Friday, May 29, 2020

Vài Nét Biểu Trưng của Người Cư Sĩ Phật Tử nơi Hải ngoại

Thích Nguyên Siêu

Bài viết, tiểu luận, truyện ngắn - Vài Nét Biểu Trưng của Người Cư Sĩ Phật Tử nơi Hải ngoại














Tinh thần tu chứng, cũng như phụng sự tha nhân xây dựng quê hương đất nước, Phật Giáo Việt Nam đã khẳng định sự hiện hữu của mình hơn 2000 năm trên suốt dòng lịch sử của dân tộc Việt. Sự hiện hữu đó đã gây giống nẩy mầm từ khi các Thiền sư đặt bước chân đầu tiên lên mảnh đất Lạc Việt, hay từ thời Trung tâm Luy Lâu được khởi xướng. Xuôi theo dòng lịch sử mở nước, dựng nước và giữ nước ấy Phật Giáo Việt Nam

Tinh thần tu chứng, cũng như phụng sự tha nhân xây dựng quê hương đất nước, Phật Giáo Việt Nam đã khẳng định sự hiện hữu của mình hơn 2000 năm trên suốt dòng lịch sử của dân tộc Việt. Sự hiện hữu đó đã gây giống nẩy mầm từ khi các Thiền sư đặt bước chân đầu tiên lên mảnh đất Lạc Việt, hay từ thời Trung tâm Luy Lâu được khởi xướng. Xuôi theo dòng lịch sử mở nước, dựng nước và giữ nước ấy Phật Giáo Việt Nam đã không ngừng tài bồi, kiện toàn và phát huy những nét cao đẹp, trong sáng tinh ba của đất nước dân tộc. Lý tưởng giác ngộ giải thoát của Đạo pháp được hưng khởi, giá trị của lòng Từ Bi, thương người cứu vật, tinh thần trong sáng của trí tuệ vượt thoát được nêu cao và hoằng dương một cách sâu rộng đến mỗi người, mỗi nhà hay phổ cập chung cho cộng đồng xã hội. Trong công cuộc “Hoằng Pháp Thị Gia Vụ, Lợi Sanh Vi Sự Nghiệp” – Hoằng pháp là việc nhà, lợi sanh làm sự nghiệp – đó có tấm lòng trung kiên với Đạo, có đôi tay cần mẫn hộ trì Phật pháp của người Cư sỹ Phật tử các giới.

Nếu nói rằng, từ thời Đức Thế Tôn còn tại thế đã có bao nhiêu vị Đại thí chủ, bao nhiêu thiện nam tín nữ Phật tử đã phát tâm hộ trì Tam Bảo, bất luận là Vua chúa, Trưởng giả, hay thần dân …. xây dựng tinh xá, phát tâm tứ sự cúng dường, học hỏi giáo pháp và ngay cả tinh thần tu tập và chứng đắc quả thánh đương thời cho đến hôm nay thì lịch sử Phật Giáo Việt Nam hơn 2000 năm qua cũng đã có rất nhiều các cư sỹ Phật tử hy hiến đời mình cho Đạo pháp, bảo vệ ngôi nhà Phật Giáo được vững bền và thăng tiến cùng góp mặt chung với Phật Giáo thế giới.

Người cư sỹ Phật tử đã giữ một vai trò quan trọng trên dòng lịch sử Phật Giáo nước nhà, và dòng lịch sử Phật Giáo đó đã tạo thành niềm tin Đạo pháp truyền thống, tiếp nối nhau từ đời này sang đời khác bất tuyệt. Và cũng chính truyền thống Phật Giáo đó đã giữ gìn người cư sỹ Phật tử sống trọn vẹn trong niềm tin Tam Bảo.

Thế nhưng hôm nay, Phật Giáo Việt Nam đã được hoằng truyền qua các quốc gia trên thế giới mà chúng ta gọi là Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại, không phân biệt Mỹ Châu, Úc Châu v.v…. thì người cư sỹ Phật tử có cái nhìn tổng quan Phật Giáo Hải Ngoại và đặt mình đúng vị trí trong vai trò hộ pháp

1. Khẳng Định Tín Tâm Đối Với Tam Bảo
Khi chúng ta còn sống nơi quê nhà, theo nề nếp tập tục, theo giáo dục lễ nghi và có thể nói là theo truyền thống lâu đời gia đình theo đạo Phật thì con cháu cứ như vậy mà thừa truyền tiếp nối Đạo pháp trong gia đình và ít có ai đổi đạo. Đó là niềm tin cố hữu của người Phật tử Việt Nam tự nghìn xưa. Nhưng hôm nay, chúng ta là người Phật tử Việt Nam sống nơi hải ngoại – một môi trường mới, một sinh hoạt mới, một văn hóa, một quan niệm mới – chúng ta có còn giữ được niềm tin truyền thống, hay chúng ta phải thấy bằng như thật rằng : Tam Bảo là 3 ngôi báu, cao quý trong thế gian mà kiên định tín tâm nơi 3 ngôi báu ấy để không bị lung lạc hay cuốn hút theo những hình ảnh, màu sắc phù phiếm của các ngoại lực và rồi phản bội lại lý tưởng cao đẹp lâu đời của cha ông.

Tín tâm Tam Bảo là bước đầu học Phật của người cư sỹ Phật tử. Nếu chúng ta không có tín tâm kiên cố đối với Tam Bảo thì dù cho chúng ta có sưu tra, nghiên cứu Phật pháp giỏi đến đâu cũng không thể gọi là Phật tử và sẽ bị thối tâm khi niềm tin không định hướng.

2. Thích Nghi Với Môi Trường Hiện Sống Mà Tùy Duyên Hộ Pháp
Con người sống trong một xã hội mà nhu cầu đời sống quá cao, thời gian không đủ để phân bố công việc, như thế giới Tây phương ngày nay. Một người có thể làm Hai công việc toàn thời một ngày thì chắc hẳn không còn thời gian cho chính mình để suy tư nghĩ ngợi về đời sống tâm linh. Vì nhu cầu đời sống vật chất, vì sự ràng buộc công việc sở làm mà chúng ta có thể lãng quên hay đánh mất nét đẹp cao quý của tinh thần. Nhưng, nơi đây chúng ta có thể đem những bài học uyên áo giá trị của thế giới Đông phương, áp dụng ngay vào đời sống bận rộn của thế giới Tây phương, nhằm giải tỏa phần nào áp suất những lo âu của cuộc sống cá nhân để tránh bị cuốn hút bởi những nhu cầu vật chất quá cao.

Đó chính là ý thức được giá trị đích thực của sự sống an lành, của niềm bình yên trong tâm hồn, của sự thanh thản trong bận rộn, của sự tri túc trong ý nghĩa thường lạc tự thân. Tinh thần của đạo Phật là tùy duyên để thích nghi với hoàn cảnh, môi trường mà không bị chướng ngại khi mình hiện hữu. Tinh thần của đạo Phật là hòa tan, là uyển chuyển – ở bầu thì tròn, ở ống thì dài – là dung hợp như nước với sữa không có sự ngăn chia.

Người Phật tử có được cái nhìn và một nhân sinh quan như vậy, thì đích thực đã kiện toàn cho sự thích nghi môi trường sống, để từ đó mà tùy duyên hộ trì Tam Bảo trong ý thức tự tồn và nhiệt tâm phụng sự.

3. Phát Huy Tinh Thần Tu Học Phật Pháp Qua Các Phương Tiện:
a. Tham gia các khóa tu học được tổ chức tại các Tự Viện.

b. Nghe băng thuyết giảng.

c. Học Phật pháp trên Internet – Paltalk.

Tham học Phật pháp là bước đầu của người tu Phật. Người Phật tử thông hiểu Phật pháp rồi tu tập Phật pháp tức là làu thông pháp học rồi tiến tới pháp hành thì sự tu tập mới đạt được nhiều kết quả tốt đẹp. Do vậy, sự nghiên tầm giáo điển là năng lực tài bồi, là tiềm năng đẩy người Phật tử đi xa hơn trên con đường thể nghiệm tinh thần giác ngộ. Có thâm hiểu giáo lý thì mới thâm tín Tam Bảo, mà có thâm tín Tam Bảo thì mới phát huy được những giá trị thù thắng Phật Ngôn.

Người Phật tử có thấm được hương vị giải thoát của giáo pháp thì mới giữ được lòng trung kiên đối với Đạo. Vì giáo pháp là chiếc bè đưa người qua sông, là hóa thành để chúng ta dừng chân trên con đường dài từ phàm tới thánh, là phương tiện thiện xảo đưa chúng ta tới cứu cánh của thành Niết bàn rốt ráo, hay là những gì đem lại sự lợi ích an vui cho một đời sống thường nhật. Là chất liệu xây dựng mái nhà hạnh phúc chân thật của gia đình. Là ý niệm từ hòa tĩnh lặng trong tận cùng thâm tâm của người học Phật. Vậy sự phát huy tinh thần tu học Phật pháp là điều thiết yếu, là mối quan tâm hàng đầu, là trách vụ chung của mọi người Phật tử chúng ta. Trong những điều kiện khả thể đó, chúng ta có thể:

a. Tham Gia Các Khóa Tu Học Được Tổ Chức Tại Các Tự Viện

Trong quá khứ đã có các khóa tu học Phật pháp được tổ chức tại các tiểu bang hay các Châu. Số lượng Phật tử tham gia tu học rất đáng kể. Trong những khóa tu học này, chúng ta thấy tinh thần tu học Phật pháp của Phật tử rất cao và rất chân thành để nghe giáo pháp. Do vậy, các khóa tu học Phật pháp tổ chức tại các Tự viện tại địa phương để cho các Phật tử được thuận tiện tham gia mà không phải mất nhiều thời gian di chuyển. Từ đó người Phật tử được gần gũi với đạo tràng, với Chùa Viện mà thể hiện tính chất bất khả phân, cũng như có được tài sản giáo pháp cho công trình khai triển đời sống tâm linh ngày thêm hoàn thiện.

b. Nghe Băng Thuyết Pháp

Trở về đôi mươi thập niên trước, chúng ta có bao giờ thấy các bậc Tôn túc thuyết giảng và được ghi âm, hay có những bộ kinh được đọc và thâu lại để phân phát cho các Phật tử nghe? Chắc hẳn là không. Nhưng, ngày nay việc thu băng thuyết pháp đã được phổ biến rất rộng rãi trong giới cư sỹ Phật tử. Hầu hết các buổi thuyết giảng, Phật tử đều có băng ghi riêng và sau đó về nhà nghe lại, truyền bá đến bạn bè thân quen. Đây là cách tham học Phật pháp rất tiện lợi cho tất cả mọi giới, vì có thể nghe thuyết giảng ở nhiều nơi, nhiều chỗ : trong lúc lái xe, khi làm việc trong công sở, hay khi nấu ăn dọn dẹp nhà cửa …. thường xuyên nghe thuyết giảng bằng cách này, lâu ngày chầy tháng, tâm hồn người Phật tử được thấm đậm hương vị giáo pháp và thuần hậu trong suối nguồn tĩnh lặng.

c. Hệ Thống Internet – Paltalk

Đây là phương tiện của kỷ nguyên khoa học tiến bộ, rất thích hợp với giới trẻ, và cũng là phương tiện truyền thông nhanh nhất.

Qua những kinh nghiệm thuyết giảng trên hệ thống Internet, chúng tôi nhận thấy có rất nhiều Phật tử thuần thành, rất kính trọng giáo pháp và tha thiết muốn nghe lời Phật dạy. Khi giảng trên Internet, không riêng gì Phật tử Hoa Kỳ mà khắp thế giới đều có thể nghe được.

Chúng tôi đã nhiều lần được tiếp xúc với các anh chị em trẻ, họ rất nhiệt tình và chân thành trong công việc truyền bá Phật pháp trên Internet. Những người bạn trẻ này với kiến thức khoa học kỹ thuật sẵn có, họ có thừa khả năng hoạt dụng Phật pháp phổ biến rộng rãi đến mọi người nếu chúng ta cùng biết cách cộng tác làm việc.

Sự tiến bộ về khoa học truyền thông ngày nay đã đưa mọi người trên thế giới gần lại với nhau hơn, dễ cảm thông hiểu biết nhau hơn, và trao đổi với nhau những điều cần thiết vượt khỏi giá trị thời gian của nhiều thập niên trước. Vậy thì, với những phương tiện truyền thông thuận lợi như thế, chúng ta có thể dễ dàng hơn trong công việc hoằng truyền Phật pháp. Chúng ta cần quan tâm, nghiên cứu phương tiện kỹ thuật và cập nhật hóa thường xuyên theo đà tiến bộ của nền khoa học hiện đại để khỏi bị lùi dần lạc hậu. Nhất là phổ biến rộng rãi tư tưởng siêu phàm, thanh thoát giác ngộ của Đức Thế Tôn đến thế giới Tây phương.

4. Các Tự Viện Tại Địa Phương Là Ngôi Nhà (Tâm Linh) Phật Pháp Của Chính Mình:
Một ngôi chùa nhỏ có thời khóa tụng kinh thường nhật, thuyết giảng định kỳ, niệm Phật công cứ, thọ bát quan trai đúng ngày trong tháng, vẫn có Phật tử tham gia tu học các thời khóa. Dẫu biết rằng có thể không được đông đảo, nhưng với số lượng người cố định, tham gia sinh hoạt đều đặn, chừng mực, thì cũng đủ để thấy rằng người Phật tử đã tự cho rằng ngôi chùa nhỏ tại làng mình là ngôi nhà tâm linh chung cho những người cùng xóm, hay trong cùng một khu vực, thành phố. Tâm tình của người Phật tử được thể hiện qua rổ khoai đầu mùa đem cúng chùa; Chục cam mới hái trong vườn đem dâng cúng Phật, hay đĩa rau lang mới luộc vội bưng qua mời Thầy trụ trì; quả cà, trái ớt đều tưởng nghĩ đến chùa, sốt sắng không quên. Ân nghĩa là nói theo tình đời, còn công đức là nói theo tình đạo. Một tấm lòng đơn sơ cũng đủ nói lên bao nhiêu phước đức đó. Một ngôi chùa nhỏ tại thôn xóm, cách xa thành thị mà duy trì được phải do sự bao dung ấp ủ bằng tấm lòng son của những người Phật tử này. Sự hiểu biết về Phật pháp của họ rất giản dị, mộc mạc : “để đức cho con cháu về sau” bằng tâm tình thuần hậu, đơn sơ, nhưng rất trung kiên vì ngôi chùa làng cũng được xem như ngôi nhà “tinh thần” chung cho xóm làng. Ngôi chùa đó có từ bao đời, dường như không ai để ý, chỉ biết lớn lên đã thấy sự hiện diện của chùa. Mái chùa đó đã che chở, dìu dắt đời sống tâm linh của nhiều đời cha ông của họ cho đến hôm nay và còn nhiều đời con cháu sau này. Cứ thế, người Phật tử mặc nhiên thấy mình có bổn phận trông coi, thăm viếng; sớm hương khói cúng Phật, chiều đánh chuông công phu bái sám xem như là công việc gia đình. Ấy chính là tinh thần hộ pháp, được hòa quyện trong tâm tư người Phật tử thân thương qua bao thế cuộc thăng trầm, thịnh suy, thất đắc. Nhưng niềm tin với ngôi chùa làng được gắn liền, bất di bất dịch, từ đời nọ sang đời kia.

5. Gây Ý Thức Và Tạo Dựng Niềm Tin Phật Cho Con Em – Thế Hệ Kế Thừa:
Con em của chúng ta được sinh ra và trưởng thành trong nền văn hóa Tây phương, hấp thụ và học hỏi phong tục tập quán Âu Tây từ người bản xứ. Do vậy, sự hiểu biết về cội nguồn, quê hương dân tộc của các thế hệ trẻ này rất là hạn hẹp nếu không được các bậc phụ huynh gia tâm chăm sóc.

Vì nhu cầu đời sống, nhiều bậc phụ huynh cũng tất bật với công việc không đủ thời giờ chăm sóc dạy dỗ con cái. Đây cũng là một trong những lý do, các em đánh mất tình cảm gia đình, quên dần cội nguồn dân tộc. Lâu ngày chầy tháng, khó lòng uốn nắn, giảng dạy các em ý thức về nguồn, gần gũi với cộng đồng Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta cũng chưa tuyệt vọng vì cũng có nhiều gia đình vẫn giữ được kỷ cương giềng mối. Là một bậc phụ huynh Phật tử, chúng ta lại càng gia tâm giáo huấn con em hơn nữa, hướng dẫn và gây ý thức cho con em chúng ta có niềm tin Phật pháp. Tạo điều kiện thuận tiện cho những thế hệ sau này gần gũi với ngôi Tam Bảo. Tập làm Phật sự nơi các Tự viện, để quen dần với không khí nhà chùa mà không cảm thấy xa lạ, ngại ngùng khi hữu sự.

Chúng ta có nhiều phương cách gây ý thức và tạo niềm tin cho con em Phật tử như sinh hoạt Gia Đình Phật tử, dẫn con em đi chùa tụng kinh niệm Phật, tham dự các khóa lễ, tham dự các khóa tu học Phật pháp cuối tuần, tìm đưa cho các em đọc những kinh sách song ngữ… để từ đó, gieo vào tâm thức các em, những chủng tử Phật pháp để ý thức Phật pháp được nẩy nở phong phú trong tâm tư các em. Có được như vậy, thì thế hệ mai sau mới hy vọng tiếp tục hộ trì Phật pháp. Hơn thế nữa, các bậc phụ huynh phải khuyến tấn, khích lệ con em mình xuất gia. Khi đề cập đến vấn đề này có nhiều người sẽ cười và bảo: “Xứ Mỹ này khó có người đi tu.” Hay cha mẹ thì trả lời: “Tùy nó” hay khi nào “đủ duyên”. Đây là những lý luận để đưa đến kết quả là hơn 2 thập niên qua ở hải ngoại, có bao nhiêu phần trăm giới trẻ đi tu? Và Giáo Hội đã đào tạo được bao nhiêu Tăng tài để tiếp nối giềng mối Đạo pháp? Đây cũng có thể là một vấn đề lớn mà chúng ta không thể không quan tâm.

6. Quan Hệ Mật Thiết Giữa Người Tu Sỹ Xuất Gia Và Người Cư Sỹ Tại Gia
Thời Đức Phật còn tại thế, người cư sỹ Phật tử luôn gần gũi với Đức Thế Tôn, cũng như hàng Thánh Chúng. Sự gần gũi này đúng theo tinh thần và ý nghĩa Ưu Bà Tắc và Ưu Bà Di. Một nam cư sỹ gần gũi với Phật pháp để hộ trì Phật pháp. Người nữ cư sỹ Phật tử gần gũi với Phật pháp để hộ trì Phật pháp. Đó là ý nghĩa cao đẹp và đạo tình thuần hậu của người cư sỹ Phật tử được nuôi dưỡng trưởng thành trong ngôi nhà Phật pháp. Đời sống của người cư sỹ Phật tử không thể tách khỏi chốn Chùa viện, và cũng không thể phân ly với đời sống của chư Tăng. Không khí Chùa viện được sung túc là nhờ bổn đạo Phật tử, khách thập phương lui tới thường xuyên, cúng dường, phát tâm hộ pháp. Từ đó người Phật tử mới cảm thấy có nhu cầu tham dự tu học, lễ lạc, chư Tăng trau dồi kiến thức Phật học để thuyết pháp giảng kinh.

Người cư sỹ Phật tử phải quan hoài đến vị Thầy Bổn Sư của mình, để thể hiện tấm lòng của người đệ tử, biết cung kính, tôn trọng nhớ ơn người hóa độ. Và ngược lại, vị Thầy đã truyền trao giáo pháp, đã thâu nhận đệ tử thì cũng phải có lòng thương tưởng mà khuyến tu, trợ duyên để cho người đệ tử tại gia đó không thối tâm hộ pháp mà luôn luôn tăng tiến trên con đường phụng hành Phật đạo. Hai nếp sống, hai mối tương quan giữa đạo và đời, chẳng thể phân ly.

Đạo Phật có mặt trong thế gian và từ nơi thế gian tu tập để được giác ngộ giải thoát. Phật pháp không thể xa rời khỏi thế gian mà có. Nếu đi tìm giác ngộ giải thoát ngoài thế gian thì giống như đi tìm lông rùa sừng thỏ. Đạo Phật hiện hữu với đời là vì con người, cho con người hay của con người. Con người vì cầu tiến trên lộ trình giác ngộ giải thoát mà con gnười thừa tự giáo pháp để làm nhơn duyên hoán chuyển địa vị phàm phu thành Thánh giả. Đời sống của tục đế được quyện vào lòng chơn đế để được vận dụng mà thành đạt ý vị nhiệm mầu, siêu nhiên, bất nhị.

Tuệ Sỹ: Người Tòng Quyền

Tuệ Sỹ: Người Tòng Quyền

Đỗ Thái Nhiên



Thầy Tuệ Sỹ (Ảnh tư liệu)
Mãi tới bây giờ tôi vẫn còn nhớ: Khoảng trung tuần tháng 6 năm 1979, trong khu C1 trại giam Phan Đăng Lưu, công an đã di chuyển tôi từ phòng IV qua phòng I. Theo phản ứng tự nhiên của một người tù, vừa bước chân vào phòng I/C1, tôi đảo mắt nhìn quanh mong tìm thấy một người tù có thể tin cậy được. Chỉ vài phút sau đó, tôi bị “bắt mắt” bởi một thanh niên trạc 40, dáng gầy, cao trung bình, đặc biệt đôi mắt của anh ta rất sáng, rất nhân từ, nhưng vô cùng cương nghị. Trong đôi mắt ấy, nhiều khi người ta tìm thấy một tin yêu tha thiết, nhưng cũng chính trong đôi mắt ấy nhiều khi người ta lại bắt gặp một dửng dưng trước mọi gian nguy của đời sống. Người tù có đôi mắt vừa nóng bỏng vừa lạnh lùng một cách kỳ lạ này chính là anh Tuệ Sỹ.
– Đúng như mong ước của tôi, tôi được Tuệ Sỹ đối xử như một người bạn thân. Tuệ Sỹ và tôi bằng tuổi nhau. Tuy vậy, Tuệ Sỹ có diện mạo trẻ hơn tôi rất nhiều nhờ mắt sáng, da mịn, hàm râu Ăng lê. (mỗi ba tháng công an cho tù mượn đao cạo râu một lần). Mặc dầu bằng tuổi nhau và Tuệ Sỹ trông trẻ hơn, tôi vẫn thường xuyên có cảm tưởng Tuệ Sỹ là bậc đàn anh của tôi. Phong cách ở tù của Tuệ Sỹ đã gây cho tôi có cảm tưởng này. Bạn tù cùng phòng không bao giờ thấy một thoáng xao động trên gương mặt của Tuệ Sỹ vào những ngày công an cho tù ăn cầm hơi để gây áp lực lấy khẩu cung. Bạn tù cùng phòng không bao giờ nghe Tuệ Sỹ ca tụng Phật giáo theo kiểu tôn giáo độc tôn mặc dầu rất nhiều khi Tuệ Sỹ giảng giải cho bạn tù nghe một cách rất uyên bác triết học Phật giáo. Bạn tù cùng phòng không bao giờ chứng kiến Tuệ Sỹ đã dính líu vào bất kỳ một vụ xích mích nào giữa tù với tù. Giả sử bạn là tín đồ quá khích của một tôn giáo nào đó, khi tiếp xúc với Tuệ Sỹ, bạn sẽ ngạc nhiên vì không tìm ra một mảy may ngăn cách nào về mặt tín ngưỡng giữa Tuệ Sỹ và bạn. Tuệ Sỹ sẽ làm cho bạn nhận biết thật rõ tính chất đồng điệu nổi bật nhất giữa bạn và Tuệ Sỹ, đó là lòng yêu nước thiết tha.
Sống cùng phòng với nhau gần một năm, sau đó Tuệ Sỹ và tôi phải chia tay để mỗi người lại tiếp tục nổi trôi theo “dòng tù”.
Giữa năm 1983, tình cở tôi gặp lại Tuệ Sỹ trên đường Trương Minh Giảng quận Ba Sài gòn. Tuệ Sỹ ân cần thăm hỏi tôi, đồng thời nhắc nhở tôi phải làm một cái gì đó trước cảnh lầm than của Việt Nam. Về phần mình, Tuệ Sỹ cho biết Phật giáo Việt Nam gắn chặt với những thăng trầm của dòng sống dân tộc từ trong quá khứ xa xăm của lịch sử, Phật giáo và Dân tộc thân thiết như bóng với hình. Vì vậy Tuệ Sỹ không thể do khiếp sợ cảnh tù ngục mà không dám tiếp tục băn khoăn về tương lai dân tộc. Kinh nghiệm ở tù cho tôi biết hầu hết thất bại của những tổ chức chống cộng tại nội địa tại Việt Nam đều bắt nguồn từ tình trạng hiểu biết về tình báo quá yếu kém. Tôi nói cho Tuệ Sỹ nghe kinh nghiệm vừa kể của tôi, Tuệ Sỹ nheo mắt nhìn tôi cười. Đó là lần sau cùng tôi gặp Tuệ Sỹ, Tháng 4 năm 1984 tôi nghe tin Tuệ Sỹ bị bắt lần thứ hai.
Ngày I2 tháng 10 năm 1988. Tin ghi nhận Tuệ Sỹ đã bị cộng sản kết án tử hình đã làm cho tôi vô cùng xúc động, mặc đầu tôi không ngạc nhiên, lòng yêu nước tha thiết và tính tự trọng cao độ của người đại-trí-thức trong Tuệ Sỹ khi va chạm với tập đoàn độc tài và ngu dốt kiểu cộng sản thì án tử hình chỉ là một hệ quả tất nhiên.
Dưới chế độ cộng sản, rất nhiều người chống cộng đã bị kết án tử hình. Nhưng với tôi, trường hợp Tuệ Sỹ là trường hợp làm tôi xúc động nhất.
Xúc động rằng: Trong thực tiễn đời sống cũng như trong lý luận xây dựng xã hội, quyền lợi dân tộc và quyền lợi của đảng cộng sản là hai thực thể biệt lập và đối lập.
Cộng sản Việt Nam từ rất lâu vận dụng toàn bộ guồng máy thông tin tuyên truyền của họ trong nỗ lực đồng hoá quyền lợi của cộng sản với quyền lợi của dân tộc là một. Án tử hình dành cho Tuệ Sỹ là một phản kháng bằng máu đối với nỗ lực đồng hoá vừa nói.
Xúc động rằng: Trường hợp của Tuệ Sỹ là một trường hợp tòng quyền can đảm và thảm sầu. Kinh là những nguyên tắc thuộc công bằng và lẽ phải có tính căn bản và bất biến. Nhân phẩm của một người được cân đo trên mức độ tôn trọng và bảo vệ kinh, gọi tắt là chấp kinh, của người này. Tuy nhiên giữa chốn thiên biến vạn hoá của sinh hoạt xã hội, hành vi chấp kinh càng ngày càng trở nên phức tạp. Trong rất nhiều hoàn cảnh chúng ta buộc phải tạm gác kinh này đề thực hiện kinh kia. Hành động như vừa kể có nghĩa là tòng quyền. Chúng ta tránh giết người có nghĩa là chúng ta chấp kinh, nhưng nếu chúng ta giết một người để cứu trăm người tức là chúng ta tòng quyềnKinh dạy chúng ta phải sống từ bi hỉ xả. Tuy nhiên đạo từ bi hỉ xả không thể phát triển giữa chiến trường đấu tranh giai cấp. Vì vậy muốn thực sự từ bi hỉ xả, người ta phải tìm cách giải tán đấu tranh giai cấp. Nói cách khác người ta phải tạm gác chấp kinh từ bi hỉ xả để tòng quyền giải tán đấu tranh giai cấp. Tuệ Sỹ, nhà đại trí thức Phật giáo đã nhận lãnh án tử hình trên con đường tòng quyền vừa kể. Vì vậy tôi gọi trường hợp tòng quyền của Tuệ Sỹ là trường hợp tòng quyền can đảm và thảm sầu.
Xúc động rằng: Từ rất lâu, nhất là sau 30.4.75 tại hải ngoại, người Việt Nam vẫn thường xuyên trong âm thầm và kiên nhẫn chờ đợi ở giới lãnh đạo Phật giáo một thái độ rõ rệt đối với cộng sản. Cuộc chờ đợi tưởng chừng phải kéo dài bất tận đã được đáp lại bằng án tử hình đối với Tuệ Sỹ, đáp lại bằng chính máu xương của một bậc chân tu, một nhà trí thức cao cấp, một thanh niên được xem như yêu tổ trọng yếu tạo thành linh hồn của Phật giáo Việt Nam tại quốc nội cũng như quốc ngoại. Kết án tử hình Tuệ Sỹ, cộng sản Việt Nam đã tạo điều kiện để người chí sĩ trẻ tuổi này xác quyết một cách ân cần và cảm động rằng: Phật giáo và Dân tộc như hình với bóng.
Vào lúc Dân tộc lâm nguy, Phật giáo không thể không chia sẻ sinh lực với Dân tộc. Đó là ý nghĩa của Chính Trực.
Do tâm lý hẹp hòi người ta thưởng dễ dàng khi chỉ trích và lưỡng lự khi ca tụng người khác. Riêng đối với Tuệ Sỹ tôi chỉ ngại không đủ ngôn từ hoặc thiếu bút pháp vững vàng trong việc tôn vinh Tuệ Sỹ. Tôn vinh Tuệ Sỹ không vì những tình cảm riêng tư giữa Tuệ Sỹ và tôi. Tôn vinh Tuệ Sỹ chính vì Tuệ Sỹ đã dùng nhiệt huyết của tuổi trẻ, trí thức của bậc học giả, uy tín của bậc chân tu đề diễn đạt liên hệ mật thiết giữa Dân tộc và Phật giáo. Lịch sử dân tộc trôi vào vùng đen tối, Phật giáo chấp nhận lao mình vào cõi đen tối đó bằng trọn vẹn ân tình, trọn vẹn tim óc và máu xương.
Chính giữa bức tranh kết hợp bởi những nét trọn vẹn vừa kể người ta thấy hiện ra thật sáng ngời: đôi mắt của Tuệ Sỹ, đôi mắt tưởng chừng như nóng bỏng, tưởng chừng như lạnh lùng…
Đỗ Thái Nhiên
(trích Hoa Sen, số 5, phát hành ngày 1.11, 1988) 

Thursday, May 28, 2020

Vĩnh Hảo: Lời Ca Của Gã Cùng Tử (Tuyển tập 100 Lá Thư Chủ Bút Nguyệt San Chánh Pháp)

Lời Ca Của Gã Cùng Tử 

(Tuyển tập 100 Lá Thư Chủ Bút Nguyệt San Chánh Pháp)

Vĩnh Hảo

LỜI CA CỦA GÃ CÙNG TỬTuyển tập 100 Lá Thư Chủ Bút Nguyệt San Chánh Pháp
Biên Soạn: Vĩnh Hảo
Hương Tích Phật Việt xuất bản, 2020.
Bìa: Uyên Nguyên
Trình bày và layout: Nhuận Pháp và Tâm Thường Định
Copyright © 2020 Vĩnh Hảo, Hương Tích Phật Việt.
ISBN: 9798644156986
All rights reserved.
___________________

Tựa

Biết mình là cùng tử, biết mình có viên ngọc trong chéo áo, thì không còn là cùng tử.
Không còn là cùng tử thì không còn lang thang.
Nhưng lang thang, một khi không phải là hệ lụy từ vô minh vọng tưởng thì lang thang trở thành tất yếu.
Lên đường đi đâu, về đâu? Ai vạch, ai vẽ nên con đường ấy?
Nếu mọi con đường đều từ tâm khởi thì con đường nào cũng vô tận.
Khổ đau bất tận, thúc bách khát vọng tìm cầu hạnh phúc, cũng bất tận; và cặp đôi này luôn dẫn vào những mê lộ thăm thẳm vô biên.
Không có đích đến cho những truy cầu, vọng tưởng.
Những nơi tạm dừng hay ở lại lâu dài cũng không phải là đích đến.
Thế nên, cuộc lên đường của cùng tử không phải là những bước chân giang hồ lang bạt của một kẻ nghèo cùng khốn khổ, mà là cuộc du hành của một kẻ rất ư tự tin, giàu có. Có thể gọi cuộc rong chơi này là du- hí tam-muội.
Dừng lại là thể; rong chơi là dụng.
Diệu dụng của mọi cuộc rong chơi chính là ba-la-mật.
Trăm lời ca hay ngàn lời ca cũng đều là tiếng vọng của một kẻ lãng du đi qua trần gian mộng huyễn, như gió đùa qua nước. Gió đôi khi cuồng nộ như giông bão, nhưng thường khi chỉ là những thoáng nhẹ vi vu, không dấu vết, để lại đôi vòng sóng lan man, gợn trên mặt hồ tĩnh lặng.
Ngày xa quê nơi quê xa
Vĩnh Hảo

Tự Do Khỏi Tự Ngã

Thư tòa soạn số 52, tháng 03.2016
Những ngày Tết rộn ràng trôi qua thật nhanh; nhưng hoa xuân vẫn trên cành. Buổi sáng nơi vườn ríu rít tiếng chim. Cành mai chưa kịp ra hoa; các nụ vừa chớm, mũm mĩm vươn lên từ những chồi lá xanh mướt; trong khi hoa đào thì khiêm nhường khoe sắc hồng tía nơi một góc hiên. Các nhánh phong lan kiêu sa nhè nhẹ đong đưa theo làn gió sớm. Bầu trời xanh biếc không gợn mây. Lòng bình yên, không muộn phiền…
Người ta vẫn thường cho rằng văn minh là tiến bộ, là đi tới. Dừng lại hoặc đi lui thì không văn minh. Thực ra, càng tiến bộ, con người càng tăng thêm nhiều nhu cầu; càng nhiều nhu cầu, càng tăng thêm nhiều gánh nặng và trói buộc.
Hãy tạm gác qua một bên định nghĩa điển chương của chữ văn minh (civilization) như là đỉnh cao thành tựu của một nền văn hóa (dân tộc hay nhân loại) trong một giai kỳ nào đó. Hãy nói về nền văn minh của con người trong ý nghĩa là thành tựu mục tiêu (hay ước vọng) đem lại phúc lạc thực sự cho mình, cho người, một cách bình an.
Trong ý nghĩa đó, nhân loại ngày nay quả thực là không có văn minh: kêu gọi tự do cho mình mà lại tước đoạt tự do của người; xóa bỏ giai cấp bằng đấu tranh giai cấp; muốn bình đẳng nhưng lại đối xử phân biệt (giới tính, chủng tộc, tôn giáo, đảng phái); chống độc tài mà lại muốn độc quyền độc tôn; nâng đỡ, ủng hộ những người này bằng cách cướp đoạt, đày đọa những người khác; mưu cầu hòa bình bằng khởi động chiến tranh… Chúng ta, loài người tân tiến, loay hoay đi tìm sự bình an bằng những phương tiện bất an; tìm hạnh phúc bằng con đường đau khổ.
Cho nên, không phải cứ nhắm mắt bước tới, bước lên, là văn minh. Có khi cần phải dừng lại. Có khi cần phải bước lui.
Dừng lại những manh động của tự ngã: hành động, lời nói và ý nghĩ nào nhằm tư lợi, vinh danh cá nhân (dù bằng hình thức tinh vi nhẹ nhàng nhất), đều không phải văn minh; ngược lại, chúng là đầu mối cho những xung đột, mâu thuẫn, làm rối loạn xã hội.
Bước lui để tự kiểm và tránh xa sự nuôi lớn bản ngã: tự hào, tự mãn, tự cao, tự tôn… đều là những biểu hiện lộ liễu và lố bịch của con người trước những thành công lớn hay nhỏ trong cuộc sống; đặc biệt là đối với danh vọng—nó thường cho người ta ảo tưởng về sự vượt trội và vĩ đại. Hào quang danh vọng luôn làm mờ mắt và choáng ngộp những ai bước lên đỉnh cao (nơi họ nghĩ là tột cùng)—mà không tự biết rằng nơi ấy thường khi lại là chỗ xuất phát cho tiến trình sa đọa, đi xuống.
Có người sẽ hỏi, bằng hình ảnh cụ thể, một kẻ đã lên đến đỉnh đồi rồi thì đi đâu nữa? – Câu trả lời thông thường là người ta có khuynh hướng đi quanh, hoặc đi xuống.
Thực ra vẫn còn một lối đi cho kẻ chạm đến đỉnh đồi, đó là bước vào khoảng không. Có thể mượn lời của Thiền sư Cảnh Sầm mà nói rằng “Bách trượng can đầu tu tiến bộ,” nghĩa là đứng trên đầu sào trăm trượng, vẫn nên bước thêm bước nữa. Bước vào hư không.
Đó không phải là con đường của mọi người. Cũng không phải là con đường dẫn đến văn minh vật chất, hữu thể.
Đó là con đường của kẻ thiên lý độc hành; là con đường siêu tuyệt vượt lên tất cả mọi nền văn minh, vượt qua tất cả mọi trói buộc của tự ngã, vượt qua cả sự vượt qua, đạt đến tự do tuyệt đối (mà kỳ thực cũng chẳng có gì để vượt qua hay đạt đến).
Chỉ có những gì rất thực và rất thường ở nơi này. Bầu trời không mây, tím sẫm. Đêm bình yên trong tiếng gió, nhẹ khua chiếc phong linh, và những giò lan âm thầm tỏa hương. Trăng đầu mùa lừng lững lên cao. Lòng bình yên, thong thả châm trà.
California, ngày 27.02.2016

Wednesday, May 27, 2020

Hải Triều Âm: Lời Vào Tập cho “Kỷ yếu Tang Lễ Đại Lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang”

Hải Triều Âm: Lời Vào Tập cho “Kỷ yếu Tang Lễ Đại Lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang”

Bảo Tháp Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang trong khuôn viên Tu viện Nguyên Thiều
(Tâm Quang Vĩnh Hảo chấp bút theo yêu cầu của Ban Biên Tập Hải Triều Âm)
 Khi một thiền tăng nằm xuống, giới nhà thiền gọi riêng sự kiện này một cách tôn kính là “viên tịch” hoặc “thị tịch”, hàm nghĩa rằng sự ra đi chỉ là hoàn thành sứ mệnh của mình đối với thế gian, trở về với nơi tịch diệt niết-bàn; và đến hay đi, nhập hay xuất, nơi cõi ta-bà này cũng chỉ là phương tiện quyền biến của một lữ khách mà thôi, thực sự không có sinh tử trong cõi đời mộng huyễn.
Trong ý nghĩa cao viễn ấy, sự viên tịch chính là một hành tướng của giải thoát, tự tại; và chính vì giải thoát, tự tại, dấu chân của thiền tăng là vô tích, hành trạng của thiền tăng là vô hành. Những gì cần lưu dấu, khắc ghi để noi gương hoặc giữ làm kỷ niệm là của người ở lại.
Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang, Tăng Thống GHPGVNTN, đã thị hiện và thị tịch nơi cõi đời này 89 năm, với 71 hạ lạp (theo tiểu sử, ngài thọ cụ túc giới năm 18 tuổi, không phải 20 tuổi như qui chế đàn giới qui định). Suốt một đời tận tụy hoằng pháp, hành đạo, gánh vác việc giáo hội, ngài đã trải không biết bao nhiêu là khổ nhọc, gian truân, tân toan lo nghĩ và dấn thân gầy dựng một tương lai tốt đẹp cho Đạo pháp, và cho Dân tộc. Nhưng những hoàn cảnh khổ nhọc gian truân ấy, đối với tâm thái của một thiền tăng, chỉ là hình sắc bên ngoài, chỉ là hoa đốm hư không; và đối với thời gian thực tế của đời ngài thì chỉ là một phần nhỏ. Một tù nhân không biết làm gì khi bị giam nhốt sẽ cảm thấy thời gian ở tù của mình là uổng phí, vô vị; còn đối với ngài, thời gian ở tù hoặc bị quản thúc, chẳng qua là thời gian tạm ngừng nghỉ một số Phật sự nào đó, nhưng việc hành trì, nhiếp chúng không gián đoạn; và nhìn một cách lạc quan, có thể nói chính thời gian này là thời gian ngài làm được nhiều việc nhất. Ngồi một chỗ mà có thể cứu độ, cảm hóa vô số chúng sanh, tạo vô biên công đức. Những gì ngài làm, nói, và nghĩ, cũng như tâm hành tự tại thênh thang của ngài thì không làm sao ghi hết được. Nếu cố gắng cô đọng trong một bài viết hoặc tiểu sử, cũng chỉ phác thảo được một vài nét chính. Mà những nét gọi là “chính” ấy, hẳn là không thể nêu bật được cuộc đời và phẩm cách một bậc long tượng hàng đầu của Phật giáo Việt Nam đương đại, nếu người soạn viết chỉ khai thác những khía cạnh nhỏ và thứ yếu trong toàn cảnh bức tranh đời ngài.
Hình trái: Quang cảnh Lễ Nhập Tháp của Đức Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN,
Tỳ Kheo Thích Huyền Quang
Hình phải: Hòa Thượng Thích Quảng Độ trong tang lễ
Đức Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang
(Ảnh tư liệu Quangduc.com)
Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang viên tịch ngày 05 tháng 7 năm 2008 (nhằm ngày mùng 3 tháng 6 năm Mậu Tý), đến nay đã tròn một tháng. Trong những ngày qua, Tăng Ni và Phật tử của nhiều giáo hội, tổ chức, tự viện, từ trong nước đến hải ngoại, đã cử hành lễ tang, lễ tưởng niệm và thọ tang ngài một cách tôn kính, long trọng. Tang lễ diễn ra tại Tu viện Nguyên Thiều, theo như tin tức và hình ảnh cho thấy, thật là trang nghiêm, trọng thể, dù đã có chủ ý tổ chức đơn giản, “vô tướng.” Hơn 1000 Tăng Ni và 2000 đoàn viên GĐPT, cùng với hàng ngàn thiện tín nam nữ khác đã tham dự tang lễ cho thấy niềm kính tiếc của Phật giáo đồ đối với ngài như thế nào.
Nhiều báo chí, trang nhà điện toán, đài truyền thanh và truyền hình, cũng đã nhắc đến tên ngài, hoặc đưa thông tin về tang lễ (trong nước) và các buổi lễ tưởng niệm ở khắp nơi. Đặc biệt ở hải ngoại, tin tức về lễ tang và lễ tưởng niệm ngài rất đầy đủ, được thông tin từ nhiều nguồn khác nhau: Phật giáo, các giáo hội khác nhau, các tôn giáo bạn, các tổ chức và hội đoàn chính trị, các cơ quan truyền thông… (lược bớt một đoạn) Một số các lễ “tưởng nguyện” ngài, người tham dự được nghe sự vinh danh ca tụng tinh thần yêu nước, đấu tranh chống cộng sản,… được nghe ban tổ chức công khai gièm pha chỉ trích Tăng Ni và các lễ tưởng niệm cử hành ở những chùa khác… nhiều hơn là nghe về đạo nghiệp và phẩm cách cao đẹp của một bậc tôn giả[1] chốn Không môn.
Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ trước Linh Đài Đức Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN,
Tỳ Kheo Thích Huyền Quang tại tu viện Nguyên Thiều
Thứ Ba 8-7-2008 (Ảnh tư liệu Nhuận Pháp)
Trước tình trạng như vậy, chúng tôi cảm thấy có trách nhiệm thực hiện tập tài liệu này để sưu tập một số văn kiện, tin tức, hình ảnh, văn thơ điếu, khả dĩ nêu bật được công hạnh kỳ vĩ của Đại lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang. Một vài bài viết điển hình do ngài trước tác trước và sau năm 1975 cũng được trích dẫn ở đây để thấy tính cách nhất quán trong đường hướng, hoài bão và tâm nguyện của ngài đối với Phật giáo và dân tộc. Một số văn kiện được ban hành từ Viện Tăng Thống do ngài ấn ký trước khi có giáo chỉ số 2 và số 9 cũng thể hiện lòng từ bi, khoan dung và cởi mở của ngài đối với tha nhân, bao gồm những người đồng đạo, khác đạo, và ngay cả những người bất thiện cố ý triệt hạ Phật giáo, hoặc tổn hại đến giáo hội và các thành viên do ngài lãnh đạo. Một tập kỷ yếu về ngài đầy đủ hơn, hy vọng sẽ được môn đồ pháp quyến thực hiện trong những năm tháng tới. Riêng sưu tập này, với thời gian ngắn để hoàn thành, chúng tôi chỉ ghi nhận những tài liệu nào có trong tầm tay. Những lễ tưởng niệm, thọ tang, văn kiện và sự việc nào liên quan đến sự viên tịch của Đại lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang mà không có trong sưu tập, có thể vì một trong những lý do sau đây:
  • nơi tổ chức không viết tường thuật, không chụp ảnh, cũng không phổ biến tin tức về buổi lễ;
  • nơi tổ chức có thông tin về buổi lễ nhưng không cung cấp cho ban biên tập chúng tôi;
  • nơi tổ chức quá thiên về hình thức hành chánh mà không chú trọng nội dung: lễ thọ tang Đức Tăng Thống mà chỉ lo tố cáo, chỉ trích cá nhân hoặc tổ chức khác;
  • nơi tổ chức có vẻ nặng không khí chính trị, ân cần tiếp đón thỉnh mời chính khách và Tăng Ni ngoại quốc để tô phồng ảnh hưởng quốc tế không thực có mà không quan tâm đến thực thể Tăng Ni và Phật tử Việt Nam.
Sau cùng, xin thưa rằng tập tài liệu này sẽ không sao tránh khỏi những thiếu sót, rất mong sự bổ khuyết của chư tôn đức Tăng Ni và Phật tử gần xa, để nếu có điều kiện tái bản, sẽ được hoàn chỉnh hơn.
Ước mong tập tài liệu nhỏ này có thể gửi đến chư tôn đức Tăng Ni và Phật tử khắp nơi biểu tượng Huyền Quang, như một bậc tôn giả của Phật giáo Việt Nam, và như một đại sĩ hiện thân nơi cõi ta-bà khổ não này.
Với ước mong đó, chúng tôi cung kính đảnh lễ cúng dường giác linh ngài, và xin thành tâm dâng tặng tiểu phẩm này đến liệt quí vị.
Ngày 05 tháng 8 năm 2008
Ban Biên Tập Hải Triều Âm
_____________________________________________
[1] Chữ dùng của Đại lão Hòa Thượng Thích Trí Quang trang trọng tôn xưng Đại lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang trong bức liễn điếu gửi đến Tu viện Nguyên Thiều. Chữ này chỉ dành để gọi những bậc thượng thủ đáng tôn quí, đáng xưng tụng và qui ngưỡng trong Tăng đoàn.

_______________________
BÌNH ĐỊNH (trích Việt Báo Thứ Tư, 7/9/2008) — Theo tin VB, các huynh trưởng Gia Đình Phật Tử đã dựng lên nhiều lều để làm chỗ đón nhiều ngàn tăng ni Phật Tử , và thay nhau đứng bếp suốt 24 giờ mỗi ngày để cung cấp lương thực cho các đợt Phật Tử tới dự tang lễ cố Đaị Lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang, Đức Tăng Thống của GHPGVNTN. Nhiều vị tôn túc nổi tiếng trong giới học thuật của Tu Viện Quảng Hương Già Lam cũng đã từ Sài Gòn khẩn cấp tới dự lễ tang, trong khi nhiều vị tôn đức khác từ nhiều tỉnh cũng tới thọ tang.
Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ đã có mặt tại Tu Viện Nguyên Thiều hôm Thứ Ba 8-7-2008 để cầu nguyện cho hương linh ngài Huyền Quang. Thượng Tọa Thích Thanh Huyền (cũng từ Già Lam) đã có mặt từ nhiều ngày trước, và đã đích thân tham dự lễ nhập quan cho ngài Huyền Quang.
Các đơn vị Gia Đình Phật Tử mặc đồng phục thay nhau giữ gìn trật tự. Các huynh trưởng mang băng trật tự đứng từ ngã ba Diêu Trì (lối vào Tu Viện Nguyên Thiều) dọc theo nhiều cây số tới cổng để đón, chỉ dẫn lối đi cho Phật Tử bằng nhiều phương tiện giao thông tới dự tang lễ.
Người đông tới tiếp đón tất bật. Tất cả các lều của các đơn vị Gia Đình Phật Tử Bình Định đều được trưng dụng khẩn cấp để dựng lên tiếp đón. Các anh chị huynh trưởng Gia Đình Phật Tử đứng nấu bếp 24 giờ thay nhau để lúc nào cũng có nước sôi và thức ăn cho người tham dự. Lương thực thực phẩm địa phương không cung ứng kịp. Các huynh trưởng phải đặt mua xa, từ Nha Trang. (…)
Cũng hôm Thứ Ba, các Dân Biểu Liên Bang Loretta Sanchez (Dân Chủ), Dân Biểu Zoe Lofgren (Dân Chủ) và Dân Biểu Tom Davis (Cộng Hòa) đã cùng ký tên trong một lá thư phân ưu đến với Hòa Thượng Thích Quảng Độ và đồng bào phật tử của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong và ngoài nước về việc viên tịch của Đức Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang.
Bản văn của 3 dân biểu ca ngợi “Đại Lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang là người khiêm tốn đầy lòng yêu thương đã dâng hiến cuộc đời ông để đứng lên cùng chính nghĩa tranh đấu cho tự do tôn giáo và nhân quyền cho người dân Việt Nam.
“Ngài là biểu tượng cho phong trào đấu tranh ôn hòa cho tự do tôn giáo và nhân quyền của người dân Việt Nam. Chúng tôi biết hơn 3 thập niên qua, Đại Lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang đã bị bị quản thúc tại thiền viện vì đã kiên trì đấu tranh cho tự do tôn giáo và nhân quyền bất chấp các cấm cản. Chúng tôi chắc sự cố gắng suốt đời của Đức Tăng Thống sẽ không bị oan uổng và mong rằng nhà cầm quyền Việt Nam sớm thừa nhận và kính trọng quyền tự do tôn giáo.
“Chúng tôi cũng được biết nhà cầm quyền Việt Nam đang cố gắng hạn chế Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong công việc tổ chức tang lễ cho Đức Tăng Thống Thích Huyền Quang theo như truyền thống và ý nguyện của Giáo Hội. Một lần nữa, chúng tôi xin chân thành bày tỏ lòng thương tiếc và gởi lời thành kính phân ưu đến với Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong thời gian khó khăn này. Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến quyền tự do tính ngưỡng và độc lập của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và quyền tự tuyển cử Đức Tăng Thống thừa kế Đại Lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang.
“Chúng tôi hiểu rõ tình trạng đàn áp tự do tôn giáo và nhân quyền vẫn tiếp tục xãy ra tại Việt Nam. Chúng tôi sẽ luôn cố gắng làm việc cùng các đồng nghiệp và cộng đồng thế giới để nói lên tình trạng đàn áp tự do tôn giáo và nhân quyền tại Việt Nam.”
Bản văn của 3 dân biểu cũng gửi chung cho Đại Sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ, Lê Công Phụng; Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, Michael Michalak.
Đặc biệt, bản Điếu Văn của Ban Hướng Dẫn Trung Ương Gia Đình Phật Tử đã do đại diện quý huynh trưởng đọc trứơc linh quang của cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang hôm Thứ Ba.
Trong tấm ảnh mà Việt Báo nhận được từ quý huynh trưởng, cho thấy quý huynh trưởng đang quỳ đọc trứơc linh quan, và đứng trứơc là Thượng Tọa Thích?Minh Tuấn (môn đồ pháp quyến).

Phụ bản  toàn văn bản Điếu Văn của GĐPT Việt Nam
PHỤC BÁI THƯỢNG VĂN
Của BHDTƯ TRONG LỄ TƯỞNG NIỆM ĐỨC ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG
Thượng HUYỀN hạ QUANG – ĐỆ TỨ TĂNG THỐNG GHPGVNTN
***
Sông Côn sóng cuộn,
Đỉnh Thái mây vần;
Bốn nghìn năm non nước lặng chuông ngân,
Suốt nghìn dặm hoa vàng in ngấn lệ,
Rừng thông bóng ngả, chợt lênh đênh dép cỏ rêu mờ,
Canh mộng đèn lu, nghe lạnh buốt nhà Lam mưa rủ.
Đường đời vinh nhục, không nhạt màu son,
Vận nước thăng trầm, dễ mòn nẽo Đạo.
Giữa lúc thuyền Chánh Pháp vượt ngàn thác lũ,
Ánh Hùng Tinh lịm tắt bờ Tây;
Đàn chim dại bơ vơ, cội Bồ Đề lá rụng.
Chúng con tòan thể Lam viên khắp mọi miền thế giới,
Từ tận cùng hải đảo xa xôi,
Hoặc hiện tiền, hoặc xa cách,
Hết thảy đồng quy tâm về trú xứ Nguyên Thiều,
Đồng phủ phục dưới bóng Linh đài,
Chí thành kỉnh niệm Giác Linh xưa,
Gia phong truyền nếp, tín nguyện túc căn.
Giang sơn Bình Định kết thái anh hoa;
Nhân kiệt địa linh ươm mầm Thánh chủng.
Tuổi đồng chơn cát ái từ thân, nhẹ gót siêu phương.
Đường Bắc Nam xuyên suốt dặm trường,
Mười bốn năm theo Thầy học đạo.
Giữa lúc nhân tâm thế đạo ngửa nghiêng,
Đất nước ngập tràn máu lệ,
Quê hương nô dịch ngọai bang;
Gío Tây điên đảo, tà thuyết hòanh hành;
Chín năm ròng lặn lội hiểm nguy, vào tù ra khám,
Mong manh chiếc áo nâu sòng mà đương cự cuồng phong, dương cao Chánh Lý. Khi đất nước qua phân, củi đậu nấu đậu,
Mà nước sông Côn chưa cạn tình người;
Sừng sững Trường Sơn,
Bóng rập phương trời khói hận.
Sân chùa nắng đỏ, đỉnh tháp sương in;
Ánh đèn khuya soi lối cửa tùng,
Hồn dân tộc rạng ngời Bắc đẩu.
Ba mươi năm vật đổi sao dời,
Bền nguyện cả dẫu lênh đênh chìm nổi.
Cửa Thiền bổng rộn ràng khóa lợi,
Đèn Tổ chong leo lét Tăng luân.
Đường Bắc Nam một dải sơn hà,
Tình nhân thế chập chờn phản phúc.
Thị phi không đầu mối,
Nhân nghĩa khớp dàm danh.
Bóng xuất trần nặng trĩu gánh nhân sinh,
Gương đạo lý phôi pha màu thế lụy.
Người về đâu, muôn dặm thân cô,
Cắm gậy trúc vững nền Đạo thống.
Đi về đâu, nghìn nhà một bát,
Quải nạp y ấp ủ hương Nguyền.
Bánh xe Hóa đạo xoay vần theo quỹ đạo Nhật thân,
Bĩnh pháp truyền đăng
Giữ gìn lưu truyền Thánh sử.
Nghìn năm Huyền sữ, đêm âm u bởi lạc hướng văn minh.
Một lớp thiêu thân, gió dập dồn theo lửa đèn hư huyễn.
Đầu đường xó chợ lác nhác trẻ thơ,
Quán rượu phòng trà quay cuồng niên thiếu.
Để đưa đàn nai qua rừng an ổn,
Tránh xa cạm bẩy yêu ma;
Chúng con nương nhờ đức Cả, tựa bóng sông chùa,
Dọn vườn Lam tiếp đãi hậu sinh,
Lắng nước Tuệ ươm mầm chánh tín.
Những cánh chim non đã tung bay khắp bốn phương trới,
Bằng BI TRÍ DŨNG mà vượt ngàn giông bão.
Kỳ diệu thay! Chúng sanh ngiệp cảm bất khả tư nghì;
Gốc cổ thụ nghìn tầm sừng sững.
Rồi một sớm, cỗng nhà Thiền chợt khóa nẻo vườn Lam,
Đàn Oanh vũ xua bay tứ tán.
Từ ly lọan nghe ẩn tình thâm thiết,
Lướt phong ba nên chí nguyện kiên cường.
Trên trời cao ngự án mây Từ,
Cho cỏ dại vươn cao, dù nắng mưa bãp táp.
Ô hô ai tai!
Dòng sanh diệt sát na khônh đình trú,
Cõi vô thường một thóang sương mai.
Bến Kim Hà rụng cánh hoa Đàm,
Miền đất khổ nghẹn lời Di huấn.
Kể từ đây, đường về cõi Tịnh, bóng ẩn hoa vàng;
Lối cỏ Nguyên Thiều, rêu mờ gậy trúc.
Biển Đông vang dậy muôn lớp sóng triều,
Cánh hạc ngút ngàn phương trời thăm thẳm.
Bóng Thầy lồng lộng,
Đi về tự tại đường mây;
Lênh đênh một chiếc thuyền Lam,
Mù mịt ba nghìn thế giới.
Còn đây vẳng lời Thầy dạy,
Mênh mông bể khổ, bất khà nại hà.
Chốn Ta Bà ô trược,
Chúng con nguyền không quản chông gai;
Đời nhân ngã thị phi,
Còn đức nhẫn nên sáng màu đạo nghĩa.
Ô hô, phục vọng Giác Linh tiền.
Quý huynh trưởng đang quỳ đọc trước linh quan hôm Thứ Ba 8-7-2008,
và đứng trước là Thượng Tọa Thích Minh Tuấn (môn đồ pháp quyến)
tại Tu Viện Nguyên Thiều, Bình Định.