Tuesday, June 2, 2020

Nguyễn Đức Sơn: Cái Chuồng Khỉ

Nguyễn Đức Sơn: Cái Chuồng Khỉ


CÁI CHUỒNG KHỈ
của Nguyễn Đức Sơn

_________________________________________________
An Tiêm xuất bản lần thứ nhất tại Sài Gòn, tháng 7-1969,
Lotus Media tái bản tại Hoa Kỳ, 2019
Bìa và trình bày: Uyên Nguyên
© tác giả giữ bản quyền.

Qua khỏi một ngân hàng ngoại quốc ở đường Bến Chương Dương, tôi chỉ tay cho tài xế trực thẳng ra đường Hàm Nghi mà không hỏi ý Mộc Linh. Tôi hơi rùng mình nghĩ có lẽ đây là một trong những lần cuối cùng tôi đi chơi với Mộc Linh. Tôi xúc động và hơi bối rối cũng như mới hôm qua, Chúa nhật, khi tôi dẫn Linh đi xem lễ ở nhà thờ Đức Bà với tôi cho vui vì không biết phải làm gì. Mộc Linh cũng xúc động và hơi bối rối như tôi. Song trong đôi mắt nàng tôi đã đọc thấy một tình cảm kiêu hãnh tưởng như tôi đang đau đớn lắm tuy nàng thừa biết tôi không yêu nàng một cách đắm đuối. Tình cảm sâu đậm này tôi chỉ dành cho một người yêu tôi chưa hề và chắc chắn không bao giờ giáp mặt và hình ảnh nàng chỉ hiện lên trong sương khói như thực như không. Vậy thì Mộc Linh lầm rồi em ạ. Tôi có nhiều người yêu nay đã có chồng và một gia đình xum xuê mỗi lần gặp tôi ngoài phố cũng có cái dáng điệu kiêu hãnh như Mộc Linh khi họ hơi nghiêng đầu chào tôi một cách thật lịch sự và quý phái. Tại sao lại kiêu hãnh, thách đố? Kiêu hãnh và thách đố cái chi? Về những sinh vật biết nói đang được bế trên tay mình, trên tay người vú, hay đang được chở trên chiếc xe nôi bằng sắt Tây cao, sang? Hay muốn cho tôi mặc nghì khi tôi đã tạo ra một số sinh vật biết nói như vậy tôi đã trải qua những giờ phút sung sướng đến cực điểm bên cạnh một người đàn ông khác và khi nhìn anh tôi có tức chết không? Có, có chứ. Tôi có tức đến cực điểm như khi tôi nhìn một đôi vợ chồng trẻ bất xứng mà người vợ có phảng phất một vẻ đẹp nào đó làm tôi thích. Những lúc đó tôi thường có những cử chỉ vô tri vô giác để cố quên đi ý nghĩ chắc chắn triệu phần triệu là thiếu phụ trẻ đang đứng trước mặt tôi kia đã có những giờ phút sung sướng cực điểm với một người đàn ông không phải là tôi. Chỉ thế thôi. Tôi cũng có những hành động và cử chỉ tối thậm vô lý nữa mà tôi không nhớ hết. Nhưng cứ tin rằng nếu trong dĩ vãng một, hai, ba, hay năm, sáu năm về trước nếu tôi có điều kiện sống chung với một, hai, ba hay năm, sáu người tôi đã yêu thật tình hay lạng quạng và hiện đã có gia thất rất ư đàng hoàng đó, tôi sẽ chạy trốn hoặc tự sát. Nhiều lúc nhìn một trong số con gái đã thành đàn bà đó, tôi tưởng tượng hết sức mạnh tôi là người đàn ông đã bao năm chung sống với họ để thấy chán ngán cực điểm. Tôi không hiểu vì sao hồi đó tôi có thể yêu những đứa con gái tầm thường từ dáng dấp đến tâm hồn như vậy. Tôi mừng thầm, mừng lắm vì biết trí óc và tâm hồn mình đang còn chạy, còn lăn, còn mở ra. Còn những đứa con gái kia chỉ là những vũng nước tù đọng, ung thúi. Mộc Linh cũng chỉ là một giọt nước tù đọng sắp thành hình. Tôi quen với Mộc Linh khi nàng không phải là một giọt nước tù đọng, hay đúng hơn khi tôi chưa nghĩ đến điều ấy. Tôi thấy Mộc Linh còn chạy, còn lăn, còn mở ra gần được như tôi. Ôi, tôi khoái biết bao nhiêu những cái còn chạy, còn lăn, còn mở ra cho đến khi hủy diệt mà không cần biết có đến đích hay không – mà cái đích của mỗi đời người thì tôi chưa hình thành trong trí hay quan niệm được bao giờ. Như những đợt sóng biển chẳng hạn. Ào ào chạy từ ngoài khơi lùa vào bãi cát hay ghềnh đá đập nát thân trên đó. Mộc Linh, em chỉ là một giọt nước tù đọng dù tôi không muốn tin như thế, chắc cũng bởi một phần vì mặc cảm Linh học hơn tôi xa quá và Linh lại hơn tôi đến gần ba tuổi.
“Chúng mình ra bến tàu đi. Có một chỗ ngồi được đó anh. Buổi sáng nơi đó vắng người tiện hơn”. Mộc Linh nói với tôi khi tắc-xi chạy đến đại lộ Hàm Nghi, khoảng Chợ Trời, chỗ có bán nhiều cây kiểng và lan rừng.
Tôi nhìn đồng hồ tắc-xi thấy kim mới chỉ bốn đồng rưỡi, dưới giá tối thiểu, nên một lần nữa, không hỏi ý Mộc Linh, tôi chỉ tay cho tài xế chạy thẳng một chút nữa cho đến đúng khoảng Chợ Trời có bày bán nhiều cầm thú: yến, bạch yến, hoàng yến, cu, cu cườm, cu biển, cu đất, cu rừng, cu nhà, mèo, mèo mả, mèo đồng, mèo tam thể, mèo tam khoanh, mèo tứ đốm, mang, cheo, sóc, cuốc, cá sấu, le le, bìm bịp… và chó, ôi đủ thứ chó, chó phóc nhỏ bằng nắm tay, chó bẹc-giê to gần bằng con ngựa, chó lông xù mặt mũi nhăn nhó như hà bá, chó của chú Sam, chó Mỹ, chó Hoa Kỳ, chó Hiệp Chủng Quốc, chó Anh, chó Pháp, chó Đức, và phần nhiều toàn chó Việt Nam chính cống hay lai căng.
“Đến xem Chợ Trời, ở khoảng này hay lắm”.
“Có gì ở đó hở anh?”
“Để giải trí vậy thôi. Rồi một tí sẽ vào Vườn Bách Thú. Hôm nay sáng thứ Hai, thời gian độc nhất cho chúng ta có thể đến đó chơi mà ít gặp những người nhà quê hay những người có tiền và học thức thuộc loại đó đi đứng khắp nơi làm mình phải bực trí vì phải trông thấy cách ăn mặc diêm dúa, thô kệch, phải nghe họ xì xào nhỏ to khắp nơi”.
Thật ra tôi rất ít có dịp đến nơi này. Sở thú đối với tôi không phải nơi giải trí mà trái lại, Sở Thú, sự thất bại của tôi và của nhân loại. Tôi chỉ đến đó đôi ba lần trong những lần thất nghiệp trầm trọng. Và mỗi lần hiện diện ở đó, tôi sống trong một trạng thái dồn nén, oi bức, ngạt thở muốn chết, nhất là khi phải nhìn cái cảnh một con sư tử già nằm thoi thóp trên một diện tích xi măng ngục tù, nóng rang, với mấy đống thịt ôi, phải nhìn cái cảnh một con chim ưng to lớn từ một cánh rừng lạnh nào trên cao nguyên bị mang về còng cẳng nhốt và coi như phải bỏ xác tại đây.
Có những trưa chán ngán, đôi khi tôi cũng chui vào Sở thú để có thì giờ suy ngẫm một thoáng tư tưởng rút ra từ đất đá của cuộc đời được nung đúc lâu ngày hay chập chờn bay trong mây gió. Đó là những lần tương đối tôi thấy Thảo cầm viên này tương đối dễ chịu hơn những lần tôi mò đến vì thất nghiệp, miệng đắng, lưỡi và họng khô hóc. Tôi thường đi vòng quanh cái chuồng khỉ lớn nhất chứa hàng mấy chục con để chọc phá như một đứa trẻ thất học, du côn, không thèm biết đến những cái bản yết thị nhỏ bằng gỗ treo quanh những song sắt: “Cầm thú là của chung. Cấm cho ăn và chọc phá”. Tôi thường móc một ít bánh mì khô queo trong túi ra dụ một con đến gần tát cho một cái nên thân, xong chạy quanh chỗ khác dụ một con khác nữa… Tôi vốn ác cảm với loài thú này dù đôi khi cũng thấy thương chúng vô hạn. Cái ranh mãnh, tinh khôn của chúng chỉ là những cái vặt vãnh, xỏ lá, tiểu ti. Nên có lần tôi bị một con bự bằng một đứa con nít năm sáu tuổi, cụt đuôi, đít dát đỏ hai miếng láng o một cách gớm ghiếc trả thù. Nó cho tôi đi qua, núp ở trên cao bật còi tưới thẳng xuống. Tôi biết việc gì ngay nên không dại gì ngẩng đầu lên để hứng chịu thiệt hại nặng nề. Tôi lách qua một bên. Tôi mới bị ướt chút áo và mé đầu chứ chưa bị vào miệng. Thế rồi, đắc thắng, nó nhăn răng, khọt khọt mấy tiếng rồi chuyển lẹ lên chỗ cao hơn. Tôi tức cành hông nhưng nghĩ lại – tôi so sánh có kỳ không? – tôi thấy thân phận tôi hơn nó nhiều quá nên cũng làm bộ cao thượng. Tôi cố gắng tỏ ra một tình cảm độ lượng, khoan hồng mà thật ra chỉ để xoa dịu lòng bực tức của tôi. Mà tôi hơn con khỉ nhiều thật. Thứ nhất bởi tôi là người mà nó chỉ là thú. Thứ nhì, tôi đang sống một cách tương đối tự do mà nó thì bị nhốt, cái con khỉ cụt đuôi, đít dát hai miệng da mỏng láng đỏ tươi thật gớm ghiếc ấy. Thế nhưng tôi lại hết sức bực tức khi thấy nó không hiểu biết chút gì về cái thân phận cầm thú và cái hoàn cảnh tù ngục đó. Một lần khác, sau đó khoảng một tuần, tôi có dịp trở lại Sở thú. Nhớ đến con vật, tôi lại dụ nó ra cho ăn và tát cho một cái chí tử. Tôi tát không nhầm đâu. Đúng cái con khỉ đực đã đái xuống đầu tôi hôm nào. Tôi thấy tôi tiểu nhân nhưng tôi mãn nguyện. Ở trên cái cõi đời này nhiều lúc được làm tiểu nhân cũng thú vị lắm chứ. Tôi chỉ hơi hối hận khi thấy con vật hoàn toàn không có khí giới chống trả đó nhìn trừng tôi một hồi lâu rồi ôm đầu chạy như thể bị vỡ óc. Nó đi lạng chạng suýt lọt xuống hồ nước khá to giữa chuồng. Tôi nghĩ nó có thể chết vì cú đánh vũ phu, vô nhân đạo như trời giáng của một người thù khá dai là tôi. Tôi nghĩ nó có thể chết. Mặc. Cái con vật xỏ lá, ti tiểu ấy. Thế rồi có một lần nữa tôi lại mò vào Sở thú và đến thăm chuồng khỉ. Bẵng đi một thời gian khoảng hai tháng – bởi tôi dại gì chịu thất nghiệp lâu mà không chịu chạy chọt một vài áp phe bậy bậy gì đó để sống mà cứ vác mặt đến Sở thú hoài! – tôi hầu như hoàn toàn quên chuyện cũ. Tôi đang đứng dáo dác nhìn cả chục con khỉ nhỏ to đi, đứng, chuyền, cho con bú, bắt chí hay âu yếm nhau – (chúng cóc biết thuần phong mỹ tục nên an nhiên làm cả việc sinh lý giữa thanh thiên bạch nhật dưới mắt mọi người). Tôi đang mơ mộng bậy bạ thì xè xè, tôi sực nhớ lại chuyện cũ. Và nhanh như chớp giật, tôi né sang một bên theo lệnh gọi rất nhạy bén của hệ thống thần kinh truyền lệnh rất kịp thời xuống điều kiện bản năng. Xe lệ quá một bên, tôi nhìn thẳng lên trên. Chánh hẩu nó rồi. Tôi thấy đúng cái con khỉ đột cụt đuôi đít có dát hai miệng đỏ đang mở mắt thau láu, lúc thì nhăn răng sít rịt, lúc thì chu miệng khọt khọt và gật gù cái đầu ra vẻ khoái chí lắm. Nhưng hụt rồi con ạ. Tôi nhìn kỹ mới biết mình đã đứng ngay chỗ cũ, chỗ mà khoảng hai tháng trước đây con vật đã có dịp chơi xỏ lá tôi và thắng tôi keo đầu một cách đáng kể. Keo này thì hỏng rồi. Vậy mà còn khọt khọt đắc thắng cái nỗi chi, hở con? Tôi tưởng nó ấm ức lắm vì quá khó có cơ hội bày lại keo khác. Nhưng con vật khốn khổ đó cứ nhìn tôi chằm chặp ra vẻ đã thỏa mãn thực sự. Nó ngu quá. Tôi phải tìm cách chỉ cho nó thấy đầu tôi và áo tôi lần này không hề trúng lấy một nửa giọt nước đái của nó. Nhưng nó không thể nào hiểu nỗi mà cứ khọt khọt hoài. Chính điều đó đã làm cho tôi tức bực vì không còn cách chi thanh minh với nó, với những con khỉ khác, với cây cối và hồ nước vô tri rằng tôi không hề bị một chút thiệt hại nào trong trận phản pháo trả đũa này. Tôi còn giận tôi đã thiếu trí nhớ, thiếu cái chất tiểu nhân thật mạnh để thù thật dai một cái gì trên đời sống quá ư ngắn ngủi này. Không phải nói vậy là tôi gián tiếp khen tôi quân tử Tàu phần nào đâu. Cuộc đời vốn cụt không đầy một gang. Tất cả đều tan biến. Nghĩa gì đâu. Nhưng rất nhiều khi cần phải tiểu nhân, phải trả thù, phải múa rối, để sống, thế thôi. Tôi đang tìm cách trả thù con vật thì nó lại giáng cho tôi một đòn tâm lý nặng nề. Nó nhảy lên thanh sắt cao ở từng lưới phía trên, vừa ngó xuống phía dưới tôi vừa làm tình với con khỉ cái lớn hơn nó một chút. Tôi cũng nhớ không lầm mụ khỉ cái thường đi cặp với con khỉ đột cụt đuôi này và thù luôn cả vợ chồng chúng (vợ chồng một loại động vật trên bậc thang tiến hóa được xếp vào hạng nhìn nhưng còn thua quá xa loài người). Tôi bực tức. Quả thực tôi đã coi chúng như một kẻ thù ngang hàng và xứng đáng với tôi. Tôi biết tôi bần tiện nhưng tôi không muốn thoát ra cái tính đê hạ đó. Thường thường được sống bần tiện cũng thú vị lắm chứ, dù tôi là giáo dân mà tinh thần của Sách Thánh vẫn khuyên tôi không được trả thù y như bên Phật giáo và tôi là một người Công giáo thuộc hạng libéral ít ra cũng phải nhất Saigon (mà sự lui tới của tôi ở nhà thờ chỉ còn mang ý nghĩa gần như một tập quán xã hội, thế thôi). Tôi bực tức quá. Tôi liền nghĩ đến hoàn cảnh và thân phận tôi từ một tháng nay. Tôi không có dịp chung chạ với đàn bà. Tôi không đủ tiền để lo cho cái miệng trên của tôi thì lấy đâu có chút gì đem nuôi cái miệng dưới của những đứa con gái đàn bà làm cái nghề khốn khổ nhất trong trời đất.
Tôi thù con vật ghê gớm. Nhìn chu vi hình tròn của cái chuồng trên ba mươi thước, tôi trèo đứng lên bờ gạch đã muốn lở, hai tay nắm chặt vào hai song sắt đã hoen rỉ, ngước mắt nhìn lên. Tôi nghĩ nếu có ai quen biết chụp được một cái hình tôi với phụ cảnh đúng hệt và đầy đủ như vậy tôi sẽ mắc cỡ phần nào. Tôi nhìn lên, nhìn lên. Tôi ganh và ghen thực sự với con vật. Tôi tức trào máu nhưng tôi cứ nhìn lên. Và càng nhìn lên tôi càng tức trào máu. Nhưng ma quỷ đã xúi tôi nhìn lên không chớp mắt dù bụng đói lép xẹp. Nhiều lúc sống với ma quỷ của lòng mình cũng thú vị thật. Hai con vật rề rà thật lâu mà chưa chịu buông nhau vì có lẽ chưa đụng cái mức khoái cảm quỷ thần. Tôi nhìn lên, nhìn lên. Chỉ khi nào thật mỏi mắt mỏi cổ tôi mới chịu nhìn xuống một chút để lấy lại hơi sức. Tôi bẻ gập cái đầu xuống ngực thành một góc nhỏ tối đa để bù trừ phần nào với lúc ngẩng đầu lên. Tôi tiết kiệm từng giây phút không quan sát được chúng. Tôi rất ngại cái giây khắc cực thú của chúng chẳng may xảy ra trong khoảng cái thời gian tôi gục đầu xuống để bớt mỏi thì thật hoài công. Tôi nhìn lên, nhìn lên. Rồi lại quá mỏi nên nhìn xuống. Tôi bắt gặp ở bên kia lưới sắt một đôi vợ chồng trẻ thuộc loại đơ đỡ cũng đang nhìn lên hai con khỉ một cách khá chăm chú. Thỉnh thoảng bốn con mắt đó cũng hướng thẳng về phía tôi một cách khá tinh ranh. Tôi sợ gì mà không điều chỉnh hai con ngươi của tôi về phía họ một cách thật soi mói. Nhưng sau đó tôi biết ngay mình xuẩn ngốc khi phản công mà không chịu tri bỉ tri kỷ như vậy. Tôi biết rồi các bồ. Tôi đầu hàng và đầu hàng thực sự các bồ đó. Xin các bồ đừng nhìn tôi nữa. Vâng, tôi biết họ thương hại tôi lắm vì có lẽ họ đoán tôi đang túng thiếu sinh lý một cách trầm trọng. Tôi nhìn lên. Con vật kéo dài cái thời gian giao hợp quá lâu. Tôi có nhiều dịp ở rừng, nhất là rừng thuộc cao nguyên và Tây nguyên và đọc nhiều sách ngoại quốc viết về loại động vật này – loại động vật mà có một vài giống trong số đã được từ nhà đại sinh vật học Darwin cho đến Marx đều hè nhau công nhận một điều nếu kiểm chứng đúng một trăm phần trăm chắc chắn sẽ lật úp và phá tan được nền tảng tôn giáo của tôi – nên tôi biết khá nhiều về chúng. Nhưng tôi tuyệt nhiên chưa rõ cái thời gian ân ái của chúng kéo dài được bao lâu thì đạt đến cực độ và khi đạt đến cực độ rồi thì có còn dính nhau hoài như chó, thì có còn vớt vát được chút đỉnh sung sướng không. Tại sao không một nhà sinh vật học nào chịu quan sát, thí nghiệm và chép lại sự kiện đó? Nó quan trọng lắm chứ, vì chắc chắn không ít thì nhiều nó cũng liên quan đến tâm sinh lý học và đạo đức học của con người lắm chứ. Tôi nhìn lên, nhìn lên. Đôi lúc cảm thấy gớm ghiếc, tởm nhờm. Nhưng tôi cứ nhìn lên. Để xem sao. A, thật quá lâu. Không rõ trung bình loại khỉ đột này có thể sống lâu chừng 50 năm như loại khỉ Chimpanzé hay cũng khá nhiều năm như các loại Gorille và Orang-outang không. A, hai anh chị say đắm quá lâu mà vẫn chưa chịu buông ra. Không hiểu có phải vì chúng đã gặp một trở ngại nào khi hành sự hay thật ra chưa đạt đến phút giây quỷ thần. Dễ chừng có cả tiếng đồng hồ rồi. Tôi nhìn lên, nhìn lên. Tôi nghĩ nếu con vật đó sống chừng 30 năm thôi thì chắc chắn nó đã hưởng được cái nhục cảm gấp mấy lần con người dù cho chúng hoạt động có mùa có tháng chứ không loạn xạ đêm, ngày, mưa, nắng cho con người. Tôi nhớ nhiều lần đang ngồi học, tôi quan sát một loại phù du thật mỏng có cánh xanh lợt, bụng nhỏ còn hơn bụng con muỗi cái nhưng hai lông đuôi trắng tinh nhỏ bằng một phần mười sợi tóc vút ra thật dài. Hai cô cậu cũng biết dính nhau và kéo dài cái việc đó đến gần 30 phút. Sau đó hai con vật bé tí này đã đèo nhau bay đi xa. Không biết khi đậu lại chỗ nào đó chúng có chịu rã nhau hay không. Theo chỗ tôi biết thì loại phù du hạnh phúc này chỉ sống một đời không đầy 24 giờ. Một đời sống kéo dài vỏn vẹn có một ngày mà đã có gần nửa tiếng dành cho khoái lạc! Vậy thì một cách tương đối, tỷ số khoái lạc của chúng hơn con vật đi hai cẳng là chúng ta nhiều quá Épicure ạ! Tôi nhìn lên, nhìn lên. Trên vòm lưới sắt cao kia có mấy tàng cây me Tây lâu năm hay ô môi hay cổ thụ gì đó nữa ngả rợp bóng xuống. Có một thứ cây gì trái xanh đỏ li ti cũng nghiêng xuống một bên. Khung cảnh bên ngoài lưới sắt thật rộng vì tiếp giáp với cả bầu trời, nơi mà từng bầy quạ đen vẫn thường bay về đậu chơi và kêu nhau một cách thật thoải mái. Nhưng tôi nghĩ con khỉ đột kia không bao giờ thoát ra đó được để tự do trèo lên hàng trăm ngọn cây cao chót vót nhìn trời cho đã nư. Tôi nhìn xuống phía dưới vì một cơn gió nhẹ vừa thoảng qua làm thúi om cả lên. Tôi thấy hồ nước hết sức bẩn thỉu và tù đọng. Phân khỉ cùng một số trái cây vô danh ung rữa bài nhoãi khắp nơi. Tôi nhổ nước bọt, nhức đầu. Tôi thấy tù túng, oi bức muốn chết. Tôi thử đếm. Khoảng bốn chục con. Bốn chục con sống trong một không gian nhỏ như thế. Vậy mà chúng vẫn an vui. Chúng đã chịu nhận hoàn cảnh và tình thế đó để sắp đặt cuộc đời đàng hoàng có đủ sinh hoạt vật chất và tinh thần nếu có thể nói như vậy. Tôi nhìn lên, nhìn lên, mặc dù mùi hôi thúi lâu ngày càng về trưa càng bốc lên nồng nặc. Từng cặp, từng cặp chúng đang tỏ tình mà không thèm biết mắc cỡ làm chi cho phiền. Tôi nhìn lên, nhìn lên, đăm đăm. Lửa dục đang đốt cháy và tàn phá cả người tôi trong những ngày thất nghiệp kinh niên ở Saigon này. Tôi nhìn lên, nhìn lên. Trời ơi, chúng làm y hệt như người ta trong phòng riêng đóng cửa đàng hoàng rồi vậy. Trời ơi, trời ơi, làm sao một thằng thanh niên vô gia cư vô nghề nghiệp nhưng xấu dây tốt củ nhịn giải quyết đã quá lâu như tôi mà chịu được khi nhìn hoài những pha cực lạc như thế. Chúng làm như không có ai. Chúng hoàn toàn không có một mảy may ý thức thuần phong mỹ tục (hay rất ý thức một loại luân lý đạo đức nào khác hẳn cái được con người quan niệm?) Chúng làm như một đôi vợ chồng thản nhiên giao hợp trong phòng mà không thèm để ý đến đứa bé ngo ngoe trong nôi hay con mèo nằm lim dim bên cạnh. Tôi nhìn lên, nhìn lên.
“Ê!”
Một nhân viên trật tự vừa thổi tu huýt vừa la một tiếng và nhấn xe đạp về phía tôi khi thấy tôi móc chút bánh mì khô còn sót trong túi ra dụ con khỉ. Có lẽ sáng nay chưa khiển trách được ai và chưa thổi được một hồi tu huýt nào nên bây giờ quá ngứa miệng y thổi một hơi thật khỏe. Tôi biết phận bước xuống đất.
“Không trông thấy yết thị sao?” Y tiếp.
“Vâng”. Tôi không biết nói sao đành trả lời vậy.
Thấy nhân viên nọ tuổi cũng trạc bằng tôi và có vẻ dễ chịu, tôi liền chỉ cho y nhìn lên chỗ hai con khỉ đột đang ân ái. Y cũng tức cười và thân mật bảo tôi:
“Nó đa tình và quấy lắm. Có lần nó thoát ra khỏi chuồng”.
Nói xong y chỉ cho tôi xem một cái lỗ to bằng cái thúng ở một góc phía trên đỉnh chuồng tạo thành bởi hai mí lưới sắt không hiểu sao bị bung toẹt ra.
“Rồi làm sao bắt nó lại?”
“Nó tự ý mò vô đó chứ. Kìa vợ nó kìa”. Y chỉ tôi đúng cái mụ khỉ cái đang ngồi chung với con khỉ đột cụt đuôi đít dát hai miếng đỏ láng bóng ở trên cao kia.
Tôi chưa kịp có khen ngợi với nhân viên nọ thì hai vợ chồng đứng đối diện bên kia mà bốn con mắt đã từng tọc mạch nhìn tôi bây giờ đã xê lại gần chúng tôi. Người chồng hỏi ngay nhân viên:
“Tôi cứ tưởng một khi cu cậu thoát ra khỏi chuồng là dông ngay một nước về rừng cơ chứ”.
“Ở đây như rừng rồi còn gì. Nó quen rồi ông ạ”. Y đáp cũng thân mật tự nhiên như người hỏi.
Bây giờ người vợ mới xích lại gần người chồng hơn, đưa thay choàng lên vai, làm một cử chỉ yêu đương vụng về, vu vơ, hơi quê mùa. Tôi quan sát rất nhanh. Tôi thấy người chồng thuộc loại đàn ông có kiến thức trung bình như tôi đã đoán lúc đầu. Hắn trạc ba mươi. Cằm tua tủa một ít râu ria. Người vợ, tôi dám chắc điều này, là nếu được sinh trưởng trong một gia đình có khung cảnh trí thức một chút, chắc hẳn giờ đây đã thành một người đàn bà khác hẳn cái người đàn bà đang hiện diện sinh tồn đó, khác hẳn về dáng dấp, cử chỉ, bộ điệu, lời nói, trí óc và tâm hồn. Vậy mà ở trong Sở thú này nếu làm thống kê và lấy tỷ lệ bách phân thì phải đến 100 đôi vợ chồng đến viếng may ra mới có một đôi vợ chồng thuộc thành phần khá như vậy.
Buổi trưa thanh vắng nếu cái máy thâu thanh đĩ thỏa ở một quán nước nằm bên ranh giới Thị Nghè đừng cho xổ ra những bài cải lương, vọng cổ, tân nhạc hay đến cả những bản nhạc thời trang Tây phương quá ư nhất thời, thô lậu, hạ cấp, đại hạ cấp dù chúng được cả quần chúng có học ở Saigon hâm mộ. Chúng tôi có cả thảy bốn người và sau đó, có một em bé bán đậu phộng rang áp đến nằn nì mời mọc và nghe chuyện. Nhân viên Sở thú, một chân đạp lên bàn xe đạp, một chân tựa lên song sắt chuồng khỉ, bắt đầu nói chuyện với hai vợ chồng. Hai vợ chồng cũng nói chuyện với nhau. Tôi tính lảng đến băng đá đánh một giấc ngắn để lấy sức cho một buổi chiều lang thang sắp đến thì được nghe nhân viên kể:
“Nó (con khỉ đực cụt đuôi đít dát hai miếng đỏ) mới về đây có hơn một năm thôi mà đã bế được một bà và hai lứa con rồi đó”.
Rồi y chỉ con khỉ con chừng ba bốn tháng còn đang làm nũng ngồi trong lòng mẹ nó, một mụ khỉ cái khác đang ngồi bên mé hồ nước. Hai vợ chồng chăm chú nhìn mẹ con mụ khỉ đột cái này. Xong, lại nhìn lên. Tên nhân viên cũng nhìn lên chỗ cặp khỉ đột đang ân ái:
“Sao lâu quá vậy ông bạn?”
Rồi y bắt đầu nói chuyện với tôi, giọng hơi sỗ sàng. Chắc chắn y cho tôi thuộc hạng cù bơ cù bất. Mặc. Tôi không cần phân minh hoặc tỏ thái độ gì ráo. Khi sống với bất cứ hạng người nào, tôi thường có thái độ và đôi khi ý nghĩ giống họ, để sống. Vì chắc chắn tôi chỉ gặp họ trong một thời gian rất ngắn so với những thời gian thực thụ tôi sống cho tôi và những kẻ tôi thích. Sau một lúc chuyện gẫu, tôi biết nhà y ở đằng kia, bên cạnh một con lạch cạn dưới một tàng cây đa cổ thụ ở ngay trong Sở thú này. Tôi cũng biết bố của y là một trong những người phu cắt cỏ hốt rác, một nhân viên của Thảo cầm viên này. Từng buổi trưa in bóng ngồi đợi vu vơ và thiểu não, tôi đã có dịp quan sát những người này với chiếc xe bồ ệt hoặc xe bò nhỏ của họ và cuộc đời lẩn quẩn, tối tăm. Tôi tin chắc họ đã thuộc lòng vị trí từng gốc cây, từng hòn đá lớn trong vườn bách thú này. Có lần tôi đã quan sát một người phu lớn tuổi đang quấn thuốc lào phì phà hút dưới một gốc cây, cảm thấy ghê lạnh cả một cuộc đời buồn tẻ, tù đọng, úng thúi, tối tăm của họ. Họ ít khi bò ra đến thành phố Saigon chứ đừng nói đi đâu xa hơn. Tôi nghĩ toàn thể khu vườn bách thú này thật ra cũng chỉ là một cái chuồng lớn và người phu kia cũng chỉ là một con thú mất tự do. Có cái điều cái chuồng này dĩ nhiên lớn hơn tất cả những cái chuồng khác ở đây. Nhưng có nghĩa lý gì. Cũng như cái chuồng khỉ ở đây lớn hơn chuồng sư tử, chuồng sư tử lớn hơn chuồng gấu, chuồng gấu lớn hơn chuồng mèo rừng, chuồng mèo rừng lớn hơn chuồng chim, thế thôi. Tôi không hiểu sao họ có thể bằng lòng sống như vậy. Họ còn thấy thú nữa là khác. Nhìn dáng điệu người phu đứng tuổi kia đang phì phào thở thuốc lào, với tất cả tâm hồn và trực giác của tôi, tôi tin chắc lão không đang suy tính gì hết, nhất là suy tính một cuộc đời khác. Tôi nghĩ đến cái triết lý sống của họ – vâng, họ phải có cái triết lý của họ dù muốn dù không – đặt nhiều câu hỏi mà không tìm ra giải đáp. Bây giờ tôi nghĩ đến nhân viên trật tự còn trẻ đang đứng nói chuyện với tôi, và nghĩ đến ngôi nhà của y, đến con vợ y đang hiện diện sinh tồn chui rúc trong căn nhà kia. Tôi rùng mình chán ngán. Tôi so sánh y với con khỉ cụt đuôi kia và thấy chúng giống nhau lắm. Những điểm giống nhau tôi không cần phải kể nữa. Tôi mỉm cười. Ý tưởng cái mỉm cười của tôi là dấu hiệu biểu lộ thiện cảm nên càng hăng nói chuyện. Rồi tôi nghĩ đến thân phận của tôi. Biết đâu, với một ý thức khách quan tôi cũng chỉ là một con thú bị nhốt, một kẻ ở tù như nhân viên nọ, như con khỉ kia. Tôi nghĩ đến những năm dài thất nghiệp quẫn bách ở Saigon để cuối cùng vẫn chịu sống. Nhưng tôi muốn gạt bỏ ý nghĩ đó. Bởi Saigon đối với tôi, trái đất đối với tôi không thể nào là một cái chuồng thú lớn như toàn thể vườn bách thú đối với những con vật như con khỉ kia và nhân viên trật tự nọ. Bởi tôi còn có đời sống tinh thần, tâm hồn và trí óc. Trí óc tôi bùng cháy mỗi ngày.
Tôi còn đang lăn, đang chạy, đang mở ra. Tôi còn đang dự tính dù những dự tính của tôi sẽ tan biến cùng sự hủy diệt của tôi trước mặt hư vô. Dù sao tôi cũng muốn chết trên đường. Tôi chắc chắn sẽ không có một địa điểm, một cái mức ăn thua để về đó chết. Tôi muốn chết cái chết của một người chạy đua trên đường về đích, dù nó cũng không có nghĩa gì hết. Tôi vẫn khát vọng cái đích dù chẳng có một cái đích nào thực thụ tuyệt đối cho tôi ở cõi đời này cả. Tôi thèm một cái đích không có… đích. Tôi chạy, thế thôi.
Còn em, những Mộc Linh yêu dấu, các em có muốn chạy như tôi không? Các em có muốn làm những đợt sóng lớn đập nát thân trên bờ đá không? Tôi nhìn lên, nhìn lên dù con khỉ đực đã chấm dứt trò ân ái của nó. Một chốc tôi nghe tiếng người chồng nói với vợ:
“Em nghĩ thế nào nếu em là một trong những con – xin phép em trước nhé, anh ví dụ thôi – là một trong những con… khỉ sống ở đây, bị giam trong chuồng này?”
“Ơ, ơ… sao lại hỏi kỳ vậy… sao lại ví dụ như thế được nhỉ!”
Tôi muốn xen vào câu chuyện nói thế cho người chồng “Sao cô ngu vậy?”. Bây giờ tôi lại chú ý đến người chồng. Tôi chú ý đến khuôn mặt hơi hung ác nhưng phảng phất ánh sáng của trí tuệ, của tâm hồn. Một ít râu ria của hắn rung lên. Hắn bỏ lửng câu hỏi vì biết người vợ không ý thức được thân phận cùng sự hiện diện, sinh tồn như hắn. Hắn thẫn thờ, nhìn quanh quẩn, vô tri. Hắn đang cô đơn. “Thưa ông, tôi muốn thế chỗ của vợ ông để trả lời câu hỏi đó, giá ông cho phép và vui lòng”, tôi nhẩm trong óc định nói với người chồng như vậy nhưng rồi lại thôi. Tôi ngại câu chuyện không được tự nhiên. Bởi chưa tạo được không khí. Người đàn ông đó và tôi chắc gì đã có một hoàn cảnh, một thân phận giống nhau. Tôi cũng kiêu ngạo nghĩ rằng trí óc và tâm hồn hắn phải ở dưới xa trí óc và tâm hồn tôi. Và người vợ và nhân viên trật tự kia sẽ cho tôi là điên khi đặt ra những câu hỏi kỳ cục đối với họ. Dù sao bây giờ người chồng vẫn cô đơn. Hắn không ở trên bậc thang tinh thần ngang hàng với vợ hắn. Hắn ở trên cao hơn. Sao có thể lấy nhau và chung sống chung với nhau? Tôi nghĩ người ta có thể vứt bỏ hết tất cả mọi sai lệch giai cấp, giàu nghèo, bằng cấp, tôn giáo, sức khỏe nhưng không thể nào gạt sang một bên điều kiện tâm hồn, để đi đến hôn nhân hay tình bạn thực thụ. Người chồng đang cô đơn. Sao có thể sống chung với người vợ như thế. Hay hắn giỏi chịu đựng cho qua một kiếp! Như vậy thì bi thiết quá! Một ý nghĩ hiện lên trong đầu óc tôi: hay người đàn bà kia chỉ là một tình nhân (tình nhân theo cái biến nghĩa của danh từ thời đại này) hay là một con điếm thực thụ? Và người đàn ông – kẻ lữ hành kia – đang cô đơn nên vớ đại một tha nhân – dĩ nhiên phải giống cái – để nói chuyện, nhìn nhau, thành lập một tương quan phù phiếm nào đó nhưng rất cần yếu cho thực tại? Mà đã vậy thì cóc cần suy tính.
Tạm thời cái gì mà chả được. Như khi tôi yêu một em chiêu đãi ỡm ờ hay một em ca-va dơ dáng và dẫn đi dạo ở một đường phố thanh lịch nhất Saigon hay Dalat. Tôi cóc cần thanh minh. Tôi còn đi chơi với những đứa con gái hư đốn trong trí óc và thúi rữa trong tâm hồn là những con sinh viên Văn khoa. Tôi cóc cần phân bua. (Đời sống vốn quá đày ải và mệt xác từ bản thể rồi. Phân bua mãi thì thà tự sát ngay còn hơn). Nhiều người quen tưởng là vợ chồng. Mặc. Như cái việc làm thư ký của tôi ở Saigon trước kia, cái nghề cùn mằn nhất trên đời đối với tôi. Như cái sự lui tới của tôi ở những chỗ mà đúng lý từ tim ruột của tôi đúng ra tôi phải nhổ nước bọt hay đờm dãi vào đó, vào những đứa con trai, con gái, đàn ông, đàn bà, lại cái vô tri. Vậy mà tôi vẫn làm bộ có ít nhiều hành động, cử chỉ, quan niệm y như họ, để sống. Dĩ nhiên đến một giai đoạn nào đó tôi cần phải phản bội và vong ân làm cái việc cắt đứt hoàn toàn mọi liên lạc với bọn người ngợm mà cứ tưởng mình là trí thức và tiến bộ đó. Vì tôi đang chạy, đang lăn, đang mở ra phải không Mộc Linh? Tôi đang chạy thật nhanh kể cả và nhất là lúc tôi ngồi yên hay nằm lì một chỗ. Điều đó ngàn năm các em không đời nào hiểu thấu đâu Mộc Linh ạ. Tôi có thể làm bất cứ nghề gì, kể cả cái nghề nhân viên trật tự hay chăm nuôi cầm thú hay đến cả cái nghề ở tù – nếu có thể nói như vậy – như con khỉ đột kia, như người chồng nọ. Nhưng chắc chắn trí óc và tâm hồn tôi vẫn ngấm ngầm làm việc trong cõi tiềm thế tận ngày đêm để lăn, để chạy, để cuối cùng đập nát thân vào đá thành bọt bèo hư không. Em có bao giờ nghĩ vậy không hở Mộc Linh? Nếu không, à mà đã hẳn vậy rồi, em còn tìm đến tôi làm gì? Bây giờ em sắp lấy chồng rồi phải không? Một sinh viên Đại học Sư phạm ban Triết học ăn mày phải không? Tên hắn là Phan phải không? Hắn còn ghi tên ở Văn khoa Saigon phải không? Rồi hắn cũng làm bộ bắt chước những thanh niên can đảm nhất của thời đại bỏ trường, khinh giáo sư, chửi hệ thống, định đi ra viết một hai cuốn sách bàn về thi ca, tư tưởng, triết lý lượm mót và ăn cắp từng ngôn từ và ý tưởng ngay của một vài tác giả trẻ tuổi sáng tác mở đường phải không? Tôi thề với Mộc Linh rằng nếu Phan có một nửa giọt máu văn, máu thơ, máu tư tưởng, máu thẩm mỹ, máu công bình chảy trong người, tôi sẽ bị lính xúc ngay. Cái sự từ chối triết gia này triết gia nọ của Phan chỉ là dấu hiệu của một bộ óc thanh niên chật hẹp, ích kỷ. Cái sự chê bai những cây viết trẻ đương thời của hắn chỉ tố cáo thêm sự khiếp nhược của hắn trước lòng ganh ghét sôi sục căn cốt của hắn. Vậy thôi. Vâng, Phan lo cho tương lai lắm phải không? Được lắm. Tôi biết hết. Bởi trước kia Phan là bạn tôi. Trước kia tuy không nói với nhau nhưng cả hai đều mở ra, đều chạy, đều lăn nên mới thân nhau. Nhưng bây giờ thì hết, bởi tôi biết Phan đã đến đích, cái đích của Phan! Tôi không ngờ Phan âm thầm có một cái đích như vậy. Tôi tưởng Phan còn ở trên đường còn lăn, còn chạy, còn mở ra. Tôi lầm. Phan vẫn đóng cửa ở nhà hay vùi đầu và thư viện đọc, nghĩ. Nhưng đối với tôi, đó là những giờ phút vô tri nhất của Phan. Tôi có thật tiểu nhân khi nói về một người chồng sắp cưới của Mộc Linh như vậy không? Và Phan giấu cái vô tri đó dưới cặp mắt kiếng và cái bộ điệu suy tư, người lớn. Tôi đã lầm. Thật ra hắn chỉ là một thằng đại ích kỷ, đại ganh ghét, đại chật hẹp dù bao giờ hắn cũng luôn luôn tỏ vẻ rộng rãi, cấp tiến. Mộc Linh, em cũng không cần biết lý do vì sao tôi quả quyết Phan không còn lăn, còn chạy nữa. Cứ nhìn cái lửa tị hiềm sân hận vô minh đầy cặp mắt Phan thì biết. Mà thôi, em chỉ có thể tìm hiểu một mình thôi, em Mộc Linh thân yêu! Còn tôi, Dự. Trần Văn Dự, bạn thân thuở nào của Phan, Nguyễn Đăng Phan – người yêu sắp cưới của em – không muốn có liên lạc gì với Phan nữa. Hai mùa Giáng sinh rồi tôi có lên Dalat nhưng không đến Phan. Chúng tôi có gặp nhau ở nhà thờ đêm tưng bừng ánh sáng đó nhưng không nói chuyện với nhau, dù có chào nhau, theo thông lệ, để sống và sống dễ dàng hơn. Ngày sinh nhật vừa rồi của tôi – 18 tháng 11 dương lịch – Phan đã quên không nhắc gì đến nữa như mấy năm trước. Chúng tôi cũng không còn dịp tổ chức một cuộc vui chung nào nữa. Mộc Linh, anh rất tự hào thấy mình tiêu diệt được cái lịch sự vô lối khi nói xấu một cách rất thật về chồng em. Em cứ sống với Phan nếu thấy cái đích của Phan cũng là cái đích của em. Tôi quen rất nhiều người nhưng đến một giai đoạn nào đó tôi từ giã tất cả dù muốn dù không. “Thằng Dự nó anormal, nó refoulé, nó toqué, nó cà chớn, nó ba trợn, nó cù lần, nó lạng quạng…”. Linh không nghe bạn bè nói về tôi như vậy sao? Và còn biết bao nhiêu phẩm từ xấu xa hơn để tặng tôi.
Tôi chưa muốn đến ghế đá ngồi. Tôi đoán người chồng sẽ hỏi vợ một vài câu lý thú hơn. Một vài câu tôi vẫn thường muốn đặt ra với chính Mộc Linh hay những Linh, những bạn tôi, những Phan ngày xưa, những câu hỏi tận đáy hồn tôi phát ra từ cuộc đời tầm thường như ở tại chợ trời đại lộ Hàm Nghi, chỗ có bán nhiều cầm thú, chó, chim, mèo, chuột, v.v. Nhưng tôi lại thôi vì biết vấn đề không liên quan gì đến Mộc Linh, đến Phan như tôi tưởng. Tôi không muốn cô đơn như người chồng kia đã cô đơn khi đặt câu hỏi với người vợ.
Tôi lại chỉ tay cho tài xế chạy đến vườn bách thú mà không hỏi ý Mộc Linh khi xe đã qua khoảng Chợ Trời. Tôi cũng không đồng ý với Linh ra bến tàu. Buổi sáng ở đó nắng hiu hắt chỉ gây cho tôi không khí chán ngán. Tôi cũng không muốn dừng lại Chợ Trời ở khoảng đường tôi thấy có bán nhiều cầm thú. Tôi ít có dịp đến đây. Tôi chỉ ghé lại thôi. Cũng như tôi chỉ ghé lại cõi đời này vậy. Nghĩ đến đó tôi phát rùng mình. Có điều khác là tôi đã ghé lại Chợ Trời do ý muốn, nghĩa là có ý thức. Còn tôi ghé lại cõi đời này chỉ tại bởi may rủi và vô minh hoàn toàn ngoài ý chí tôi (nếu tôi có ý chí, ý thức tồn tại dưới một hình thức khác không phải nằm trong óc não của tôi bây giờ). Tôi chỉ ghé lại Chợ Trời vào những dịp cần thiết có mặt ở một nơi nào gần khoảng đó và cần phải chờ đợi hoặc việc đang mong chờ đã hỏng. Bởi tôi thích giết thì giờ một cách vô trí bằng cách vào một nhà hàng kêu một cốc cà-phê ngồi nhìn ra xe cộ và người ta ở đường cái. Và, thật ra, cũng bởi tôi ít dịp có tiền sẵn trong túi dù những dịp có tiền lớn không hiếm đối với tôi. Đến Chợ Trời, tôi thình lình sống trong một tình cảm dồn nén, áp bức, đau đớn, tủi hổ, xót xa, căm thù, điên dại (nếu gọi tên cho đúng từng loại tình cảm kia thì chắc tổng số của chúng không kém thua tổng số những con vật bị nhốt ở đây, hay ít ra tổng số cách thức giam giữ chúng: nhốt vào chuồng, cột chân, chặt bớt lông cánh, đập què cẳng, v.v.) đến đây tôi muốn chửi cha nó lên. Tôi muốn đập nát, tàn phá tất cả. Nhưng lý trí tôi mạnh lắm. Nếu nó không kịp thời cản ngăn, chắc chắn tôi sẽ hóa thành điên cho đám đông ngu xuẩn và a dua ngàn đời bu lại chọc phá, chế nhạo và khinh bỉ. Và dĩ nhiên tôi sẽ biến thành một sinh vật ngộ nghĩnh tự trưng bày ở Chợ Trời. Tôi thường cố gắng thản nhiên đi qua đó. Tôi ngó từng lồng chim, lồng chó. Ôi, những con vật bị giam một cách quá tàn nhẫn, khốn nạn, vô nhân đạo. Tôi nghĩ sao chính quyền không kịp thời can thiệp, đặt ra những luật lệ bệnh viện gia súc như ở các nước văn minh để may ra tội ác còn giảm được phần nào. Dù là con vật, ít ra trước khi chết, nó cũng có quyền sống dễ chịu chứ? Tôi vuốt ve từng con chó rừng, mèo rừng, v.v. đang bị nhốt kỹ trong chuồng hay được thả lỏng nhưng chủ chúng – những tay buôn chuyên nghiệp hay tài tử – thừa biết chúng đã bị thương tích nặng và không thể nào đủ sức thoát nổi. Tất cả đều nhừ nhẫn, mệt mỏi, rũ rượi. Một số lớn có vẻ muốn chết nhưng có lẽ chúng không ý thức gì về sự sống chết, về sinh mạng chúng. Chúng sinh ra hoàn toàn ngoài ý muốn của chúng nếu ý muốn kia tồn tại ở một cõi nào khác. Chỉ cần bắt một con chó cái nhốt chung với con chó đực là có một ít chó khác. Những con chó sinh ra một cách vô tri hoàn toàn. Tôi vuốt ve từng con. Đặc biệt có một con chim trắng to bằng con quạ, mỏ quặp đang bị xiềng cả hai chân đặt trên một chiếc lồng sắt cũ. Tôi biết rõ loài chim ưng đó lắm. Nó ở ngay tại Việt Nam chứ không phải ở Pháp, ở Mỹ gì xa xôi như người bán đã quảng cáo. Tôi gặp nó nhiều lần trong những đêm giá buốt một mình lang thang ở một cánh rừng già trên cao nguyên Dalat. Nó từ một ngọn thông cao vỗ cánh trắng xóa. Có lần tôi đã bắt được một con. Nó bị thương ở khoảng rừng nào đó và ngã chết gần chỗ tôi. Tuyệt nhiên chúng không xuất hiện giữa ban ngày. Tôi rất yêu loại chim đêm, nhất là những con to lớn, toàn màu trắng toát và đẹp như thiên thần. Tất cả những con thú ở đây, trừ những con mệt nhừ và sắp chết, đều như nóng lòng chờ đợi, hăm hở một cuộc đời khác, một đời sống của chúng. Nhiều lúc có tiền tôi muốn mua một ít chim bảo người ta mở tung lồng ra cho chúng bay đi hết, như một vài mụ nhà giàu đã thực hiện trong những ngày lễ ở chùa có tính cách xá tội vong nhân như rằm tháng Bảy. Tôi, tôi khinh bỉ những mụ đàn bà này. Hành động bề ngoài có vẻ tốt đẹp đó thực ra chỉ bị thúc đẩy bởi một vụ lợi gần xa, hết sức tầm thường, ăn mày, bỉ ổi, khốn nạn đến cái chỗ rất nên cầm dao thật cùn cứa cổ bà ta giờ này qua giờ khác cho đến lúc đứt lìa ra. Tôi không thực hiện nỗi hành động phóng sinh đó rồi. Tôi biết tôi bất lực khi muốn giải thoát hàng ngàn, hàng triệu con khác cũng đang và sẽ tiếp tục ở trong cảnh tù tội khốn cùng đó. Hãy nghĩ, hãy làm một cái gì một cách tuyệt đối. Nếu không thì thôi. Thà tức đến ói máu rồi tự tử. Tôi chỉ khinh bỉ giống chuột bạch và chuột Tàu. Bị giam cầm rõ ràng như thế, mất tự do rõ ràng như thế, chúng vẫn cứ đùa giỡn, trửng mỡ trên cái đu quay tít cả lên. Thật, loài múa rối. Chúng có vẻ tự mãn, hài lòng về điều kiện và thân phận đó. Tôi có thể nhai xương cái lũ chuột đó mà không gớm miệng. Tôi quá khinh chúng. Chúng nhận hoàn cảnh một cách thụ động đê hèn. Chúng còn tính chuyện sanh con đẻ cái nữa mà không biết nhục. Tôi làm con chuột con đó, lớn lên tôi sẽ cắn chết chuột mẹ và chuột cha tôi liền. Bởi vì chuột mẹ và chuột cha tôi vô ý thức, vứt tôi ra giữa một hoàn cảnh tù ngục mà không biết trang bị cho tôi một thứ khí giới nào để hộ thân và để tấn công. Dù sao tôi cần lặp lại tình cảm căm thù của tôi chưa dồn nén đến tận cùng, vì nếu thế thì tôi đã tự sát lâu rồi. Mỗi lần tôi sống trong tình cảm kia, tôi phải hành động một cách vô tri nào đó để giải thoát. Như buổi sáng nay, tôi cho tắc-xi chạy lung tung để quên đi một vấn đề sắp giải quyết và biết mình bất lực. Tôi đã gặp nhiều vấn đề mà mọi người thường bỏ qua nhưng đối với tôi, tôi hăm hở giải quyết dù để không bao giờ giải quyết được gì cả. Với tôi, nghĩ một cách thiển cận, tự tử là một vấn đề thậm phi lý. Nghĩ một cách xa xa hơn nữa, tự tử vẫn chỉ là một hành động tối thậm phi lý. Nhưng nghĩ cho cùng, tự tử chính là một hành động cao đẹp, viên mãn nhất khi người ta đã suy ngẫm và xác nhận cái bất lực trước tuyệt đối. Bởi tự tử là một hành động quay ngược trở lại bất cứ một thứ định mệnh và số phận nào. Nó cao cường lắm. Dĩ nhiên tôi không đề cập đến những trường hợp tự tử thường tình để tránh một đau khổ đến thình lình hay trong những phút cực kỳ yếu đuối. Tự tử là một hành động siêu đẳng nhất của hoạt động trí tuệ khi đã được suy ngẫm chín chắn. Vậy mà lạ, các linh mục của tôn giáo tôi không bao giờ chịu công nhận tự tử là có thật chứ không nói gì xa hơn dù các cha có đứng trước cái xác treo cổ rành rành trong một phòng khóa kín cửa từ bên trong. Tự tử là hành động của đạo đức nguyên chất nhất. Đó là Chân, Thiện, Mỹ tuyệt đối. Nó làm cho con người rung động toàn cơ thể, trí óc, tâm hồn và rung động thê lương hãi hùng nhất. Một người lấy súng bắn thẳng vào màng tang và chết: hắn đã thắng. Không phải thắng với hắn. Cũng không phải thắng một định mệnh nào. Hắn đã thắng một cái thắng ở trên tất cả những chiến cuộc giữa người với người và giữa người với Thượng Đế nếu có. Nghĩa là hắn đã thắng mình, thắng trời, thắng lung tung, thắng hư không và không thắng gì cả. Hắn đã thắng một cái thắng tối hậu. Tôi sùng thượng hắn. Sùng thượng trên tất cả chúa đảng của tất cả những tôn giáo lớn nhất. Tôi ngả nón và nghiêng mình trước cái chết của một kẻ tự sát ý thức. Hắn là anh hùng, anh hùng trên tất cả những anh hùng của lịch sử nhân loại. Tôi hỏi Mộc Linh đột ngột trên xe:
“Mộc Linh nghĩ sao về một người tự tử?”
“Em ít nghĩ đến”. Linh trả lời, giọng dịu ngọt bơ vơ. Tôi đau đớn biết trong một thời gian ngắn nữa thôi tôi sẽ xa cách Linh luôn dù tôi không yêu nàng đắm đuối. Nghĩ đến cái đêm đầu tiên Linh sẽ ngủ với Phan – hay bất cứ một đàn ông nào khác – tôi đau nhói toàn thân. Tôi là một thằng điên hay sao? Sao cứ đứng trước một đôi vợ chồng nào, tôi cũng nghĩ đến cái đêm đầu tiên đứa con gái chịu hiến dâng và tôi tức muốn chết. Nhiều lúc tôi quằn quại khổ sở khi nghĩ đến hàng triệu triệu tỷ tỷ con gái trên đời để sẽ hiến dâng cho những người đàn ông không phải là tôi. Tôi ích kỷ và chỉ mong những đứa con gái đẹp phải chết trinh bạch. Tôi hỏi Linh một lần nữa:
“Em nghĩ sao về một người tự tử?”
“Em ít nghĩ đến, nhưng sao hôm nay anh cứ hỏi như vậy mãi. Không có gì buồn cho anh lắm trong những ngày sắp đến của Linh. Em tin anh cũng nghĩ như vậy. Anh đừng hỏi thế nữa. Hay anh muốn em chết? Anh có biết em đang lo lắng, thắc mắc và nhiều lúc muốn chết không? Tuy không cần phải nói em cũng mong ngày cưới đến. Cho nó xong đi. Cho nó xong đi anh ơi, để may ra em tìm thấy một đời sống nào khác dù em không phản bội anh Phan đâu. Em cũng không mâu thuẫn và giả dối, chắc anh biết”.
Ngừng một chốc, Mộc Linh tiếp:
“Anh biết chứ, bất cứ một đứa con gái nào có một chút tâm hồn thôi cũng đau đớn khi nghĩ đến cái giờ phút đó. Và trong giờ phút định đoạt nghiệt ngã đó, nhiều đứa đã sảng sốt và khóc nức nở. Họ biết tất cả đều chấm dứt và một niềm hoài niệm bao la sẽ tràn về xâm chiếm tâm hồn họ, dù họ đã hiến dâng cho người tình lý tưởng (mà làm gì có một người tình nào lý tưởng tuyệt đối đâu! Tất cả đều là tình cờ). Hầu hết đều mong cho nó xong đi. Đó là sự thực, những đứa bạn em đi trước đều công nhận và em cũng đã mơ hồ cảm thấy từ lâu. Rồi đây, anh sẽ là một thành phần trong nguồn hoài niệm của em. Anh biết nếu ở một hoàn cảnh nào khác với những điều kiện khác, em sẽ sống với anh, với anh Dự thân yêu, hơn là với anh Phan. Em tin anh không buồn gì. Bởi chắc chắn anh còn có những Mộc Linh hơn Mộc Linh này nhiều lắm”.
Hôm nay là lần đầu tiên tôi đi với Linh đến vườn bách thú. Buổi sáng thứ hai nên tương đối vắng. Chúng tôi loanh quanh mãi nhưng không tìm thấy một chỗ ngồi thích hợp, lịch sự một chút, nghĩa là có bụi bờ che khuất một chút. Ước gì còn ở Dalat. Bây giờ tôi mới có dịp quan sát Mộc Linh. Nàng mặc chiếc jupe trắng toát, đẹp lạ lùng. Tôi vẫn thích xa xôi cái màu trắng toát của chiếc jupe. Tôi nghĩ đến những quần áo lót của nàng, chắc còn trắng hơn nữa, còn xanh xao hơn nữa, còn tức tưởi hơn nữa.
Đầu óc tôi nóng bừng lên một ham muốn tột bậc. Giá ở Dalat, trong rừng xa, rừng xa… Chắc chắn tôi sẽ phạm một tội ác lớn nhất thế gian mà Thánh Kinh đã nói. Tôi chỉ dám nghĩ đến đó. Tôi vội đuổi ý nghĩ đó đi. Chúng tôi loanh quanh một tí thì đến chuồng khỉ. Một liên tưởng kéo tôi về thực tại. Hơn hai năm nay rồi, tôi không có dịp đến đây. Song tôi vẫn còn nhớ chuyện con khỉ cụt đuôi đít dát hai miếng đỏ mỏng và láng. Tôi nhớ lắm. Tôi nhớ cả hai vợ chồng du khách đã cùng nói chuyện với tôi và một nhân viên trật tự ở Sở thú. Tôi đi quanh chuồng khỉ, tò mò:
“Anh tìm gì lâu vậy?”
“À, tìm cái này… lâu lắm rồi… không biết nó còn không”.
Tôi đang loanh quanh tìm thì gặp nhân viên trật tự mấy năm trước. Lâu quá nhưng tôi vẫn còn nhớ mặt y. Y cũng nhớ lại tôi khi tôi gợi lại chuyện cũ về con khỉ cụt đuôi. Y cho biết nó đã chết. Y không nói nguyên do. Tôi cũng không cần biết. Cũng như khi tôi nghe tin một người bạn gái lấy chồng, tôi không cần hỏi tính danh người chồng kia mà thân thế là nguyên do cái chết của tâm hồn ấu thơ kéo dài của họ. Bởi vô ích. Vì chắc chắn đó phải là một người đàn ông. Và người đàn ông nào cũng biến con gái thành đàn bà được. Và tất cả con gái khi lấy chồng đều bị tử thương cùng một cách như nhau. Và mỗi lần được hung tin một bạn gái hay một em quen phất phơ do liên hệ gần xa nào đi lấy chồng, tôi đau đớn vô biên. Cường độ đau đớn càng mạnh hơn đối với đứa con gái tôi có cảm tình hơn. Ôi, các em yêu dấu, các em biết không, các em đã đi qua mặt địa cầu này một cách bình thản và không bao giờ hiểu được hồn ta. Tôi muốn hỏi chuyện với nhân viên kia một chút nhưng y đã ngậm tu huýt vào miệng thổi một hồi còi mạnh đạp xe về phía một thằng bé đang ngắt trộm mấy cái hoa ở gần nhà kiếng. Tôi nghĩ y giống con khỉ cụt đuôi đít lát đỏ kia lắm. Có điều y không biết khọt khọt kêu như khỉ thôi. Rồi y sẽ chết như con khỉ trong cái vườn bách thú lớn mà y đang đứng ăn và thở này. Và chắc chắn nếu có dịp hay tin y chết tôi cũng sẽ chẳng buồn hỏi han nguyên do: bệnh tật, tai nạn, v.v.
“Em nghĩ thế nào nếu em là một trong những con – đây là ví dụ, đừng có hờn nhé – bị nhốt trong chuồng này?”
Rồi tôi kể sơ qua chuyện con khỉ đực, vợ nó và mấy đứa con của nó.
Mộc Linh lại hỏi:
“Có phải anh muốn nói thái độ của mình trong hoàn cảnh và thân phận đó?”
“Đúng, em sẽ có thái độ gì? Chỉ có hai thái độ thôi. Một là nhận lấy hoàn cảnh, trong cái không gian bé nhỏ và những điều kiện dinh dưỡng thiếu thốn khổ sở kia, để tạo thành một cuộc sống hẳn hoi, coi mình như chắc chắn bị ở tù chung thân trong đó, và nếu cần cứ lập gia đình như con vật kia, nghĩa là cứ chọn, trong những nàng trong đó, một nàng khá nhất, rồi sinh con đẻ cái. Rồi nhảy giỡn… Em nhìn kìa, chuồng cũng rộng rãi chán và vui vẻ đó chứ? Hai là giữ thái độ của một con sư tử hay con chó rừng rầu rĩ đi ra đi vô, hết đứng lại ngồi, dường như suy tính phương tiện tẩu thoát”.
“Làm sao tẩu thoát được?”
“Em nói như trẻ con vậy! Cần gì biết điều đó. Cứ cho điều đó có thể đi dù chỉ là những cơ hội ngàn năm một thuở. Như lưới sắt mục mà không ai hay. Và biết đâu cái lần đó không xảy ra trong đời mình? Như nghe nói hồi Cách mạng 1945 khi máy bay thả bom bắn phá, một số lớn súc vật đã trốn được hết chỉ trừ mấy con cá không có cơ hội mà thôi!”
“Nhưng anh hỏi vậy làm chi cho mệt?”
“Bởi sự thật chúng ta cũng chỉ là một sinh vật”.
“Nhưng người kia mà. Và chúng ta có hoàn cảnh thân phận khác hẳn. Chúng ta đang ở Saigon, tự do, đến trường, đi xem xi-nê, đi chợ, đi ăn. Rồi mai mốt có dịp đi xuất ngoại. Sao anh hỏi kỳ vậy?”
“Em có nghĩ là anh hơi điên?”
“Em cũng nghi…”
“Ồ, vậy thì em…”
“Thì em tầm thường phải không? Nhưng tại sao em đã yêu anh tha thiết, yêu với mối tình đầu lý tưởng nhất dù em lớn tuổi hơn anh, để đáp lại tình yêu như đã phai lạt, thế mà em vẫn yêu anh. Chẳng lẽ em yêu một người… điên sao? Em tầm thường được sao?”
“Nhưng dù sao em cũng là một mũi kim chích sâu và tâm hồn anh”.
“Em chỉ mong có anh dự đám cưới em với Phan”.
“Anh cố gắng nhưng anh đang đau đớn và anh nghĩ không thể đóng vai một thanh niên quân tử hay cao thượng để đến đó dù chỉ để ngậm câm cái miệng nâng ly chứ không mở nổi chút miệng chúc tụng chút gì. Mà làm sao em hiểu anh. Anh chỉ là một thanh niên bất lực, một tù nhân giữa vòm trời bal… ồ em hiểu gì không? Em chỉ nên biết khi anh lớn lên anh càng ngày càng ý thức được cuộc đời này và cả địa cầu nữa méo mó, thiếu hụt, bất toàn”.
Mộc Linh nhìn tôi, lộ vẻ khó hiểu. Tôi nhìn chầm chập vào người nàng. Màu áo trắng toát. Thịt đỏ hồng và chắc chắn máu đang chảy rần rần ở trong dù Linh đã đến cái tuổi mà sinh lý học cho biết không còn náo nức nữa. Tôi thèm muốn vô biên. Tôi không hiểu sự ràng buộc gia đình mạnh đến đâu để Linh có thể chịu sống với Phan. Nghĩ đến đứa con gái 27 tuổi làm tôi rùng mình. Dù sao tôi cũng tin chắc chắn, ở một chỗ sâu kín nhất trong tâm hồn, Linh vẫn hằng yêu dấu tôi. Bằng cớ rõ rệt là trước ngày cưới như hôm nay Linh còn tìm đến tôi, dù biết không yêu nàng tha thiết lắm, dù biết tôi đang thất nghiệp và tâm trí tôi bất thường. Một ham muốn mãnh liệt bùng cháy trong óc tôi. Tôi dìm nó xuống. Buổi trưa đó tôi đã thuyết phục được Linh. Chúng tôi đón xe đò đi Dalat. Chúng tôi sẽ đến một cánh rừng cao, lạnh. Thật cao và thật lạnh. Mộc Linh ơi, hay em đã hiểu được ý định của anh và em đồng ý? Phan ơi, tao là Dự đây, tao vẫn nhớ mày là một người bạn khá thân của tao ở một chặng đường. Bây giờ tôi chỉ biết anh như một người đàn ông, như những người đàn ông nào đó trong đám đông… Có lẽ tôi sắp điên đây… Có lẽ. Có lẽ… Và mọi người sẽ không hiểu gì hết, chắc chắn.
Một tuần lễ sau khi Dự và Mộc Linh lên Dalat, Dự đã tự tử. Anh nhảy xuống một cái thác lớn.
Một câu nói đáng ghi lại của Mộc Linh với cuộc sống và cuộc điều tra mà cảnh sát nhất định không đủ trí óc và tâm hồn để hiểu: “Có một số người sinh ra trước và sau gì cũng tự tử. Sở dĩ họ còn sống là tại thuốc độc chưa ngấm vào đủ số lượng đó thôi”.

Nguyên Giác: THE WAY OF ZEN IN VIETNAM - THIỀN TÔNG VIỆT NAM

THE WAY OF ZEN IN VIETNAM
THIỀN TÔNG VIỆT NAM
Published byAnanda Viet Foundation – 2020
bia-sach-The-Way-of-Zen-in-VN-2020-04-29 (1)
Bìa sách ấn bản tại Hoa Kỳ
The-Way-of-Zen-in-VN-2020-05-26 (1)
Bìa sách ấn bản tại Việt Nam

ACKNOWLEDGMENTS

This book is dedicated to my teachers -- The late Zen Masters Thich Tich Chieu and Thich Thuong Chieu; the late Dharma Masters Thich Thien Tam and Thich Tai Quang; and all the teachers whose books I read and learned from, including H.H. the 14th Dalai Lama, Thich Thanh Tu, Thich Nhat Hanh, Thich Minh Chau, Thich Duy Luc, Le Manh That, Tue Sy, etc. This book is also dedicated to all my parents in this life and other lives, and to all other sentient beings.

Specifically, I am indebted to the Zen Master Thich Thanh Tu, Prof. Le Manh That, researcher Tran Dinh Son, Thanissaro Bhikkhu, Bhikkhu Bodhi, Bhikkhu Sujato, Bhikkhu Nguyen The Dang (who is also my elder Dharma brother), and many others whose works I relied on while working on this book.

Also, I would like to thank the layperson Tâm Diệu, who posted my articles on Thư Viện Hoa Sen (thuvienhoasen.org) for decades and now helped publish this book via the Ananda Viet Foundation.

Lastly, the author would like to say a special thanks to Dan Phan for helping to check the spelling and grammar of this book.

Sách này được dâng cúng cho các vị Thầy của tôi – hai cố Thiền sư Thích Tịch Chiếu và Thích Thường Chiếu; hai Thầy Thích Thiền Tâm và Thích Tài Quang; và tất cả quý Thầy có sách mà tôi đã đọc và học từ đó, trong đó có Đức Đạt Lai Lạt Ma đời 14, quý Thầy Thích Thanh Từ, Thích Nhất Hạnh, Thích Minh Châu, Thích Duy Lực, Lê Mạnh Thát, Tuệ Sỹ, vân vân. Sách này cũng xin dâng cúng tới ba mẹ tôi trong kiếp này và các kiếp khác, và tới tất cả các chúng sinh.

Đặc biệt, xin bày tỏ lòng biết ơn tới Thiền sư Thích Thanh Từ, Giáo sư Lê Mạnh Thát, nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn, Thanissaro Bhikkhu, Bhikkhu Bodhi, Bhikkhu Sujato, Tỳ kheo Nguyễn Thế Đăng (vị này cũng là Pháp huynh cùng Thầy của tôi) và nhiều vị khác với các văn bản mà tác phẩm này tham khảo.

Thêm nữa, tác giả xin cảm ơn Cư sĩ Tâm Diệu, người đã đăng các bài tôi viết lên Thư Viện Hoa Sen (thuvienhoasen.org) trong nhiều thập niên và bây giờ giúp phát hành sách này qua Ananda Viet Foundation.

Cuối cùng, tác giả xin nói lời cảm ơn đặc biệt tới Dan Phan đã giúp dò lỗi chính tả và văn phạm cho sách này. 


PREFACE

Everyone can see that Vietnamese Zen has played a significant role in the history of Vietnam in all aspects, especially in Vietnamese Buddhism. How exactly did this transpire? Some have said that after being transmitted from China to Vietnam, the Zen doctrine has blended into the Vietnamese culture, being constantly accompanied by the Vietnamese people, becoming a uniquely Vietnamese Zen.

According to Prof. Le Manh That in his studies of the book Thiền Uyển Tập Anh (A Collection of Outstanding Figures of the Zen Garden), before arriving in China, Buddhism had spread in the second or third century CE from India to Vietnam. During this time, the two best known Buddhist Masters were Mau Tu and Khuong Tang Hoi.

In the sixth century, Chinese Zen was introduced into Vietnam by the Zen Master Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinītaruci), a native South Indian and a student of the Third Chinese Patriarch Tăng Xán (Sengcan). This Zen sect lasted nineteen generations. Their students studied and practiced mostly in accordance with the scriptures of Northern Buddhism, the Six Paramitas, the Prajna Wisdom, and the meditation of contemplating the Buddha's mind-seal.

In the eighth century, the Zen Master Vô Ngôn Thông (Wu Yantong), a student of Bách Trượng Hoài Hải (Baizhang Huaihai), came to Vietnam and introduced the Zen tradition inherited from the sixth Chinese Zen Patriarch Huệ Năng (Hui Neng) that emphasized the ideas of sudden enlightenment and mind-to-mind transmission. This Zen sect lasted fifteen generations.

In the 11th century, the Vân Môn Zen sect (Unmon Zen) was brought into Vietnam by the Zen Master Thảo Đường, a student of Tuyết Đậu Trùng Hiển (Xuedou Chongxian). Thảo Đường, who had traveled from China to Chiêm Thành (Champa) to introduce Zen, was captured as a prisoner of war by Vietnamese soldiers in the war between Vietnam and Champa, only being released after the war. After establishing the Thảo Đường Zen school in Trấn Quốc Temple, Thảo Đường was consecrated by King Lý Thánh Tông as the Kingdom's Supreme Master. Arguing that Buddhism should cherish Confucianism, literature and academic achievement, the Thảo Đường Zen School became fondly acquainted with the era’s scholars and nobility. Ultimately, the Thảo Đường Zen School greatly influenced the Buddhist landscape in the Trần Dynasty.
In the 13th century during Trần Dynasty, King Trần Nhân Tông studied Zen under the guidance of Tuệ Trung Thượng Sĩ, who was considered an enlightened person. Years later, King Trần Nhân Tông voluntarily relinquished the throne to his son, and went forth as a monk named Trúc Lâm Đầu Đà. He then established Trúc Lâm Zen, a meditation school that blended Vietnamese culture with socially engaged spirituality. Thus, Trúc Lâm Zen inherited and combined the ideas of the three previous Zen schools ---  Tì Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, and Thảo Đường. The most important three patriarchs of Trúc Lâm Zen were Trần Nhân Tông, Pháp Loa, and Huyền Quang.

In the 17th century, the Tào Động Zen (Japanese: Soto School; Chinese: Caodong School) was brought to North Vietnam by the Zen Master Thông Giác Thủy Nguyệt. Prior to this, he had traveled from Vietnam to China to study with the Zen Master Nhất Cú Trí Giáo for six years,  becoming a dharma heir of the Chinese Tào Động Zen in the process. The main practice of this Zen school was Thiền Mặc Chiếu (the Silent Illumination Meditation) through which the practitioners could attain enlightenment. Also in this century, the Chinese Zen Master Thạch Liêm, a 29th-generation Dharma successor of Caodong School, came to Central Vietnam, taught Zen meditation that mixed with the Huatou practice of the Lâm Tế School (Japanese: Rinzai School), and declared that "the three teachings (Confucianism, Buddhism, and Taoism) are harmonious as one."

Also in the 17th century, the Chinese Zen Master Chuyết Chuyết came to North Vietnam and introduced the Lâm Tế Zen School, which later had a dharma successor named Chân Nguyên, who revived the Trúc Lâm Zen School.

Due to frequent conflicts and wars, the Vietnamese people constantly wished for peace and stability. The two Zen schools above gradually intertwined with the Pure Land School, and their monastics later practiced both meditation and chanting the Buddha's name.

Nowadays, the Zen Master Thích Thanh Từ (b. 1924) has led the effort to revive the spirit of Trúc Lâm Zen,  built dozens of Zen monasteries, and adapted the teaching methods of the Zen Master Khuê Phong Tông Mật (Guifeng Zongmi) for his followers who try to recognize the mind's empty and luminous nature, and practice in accord with that recognition. Thus, these practitioners study the scriptures and ancient Zen records, constantly keep their mind out of any false thought and meditate as instructed in Lục Diệu Pháp Môn (the Six Wonderful Ways).

Recently the Zen Master Thích Duy Lực (1923 - 2000) --- a dharma successor of Ven. Thích Hoằng Tu, who came from China to South Vietnam to introduce the Thiền Tào Động (Caodong Chan) as a branch founded by the Zen Master Vĩnh Giác Nguyên Hiền (1578-1657) --- taught his followers Thiền Khán Thoại Đầu (Huatow Meditation), a method of Lâm Tế School, now a popular  method in South Vietnam.

The summary above shows that several branches of Zen Buddhism (i.e., Tì Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường, Tào Động, and Lâm Tế) spread to Vietnam from overseas, three of which blended into the Vietnamese culture to become Trúc Lâm Zen. A question should be raised: what is the Way of Zen in Vietnam? Should there be one or many answers? Should the answer be a wordless gesture? Who has the authority to answer those questions?

The author of this book tries to answer these questions via poems and verses of the Zen masters who laid the foundation for the Zen practices in Vietnam. He hopes to provide a generally correct view of the Way of Zen in Vietnam.

This bilingual book in English and Vietnamese is a collection of 95 poems and verses which were translated into modern Vietnamese by the Zen Master Thích Thanh Từ, Prof. Lê Mạnh Thát, and the researcher Trần Đình Sơn. This collection was then translated into English by the author Nguyên Giác, whose commentaries are provided below the translations. The 95th piece, a long verse by King Trần Nhân Tông (who was the founder of the Trúc Lâm Zen School), shows the practice methods of this Zen school --- from which the last four lines is a famous poem that is learned by most Buddhists, scholars, and writers in Vietnam. 

It is an honor to write the preface to this book, which would help those who want to understand the Way of Zen in Vietnam.

Ananda Viet Foundation Publisher | Tâm Diệu


GIỚI THIỆU

Thiền tông Việt Nam chiếm một vai trò trọng yếu trong lịch sử Phật giáo Việt Nam nói riêng và trong lịch sử nước nhà nói chung là một sự thật mà ai nấy đều công nhận. Nhưng hỏi vì sao nó được địa vị như thế thì có người nói tư tưởng Thiền tông Việt Nam thoát thai từ tư tưởng Thiền tông Trung Hoa nhưng khi qua Việt Nam, Thiền tông Việt Nam hoà đồng cùng với văn hoá Việt và đồng hành cùng với dân tộc Việt tạo nên một sắc thái riêng rất Việt Nam.
Theo lịch sử Phật Giáo qua qua cuốn Nghiên Cứu về Thiền Uyển Tập Anh của GS. Lê Mạnh Thát, Phật giáo được truyền vào Việt Nam từ Ấn Độ rất sớm, vào thế kỷ thứ 2 và thứ 3 trước cả Trung Hoa với các thiền sư như Mâu Tử và Khương Tăng Hội.

Mãi cho đến thế kỷ thứ 6 Thiền Tông Trung Hoa mới được truyền sang Việt Nam bởi Thiền sư Tì Ni Đa Lưu Chi, người nước Nam Thiên Trúc, đệ tử của Tam tổ Tăng Xán. Tư tưởng chính là tu tập theo các kinh Phật Giáo Bắc Truyền, Lục Độ Ba La Mật và Trí Tuệ Bát Nhã, cùng pháp Thiền quán về tâm ấn chư Phật. Thiền phái này được truyền qua 19 thế hệ.

Vào thế kỷ thứ 8 đệ tử của Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải là Vô Ngôn Thông sang Việt Nam truyền pháp Thiền Nam Phương của Lục Tổ Huệ Năng, với chủ trương đốn ngộ và “dĩ tâm truyền tâm” (tâm truyền tâm). Thiền phái này được truyền qua 15 thế hệ.

Đến thế kỷ thứ 11 thiền phái Vân Môn được Thiền sư Thảo Đường, đệ tử của Thiền sư Tuyết Đậu Trùng Hiển nhân đi qua nước Chiêm Thành truyền giáo bị Việt Nam bắt làm tù binh trong cuộc chiến tranh Việt - Champa, sau đó sư được phóng thích. Sư tu tại chùa Trấn Quốc, thành lập phái Thiền Thảo Đường và được vua Lý Thánh Tông phong làm Quốc sư. Thiền phái Thảo Đường chủ trương Nho Giáo đồng hành và có khuynh hướng thiền học trí thức và văn chương nên rất gần gũi với các tầng lớp trí thức và quý tộc, điều này đã làm ảnh hưởng nhiều tới Phật giáo thời Trần.

Đến thế kỷ thứ 13 vào thời đại nhà Trần, vua Trần Nhân Tông thường tham học Thiền với Tuệ Trung Thượng Sĩ, người được xem là đã kiến tánh giác ngộ, sau đó vua nhường ngôi vua cho con và xuất gia tu hành theo đạo Phật, hoằng pháp với hiệu là Trúc Lâm Đầu Đà, sáng lập Thiền phái Trúc Lâm, một dòng thiền Phật giáo mang bản sắc văn hóa Việt Nam với tinh thần nhập thế. Là sự kết hợp và kế thừa Tư tưởng của ba thiền phái là Tì Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, và Thảo Đường. Ba vị tổ quan trọng nhất của Thiền phái này là Trần Nhân Tông, Pháp Loa, và Huyền Quang.

Đến thế kỷ thứ 17, thiền phái Tào Động được truyền sang miền Bắc Việt Nam bởi Thiền sư Thông Giác Thủy Nguyệt, sau sáu năm tu học ở Trung Quốc với Thiền sư Nhất Cú Trí Giáo và nối pháp tông Tào Động. Pháp tu chính yếu của dòng Thiền này là Thiền Mặc chiếu với chủ trương tọa thiền để khai ngộ. Thiền Tào Động cũng được Thiền sư Thạch Liêm đời thứ 29 truyền qua miền Trung Việt Nam, tuy nhiên Thiền sư Thạch Liêm ảnh hưởng và mang đậm tư tưởng Thiền Khán Thoại Đầu của tông Lâm Tế và thuyết Tam giáo đồng nguyên.

Thiền phái Lâm Tế cũng được truyền vào miền Bắc Việt Nam vào thế kỷ thứ 17 bởi thiền sư Chuyết Chuyết người Trung Hoa và từ thiền phái này đã sản sinh ra Thiền sư Chân Nguyên là người có công khôi phục dòng Thiền Trúc Lâm.

Do chiến tranh loạn lạc liên tục, dân tộc Việt Nam thường trực ước mơ hòa bình và ổn định. Cả hai Thiền phái này có khuynh hướng hòa nhập với Tư Tưởng Tịnh Độ, vừa chuyên tâm tu thiền định vừa niệm Phật.

Trong thời hiện đại, Hòa thượng Thích Thanh Từ (sinh năm 1924) là người chủ trương khôi phục lại tinh thần của Thiền phái Trúc Lâm và xây dựng nhiều Thiền viện cùng là dạy tăng chúng tu tập theo đường lối của Thiền sư Khuê Phong Tông Mật, đó là kiến tánh khởi tu, thiền giáo song hành và thực hành phương pháp Thiền Tri Vọng (biết vọng không theo) và pháp Lục Diệu môn.

Và mới đây cũng có Thiền sư Thích Duy Lực (1923 - 2000), đệ tử Hòa thượng Thích Hoằng Tu, cao tăng người gốc Hoa sang Chợ lớn, Sài Gòn hoằng pháp, thuộc dòng Tào Động hệ phái Cổ Sơn do ngài Vĩnh Giác Nguyên Hiền (1578-1657) sáng lập, chủ trương đào tạo các đệ tử theo phương pháp Thiền Khán Thoại Đầu của tông Lâm Tế, khá thịnh hành tại miền Nam Việt Nam.

Đó là sơ lược sự truyền bá Phật giáo tại Việt Nam từ những ngày đầu lập quốc cho đến ngày nay với các dòng thiền du nhập từ nước ngoài --- Tì Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường, Tào Động, và Lâm Tế -- và ba dòng Thiền trong đó hòa nhập với văn hóa Việt để trở thành Thiền phái Trúc Lâm. Câu hỏi nên nêu ra: đường lối Thiền Tông tại Việt Nam là gì? Có một câu trả lời, hay nhiều hơn? Hay là, câu trả lời nên là một cử chỉ không lời? Ai có thẩm quyền trả lời những câu hỏi đó?

Tác giả sách này đã tìm cách trả lời các câu hỏi trên qua các thi kệ thiền của chư Thiền sư, những người đã đặt nền móng cho tu học Thiền tại Việt Nam, và  hy vọng trình bày được một cái nhìn chính xác và xuyên suốt về đường lối Thiền Tông tại Việt Nam.

Sách thuộc loại song ngữ Việt Anh gồm 95 bài thi kệ thiền, dịch Việt bởi Thiền sư Thích Thanh Từ, Giáo sư Lê Mạnh Thát và nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn. Tác giả dịch sang Anh ngữ với lời ghi chú nơi mỗi bài. Đặc biệt bài 95 là bài phú khá dài của Vua Trần Nhân Tông, sáng tổ dòng Thiền Trúc Lâm, được trình bầy như là toát yếu đường lối tu hành của dòng thiền này, trong đó có bài thi kệ cuối nổi tiếng mà các nhà văn học, các văn nhân thi sĩ cũng như mọi người theo đạo Phật đều biết đến.
Trân trọng kính giới thiệu. Sách này sẽ giúp các độc giả muốn tìm hiểu về Thiền Tông Việt Nam.
Nhà xuất bản Ananda Viet Foundation | Tâm Diệu

ABBREVIATIONS
CHỮ VIẾT TẮT

Dhp  Dhammapada, Kinh Pháp Cú
AN   Anguttara Nikaya, Kinh Tăng Chi Bộ
DN  Digha Nikaya, Kinh Trường Bộ
MN  Majjhima Nikaya, Kinh Trung Bộ
SN  Samyutta Nikaya, Kinh Tương Ưng Bộ
Ud   Udana, Kinh Phật Tự Thuyết
Sn  Suttanipata, Kinh Tập
Thag  Theragatha, TRưởng Lão Tăng Kệ
Thig  Therigatha, Trưởng Lão Ni Kệ
---  ---
DA  Dirghagama, Kinh Trường A Hàm
EA  Ekottarikagama, Kinh Tăng Nhất A Hàm
MA  Madhyamagama, Kinh Trung A Hàm
SA  Samyukatagama, Kinh Tạp A Hàm 

MỤC LỤC

Phần 1. (từ trang 21 đến  trang 42)

1. Advising People To Enter The Way | Khuyên Đời Vào Đạo 2. The Treasure | Kho Báu 3. Sitting | Ngồi  4. The Mind Seal | Tâm Ấn   5. This Land, This Mind | Đất Này, Tâm Này  6. Wordless | Không Lời 7. Rise and Decline | Thạnh Suy 8. Illusory | Huyễn  9. The Mind of Emptiness | Tâm Không  10. Serenity | Tịch Lặng

Phần 2. (từ trang 43 đến  trang 59)

11. Existence and Nonexistence | Có Và Không 12. True Nature | Chân Tánh 13. Crossing the Ocean | Qua Biển Sinh Tử 14. Empty Mind | Tâm Không 15. The Spring | Mùa Xuân 16. Emptiness | Không 17. At Home | Tại Nhà 18. Weird Thing | Việc Kỳ Đặc 19. The Sun | Mặt Trời 20. Wisdom | Tuệ 

Phần 3. (từ trang 60 đến  trang 78)

21. Illusory Body | Ảo Thân 22. Breathing | Thở 23. Buddha Seed | Hạt Giống Phật  24. Learning | Học Đạo 25. Taming The Mind | Luyện Tâm 26. Watchful | Thẩm Sát 27. Dharma Friends | Bạn Đạo 28. The Present | Hiện Tại 29. Not Two Things | Không Hai Pháp 30. Swallow Flying | Nhạn Bay

Phần 4. (từ trang 79 đến  trang 95)

31. At Ease With Birth And Death | Sống Chết Nhàn Mà Thôi 32. Bodhi Scenes | Bồ Đề Cảnh 33. Mind Teachings | Tâm Tông 34. Death Poem | Kệ Thị Tịch 35. The Moon Shining | Trăng Sáng 36. Fire | Lửa 37. The Unconditioned | Vô Vi 38. Like An Echo | Như Vang 39. Nowhere | Không Một Nơi 40. Taming The Mud Ox | Chăn Trâu Đất 

Phần 5. (từ trang 96 đến  trang 115)

41. Butterflies | Bướm 42. Echo In Sky | Tiếng Vang 43. In Front Of Your Eyes | Trước Mắt 44. Cessation | Tịch Diệt 45. The Thus Come One | Như Lai 46. Dharma of Equality | Bình Đẳng 47. The Way Of Patriarchs | Tổ Sư Thiền 48. Illusions | Huyễn 49. Daisies | Cúc Hoa 50. Mind Only | Duy Có Tâm Thôi

Phần 6. (từ trang 116 đến  trang 142)

51. The Nature Of The Mind | Kiến Tánh 52. The Buddhas Within | Chư Phật Trong Ta 53. The Lamp | Ngọn Đèn 54. Leaving The World | Xuất Thế 55. From The Emptiness | Từ Không Mà Tới 56. The Highest | Bậc Nhất 57. Practice | Thiền Tập 58. The Six Words | Sáu Chữ 59. Like A Dragon | Như Rồng 60. Birth and Death | Sinh Và Tử

Phần 7. (từ trang 143 đến  trang 168)

61. Not For Profit | Không Vì Lợi 62. Urgently Practice | Gấp Tu 63. The 'What Is' | Cái Đương Thể 64. Sitting Still Tĩnh Tọa 65. At Ease With Birth And Death | Sống Chết Nhàn Mà Thôi 66. Be Wise | Hãy Có Trí Tuệ 67. Nothing Attainable | Vô Sở Đắc 68. Stone Horse | Ngựa Đá 69. Outside The Scriptures | Giáo Ngoại 70. Sun Of Wisdom | Mặt Trời Trí Tuệ  

Phần 8. (từ trang 169 đến  trang 201)

71. Foolish Si | Độn 72. Message | Lời Nhắn 73. Dharma Heir | Người Nối Dòng Pháp 74. Seeking The Mind | Tìm Tâm 75. Not A Word | Không Một Lời 76. The Three Studies | Giới Định Tuệ 77. Originally Emptiness | Vốn Là Không 78. The Iron Girl | Cô Gái Sắt 79. Seeing The Buddha | Thấy Phật 80. Always There | Thường Trụ

Phần 9. (từ trang 202 đến  trang 242)

81. Feeling Inspired | Phòng Núi Khởi Hứng  82. Mountain Temple | Chùa Núi 83. Going Home | Về Nhà 84. Manifesting | Hiển Lộ 85. Encouraging | Sách Tấn 86. Going Home | Về Quê 87. The True Body | Chân Thân 88. Be Awakened | Tỉnh Giác 89. The Serene Mirror | Gương Lặng Lẽ 90. No Difference Between Ignorance And Enlightenment | Mê Ngộ Không Khác

Phần 10. (từ trang 243 đến  trang 283)

91. Zen | Thiền 92. Bodhi | Bồ Đề 93. The Great Way | Đại Đạo 94. Song Of The Buddha Mind | Phật Tâm Ca 95. Living Amid Dust And Enjoying The Way | Cư Trần Lạc Đạo


INTRODUCTION

What is the way of Zen in Vietnam? Is there only one answer, or many? Should the answer be a wordless gesture? Who has the authority to answer those questions?

This book is written to give a glimpse of the way of Zen in Vietnam. Personally, I am nobody. Though I have studied and practiced Zen for nearly half a century, I feel I will always remain a student of Zen. Readers can find many of the sentences here in some books of Buddhism in Vietnam; some are my memories of the things I've read or heard. The comments and the English translation in this book are mine; otherwise will be indicated.

Three of those I am indebted to are Zen Master Thích Thanh Từ, Prof. Lê Mạnh Thát, and researcher Trần Đình Sơn. In this book, I use many poems that were translated into modern Vietnamese language by the three scholars above. The ancient Zen masters in Vietnam wrote poems in the Chinese and Nôm languages. At times, I paraphrase poems into simple prose to make them easier to understand.

This book is not for profit. You are free to copy or reproduce noncommercially. May all beings be healthy and happy; may all beings be free.

Đường lối Thiền Tông tại Việt Nam là gì? Có một câu trả lời, hay nhiều hơn? Hay là, câu trả lời nên là một cử chỉ không lời? Ai có thẩm quyền trả lời những câu hỏi đó?

Sách này được viết để cho một cái nhìn về Thiền Tông tại Việt Nam. Bản thân tôi không là gì cả. Dù tôi học và thực tập Thiền trong gần nửa thế kỷ, tôi cảm thấy mình vẫn là một Thiền sinh vĩnh viễn. Độc giả có thể thấy nhiều câu nơi đây trong các sách về Phật Giáo Việt Nam; một số là ký ức tôi nhớ về những gì tôi đã đọc hay nghe. Các ghi nhận và phần Anh dịch trong sách là của tác giả, trường hợp khác sẽ kể rõ tên người ghi nhận.

Ba tác giả tôi mang ơn là Thiền sư Thích Thanh Từ, Giáo sư Lê Mạnh Thát và nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn; trong sách này, tôi sử dụng nhiều bài thơ được ba học giả này dịch sang tiếng Việt hiện nay. Các Thiền sư tại Việt Nam nhiều thế kỷ trước đã làm thơ bằng tiếng Hán và tiếng Nôm. Có những lúc, tôi chuyển các bài thơ sang văn xuôi đơn giản để dễ hiểu hơn.

Sách này viết không vì lợi nhuận. Ai cũng có quyền tự do sao chép hay phổ biến lại, một cách phi thương mại. Xin nguyện cho tất cả chúng sinh được sức khỏe và hạnh phúc; xin nguyện cho tất cả chúng sinh được giải thoát.
This title will be released on June 5, 2020 in Viet Nam and abroad and
Free e-book will be available on the on July 1, 2020


Monday, June 1, 2020

Siêu Tuệ: Sấm ngôn vọng qua linh hồn NIETZSCHE – BODHIDHARMA

Hình ảnh minh hoạ: Uyên Nguyên
Sấm ngôn vọng qua linh hồn

NIETZSCHE – BODHIDHARMA


DIỆU VIỆT
Trúc biếc đầu ghềnh rung bóng nguyệt
Làn mây khẽ gợn nước trong veo
Môt chiếc thuyền nan chàng đạo sĩ
Đưa tay khẽ vớt dưới chân bèo

SIÊU ĐỊNH
Vô niệm tâm đắc trụ
Ly khởi thể vô sanh
Tinh diệt thể hư không
Vô sanh niệm chân như

LY THỂ
I
Từ mõm đá chơi vơi
Ngút ngàn hơi thở lạnh
Đưa tay cột sương rơi
II
Từ thung lũng sâu ngó xuyên đỉnh núi
Ngọn lá non xanh mướt khung trời
Đá găm đất lạnh mặc thời gian
Cây nứt vỏ trong đêm tĩnh lặng
Suối vo ve ngọn cỏ bên bờ
Im lặng như sấm nổ
Đêm chìm những con sao
III
Ta hét to lên trong uất nghẹn
Ta im lìm trong rạo rực miên man
Gầm hơi thở lại cho đêm chìm sâu xuống
Nén hết âm thanh cho tiếng nói vũ trụ tan tành
IV
Bước đi diệu vời trên sương núi
Ngoảnh lại đôi mắt rung rinh giọt nước soi
Con chim bay qua, vô biên vụt hiện
Cảm niệm mơ màng vô thức biến nhanh
Con thú lạc đêm rừng khuya sương điểm
Lá khẽ hôn cành mây bay đụng gió
Đá vỡ gót chân mềm sen nở
Giải thoát nào cầu chẳng niệm vô biên
Gót chân mài trên đá
Thân ngồi rã hư vô
Tính căn sâu vi diệu
Tâm thể chẳng niệm cầu
Có không treo đầu gió
Không có lạc mây bay
Khoảnh khắc nào chưa điểm
Vô niệm xanh rêu ngồi
V
Cúi mặt chau mày hơi thở quăng trên đá
Âm u miên viễn lạc bước hoàng hôn
Vồn vã tấm thân mòn khoảnh khắc
Dấu vết thiên thu thấp thoáng trùng trùng
Từ núi lạnh vụt trông vào định thể
Chập chùng mày thoang thoảng ý thức bay
Ghềnh đá cheo leo vực sâu biền biệt
Ngó bầu trời xanh cảm niệm miên trường
Ngủ thu không đôi mắt thiu thĩu
VI
Từ định thể ngó mình xuyên ngũ uẩn
Đại định vòng khung nhẹ bốn nàng thơ
Nàng mộng huyền si tình trên cát trắng
Dịu dàng thay mềm mại trụ bao la
Nàng uyển chuyển khẽ đưa hồn phiêu lãng
Nẻo ái ân nóng bỏng tụ tinh không
VII
Từ đại định xuyên mình qua sáu nẻo
Cõi nào mơ bằng trần cảnh duyên duyên
Say ảo mộng sáu chàng ưa phiêu lãng
Căn duyên này trần cảnh nọ giao du
Ái ân nào chưa thỏa mộng thiên thu
Tình đắm đuối tình say tình điên dại
Thỏa mãn nào chưa đến tuyệt phi vô
Còn đắm đuối còn say còn giao cảm
Lạc bước đường trần căn duyên thúc chặc
Vô niệm chưa về trần cảnh hữu duyên
Giao động cung mây vô biên uyển chuyển
Cảm niệm xin về nơi trụ chân không
VIII
Bốn phương dìu dặt tỉnh tỉnh
Vũ trụ im bặc vô biên
Tư tưởng toát bay đầu óc bể nát
Đá nẻ xin về dấu trụ hư vô
IX
Từ vực thẳm bước chân gầm nổ sấm
Tử thi rã rời trôi dạt vô biên
Dấu chân con thú dữ mây khoả lớp
Lạc nẻo thôi đường đã biệt tăm
Còn ta, ta đứng ngắm mình vạn nẻo
Đá mòn chân lún diệt không không
X
Nẻo cát phù du vô định thể
Vô niêm vô biên
Đá nát không gian phai lộng gió
Âm thầm giao biệc mặc thiên thu
XI
Ta từ trong đại dương đi ra
Mang thân hình cát bụi
Ta từ trong đá lửa trồi lên
Mang hình hài vô niệm
XII
Ta từ trong đại thể hiện hình
Mang tâm hồn vĩ đại
Sống cảm ứng không gian
Đi âm thầm xoay ngược vú thời gian
Nút sữa tanh hơi dãi dầu lạc lõng
Vời vợi trùng trùng giao ứng trầm luân
Xiết chặt vô thức cho tan cung cảm
Diệu vời lay động giới định không mòn
Lá rụng tuyệt thu hơi thở ầm ầm
Lặng nẻo muôn trùng trí huệ vô biên
XIII
Giải thoát mong cầu chi mòn mỏi
Không gian trầm lặng mộng bào ảnh
XIV
Thuyền nan như lộ diệt ba đào
Sóng cả trùng trùng ngọn chiêm bao
Trí huệ siêu huyền chẳng đối tâm
Vọng niệm thôi sanh vùng biến ảo
Lộ diệt tâm còn chẳng biến tâm
XV
Đại thể phiêu bồng trong đại định,
Thâm trầm tri liễu không danh tướng
Âm âm miên viễn không không lồng lộng
Lồng lộng miên trường giữa không không

SIÊU TUỆ
trích Tư Tưởng Số 5 (Năm 1970)