Sài Gòn gần 2 năm nay rồi, bây giờ Tuệ Sỹ sống lang thang đúng nghĩa lang thang, hoàn toàn rỗng rang vô sự. Vô sự là thong dong tự do tự tại giữa đang là, không còn chạy theo nắm bắt bất cứ một cái gì nữa cả, dù đó là Phật, là Tổ như thiền sư Lâm Tế nói: “Con người vô sự là người đã dừng lại, không còn dính mắc vào một lý thuyết, một giáo pháp, một đường lối nào nữa hết. Con người vô sự có tự do, có khả năng sống hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại, không bị bất cứ một cái gì có thể kéo đi, kể cả lý tưởng độ sinh cứu đời. Bởi vì lý tưởng độ sinh cứu đời cũng có thể bắt mình chạy đi tìm cầu, bỏ mất giây phút hiện tại, bỏ mất cái tâm sáng chói và sáu đạo thần quang đang có mặt, vốn là nguồn gốc của tất cả chư Phật.” Lẫn vào cát bụi phù du “hòa kỳ quang đồng kỳ trần” Tuệ Sỹ giống như thiền sư thi sĩ Nhật Bản Basho xuống núi, phiêu bồng thõng tay vào chợ làm thơ và làm thơ giữa ngày tháng lưu linh cùng sương khói bồng bềnh.

Trên ngõ về im lặng, lúc thì tiêu dao với mây trắng trên núi rừng Madagoui huyền ảo, lúc thì lên đồi Phương Bối ở vùng Đại Lão, Bảo Lộc uống trà với nhà thơ Nguyễn Đức Sơn. Bồng tênh xuôi về phố hoa Đà Lạt, ghé bên cầu sông nước Đại Ninh cùng những ẩn sĩ tâm tình, rồi thênh thang xuống miền biển khơi Vạn Giã, Nha Trang muôn trùng bát ngát…Hát khúc vô thanh siêu thoát làm hồi phục những tiêu điều, hiu hắt dọc khắp ven đường thi sĩ đi qua.
Hòa trong nhịp bước vân du, người viết chợt bỗng nghe văng vẳng lời nói của Phạm Công Thiện, một người bạn thâm tình chí cốt của Tuệ Sỹ: “Một con người vừa là thi sĩ vừa là thiền sư, vừa là nhà hành động nhập thế với tinh thần vô công dụng hạnh của bậc Bồ tát. Hành động tích cực, mãnh liệt toàn triệt mà vẫn giữ cảm thức viễn ly và viễn mộng, vì không tham vọng, ích kỷ mù quáng, cho nên nuôi dưỡng cảm thức viễn ly, vì không bị kẹt dính vào tham sân si của thế tục, cho nên mới hàm dưỡng viễn mộng, Tuệ Sỹ là một trong số ít đạo sĩ thi nhân với pháp khí phi thường là Trí tuệ Bát nhã cùng với lòng Đại bi thơ mộng, Tuệ Sỹ là một trong số ít thể hiện được ý nghĩa trọn vẹn của ý thức chính trị toàn diện, ý thức hành động Bi Trí Dũng, dẫn đường soi sáng Thể mệnh của Sử tính quê hương…

Anh không thể cảm thơ người ta thì anh hãy im lặng, còn nếu cảm được thì anh hãy tha thiết ca ngợi, đừng e dè giữ gìn gì cả. Không nên có những kẻ phê bình thơ mà chỉ nên có những người ca tụng thơ. Thơ là của riêng từng người, không có ai làm thầy ai cả.”

Bắt chước Phạm Công Thiện, người viết cũng muốn ca ngợi tán thán Tuệ Sỹ, một thiền sư thi sĩ vĩ đại, một trái tim Kim Cang bất hoại vô úy nhưng ngợi ca làm chi nữa, khi mà tiếng thơ của thi nhân đã làm chấn động rung chuyển cả thế giới hoàn cầu và lan tỏa lạ thường ra khắp vũ trụ mười phương rồi. Thôi thì chỉ xin kính tặng một bài thơ bình dị:

Những phương trời viễn mộng đi
Thi ca tư tưởng bước kỳ ảo qua
Đọa đày một thuở ta bà
Nỗi đau rực cháy thấy ra tột cùng
Ôi ! Giấc mơ Trường Sơn rung
Rúng hồn tim máu chợt bùng vỡ mơ
Kinh thiên động địa sững sờ
Đâu chân diện mục của thơ với thiền?
Mặc như lôi ngồi tịch nhiên
Nghe ban sơ vọng ngân huyền diệu âm
Những điệp khúc cho dương cầm
Từ vô tận ý vang thâm thiết niềm

Tâm Nhiên
________________________

* Bùi Giáng. Đi vào cõi thơ. Nhà xuất bản Ca Dao, Sài Gòn 1969
** Tuệ Sỹ. Tô Đông Pha những phương trời viễn mộng. Tái bản lần thứ ba. Nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn 2008
*** Tuệ Sỹ. Thắng Man giảng luận. Nhà xuất bản Phương Đông, 2012
**** Tuệ Sỹ. Huyền thoại Duy Ma Cật. Nhà xuất bản Phương Đông, 2007
***** Tuệ Sỹ. Triết học về Tánh Không. Nhà xuất bản An Tiêm. Sài Gòn 1970
Thơ Tuệ Sỹ, trích trong 2 thi phẩm:
Giấc mơ Trường Sơn. Nhà xuất bản An Tiêm, Paris 2002
Những điệp khúc cho dương cầm. Nhà xuất bản Phương Đông 2009