Vài hàng về tác giả:
Nhà thơ Giác Lượng Tuệ Đàm Tử
Lời dẫn nhập: Tưởng nhớ Thầy. Nhà Thơ Tuệ Đàm Tử là bút hiệu của Hoà Thường Thích Giác Lượng, người vừa viên tịch hôm qua. Chúng tôi được biết Thầy đã làm Chủ Bút cho Tạp Chí Nguồn Sống - Duy Tuệ Thị Nhiệp ở miền Bắc California từ đầu thập niên 1980. Chủ Nhiệm là Cố Hoà Thượng Thích Thiện Trì. Chủ Bút chính là Hoà thượng Thích Giác Lượng tân viên tịch. Tổng Thư Ký là Hòa Thượng Thích Minh Đạt. Điều Hành là Hoà Thượng Thích Tịnh Từ. Kỹ thuật là Pt. Nguyễn Kim Bảng. Phát hành: Nguyên Thọ & Minh Bảo. Tạp chí Nguồn Sống Magazine là một Tạp chí Phát Huy Đạo Pháp, Văn Hoá, Truyền Thống Việt Nam. Nay, chúng tôi xin phép cho đăng lại một số bài thơ của Thầy như là một sự tưởng niệm công hạnh của Người.
Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật
- Hoà Thượng Thích Giác Lượng
- Tên thật: Đinh Ngọc Thanh
- Sinh năm: 1935
- Bút hiệu: Tuệ Đàm Tử
- Pháp danh: Thích Giác Lượng
- Sinh quán: Đập Đá, An Nhơn, Bình Định
- Trưởng ban Hoằng Pháp Giáo Hội Đoàn Trung Phần 1970
- Vượt biên sang Hoa Kỳ 1980
- Chủ tịch Ủy Ban Quốc Tế Vận Nhân Quyền và Tự Do Tôn giáo cho VN
- Viện trưởng Viện Hành Đạo, Giáo Hội Phật Giáo Tăng Già Khất Sĩ Thế Giới
- Thành lập Trung tâm sinh hoạt Phật giáo - Pháp Duyên Tịnh Xá tại San Jose từ năm 1982 đến nay.
Trích từ Đường Thi Bình Định, tuyển tập thơ do Bút Duyên Hội Tụ xuất bản năm 2009 tại Hoa Kỳ.
Đường Thi - Giác Lượng Tuệ Đàm Tử
HÀNH LỤC ĐỘ
1. BỐ THÍ
"Bố thí" tùy theo nguyện lực mình
Trong ba phương pháp giúp nhân sinh
Một là "Tài thí" như tiền của
"Pháp thí" thứ hai mở đạo tình
Ba là thực hiện tâm "Vô Úy"
Trải lòng thực hiện lẽ tồn sinh
Vì chưng "Bố thí" trừ tham lẫn
Gieo giống Bồ đề độ chúng sinh.
2. TRÌ GIỚI
Quy luật Phật truyền tự bấy lâu
Là môn diệu dược khắp năm châu
Giúp đời "giới luật" phương châm báu
Độ thế "tam quy" pháp nhiệm mầu
Ngôi báu: Phật, Pháp, Tăng đã thọ
Giới điều Phật dạy học thâm sâu
Phát tâm tu niệm chuyên trì giữ
Mới dứt tử sanh, thoát nghiệp sầu.
3. NHẪN NHỤC
"Nhẫn nhục" là giới đứng đầu tiên
Nhẫn được tiêu oan dứt não phiền
Người đã nương về ngôi chánh giác
Thực hành pháp nhẫn đúng chân truyền
Hơn thua phải quấy, thêm oan trái
Khôn dại đua tranh, tạo nghiệp duyên
Lửa giận đốt thiêu rừng công đức
Theo lời Phật dạy: "Nhẫn" cần chuyên.
4. TINH TẤN
"Tinh tấn" là môn thuốc diệu huyền
Chữa lành bệnh nhác tập hành siêng
Muốn cho có quả cần vun tưới
Đạo cũng do ta gắng tập rèn
Nước chảy lâu ngày dần lở núi
Cọ cây lấy lửa phải cho chuyên
Tâm thành chí nguyện vun nền đạo
"Tinh tấn" đưa mình đến Phật Tiên.
5. THIỀN ĐỊNH
Các pháp gồm thâu chước "định thiền"
Trong ngoài vắng lặng thoát trần duyên
Nước yên chiếu sáng vầng trăng tỏ
Sóng động che mờ lẽ tự nhiên
Xách gậy kim cang kềm ý mã
Đem hèo giới luật đuổi tâm viên
Rừng thiền sư tử đang xua tặc
Chúa "Định" gom thần mật mật miên.
6. TRÍ TUỆ
"Trí tuệ" ví như lưỡi kiếm thần
Đoạn trừ tai chướng, dứt tham sân
Vô minh tận diệt ly sinh tử
Phiền não tiêu trừ thoát khổ luân
Biển nghiệp ba đào vùi Phật tánh
Trần lao sóng gợn lấp tâm chân
Hươi gươm trí tuệ trừ ma chướng
Tánh giác chơn như chiếu sáng ngần.
CẢM ĐỀ CHỬ ĐỒNG TỬ*
Chử giòng "Quê Chử Xá"** "Cù Vân"***
Đồng khố che thân giữa thế trần.
Tử hiếu thức tâm tìm học đạo.
Thần trung Quốc Tổ, trợ phù dân
Bất ngờ tiền định "Tiên Dung" kết****
Tử hóa duyên trần biến báo thân *****
Việt sử ngàn năm lưu Thánh Hiển.
Nam Bang đệ nhất, "Tứ Linh Thần".
* Đệ nhất Tứ Thánh, hồn bất tử.
** Làng Chử Xá.
*** Thân phụ là Chử Cù Vân.
**** Công Chú Tiên Dung kết nghĩa vợ chồng.
***** Xong phận thế trần hai Ngài đều bay về trời.
CẢM ĐỀ PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG *
Phù trợ Vua Hùng, Thiên Sứ lâm
Đổng làng Gióng, thuộc huyện Gia Lâm
Thiên sai cậu bé nhà Trời xuống
Vương Thánh đại hùng cứu nước Nam
Thượng đức phi thường, vang ngựa sắt
Đẳng công khí phách giặc Ân khâm
Tôn thờ nghĩa khí phù dân tộc
Thần hiển linh mầu, hộ Việt Nam.
* Đệ Nhị Tứ Thánh, hồn bất tử.
CẢM ĐỀ ĐỨC THÁNH TẢN VIÊN*
Đức tỏa ngàn đời, Đức hiếu sinh
Thánh Vương Sơn Địa, hiển u linh
Tản bang hồng phúc dân Nam Việt
Viên phép thần thông độ nước mình
Thượng giới cỡi rồng thân biến hóa
Đẳng trần gian phụng cứu nhân sinh
Tôn thờ Thánh Đức lừng danh hiển
Thần thứ đệ tam, vị Tứ Linh.
* Đệ Tam Tứ Thánh, hồn bất tử
CẢM ĐỀ VÂN HƯƠNG THÁNH MẪU *
Vân Hồng Thiên giáng thế nhân y
Hương tỏa ngạt ngào nhạc pháp thi
Thánh thoát đào hoa so "Tố Nữ"
Mẫu Vương Tiên Đức sánh sao bì
Tiên Nương hiếu đạo tròn cơ cách
Chúa tiếp hóa dân sứ mạng trì
Hiển hách hồi Thiên không mộ chí
Linh Tôn Thần Thượng sắc phong Y.
* Đệ Tứ Thánh Linh, hồn bất tử.
NGƯỜI HÙNG BẤT KHUẤT
Thiếu thời cho đến hết đời binh
Tướng sĩ chí nhân trọn nghĩa tình
Nguyễn tộc hùng anh nêu khí phách
Khoa dòng bất khuất rạng uy danh
Nam dân khâm phục người "tuẩn tiết"
Quân sử khắc ghi bậc hiến mình
Đoàn ngũ thề không đầu hàng giặc
Bốn vùng chiến thuật trọng chân linh.
CHÍ KIÊU HÙNG
Trần tộc kiêu hùng nối gót xưa
Văn ghi tướng sĩ chí dư thừa
Hai thời gánh vác nguyền không nhỏ
Tư thế đảm đang phận chẳng vừa
Lệnh chỉ ba quân lòng kính phục
Sư huy phong vũ dạ đều ưa
Đoàn người sát đát trừ ma cộng
Bảy Bộ Binh, quân lực có thừa.
TRỌN LÒNG YÊU NƯỚC
Tưởng niệm muôn đời bậc chí nhân
Tướng hùng dân tộc đấng danh thần
Lê Nguyên Vỹ trọn lòng yêu nước
Tư lệnh sư đoàn quyết xả thân
Tử tiết gương treo người sĩ khí
Hy sinh danh rạng kẻ vì dân
Tinh thần bất khuất lưu trang sử
Giặc bắt không hàng, "tự xử" phân.
KẺ HÙNG ANH
Truy nguyên chí khí kẻ hùng anh
Niệm tưởng chân linh bậc sĩ hành
Thiếu tướng quân khu II đất Việt
Phạm Văn Phú trọn ý trung thành
Tư trào suy thoái thời cơ mạt
Lệnh bất phục tùng "tự vẫn" vinh
Quân ngũ bảo toàn không khuất phục
Đoàn Hai uy vũ mãi lưu danh.
TỬ TRÒN SỨ MẠNG
Truy niệm người hùng Việt tộc ta
Lê văn, sĩ khí tráng sơn hà
Hưng danh "tử tiết" thơm nòi giống
Thiếu tướng sinh thời bảo quốc gia
Tư lệnh quân đoàn, quân khu bốn
Quyết không hàng giặc lúc cơ sa
Tử tròn sứ mạng chân linh tướng
Gương rạng muôn đời, tiếng ngợi ca.
Viết về Trường Ca Đối Thoại Hoà Bình
(tức Thông Điệp Hòa Bình)
Của Nhà Thơ Tuệ Đàm Tử
LÊ ĐÌNH CAI
Âm vang của tiếng vọng “Hòa Bình” là niềm khao khát của nhân loại nói chung và của từng dân tộc nói riêng. Thế kỷ 20 với hai cuộc thế chiến hãi hùng đã đẩy đưa nhân loại xuống vực thẳm của điêu linh và chết chóc. Chiến tranh đồng nghĩa với tàn phá và hủy diệt, và cũng chính trong đêm đen tột cùng của chiến tranh, tiếng vọng “Hoà Bình” đã vang lên để thức tỉnh lòng người. Hòa bình đồng nghĩa với cọng tồn và an lạc, là niềm ước ao của mọi tâm hồn hướng thiện. Chiến tranh xuất phát từ tham, sân, si, thì hòa bình phải khởi đi từ lòng nhân ái và lửa Từ Bi. Đó là ý niệm bàng bạc trong toàn bản trường ca thi phẩm của Tuệ Đàm Tử, tức Hòa Thượng Thích Giác Lượng .
Trong tập biên khảo của tôi về “30 năm cầm quyền của Chúa Nguyễn Phúc Chu 1691 – 1725” do đại học Văn Khoa Huế xuất bản vào năm 1971, tôi có một chương nói về nhà Sư Thích Đại Sán, sư Hải Hương Thiền Sư và Liễu Quán Hòa Thượng…. Tôi chú trọng đến các nhà sư đó vì lẽ khi đất nước qua phân, nhân tâm ly tán thì họ đã quyết định nhập cuộc với chúng sinh để cùng tìm về bến giác, đẩy đưa xã hội đến bờ an lạc. Cách xử thế của các nhà sư đó đã được sử sách ghi nhớ. Hình ảnh nhập cuộc của Hòa Thượng Thích Giác Lượng trong các phong trào đòi nhân quyền và tự do tín ngưỡng ở hải ngoại có cái gì đó gần gũi với các hình ảnh của các vị sư thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Điều nầy đã tác động trong cách nghĩ của tôi về sự dấn thân của một vị tu hành đáng kính phục. Tôi đã nghe nhiều bài giảng của Hòa Thượng, tôi đã đọc nhiều bài báo của Hòa Thượng viết trên các báo chí hải ngoại và giờ đây với tập trường ca “Đối thoại Hòa bình” dù được hình thành cuối thập niên 1960, nhưng xét theo hoàn cảnh của đất nước hiện nay, dưới sự cai trị của một chế độ phi nhân bản, khát vọng về một quê hương thanh bình và an lạc vẫn còn nóng bỏng trong trái tim của mọi người dân Việt chúng ta dù trên quê hương khốn khổ hay lạc loài nơi hải ngoại.
Tôi không chú trọng nhiều đến kỷ thuật, âm điệu trong bản trường ca của nhà thơ Tuệ Đàm Tử, phần đó dành cho các nhà phê bình văn học, nếu tác phẩm trụ vững được với thời gian. Tôi chú trọng nhiều đến phần tư tưởng chủ đạo của tác phẩm. Về góc cạnh nầy, trường ca “Đối Thoại Hòa Bình” là nhân chứng của một giai đoạn lịch sử với hậu quả thật khốc liệt.
Hơn hai triệu người phải rời bỏ Tổ quốc ra đi, hơn một triệu người phải bước vào ngục tù tăm tối của chế độ cộng sản.
Tìm cho ra nguyên ủy của thực trạng đau thương đó, nhà thơ Tuệ Đàm Tử đã xót xa lên tiếng:
Lửa súng đạn đã diệt tiêu nhân loại.
Do lửa tham trong tâm vọng con người
Sự điêu tàn khốc liệt khắp cùng nơi
Do gốc bởi sân si, mê muội trí !
(Đối thoại Hòa bình)
Tiếng gọi đoàn kết mà nhà thơ đã muốn được vang vọng vào thời đất nước còn chiến tranh Quốc Cộng, bây giờ vẫn còn nguyên tác dụng của nó:
Dân nước Việt Nam ta cần kết khối.
Thuận hòa nhau tranh đấu chống bạo tàn.
Gương anh hùng đất Việt đã danh vang
Lịch sử ấy muôn ngàn đời bất diệt.
Ngay vào những thập niên 1960 nhà thơ đã thấy rõ được vai trò của mình là cần thiết phải nhập cuộc để cứu độ nhân sinh. Tuệ Đàm Tử bấy giờ chỉ là một Đại Đức, vẫn một lòng tâm nguyện:
Người hành đạo đương thời không ủy mị
Không bi quan, không yếm thế với đời
Không yếu hèn lúc nhân loại chơi vơi
Không lấp mắt khi nước nhà nguy biến
Chính người tu đã thực hành chí nguyện
Đem tinh thần đạo đức giúp nhân sinh
Là phương châm mang lại sự hòa bình
Là sứ mạng muôn đời non nước Việt….
(Đối Thoại Hòa Bình)
Quan niệm dấn thân đó, gần bốn mươi lăm năm sau vẫn là kim chỉ nam soi tỏ đường đi của Hòa Thượng Thích Giác Lượng trên miền đất thuộc hải ngoại nầy. Tiếng nói của Thầy vang lên trong các phong trào đòi quyền sống cho con người, đòi quyền tự do tín ngưỡng cho hơn 80 triệu người dân Việt đang sống trong bạo lực và tù đày.
Một nhà tu hành, một con người dấn thân không ràng buộc bởi tham vọng chính trị nào. Với trường ca “Đối Thoại Hòa Bình” nay là Thông Điệp Hòa Bình, thật xứng đáng được đón nhận một cách trân trọng.
Lê Đình Cai
(nguyên Giáo sư Đại học Huế và Đại học Đà Lạt)
ĐOÀN DU TĂNG THẾ GIỚI
Chúc Xuân Bính Thân 2016
Đoàn Thể Tăng Già Các Quốc Gia
Du Phương Hành Đạo Khắp Ta Bà
Tăng Hoằng Chánh Giáo Ba Đời Phật
Thế Đạo Chơn Minh Sáu Phép Hoà
Giới Luật Phật Xưa Truyền Tứ Chúng
Chúc Mừng Hương Đạo Toả Ngàn Xa
Xuân Cầu Thế Giới Hoà Bình Hưởng
Năm Mới Thịnh An Khắp Mọi Nhà.
Giác Lượng Tuệ Đàm Tử
CHÚC MỪNG NĂM MỚI TU VIỆN QUẢNG ĐỨC
Chúc Mừng Năm Mới,
Tu Viện Quảng Đức
Phát Triển Tinh Thần,
Phụng Sự Phật Pháp,
Hoá Độ Chúng Sanh.
Chúc Xuân Năm Mới Bính Thân,(2016)
Mừng Tết Năm Mới: “Chúc Cần Tấn Tu.”
Năm Qua Đã Quyết Công Phu,
Mới Này Vừa Đến “Cần Tu Thêm Nhiều.”
Tu Nhiều Phước Được Bấy Nhiêu,
Viện Ban Phước Quả Là Điều Thượng Tôn.
Quảng truyền Cực Đại Phước Dồn,
Đức Công Tích Luỹ Thường Tồn Thế Gian.
Phát Huy Phật Sự Đạo Tràng,
Triển Khai Pháp Sự Ngày Càng Vinh Thăng.
Tinh Minh Toả Rạng Nguồn Trăng,
Thần Quang Uy Đức Chư Tăng Hộ Trì.
Phụng Hành Giáo Lý Từ Bi,
Sự Duyên Trao gởi Luật Quy Giới Điều.
Phật Truyền Chánh Pháp Cao Siêu,
Pháp Đăng Chơn Lý Sáng Soi Hồng Trần.
Hóa Cảm Phương Dược Góp Phần,
Độ Đời Thức Tỉnh, Muôn Dân Hướng Lành.
Chúng Cùng Thế Giới Tri Hành
Sanh Trong Hiện Kiếp “Đạt Thành Quả Tu.”
Giác Lượng Tuệ Đàm Tử
Lược Sử
Trưởng Lão Hòa thượng Thích Giác Lượng
Pháp chủ Giáo Hội Phật Giáo Tăng Già
Khất Sĩ Thế Giới
Phó Tổng Thư ký Viện Hành Đạo Giáo Hội Phật Giáo Tăng Già Khất Sĩ Việt Nam
Trị Sự Trưởng Giáo đoàn III Khất Sĩ
Thế danh: Đinh Ngọc Thanh – Đinh Giác Lượng (Tên thế danh chính thức khi Trưởng Lão Nhập Quốc Tịch ở Mỹ).
Bút hiệu: Tuệ Đàm Tử.
Sinh ngày: 11 tháng 10 năm Ất Hợi (1935) tại xã Đập Đá, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định.
Năm 1959: Quy y Tam bảo, theo học pháp với Đức Thầy Giác An và được ban pháp danh là Thiện Nhẫn. Người khuyên thân phụ cúng dường lô đất tại làng Bằng Châu và được Đức Thầy Giác An tiếp nhận thành lập nên Tịnh xá Ngọc Duyên.
Năm 1961: Tập sống hạnh xuất gia, ăn chay trường và thành lập Ban Xây dựng Đạo tràng Tịnh xá Ngọc Duyên (thôn Bằng Châu, xã Đập Đá, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định); được chư Tăng và các Phật tử tín nhiệm bầu làm Trưởng ban.
Ngày 12 tháng 4 năm Tân Sửu (1961): Xuất gia tu học.
Rằm tháng 7 năm Nhâm Dần (1962): Đức Thầy chứng minh truyền giới Sa-di tại Tịnh xá Ngọc Cát (TX. Châu thành, TP. Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận) và đặt pháp danh là Giác Lượng.
Từ 1963 – 1965: Được bổ nhiệm trụ xứ nhiều tịnh xá khắp miền Trung.
Rằm tháng 7 năm Bính Ngọ (1966): Thọ giới Cụ túc tại Tịnh xá Ngọc Phúc (TP. Pleiku, Gia Lai).
Từ 1967 - 1969: Nhận trọng trách làm Trưởng Ban Hoằng pháp của Giáo đoàn III và thuyên chuyển qua nhiều trụ xứ: Tịnh xá Ngọc Đà (TP. Đà Lạt, Lâm Đồng); Tịnh xá Ngọc Cát (TP. Phan Thiết, Bình Thuận); Tịnh xá Ngọc Bảo (Phan Rang - Tháp Chàm, Ninh Thuận); Tịnh xá Ngọc Pháp (TP. Nha Trang, Khánh Hòa); Tịnh xá Ngọc Phú (TP. Tuy Hòa, Phú Yên); Tịnh xá Ngọc Duyên (H. An Nhơn, Bình Định); Tịnh xá Ngọc Hạnh (Kon Tum); Tịnh xá Ngọc Phúc (TP. Pleiku, Gia Lai); Tịnh xá Ngọc Quang (TP. Buôn Ma Thuột, Đăk Lăk).
Năm 1968: Giáo đoàn bổ nhiệm làm Trụ trì Tịnh xá Ngọc Duyên (huyện An Nhơn, Bình Định).
Năm 1970: Được Giáo đoàn suy cử làm Trị sự Trưởng Giáo đoàn III Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam (Trung phần).
Năm 1971: Làm Trưởng phái đoàn đại diện Giáo đoàn III tham dự Đại hội Khoáng đại toàn quốc; Thành viên Uỷ ban Soạn thảo Hiến chương Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam; Phó Tổng Thư ký Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam; Vụ trưởng Vụ Xã hội của Giáo đoàn III.
Năm 1972: Thành lập Uỷ ban Từ thiện Xã hội tại tỉnh Khánh Hoà cứu trợ đồng bào từ các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Tín, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Pleiku, Kon Tum, tỵ nạn từ Nha Trang đến Phan Thiết, nhất là giúp đỡ các trại tạm cư tại TP. Nha Trang, Khánh Hòa.
Năm 1974 – 1978 (Nhiệm kỳ II): Phó Tổng Thư ký Viện Hành đạo Trung ương Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam; Trị sự Trưởng kiêm Trưởng ban Hoằng pháp Giáo đoàn III.
Năm 1981: Định cư ở Mỹ.
Năm 1982: Thành lập Pháp Duyên Tịnh xá ở thành phố San Jose, California, Mỹ quốc.
Năm 1983: Trong Đại hội của Giáo hội Phật giáo Tăng-già Khất sĩ Thế giới, tổ chức tại Tổ đình Minh Đăng Quang, quận Cam (Orange County), Giáo hội đã công cử Hòa thượng giữ trọng trách Viện trưởng Viện Hành đạo Trung ương Giáo hội Phật giáo Tăng-già Khất sĩ Thế giới.
Năm 1984: Xuất bản tờ đặc san Pháp Duyên mỗi quý.
Năm 1985: Làm Vụ trưởng Vụ Xã hội, chăm lo vấn đề uỷ lạo, cứu trợ đồng bào các trại tỵ nạn Đông Nam Á.
Năm 1986: Được tấn phong vào hàng Thượng toạ; Chủ bút tạp chí Nguồn Sống và có Cố HT. Thích Thiện Trì làm Chủ nhiệm, và Chủ nhiệm tạp chí Pháp Duyên; Thành lập chương trình Phát thanh Phật giáo hằng tuần, trên đài tiếng nói “Mẹ Việt Nam” thời gian gần 4 năm, và phát trên đài “Quê hương” hơn 12 năm.
Cũng năm 1986: Cứu trợ đồng bào tỵ nạn tại hai trại Palawan và Bataan của Philipine, nhận trách nhiệm làm Phó Chủ tịch Điều hành Hội An Việt tại Hoa Kỳ, nhiệm kỳ 1986-1990.
Năm 1987: Tổ chức phái đoàn đi uỷ lạo đồng bào tỵ nạn tại các trại ở Thái Lan như Panat Nikhom, trại Klong Yai, trại Site II Banthad, trại Krang Yai, trại Tha Luan, v.v...
Năm 1988: Nhận lời mời của Hòa thượng Tuyên Hóa, nhiều lần đến thuyết giảng kinh pháp tại chùa Vạn Phật Thánh Thành và chùa Phật Quang Sơn.
Ngày 30 tháng 3 năm 1990: Thuyết trình viên Hội thảo tại Đại lễ Tưởng niệm Quốc Tổ Hùng Vương, tổ chức tại thành phố San Jose.
Năm 1990: Giám đốc Nhà xuất bản Nguồn Sống.
Ngày 13, 14 tháng 7 năm 1991: Tham dự và làm Chủ toạ Đại hội An Việt Toàn cầu (An Viet International) tại Trung tâm Văn hoá Marcel Hicter - Bộ Văn hoá Pháp ngữ Vương quốc Bỉ, BRUXELLES.
Tháng 10 năm 1992: Làm Trưởng phái đoàn Phật giáo tại Hoa Kỳ tham dự Đại lễ Cầu nguyện Hoà bình Thế giới và Việt Nam tại Toà Thánh Vatican, Roma.
Ngày 29 tháng 10 năm 1992: Đại diện Giáo hội Phật giáo Tăng-già Khất sĩ Thế giới hướng dẫn phái đoàn tham dự Đại hội Liên hữu Phật giáo Thế giới lần thứ 18 tại Đài Loan.
Ngày 18, 19 tháng 10 năm 1994: Tham dự Đại hội Liên hữu Phật giáo Thế giới lần thứ 19 tại Bangkok, Thailand.
Ngày 28 tháng 3 năm 1998: Trong Đại lễ Kỷ niệm lần thứ 53 năm, ngày đức Tôn sư Minh Đăng Quang khai đạo, tại thành phố Westminster, California, Giáo hội Phật giáo Tăng-già Khất sĩ Thế giới chính thức tấn phong Ngài lên hàng Giáo phẩm Hoà thượng.
Năm 2002, 2003: Vận động Phật tử và cộng đồng Việt Nam cứu trợ đồng bào bị thiên tai bão lụt ở các tỉnh miền Trung và miền Nam Việt Nam.
Năm 2004, 2005, 2006: Liên tục tổ chức các Đại lễ Phật giáo – Lễ Vu lan, Lễ Phật đản, Lễ Tưởng niệm đức Tôn sư Minh Đăng Quang vắng bóng, xiển dương tinh thần lục hoà trong Phật giáo.
Năm 2007: Tổ chức Hội thảo với chủ đề: “Thế kỷ 21 Phật giáo cho Hoà bình” tại Pháp Duyên Tịnh xá vào mùa Vu lan, Tự tứ Tăng. Có chư Tôn đức, thiện tri thức từ nhiều quốc gia về tham dự: Ấn Độ, Thái Lan, Lào, Campuchia, Sri Lanka, Bangladesh, Việt Nam, v.v…, và nhân dịp này chính thức tuyên bố thành lập “Đoàn Du Tăng Thế giới”.
Ngày 29 tháng 9 năm 2009: Chứng minh Đại lễ Tưởng niệm 50 năm Bồ-tát Ambedkar tại tỉnh Nagpur, Ấn Độ. Đại lễ có trên năm triệu (5,000.000) người tham dự.
Ngày 01 tháng 10 năm 2009: Tại Đại Giới đàn Ambedkar, Hòa thượng cùng với Đại sư Nhật Bản chứng minh truyền giới xuất gia gieo duyên cho hơn sáu ngàn (6000) Phật tử.
Ngày 29 tháng 4 năm 2009: Hoà thượng tuyên bố khởi sự lên đường hành đạo. Chiếc xe RV của Đoàn Du Tăng là chiếc thuyền Bát-nhã bắt đầu vượt sóng, trong cuộc hành trình từ San Jose đến miền Nam California, El Paso, Arizona, Texas, Houston, Dallas, Austin, San Francisco, Sacramento, Oakland, Stockton, v.v…
Ngày 31 tháng 10 năm 2009: Nhận Bằng Tiến sĩ Danh dự TRIPITAKA MAHAPANDIT (Doctor of Tripitaka) tại Hội nghị Thanh niên Phật giáo Thế giới (WORLD BUDDDHIST YOUTH CONFERENCE), tại Thánh tích Bồ-đề đạo tràng, Ấn Độ (Bodhgaya, India).
Năm 2010: Sau gần 30 năm sinh hoạt tại thành phố San Jose, Trung tâm Sinh hoạt Phật giáo Pháp Duyên Tịnh xá được dời về thành phố Fresno, bang California.
Ngày 14 tháng 11 năm 2015: Nhân Đại lễ Bách nhật cố Đại lão Hoà thượng Pháp chủ Thích Giác Nhiên, tại Tổ Đình Minh Đăng Quang, Hội đồng Giáo phẩm Trung ương suy tôn Hoà thượng lên ngôi vị Pháp chủ, lãnh đạo tối cao Giáo hội Phật giáo Tăng-già Khất sĩ Thế giới.
Năm 2016: Tổ chức trọng thể Lễ Vu lan tại Pháp Duyên Tịnh xá ở Fresno, bang California. Hơn 400 Tăng Ni, Phật tử về tham dự.
Ngoài thời gian lãnh đạo, hoạt động Phật sự, Hòa thượng còn dành thời gian viết sách, sáng tác thơ văn hoằng pháp để lại bút tích cho hậu nhân.
Hiện nay, có hơn 20 tác phẩm gồm thơ, kệ, văn xuôi dưới bút danh Giác Lượng đã được ấn bản. Còn có 10 tác phẩm gồm các thể loại, truyện thơ, tham luận, văn kiện chưa xuất bản.
Dưới bút hiệu Tuệ Đàm Tử, gần 20 thi phẩm được xuất bản ở Sài Gòn và hải ngoại.
Viết lời tựa, lời giới thiệu, lời cảm nhận cho hơn 30 tác phẩm của nhiều tác giả là nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ.
Hơn 80 năm hạ tiễn thu sang, cỗ xe tứ đại cũng đã mỏi mòn, thuận theo quy luật của vũ trụ tạo hóa, Trưởng lão Hòa thượng đã thâu thần viên tịch vào lúc 21 giờ ngày 30/11/2020 (giờ California, Mỹ Quốc), tương ứng lúc 12g30 ngày 17 tháng 10 năm Canh Tý ở Việt Nam, trụ thế 86 năm, hạ lạp 54 năm.
Nói tóm lại, trong suốt 20 năm tu học tại quê nhà, Ngài đã đóng góp tích cực nhiều mặt cho sự phát triển của Giáo đoàn III và Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam (tiền thân của Hệ phái Khất sĩ).
Gần 40 năm hành đạo tại Hoa Kỳ, Ngài đã dấn thân hoằng dương giáo pháp, tổ chức ủy lạo, sáng tác thi ca, góp phần rất lớn cho sự phát triển Phật giáo Việt Nam tại Mỹ Quốc.