“Một con én một đoạn đường lay lất
Một đêm dài nghe thác đổ trên cao
Ta bước vội qua dòng sông biền biệt
Đợi mưa dầm trong cánh bướm xôn xao
Bóng ma gọi tên người mỗi sáng
Từng ngày qua từng tiếng vu vơ
Mưa xanh lên tóc huyền sương nặng
Trong giấc mơ lá dạt xa bờ
Người đứng mãi giữa lòng sông nhuộm nắng
Kể chuyện gì nơi ngày cũ xa xưa
Con bướm nhỏ đi về trên cánh mỏng
Nhưng về đâu một chiếc lá xa mùa?
Năm tháng vẫn như nụ cười trong mộng
Người vẫn đi như nước chảy xa nguồn
Bờ bến lạ chút tự tình với bóng
Mây lạc loài ôi tóc cũ nghìn năm”*
Đó là bài thơ Mưa cao nguyên của Tuệ Sỹ mà kẻ lang thang này đã ngâm nga không biết bao nhiêu lần trên dặm ngàn rong rêu phiêu bạt.“Năm tháng vẫn như nụ cười trong mộng” là một câu thơ ám ảnh, cứ đọc đi đọc lại mãi như đọc thần chú, dọc theo những chuyến giang hồ xuôi ngược khắp mười phương sương gió đó đây.
Ngày đi, tháng đi, năm đi và đời mình cũng đang chuyển dịch đi qua. Đi trên nhịp bước bềnh bồng sông núi lặng: “Đi để nhớ những chiều pha tóc trắng. Mắt lưng chừng trông giọt máu phiêu lưu.”* Phiêu lưu, phiêu lãng ngàn phương, theo cách điệu tiêu dao du chơi giữa vô thường:
“Bước đi nghe cỏ động
Đi mãi thành tâm không
Hun hút rừng như mộng
Tồn sinh rụng cánh hồng”**
Bồng phiêu tựa cánh chim trời vút bay giữa muôn trùng cuộc lữ, như Nguyễn Du tung vó ngựa băng qua những ngọn núi chập chùng Hồng Lĩnh, còn văng vẳng vọng lại khúc Đoạn trường tân thanh ca, như Lý Hạ lê la trỗi điệu Quỷ ma ca với những âm hồn lênh đênh trong bóng đêm dài sinh tử, như Rimbaud Một mùa địa ngục ca, vượt qua bao phong trần, gian nan, khổ lụy đuối mệt nhừ, như Tô Đông Pha Viễn mộng ca, bị đày ải truân chuyên tận cuối miền hoang dã tuyệt mù xa, như Basho đơn hành ca trên Con đường sâu thẳm khắp dặm trường tận góc bể chân mây hay như Tuệ Sỹ đi và đi theo cuộc Thiên lý độc hành đầy khổ hạnh, một cách phiêu nhiên lên đường, đi trong mùa sương lạnh căm căm của sử lịch kinh hoàng, quá cùng bi tráng chạnh sầu ca:
“Ta đi dẫm nắng bên đèo
Nghe đau hồn cỏ rủ theo bóng chiều
Nguyên sơ là dáng yêu kiều
Bỗng đâu đảo lộn tịch liêu bến bờ
Còn đây góc núi trơ vơ
Nghìn năm ta mãi đứng chờ đỉnh cao”**
Hố thẳm vực sâu nào đứng lặng nghìn năm, chờ đợi gì trên tận đỉnh trời cao xanh vời vợi? Tại sao bên góc núi trơ vơ lại nghe đau hồn cỏ và trong bóng nắng chiều tà bàng bạc, thi nhân làm khách lữ băng qua dốc đèo núi ngoằn ngoèo, hiu quạnh, vắng tanh, lạnh lẽo rồi dừng chân bên một cái miễu cô hồn nghỉ ngơi, chợt thấy chập chờn cơn mộng mị chiêm bao?:
“Bên đèo khuất miễu cô hồn
Lưng trời ảo ảnh chập chờn hoa đăng
Cây già bóng tối bò lan
Ta ôm cỏ dại mơ màng chiêm bao”**
Chiêm bao mơ màng là một trạng thái thần hồn lãng đãng, khi người khách lữ chạnh lòng tư lự, lúc nhìn tà huy vàng vọt xế bóng chiều rờn lạnh quanh cái miễu cô hồn, đứng trơ trọi ven cánh rừng quạnh quẽ, hoang vu.
Thấp thoáng, chập chờn bao oan hồn âm u, phưởng phất, vật vờ ven bờ lau ngọn cỏ tiêu điều, hiu hắt lặng diêu mang…Giống như Trần Tử Ngang, khi đi qua một nghĩa trang cũng bàng hoàng tự hỏi:
“Ai người trước đã qua
Ai người sau chưa tới
Nghĩ trời đất vô cùng
Một mình rơi giọt lệ”
Giọt lệ thi nhân rớt xuống nấm mồ nhân thế có ý nghĩa gì trên cuộc về của chúng ta? Thực ra, không có cuộc đi hay cuộc về chi cả mà chỉ là một sự vận hành sinh động, trùng trùng duyên khởi từ vô thủy đến vô chung.
Người thi sỹ dị thường kia cũng vậy, không biết tự bao giờ cũng đã ra đi, khi “bóng tối sập mưa rừng tuôn thác đổ” xuống mịt mù. Đi như một “bóng ma” giữa ngày tháng lênh đênh trên những nẻo đường chênh vênh, quạnh vắng, lặng lẽ theo nước lũ “lăn cát sỏi cùng trôi” qua heo hút truông suối gập ghềnh, rờn rợn sóng lao xao:
“Bóng tối sập mưa rừng tuôn thác đổ
Đường chênh vênh vách đá dọa nghiêng trời
Ta lầm lũi bóng ma tròn thế kỷ
Rủ nhau đi cùng tận cõi luân hồi
Khắp phố thị ngày xưa ta ruổi ngựa
Ngang qua đây ma quỷ khóc thành bầy
Lên hay xuống mắt mù theo nước lũ
Dẫm bàn chân lăn cát sỏi cùng trôi
Rồi ngã xuống nghe suối tràn ngập máu
Thân là thân cỏ lá gập ghềnh xuôi
Chờ mưa tạnh ta trải trăng làm chiếu
Nghìn năm sau hoa trắng trổ trên đồi”**
“Chờ mưa tạnh ta lấy trăng làm chiếu. Nghìn năm sau hoa trắng trổ trên đồi.” Hình ảnh thật ấn tượng, đẹp một vẻ đẹp bồi hồi, chỉ có tâm hồn uyên áo đầy thơ với mộng đó mới có thể vẽ lên được như thế mà thôi. Tâm hồn thơ mộng mà cũng huyền mộng như Lão Tử “huyền chi hựu huyền” diệu ảo vô lường.
Bước chân bi mẫn đầy hùng tráng, thênh thang suốt muôn chiều phiêu nhiên, lội qua khắp những phương trời Đông Tây kim cổ, dạo chơi từ Nguồn gốc của một thế giới quan vô tận đến Truy tìm tự ngã, từ Tư tưởng là gì? đến Sự hủy diệt của một trào lưu tư tưởng, từ Tánh Không luận là gì? đến Tư tưởng Phật giáo đối diện với hư vô, từ Thi ca và tư tưởng đến Dẫn vào thế giới văn học Phật giáo, Từ biện chứng hiện sinh đến biện chứng Trung quán*** vô cùng minh triết tuyệt vời.
Rồi một ngày kia, thi nhân cao hứng lên tận đỉnh đồi Khoa học tối thượng để Tổng thuyết Vũ trụ luận về các nền văn minh tối cổ của nhân loại, lặn lội sâu xuống biển cả Đạo học uyên nguyên, mở tung cánh cửa Mười huyền môn rồi Dẫn vào Duy thức học, Duy tuệ thị nghiệp và Ý hướng triết lý của Trung quán*** Hát ca hòa tâm khúc từ Thắng Man giảng luận đến Huyền thoại Duy Ma Cật, từ Giấc mơ Trường Sơn đến Thiên lý độc hành tận cùng cuối biển đầu non:
“Đã mấy nghìn năm đợi mỏi mòn
Bóng người cô độc dẫm hoàng hôn
Bởi ta hồn đá phơi màu nắng
Ôm trọn bờ lau kín nỗi buồn”**
Đã mấy nghìn năm trôi qua rồi, kẻ cô hành độc lữ cứ kiên cường, bền gan vững chí bước đi. Bước đi kỳ cùng của một bậc pháp khí đầy sinh động, giống như hình ảnh Đức Phật ngày xưa:
“Một bình bát với cơm ăn của thiên hạ. Một mình lẻ bóng lang thang trên khắp mọi nẻo đường. Một mục đích duy nhất của đời sống là giải quyết vấn đề sống chết. Một sứ mệnh duy nhất là cởi bỏ mọi ràng buộc cho chúng sinh:
Nhất bát thiên gia phạn
Cô thân vạn lý du
Kỳ vi sinh tử sự
Giải thoát độ quần mê
Hình ảnh này là nguồn cảm hứng bất tận của văn học Phật giáo Nguyên thủy và cả Đại thừa, nhưng với cường độ khốc liệt, cực đoan hơn:
Nhất thiết vô úy nhân
Nhất đạo xuất sinh tử
Tất cả các bậc vô úy, không còn sợ hãi, chỉ có một con đường độc nhất phải đi là qua bên kia bờ của sự sống và sự chết. Qua bên kia bờ là chứng ngộ tính Tịch diệt của Niết bàn. Nơi đây chính là thế giới của cô liêu tuyệt đối…”***
Trên tinh thần vô úy, thi nhân hành viễn xứ, một hình một bóng cô liêu giữa muôn chiều lữ thứ. Đối diện vô số khổ luỵ đoạn trường, giáp mặt tử thần, cận kề quỷ sứ ma vương trong tù ngục đọa đày.
Tuy bị vây khổn như thế nhưng rồi cũng băng qua và vượt qua hết những thành trì ngã chấp điên đảo, những vọng tưởng cuồng si của một thứ hư vô chủ nghĩa thật khủng khiếp rợn kinh hồn…
Rồi cuộc Thiên lý độc hành tiếp tục, một sớm mai hồng cuối xuân năm ấy, rời núi rừng cao Đamri, Bảo Lộc, xuống đèo non dốc núi, lội qua ồn ào phố thị, xuôi dọc dòng sông nước Cửu Long và trôi dạt ra đại dương, tận Ngoài hải đảo Lại Sơn ngút ngàn bao sóng biển Kiên Giang:
Nắng vàng bay giữa phong quang
Trùng khơi hải đảo ngút ngàn Lại Sơn
Trên đồi cao nhịp võng vờn
Thoảng nghe hương vị cô đơn tuyệt cùng
Cô liêu ca hòa thung dung
Từ tâm loang thấm chập chùng cỏ cây
Rừng hoang lau lách mọc đầy
Trèo non lội suối sương mây ngát trời
Kể từ cuộc lữ rong chơi
Đã qua mấy triệu năm rồi phải không?
Từng đau rợn máu lệ hồng
Từng thương vô hạn xót trong tim sầu
Chừ đây giữa biển lòng sâu
Lặng nghe tận đáy địa cầu nói chi
Tịch nhiên chẳng một lời gì
Mà vô lượng nghĩa hòa vi diệu huyền
Huyền hòa vi diệu cái chi, khi hai bàn chân dẫm lên bờ cát trắng giữa lồng lộng biển trời đầy gió nắng buổi đầu tiên?:
“Thuyền ra khơi có mấy tầng tâm sự
Nắng long lanh bóng nước vọt đầu ghềnh”*
Đầu sóng ngọn gió, đưa mắt trông vời trời biển phong quang, nhẹ nhàng bước đi theo từng nhịp trầm lắng ven đồi, bồng tênh đứng Trên đồi cao Vô Trú Am tận ngoài hải đảo xa xôi, heo hút muôn trùng, im lặng nhìn sóng ngàn khơi vỗ mênh mông bát ngát:
Ven triền đảo nhấp nhô gành đá tảng
Ngát rừng cao hoa lá trổ bao dung
Lòng như đại hải mênh mông chứa
Cả vô biên vô lượng cái tuyệt cùng
Trùng khơi hỡi bao la hòa sóng vỗ
Vỗ huyền ngân cung bậc đại dương cầm
Âm ba có lúc rung thần khí
Lúc im lìm nín bặt lặng hồn câm
Trầm nhịp võng đong đưa vầng nhật nguyệt
Sáng từng luồng ảo dị khói vô vi
Thái hư rỗng suốt cười mật hạnh
Cánh chim qua chẳng lưu lại vết gì
Bước đi của thi sỹ giống như một cánh chim nhạn bay qua dòng sông, chim đâu cố ý lưu ảnh hình dưới dòng nước chảy, dòng nước kia cũng vô tư không cố giữ hình bóng chim lại làm chi. Chim vẫn bay, nước vẫn chảy tự bao giờ giữa thiên địa hoang lương.
Đường lên dốc đá qua bãi cát xanh quanh triền núi nhấp nhô, Vô Trú Am nằm trên ghềnh đá chập chùng, nhìn xuống muôn trùng đại hải bao la. Nơi đây, nhà thơ cảm hứng theo cuộc lữ về mắc võng đong đưa giữa hai đầu biển núi, sớm chiều tiêu sái trong cõi tịch mặc, uyên tư trên Đồi đá tảng hoang sơ:
Về đây vất hết danh từ
Trút đi khái niệm toàn hư huyễn rồi
Ý nào chưa nói trên môi
Đã vang sóng vỗ thành lời thơ bay
Bay tan theo bọt sóng này
Chỉ còn điệu thở ở ngay bây giờ
Trên đồi đá tảng hoang sơ
Giữa ngàn khơi lộng không chờ đợi chi
Ơi trời xanh quá xanh rì
Tận cùng cuộc lữ là tri kiến mình
Tịch nhiên im vắng lặng thinh
Tịnh hồn sâu thẳm nghe tình tự ca
Nghe ra trong sâu thẳm tâm tình những niềm ý chi không biết. Chỉ hay rằng, thanh thản nụ cười mây trắng, an nhiên ánh mắt mưa xanh, thi nhân trút xuống muôn ngàn giọt từ tâm thâm thiết, tuôn tràn khắp cõi bụi phù trần, gội mát vô lường, khơi mở cho đời xiết bao thông lộ yêu thương.
Thưởng thức nguồn xanh thanh khí, hàm dung thần thái tiêu dao, bổ dưỡng tâm hồn. Còn gì thi vị hơn, khi du sỹ được ngồi đối diện, uống trà với nhà thơ trên đồi cao, bên ghềnh đá tảng nhấp nhô ven triền biển, như uống từng giọt sương cam lồ nguyên trinh, tịch lặng, lắng nghe Hương vị một tách trà thoảng ngát giữa thiên thu:
Sớm tinh mơ đốt trầm ngồi đối ẩm
Rót giọt sương vào ly gió muôn trùng
Trộn lẫn nắng nghìn thu trong một cốc
Trà thi ca cùng thưởng thức vài chung
Nghe lý sự tan trong niềm im lặng
Chén trà xanh thanh đạm tỏa vờn hương
Hương vị đó có trời cao đất rộng
Hòa quyện nhau thành diệu nghĩa vô lường
Một tách trà chứa càn khôn vũ trụ
Đủ tương phùng sông suối biển ngàn khơi
Mời toàn thể mười phương cùng nhau uống
Nguồn sơ nguyên uyên mặc vốn không lời
Tuy không lời nhưng vẫn nghe đồng vọng trong lòng xiết bao niềm thâm thiết, bởi trong một tách trà đã chứa cả càn khôn vũ trụ rồi. Chỉ cần ngồi yên lặng, lắng nghe tiếng đàn thiên cổ vô thanh, rung ngân qua từng cung bậc nhật nguyệt, thiên địa tuần hoàn và hòa chan dạt dào trong Vô lượng tình thương:
Chén trà chứa cả đại dương
Ôi tình linh diệu vô lường vô biên
Nâng ly sạch hết ưu phiền
Tan nghìn u tối bừng nguyên sơ này
Hương trà thoảng ngát đồi cây
Ấm lòng tỏa quyện hiển bày thanh tâm
Lời thơ trên mắt lặng trầm
Thầm nghe trực tiếp niềm thâm cảm nào
Chao ơi! Trời đất tiêu dao
Ngời xanh ánh nguyệt chiếu vào sâu xa
Mới hay trong một chung trà
Hòa vi diệu pháp reo ca giữa hồn
Chén trà vi diệu tâm pháp từ bàn tay gầy của thi sỹ rót xuống giữa đêm trăng rằm hay sớm tinh sương kia bỗng hóa thành thơ với nhạc. Vang ngân sóng vỗ hòa theo xạc xào cây lá, hoa vàng, cát sỏi ven triền dốc đồi quanh co gió nắng. Lặng hồn tâm trầm lắng để nghe những điệp khúc dương cầm âm vang sớm trưa chiều mà cảm nhận Diệu thường hương vị cô liêu:
Đại dương như một cung đàn
Ngày đêm vỗ nhịp diêu mang sớm chiều
Diệu thường hương vị cô liêu
Thoảng quanh gành đá hải triều âm dư
Lẫn trong khói sóng bay mù
Trên đồi cao bóng hoang vu chạm trời
Thênh thang giữa cuộc lữ chơi
Đến đi như vậy thấy rồi như nhiên
Thấy nghe chi cũng tuyệt huyền
Miên man sáng tạo cõi uyên nguyên nào
Cung cầm mật pháp truyền trao
Cảm rung cùng tận nghe rào rạt ngân
Rạt rào bao thanh âm trầm tịch, sâu lắng nên mọi tiếng nói, diễn giải lý đạo lẽ đời tự nhiên vắng lặng, chẳng cần phải bày tỏ, phát biểu tâm tư chi nhiều thêm nữa. Vì mật pháp truyền trao rồi nên ngôn ngữ trở thành không cần thiết, khi thi nhân chống gậy trúc Lên núi Ma Thiên Lãnh, một ngọn núi cao nhất ngoài hải đảo, vang vọng sóng mây ngàn vần vũ giữa thanh thiên:
Suối truông ngập lá ven triền
Trèo lên dốc đứng giữa thiên nhiên này
Gậy thiền nghiêng cánh chim bay
Lượn phong quang ngợp trắng đầy mây trôi
Dừng chân bên thạch động ngồi
Màu rêu xanh lặng nghe hơi núi trầm
Thoáng vèo qua mấy nghìn năm
Mà rừng sâu vẫn còn thầm ngát hương
Hương chi thi vị lạ thường
Quyện vào hương tích hòa tương cảm cùng
Đường sương nắng trải mông lung
Dấu chân tiền kiếp trên vùng hoang sơ
Hoang sơ trên vùng cát sỏi, dấu chân tiền kiếp nào chợt thấy còn in trên vệt sương mờ ảo dị, để rồi khi đi về trong mường tượng vô lượng kiếp sau vẫn thấp thoáng hạt bụi bơ vơ vèo bay qua giữa rừng lau sậy phất phơ bạc màu nhàu úa:
“Khi về ngả nón chào nhau
Bên đèo còn hẹn rừng lau đợi chờ
Trầm luân từ buổi ban sơ
Thân sau ta vẫn bơ vơ bụi đường”**
Phải chăng, đó là cái thấy của một đôi mắt thấu thị nhân sinh, nhìn xuyên qua cả sáu cõi luân hồi? Không biết nữa, chỉ biết ban sơ là thuở trời đất mới phôi dựng còn thanh tân, nhật nguyệt còn chiếu diệu một làn ánh sáng huyền mộng, mông lung...
Màu ánh sáng ban sơ ấy, bây giờ vẫn còn chiếu hiện rực rỡ trên con mắt “nhìn thấu suốt ba cõi, ngàn đời” ngời tỏa ánh hào quang đầy thần thái an lạc với nụ cười trầm tịnh, trinh tuyền trong nắng sớm bình minh, rực chiếu mặt trời.
Phạm Công Thiện nói, đôi mắt Tuệ Sỹ như Long Tượng, sáng tỏa cả ngàn mặt trời. Tinh sương, tinh tú, tinh ba cùng long lanh với tinh hoa, tinh anh, tinh túy rồi dồn lại lấp lánh thành tuệ nhãn, sáng trưng rực ngời trên Đôi mắt Tuệ Sỹ:
Như Long Tượng mắt mở trừng sáng rực
Một hôm gầm sấm dậy khắp nhân gian
Làm chấn động khắp sơn hà đại địa
Rền ngân vang tận rú thẳm non ngàn
Đôi mắt ấy như mặt trời chiếu diệu
Thiêu rụi tàn ngàn bóng tối u minh
Vô lượng quang sáng bừng lên trí tuệ
Đại bi tâm hàm dung chứa bao tình
Đôi mắt đó lặng trầm sâu đại hải
Hòa chan nhau máu lệ nỗi đau đời
Từ nhãn thị chúng sinh đầy thương cảm
Mà đọa đày trong cuộc lữ chao ơi!
Ôi đôi mắt lặng nhìn xuyên tam thế
Cõi tồn lưu huyễn mộng khói sương lồng
Lòng trăng hiện giữa đêm dài sinh tử
Thõng tay vào phố chợ bước dung thông
Bước dung thông là thõng tay vào chợ, bước đi như thị, như nhiên, biết khế lý, khế cơ, không vướng kẹt vào bên này hay bên kia. Chẳng mắc dính vào cao thấp, lớn nhỏ, trí ngu, đúng sai, phải trái, hơn thua, tốt xấu, giàu nghèo, thiện ác, sang hèn, ghét thương, sướng khổ, có không, mộng thực, mê ngộ, đạo đời, được mất, chân giả…chi chi cả.
Phải chăng, đó là bước đi tùy duyên, tùy thuận chúng sinh, dùng nghệ thuật văn chương để chuyển mê khai ngộ một cách diệu dụng của hàng Bồ tát thị hiện giữa dòng đời? Không rõ nữa, chỉ biết rằng, bước chân vân thủy đó đang rong chơi, mở ra bất tuyệt miền Không xứ trên vạn nẻo đường Nước chảy mây trôi:
Muôn dòng nhập cuộc rong chơi
Hòa chan cát bụi ngút vời phiêu nhiên
Lên núi ẩn xuống chợ triền
Bước chân vân thủy theo duyên thuận tùy
Như nước chảy chẳng dính chi
Như mây bay chẳng mắc gì thế gian
Dù rực rỡ hay điêu tàn
Vui lòng chấp nhận hân hoan như thường
Dù trăm thảm họa tai ương
Cũng không than oán can trường đến đi
Xem như chẳng xảy ra gì
Gốc từ vô ngã nên chi mỉm cười
Vô ngã là nhận biết “cái tôi” hay “cái ta” chỉ là giả danh, tạm gọi để xưng hô trong sinh hoạt, tiếp xúc với mọi người giữa cuộc sống thường nhật, chứ không thực có một “cái tôi, cái bản ngã” chắc thật nào cả. Biết rõ như vậy thì mình không chấp chặt, mắc dính vào ngôn ngữ, lợi danh, tránh được mọi phiền não.
Vô ngã là một thái độ không chấp giữ vào hình danh, sắc tướng, vào bất cứ một điều chi cả, cứ thanh thản, an nhiên qua lại với cái đang là, chứ Không có cái chi là tự ngã:
Ngút tận mù khơi trời hoang đảo
Văng vẳng đồi trưa vọng tiếng chim
Im lặng lắng nghe mây ngàn hát
Vang trong sóng vỗ biết bao niềm
Nghìn năm sóng vỗ trào vô ngã
Rạt rào trên biển lớn mênh mông
Mộng huyễn phù du bèo bọt nổi
Sóng tan thành nước chảy theo dòng
Sóng nước tuy hai mà vốn một
Nên sinh hay diệt vắng lặng rồi
Cũng ngay ngũ uẩn thân mình đó
Chân tánh nhiệm huyền hiện hữu thôi
Trùng trùng duyên khởi muôn vạn pháp
Đủ duyên thì hiện hết thì tan
Không có cái chi là tự ngã
Hòa chan vũ trụ trỗi cung đàn
Cung đàn A tăng kỳ kiếp vang dậy trỗi khúc vô ngã bồng bềnh, lênh láng hòa chung cùng vũ trụ, càn khôn, nhập vào hồn thơ Tuệ Sỹ: “Một cõi Vĩnh Hằng thu giọt nắng. Nghe tình du tử chợt xôn xao.” Xôn xao khi ngắm biển trăng ngần, ngân nga bao sóng vỗ âm ba và lúc leo lên tận ngọn Đề Thơ mờ sương khói núi, ngồi thưởng thức những cụm mây trời vạn cổ bay bềnh bồng trong gió nắng quang minh:
Núi Đề Thơ gập ghềnh lên tận đỉnh
Nhìn xuống sâu hun hút dưới chân đồi
Trời biển ngát lâng lâng vờn lan tỏa
Lượn hương ngàn mây nước khói sương trôi
Những tảng đá lạ lùng cao sừng sững
Đứng uy hùng xem lịch sử trôi qua
Gậy Thiền sư gõ trên đầu sử lịch
Mấy nghìn năm vang dội khắp sơn hà
Đá nhập định chuyển rung hồn xuất cốt
Bỗng nhiên nghe tiếng vỗ một bàn tay
Một tiếng vỗ vô thanh mà chấn động
Bùng vỡ ra cả vũ trụ phơi bày
Hiển lộ bày ra cái tinh khôi mới mẻ trên từng cái thấy, từng ngón tay gầy sáng tạo, qua ánh mắt thần lực rực ngời, trong giọng nói tiếng cười mật thiết, truyền cảm, tự nhiên gây sự chú tâm. Chú tâm mới nghe ra trong tiếng cười, giọng nói kia, bỗng dội rền lên một tiếng gầm sấm sét Rúng động tiếng Long Tượng rống:
Lên đỉnh Ông Rồng nhìn mây trắng
Bát ngát ngàn sương giữa muôn trùng
Cây Thiên tuế lặng trầm tịch mịch
Cuộn tròn như lý sự viên dung
Thiên tuế nghìn năm nằm chờ đợi
Bừng lên sinh khí hạo nhiên tràn
Tiếng Long Tượng rống làm rúng động
Khiếp vía kinh hồn cáo chồn hoang
Tháo chốt nhổ đinh rời tù ngục
Mở dây ràng buộc trói cột mình
Bước tiêu dao dạo vô sở trú
Đùa chơi hý lộng với tồn sinh
Sinh tử có không trò huyễn mộng
Sống chơi chết cũng vậy chơi thôi
Chơi không dính mắc vào đâu hết
Nên tự do đi cảm hóa đời
Như tiếng hét Lâm Tế, tiếng hú Không Lộ, Tuệ Sỹ cũng gầm lên một tiếng gầm quá dữ dội, làm động địa kinh thiên. Tiếng gầm đó, Phạm Công Thiện ví như tiếng rống của Long Tượng giữa đêm dài sinh tử mịt mù trong bóng tối muội mê:
“Tuệ Sỹ, một con người vừa là Thi sỹ vừa là Thiền sư, vừa là nhà hành động nhập thế với tinh thần vô công dụng hạnh của bậc Bồ tát. Hành động tích cực, mãnh liệt toàn triệt mà vẫn giữ cảm thức viễn ly và viễn mộng.
Vì không tham vọng, ích kỷ mù quáng, cho nên nuôi dưỡng cảm thức viễn ly, vì không bị kẹt dính vào tham sân si của thế tục, cho nên mới hàm dưỡng viễn mộng.
Tuệ Sỹ là một trong số ít đạo sỹ, thi nhân với pháp khí phi thường là Trí tuệ Bát nhã cùng với lòng Đại bi thơ mộng.
Tuệ Sỹ là một trong số ít thể hiện được ý nghĩa trọn vẹn của ý thức chính trị toàn diện, ý thức hành động Bi Trí Dũng, dẫn đường soi sáng Thể mệnh của Sử tính quê hương…
Tuệ Sỹ là bậc Long Tượng của Phật giáo Việt Nam…
Đôi mắt Tuệ Sỹ lúc nào cũng sáng rực. Sáng rực được bên ngoài vì đã sáng rực bên trong, đã sáng rực bên trong vì đã sáng rực không ở trong cũng chẳng ở ngoài. Rực sáng như ngàn mặt trời. Tôi gọi Thầy Tuệ Sỹ là Bồ tát, là Long Tượng, một bậc Đại sỹ…”
Thật kỳ lạ, trên đỉnh núi Ông Rồng, không biết tự bao giờ giữa trời biển đảo Lại Sơn, có một cây Thiên tuế khổng lồ, cổ thụ, thân cây vươn dài khoanh tròn như một con Rồng nằm trầm hùng trên đồi đá tảng cao ngất nhìn xuống đại dương kia:“Thiên tuế nghìn năm nằm chờ đợi.” Phải chăng, đợi chờ bước Thiền sư thi sỹ hôm nay chống gậy trúc đi về?
Về để làm chi, đến để làm gì? Thực ra, chẳng phải làm thêm bất cứ việc chi nữa cả. Nói như Trúc Thiên, một người bạn vong niên của Tuệ Sỹ, nói trong Tranh chăn trâu Đại thừa và Thiền tông:
“Trở về là trở về với trời đất, với muôn sinh, với nguồn sống vô tận ở trong ta và ở ngoài ta. Trở về để như mọi người “thấy núi chỉ là núi, thấy nước chỉ là nước…”
Tự đời thuở nào, con người vốn là thanh tịnh, vốn là Không, nên Thiền dạy khỏi phải làm gì hết, chỉ cần thấy Tánh là được trở về để mà nhập cuộc. Nhập cuộc là nhập vào cái trật tự tự nhiên, không thủy không chung của trời đất.
Trong trật tự ấy, chúng sinh là một pháp vô tâm nên vô sự. Viên sỏi bên đường là một pháp vô sự nên vô vi. Muôn pháp đều vô vi mà bình đẳng nhau trong Pháp giới vô ngại: Nước chảy, hoa trôi, trăng lên, gió mát…Muôn vật đều vô ngại nên tự tại.
Không phải tự tại ở Niết bàn, không phải tự tại trong phiền não mà tự tại trong Không. Trong trạng thái Không ấy, những danh từ thánh phàm, phải trái, tỉnh mê đều mất nghĩa. Tất cả đều là đại đồng, ứng hóa từ một Tánh giác…
Tất cả là Một. Một là Tất cả. Một hạt bụi chứa cả ba nghìn thế giới. Ba nghìn thế giới là một hạt bụi: Đều là Không…”
Không là thái hư, là hư không mông mênh, dung chứa cả vũ trụ càn khôn, vốn thường hằng chẳng sinh chẳng diệt, còn gọi là Tánh Không hay Tâm Không. Đó là cái thấy của Trúc Thiên và Tuệ Sỹ cũng vậy, nên đến đi như như bất động. Cứ tự nhiên như hòn đá cuội không tên tuổi bên bờ suối hoang vắng ven đường:
“Một thời thân đá cuội
Nắng chảy dọc theo suối
Cọng lau già trầm ngâm
Hỏi người bao nhiêu tuổi”**
Trên cuộc lữ thi ca giữa đất mộng trời thơ, tuổi tên không còn nhớ, chỉ còn tiếng nước chảy róc rách hòa lẫn tiếng suối reo trong trẻo mà thôi. Hãy lắng nghe chim rừng lảnh lót hòa cùng tiếng hát của thi nhân, vang vọng khúc Vô sự ca.
Lắng nghe trong giọng nói u mặc, trào lộng ấy là cũng đủ hiểu ra lẽ thật của bao nghĩa đời, lý đạo cao siêu. Đạo và Thơ cùng quyện hòa, chan chứa chung trên một tiết nhịp tương ứng, rất mực hòa hài:
“Cái ảo diệu không phải là cái ảo ảnh. Muốn cho lời thơ tuyệt diệu thì phải là đừng gò ép, vừa Không và vừa Tĩnh. Tĩnh cho nên thâu tóm hết mọi vọng động. Không cho nên bao hàm vạn cảnh. Ngắm nhìn sự đời, bôn ba giữa đời mà thấy mình như nằm trên chóp đỉnh mây cao. Đủ hết các thứ mặn nồng, chua chát, trong đó có cái hương vị tuyệt vời…
Người học Thiền, học từ cái khổ đau, hư ảo, học cho thân tâm ra là thứ tro tàn nguội lạnh. Học như thế là học để mà đọa đày. Sở đạt của sở học đó là buông thả, hóa thành cái Không và trở thành cái Tĩnh. Buông thả thì không câu chấp, không còn bị ràng buộc. Cũng tiêu dao như hồn thơ thoát sái và lãng mạn.
Tâm Tĩnh thì trầm lặng như mặt nước không gợn sóng, phản chiếu trọn vẹn ngoại cảnh. Tâm Không thì Tâm rộng như mặt biển bao la, dung nạp tất cả ngân hà tinh đẩu.
Người học Thiền chịu đọa đày cho thân mình gầy, cho tâm mình nguội, trong đó có cái diệu dụng phi thường của nó. Người làm thơ, cuộc đời bị đày ải truân chuyên, trong đó cũng có cái ảo diệu của vị chua vị mặn.
Suốt đời học Thiền, suốt đời vẫn đày đọa thân tâm, đày đọa trong cái Không và cái Tĩnh. Đày đọa đó mà kỳ thực không là đày đọa. Cũng vậy, suốt đời làm thơ thì suốt đời khổ lụy, lao đao nhưng không là khổ lụy, lao đao. Chỗ ảo diệu đó, chưa đạt đến cõi thượng thừa của thi ca, làm sao hiểu nổi?...
Thi sỹ và Thiền sư cũng lao đao và cùng tiêu sái trong cùng một cõi trầm mặc phiêu bồng, vừa Không vừa Tĩnh…Đạt tới cõi thượng thừa của Thơ, như người học Thiền chứng chỗ Không tịch của Đạo, cái đó vừa khó vừa dễ.
Học Thiền ba mươi năm, ba mươi năm đày đọa thân tâm mà không thành. Phẫn chí bỏ đi, bất chợt thấy một cánh hoa rơi, cõi Không tịch cũng hoát nhiên, đột ngột mở ra…”****
Thật không ngờ, thuở mới 27 tuổi mà Tuệ Sỹ đã viết một tác phẩm thâm trầm, thâm thúy, kỳ tuyệt như thế. Mở ra Tô Đông Pha những phương trời viễn mộng bồng bềnh trên dòng sông tâm thức lai láng, tràn đầy thơ với nhạc.
Mở ra cuộc song thoại giao hòa qua cung bậc thi ca và tư tưởng bát ngát mà nghe vang lên tiết nhịp im lặng, tịch mặc vô ngôn trong một niềm chi Im lặng sấm sét bất khả tư nghì:
Những phương trời viễn mộng đi
Thi ca tư tưởng bước kỳ tuyệt qua
Đọa đày một thuở ta bà
Nỗi đau rực cháy thấy ra tột cùng
Ôi! Giấc mơ Trường Sơn rung
Rúng hồn tim máu chợt bùng vỡ mơ
Kinh thiên động địa sững sờ
Đâu chân diện mục của Thơ với Thiền?
Mặc như lôi ngồi tịch nhiên
Nghe ban sơ vọng ngân huyền diệu âm
Những điệp khúc cho dương cầm
Từ vô tận ý vang thâm thiết niềm
Niềm chi mà thâm thiết vang âm, ý gì mà từ vô tận ngân dội về? Để cho Giấc mơ Trường Sơn, Những điệp khúc cho dương cầm và Thiên lý độc hành vẫn hoài nghe đồng vọng trên từng bước đi…
Khi du sỹ đang rong chơi với nhà thơ cùng lội suối trèo non, ngút ngàn ngoài ven trời vạn dặm giữa trùng khơi, vừa đi vừa nghe tiếng dương cầm thánh thót, trầm vang, thoảng ngát hương trời với cánh chim bạt ngàn trong sương nắng giăng giăng mờ vắng lặng:
“Ta nhận chìm thời gian trong khóe mắt
Rồi thời gian ửng đỏ đêm thiêng
Đêm chợt thành mùa đông huyễn hoặc
Cánh chim bạt ngàn từ quãng Vô biên”*****
Vô biên vô lượng tuy hoằng viễn thiên hà mà thực ra vẫn gần gũi quanh đây, ngay nơi đáy lòng bi mẫn, ngân dài khúc điệu vô ngôn. Vô ngôn một cách mặc như lôi trong ý vị sâu xa. Vì lẽ:
“Người thi sỹ xuất chúng, xuất thần, hay có phong thái khác thường đó. Họ nói rất ít mà nói rất nhiều. Họ nói rất nhiều mà chung quy hồ như chẳng thấy gì hết. Họ nói cho họ mà như nói hết cho mọi người. Nói cho mọi người mà cơ hồ chẳng bận tâm gì tới chuyện thiên hạ nghe hay là chẳng nghe.”
Bùi Giáng nhận xét về Tuệ Sỹ như thế trong Đi vào cõi thơ và thi nhân cũng lai rai hồi đáp lại:
“Bởi vì, cách điệu của Thi ca vốn dĩ phiêu hốt, khơi vơi, lãng đãng, nên bờ biếc bích ngạn chiêu hoa như một nơi chốn thong dong thánh thót. Thảm kịch khốn cùng dù có đổ ào lên Thi ca đến mấy đi nữa, Thi ca vẫn như điềm nhiên, ngao du theo ngày tháng, trong ngày tháng ngao du. Có thể nói đó là ẩn ngữ song trùng của Thi ca…”***
Ẩn ngữ song trùng cùng ngao du trên phong vận tài hoa, nhập cuộc với buồn vui, thương nhớ chút cảm hoài:
“Ta sống lại trên nỗi buồn ám khói
Vẫn yêu người từng khoảnh khắc chiêm bao
Từ nguyên sơ đã một lời không nói
Như trùng dương ngưng tụ ánh hoa đào
Nghe khúc điệu rộn ràng đôi cánh mỏi
Vì yêu người ta vói bắt ngàn sao”*****
“Vì yêu người ta vói bắt ngàn sao” hay “Vẫn yêu người từng khoảnh khắc chiêm bao” là điệp khúc Đại bi tâm mà một lần gần gũi, du sỹ chợt thầm cảm nghe được từ giọng nói và cái nhìn sâu thẳm của Tuệ Sỹ, khi ngồi trên tuyệt đỉnh ngàn cao giữa đại dương, Nhìn xuống cõi phù du chập chùng trùng khơi biển nước dạt dào:
Trèo lên tuyệt đỉnh núi cao
Ồ mây sóng lượn cuộn trào bay lên
Nhấp nhô trắng xóa đầu ghềnh
Mênh mang trời biển lặng mênh mang đầy
Ngó nhìn xuống cõi đời say
Dưới kia nhỏ bé đang dày xéo nhau
Lô nhô lúc nhúc loạn nhầu
Cứ tranh giành giật cứ xâu xé hoài
Chạnh niềm thương kiếp trần ai
Mãi còn hỗn độn đêm dài vô minh
Sao chưa thức dậy vươn mình
Ca bài giải thoát điêu linh phận người?
Phận người điêu linh, trầm thống không phải mới ngày hôm nay mà xảy ra từ mấy triệu năm rồi. “Nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển đại dương.” Đức Phật đã từng thấy như thế. Kể làm sao cho hết nỗi ngậm ngùi, xiết bao khổ lụy…Khi thi nhân nhận thấy sự thống khổ, đảo điên vô cùng tận thì mới phát khởi Đại bi tâm hay Bồ đề tâm:
“Bồ đề tâm, đó là chí nguyện nóng bỏng của một chúng sinh tự thấy mình đang sống trong cảnh tối tăm giữa đọa đày khổ nhục, mong tìm một con đường sáng, không những để giải thoát bản thân khỏi những đe dọa, áp bức mà còn là để giải thoát cho tất cả những người cùng cảnh ngộ.
Bồ đề tâm, đó là ý chí kiên cường, bất khuất của một người bị cột trói trên ngọn lửa rực cháy, bị chà đạp dưới những sức mạnh tàn khốc của tham vọng điên cuồng của chính ta và của một tập thể ma quái chung quanh ta. “Vui sướng gì, thích thú gì giữa ngọn lửa không ngừng thiêu đốt?Bị bao phủ trong bóng tối, sao không đi tìm ngọn đuốc?”
Không có tâm nguyện đó, không có ý chí đó, Bồ tát đạo chỉ là một con đường xa xôi, không tưởng, thần thoại hoang đường. Và Phật thừa không hơn một tiếng nói suông của một người mê sảng trong giấc ngủ ngày…”******
Bồ đề tâm thâm hậu là vậy, có mấy ai trên cõi đời này, hết lòng thực hiện được chăng hay chỉ là lặp đi lặp lại những từ ngữ suông trong những giảng đường trống rỗng? Thôi thì cứ mặc nhiên, yên lặng lắng nghe tiếng thơ của người thi sỹ chân thành:“Anh cúi xuống nghe núi rừng hợp tấu. Bản tình ca vô tận của Đông phương.”*
Từ bản tình ca đó, có thể nghe ra những dư vang kéo dài bất tận qua khắp rừng cao lũng thấp, trên mặt đất hư vô, khô cằn sa mạc, vang dội xuống tuyệt cùng hố thẳm tư tưởng, rồi vút bay theo cánh đại bàng của thi nhân ra biển cả ngàn trùng, tung lượn trên sóng vỗ nghe tiếng Cười giữa Tịch Không:
Cánh đại bàng bay qua đại dương
Lượn vờn chao trào bọt sóng dị thường
Bên ghềnh biển tiền thân về thấp thoáng
Ngát hồn xanh lấp lánh thanh lương
Chợt cơn mưa vừa đổ ngoài hiên
Mà nghe vang pháp vũ mát rượi liền
Đồi hoang dại cỏ cây đều mới lạ
Đá tảng ngồi thanh thản an nhiên
Trăng ngàn soi dọi chiếu vào trong
Nghìn xưa nay thấy hiện giữa lòng
Mặt mũi đó ồ vô ngôn thuyết
Huyền gặp huyền cười giữa Tịch Không
Không Tịch minh nhiên giữa biển ngàn hoang vắng, tịch liêu, chìm sâu trong nín thinh, tịnh khẩu. Bàng bạc dưới vầng trăng vĩnh hằng, lắng nghe những lời vô thanh văng vẳng bên đồi, kẻ viết những dòng khói sương này mường tượng, bằng con mắt Hoa nghiêm, nhà thơ nhìn thấy toàn thể cuộc đời trùng trùng duyên khởi, đầy ắp giọt lệ và nụ cười trộn lẫn viên dung, rúng động cả hồn vạn cổ. Cho nên tâm từ rải xuống thành Bi tráng một hồn thơ:
Bừng hiện sơ nguyên ngời ánh nguyệt
Biển tâm sóng gió lặng u trầm
Con mắt Hoa nghiêm im lặng thấy
Toàn thể cuộc đời giữa diệu thâm
Từ ái hoài rung nguồn xúc cảm
Khi chúng sinh đầy nước mắt rơi
Thiên lý độc hành từng chứng kiến
Máu lệ thế gian thấm tận lời
Lời thơ bi tráng còn âm vọng
Trong cõi tồn sinh khiến giật mình
Vô thanh mà động hồn nhân thế
Để giải oan tình thoát hãi kinh
Nguyện cho kiếp người ta thoát khỏi mọi u minh, kinh sợ. Phải chăng đó là tâm nguyện Đại bi phi thường, như trong“Kinh Phổ Hiền hạnh nguyện nhắc nhở lý tưởng ấy rằng:“Hư không hữu tận, ngã nguyện vô cùng.” Hư không còn có thể có chỗ tận cùng, nhưng tâm nguyện Đại bi của ta thì không bao giờ cùng tận…”***
Thật vậy, lòng thương vĩ đại của thi nhân trải dài trên vô lượng đường thơ. Từ bụi hồng phố thị đi vào tù ngục đọa đày, từ trên cao nguyên rừng núi qua khắp những nẻo đèo truông, heo hút gió sơn khê.
Về ngang xô bồ phố thị qua châu thổ đồng bằng, hoà âm điền dã cùng hoa ngàn cỏ nội, rồi ra tận trùng khơi hải đảo xa mù…Đến đâu thì suối nguồn yêu thương ấy cũng chảy tràn đầy đến đó, mang lại cho đời xiết bao Nguồn sáng tạo vô biên:
Trùng trùng sóng bên triền non biển núi
Đảo ngàn khơi rờn xanh ngát hoang mờ
Những tâm khúc không lời trầm bổng lướt
Dưới trăng vàng thoáng hiện cõi nguyên sơ
Bờ dương liễu phất phiêu màu sương đọng
Giọt man thiên huyền diệu quá thâm trầm
Niềm bí mật tận lòng sâu u ẩn
Dâng trào lên vang dội hải triều âm
Tình vạn đại yêu người không bờ bến
Nên lời thơ ngân bất tuyệt thiên thu
Thi nhân mở suối nguồn thương ảo diệu
Cho trần gian tàn rụng bóng sa mù
Bóng mù sa tan hết liền hiện ra luồng ánh sáng triêu dương. Thương yêu diệu kỳ xanh ngát cả bầu trời thiên thanh vĩnh thúy, sâu lắng lặng nghe tiếng thơ đồng vọng lại từ thuở nào Cô hành độc lữ ngoài vạn dặm xa xăm:
Dặm trường vạn lý du hành
Qua ngàn lau trắng đồi tranh cỏ vàng
Bụi đời nhẹ gót rỗng rang
Dọc đường tạm trú khi hoàng hôn buông
Bàn chân dẫm nắng mưa nguồn
Bước rừng núi vượt qua truông suối ghềnh
Hết rồi những chuyện tuổi tên
Đã buông xuống giữa khói bềnh bồng sương
Cô hành độc lữ trên đường
Nghìn phương rốt lại một phương tâm này
Thấy rồi muôn thuở xưa nay
Cũng từ tự tánh hiện bày cả thôi
Tự tánh, tự tâm là gì? Đâu là thể tính siêu việt của Thơ và Thiền? Đâu là vầng trăng Không Tịch chiếu nguyên sơ? Không biết nữa, chỉ biết rõ ràng: “Hương vị của Chánh pháp vẫn là hương vị cô liêu của sự sống.”***
Hương vị cô liêu thoảng ngát chung quanh gành đá tảng, trên triền đồi cao Vô Trú Am nằm trầm nhiên nhô ra phía biển yên bình. Tịnh yên, miên mật để cho thần trí thi nhân nhập cảnh giới Thiền:
“Ngã cư không xứ nhất trùng thiên
Ngã giới hư vô chân cá thiền
Vô vật vô nhơn vô thậm sự
Tọa quan thiên nữ tán hoa miên”
(Ta ở tầng trời thứ nhất trong cõi không
Cảnh giới của ta thật là cõi thiền
Không vật không người không lắm chuyện
Ngồi xem thiên nữ rải thiên hoa)***
“Không vật không người” gợi nhớ Huệ Năng: “Bản lai vô nhất vật.” Thực chứng tâm thiền thì sẽ thấy ra như vậy. Ở đây, trên đồi hoang vắng tịch liêu ấy, chỉ có cây lá, đá tảng, sóng trào, mưa xanh, nắng vàng, gió ngàn khơi lộng thổi suốt ngày đêm và có một hành giả ngồi nhập định tâm thiền giữa thiên nhiên:
“Thiền, cốt yếu nhất là nghệ thuật kiến chiếu vào thể tánh của chúng ta, nó chỉ con đường từ triền phược đến giải thoát. Đưa ta đến uyên nguyên của cuộc sống uống ngụm nước đầu nguồn. Thiền cởi bỏ tất cả những gì ràng buộc chúng ta, những sinh linh hữu hạn, luôn luôn quằn dưới ách khổ lụy trong thế gian này…"
Trang mở đầu Thiền luận (3 tập) của Suzuki đã viết như thế. Tập 1, do Trúc Thiên dịch, còn tập 2, 3 do Tuệ Sỹ dịch. Đây là một tác phẩm đồ sộ dày mấy ngàn trang, chuyên luận thuyết về Thiền học. Trước 1975, thời còn sinh viên Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, kẻ du sỹ này may mắn đã Thưởng thức Thiền luận rồi:
Thiền là sự tương giao sinh động
Trực tiếp ngay đây trước mắt liền
Biết mình rỗng suốt luôn trong sáng
Không hề đối đãi chẳng nhị nguyên
Thiền là nghệ thuật cao tột nhất
Cái đẹp nguyên sơ của con người
Như tình yêu đó chân thiện mỹ
Vốn tự bao giờ mới tinh khôi
Diệu quan sát trí liền trực nhận
Rất nhanh chóng lẹ mỗi phút giây
Tuyệt chưa mưa nắng trăng sao chuyển
Quanh đây diệu hảo trổ bông đầy
Vô phân biệt trí cười như thị
Y nhiên vạn pháp cứ vào ra
Đúng sai phải quấy dung thông hết
Vào ra tự tại cái đang là
Krishnamurti thường hay nói tới “cái đang là” và ông cũng có cái nhìn về Thiền thật độc đáo, đặc biệt:
“Thiền là một trong những nghệ thuật sống tối thượng nhất mà ta không thể học hỏi từ bất cứ ai. Đó là chơn mỹ của Thiền. Khi bạn tìm hiểu về mình, tự quan sát chính mình, xem cách bạn suy nghĩ, đi đứng, ăn uống ra sao, nói năng điều gì.
Thị phi, chỉ trích, khinh bỉ, chê bai, nói xấu về người khác hay thù hận, giận dữ, hung bạo, tàn nhẫn, ghen ghét, ganh tỵ, đố kỵ…Nếu bạn luôn ý thức, tỉnh giác về mọi thứ đó trong sinh hoạt hàng ngày, thì đó là một phần của Thiền rồi vậy.”
Thiền là một đề tài lớn rộng mà xưa nay, thiên hạ đã nghiên cứu, luận bàn quá nhiều rồi. Thôi thì xin im lặng, lắng nghe cây lá ven đồi hát vô tư, đá tảng rạt rào ca ngàn sóng vỗ vô tâm và hành giả, sớm chiều tịnh khẩu trên ngọn đồi cô tịch.
Tỉnh thức sớm, 2 giờ khuya đã dậy rồi. Mỗi ngày, Thầy chỉ ăn một bữa trưa. Ngồi dựa lưng vào núi, nhìn ra trùng dương trước mặt và trầm tịnh giữa Tịch mịch núi biển ngàn:
Một mình tịnh khẩu sâu xa
Trên đồi cô tịch căn nhà pháp không
Dựa lưng vào núi mây lồng
Trùng dương trước mặt ngắm mông mênh trời
Mỗi ngày một bữa cơm thôi
Đủ cho điệu thở nhẹ vời rỗng rang
An bình tịnh hạnh thanh nhàn
Trang kinh vô tự thành trang thơ này
Viết lên dòng nước biển mây
Lời chi tuyệt đối hiển bày nhất nguyên
Sáng bừng thực tại hiện tiền
Yên tâm là nụ cười viên dung hòa
Yên tâm là nụ cười viên dung hòa, hòa vào cái bây giờ và ở đây, hoàn toàn mới lạ từng sát na giữa thực tại hiện tiền. Tuyệt vời, tuyệt diệu, tuyệt nhất là ngày hôm nay, một ngày thong dong cùng thi nhân cất bước rong chơi giữa rừng xanh suối ngàn reo ca trong trẻo…Leo lên tận đỉnh núi Ông Rồng, ngồi giữa vòng tròn cây Thiên tuế ngàn năm mà cảm nhận Trùng ngộ ở nơi này:
Ngoài hải đảo ngút ngàn vạn dặm
Giữa muôn trùng sóng vỗ mênh mông
Sớm mai bát ngát nhìn vũ trụ
Thấy càn khôn trong một giọt sương lồng
Trên tuyệt đỉnh ngàn cao hùng vĩ
Thật không ngờ xuất hiện bóng Thiền sư
Hùng tâm tráng khí vang đầu gậy
Dội huyền âm rền khúc hát đại từ
Đại hỷ xả hòa vô công dụng hạnh
Rúng ngân dài tận góc bể chân mây
Biển núi bừng reo theo sỏi cát
Hát mừng vui trùng ngộ ở nơi này
Du tử trùng ngộ, tao phùng nụ cười Thiền sư trên tuyệt đỉnh núi Ông Rồng giữa đại dương lộng lộng đó thật bất ngờ. Đẹp như một bài thơ vô ngôn, từ tiền kiếp vọng vang về. Gặp gỡ một vị Thiền sư có tâm hồn Thi sỹ dị thường như thế, làm sao mà không chấn động, hân hoan cho được phải không?
Đó là cuộc kỳ ngộ vô cùng hy hữu nên bừng dậy suối nguồn thơ chảy về tràn lan lai láng. Tiếng thơ vang lên tán thán, ngân rung, dường như để cúng dường, ngợi ca một con người diệu tuyệt thiên tài, một thi nhân thượng thừa, thượng đẳng.
Sự xuất hiện nụ cười Đại bi, ánh mắt Đại trí ấy, chẳng khác chi đóa Ưu đàm, nghìn năm mới xuất hiện một lần trên mặt đất trần gian...
Như vậy, như thế, như thị, như như trên bước đi đại hỷ xả hòa vô công dụng hạnh, rúng ngân dài tận góc bể chân mây. Vô công dụng hạnh là hành động không cần dụng công, không cần tác ý mà vẫn đem lại hữu ích, tốt đẹp cho người khác.
Đó là diệu dụng của Thiền sư, họ có nụ cười tự tại, đại bi, vô uý, là những vị đã kiến tánh, sự sự viên dung vô ngại, còn Bồ tát là ai? Như Lai là ai?:
“Như Lai tức là đến như vậy và đi như vậy. Đây mới thiệt là lý tưởng hành động của Bồ tát đạo. Công nghiệp đó sẽ được mô tả như là những dấu chân của con chim trong bầu trời. Bồ tát đến với thế gian cũng vậy.
Tất cả mọi công trình đã từng thực hiện và đã để lại cho thế gian chẳng khác nào như sự tích lũy của bao nhiêu dấu chân của cánh chim bay giữa bầu trời. Lối diễn tả này quả thực mang một khí vị văn chương đặc biệt. Theo thuật ngữ, hành động này được mệnh danh là Vô công dụng hạnh: Hành động không cần dụng công, ví như hư không…”***
Không thể nghĩ bàn chi về các vị thượng sỹ làm mà như không làm, làm một cách “vô công dụng hạnh” như vậy. Thôi thì, hãy trở lại nơi đây ngoài hải đảo, chỗ cao nhất trên đỉnh ngàn hoang vu chỉ có cây lá đã thay màu, xào xạc “hồn ai trong khóm lau” và những bước chân nhà thơ “xao xuyến từng hơi thở” khi đưa tay chạm bóng mây trời vần vũ:
“Từ thuở hồng hoang ta ở đâu
Quanh ta cây lá đã thay màu
Chợt nghe xao xuyến từng hơi thở
Thấp thoáng hồn ai trong khóm lau”**
Ngút ngàn giữa đại dương bát ngát, lạc chốn hoang sơ không một bóng người, chỉ có chim ngàn, truông suối, núi đồi mây trắng lẫn khói trời hoa nắng trổ trên cao. Ồ! Bỗng nhiên hiện ra một cảnh giới tuyệt hảo:
“Lô Sơn hùng vĩ, phiêu bồng nhưng u ẩn. Lòng núi giấu kín những tâm sự nghìn năm không nói, lòng núi ủ kín những cuộc đời trầm mặc, những thân thể khô gầy như hạc như trúc, những tâm hồn nguội lạnh như tro tàn mùa đông.
Núi âm thầm cho gió ngàn gào thét, cho mây trời vần vũ và những dòng thác từ trên tuyệt đỉnh cao mù đổ ào xuống. Lô Sơn đồng vọng một cõi thi ca bát ngát. Cõi thi ca trùng trùng điệp điệp những ẩn ngữ kỳ diệu…”****
Diệu kỳ là khi cùng thi nhân ngẩng mặt nhìn lên trời cao xanh bát ngát giữa đại dương. Đứng trên tuyệt đỉnh Ông Rồng hay đỉnh Lô Sơn đó, có thể nhìn xuyên suốt mười phương, thấy toàn cảnh ba nghìn thế giới thấp thoáng trong sương mờ vạn cổ, thưởng thức được hương vị cô liêu và vẻ đẹp tuyệt mỹ Trên đỉnh núi Ông Rồng tiêu sái nhẹ bồng tênh:
Lên Ông Rồng hay lên Lô Sơn đỉnh
Núi rừng ơi! Chạm bóng mây trời
Gió lồng lộng thổi bừng vắng lặng
Mắt tuệ ngời tỏa chiếu nghìn nơi
Trên chót vót ngàn cao nhìn xuống
Muôn trùng xanh bát ngát đại dương
Hương Chánh pháp bay đầy thiên địa
Vị cô liêu chơn mỹ đẹp dị thường
Hương vị đó cô liêu diệu tuyệt
Từng tế bào mạch máu trổ bông
Sớm nay hít thở đầy buồng phổi
Đồi diêu mang thể nhập pháp giới đồng
Sương lồng bay mênh mang quyện cùng thanh khí bao la, hòa chan giữa thiên nhiên hùng vĩ. Tiếng gió hú mà tưởng như tiếng gầm của Không Lộ, từ heo hút ngàn cao dội vang về.
Rồi bồi hồi quay mặt lại, thấy Tuệ Sỹ đang đứng trên đỉnh núi, viết lên bầu trời những vần thơ biếu tặng cho mây trắng, trùng dương, sương ngàn, nắng gió, rồi thung dung xuống núi Hòa cát bụi đời với tỉnh mê:
Xưa kia có lão Thiền sư nọ
Phiêu hốt một ngày lên núi chơi
Tuyệt đỉnh cô phong gầm một tiếng
Lạnh cả không gian chấn động trời
Còn nay có bậc trượng phu ấy
Cũng bỏ lên rừng ngắm đồi hoang
Lấy mây khói quyện làm bút viết
Bài thơ biếu tặng nắng sương ngàn
Biếu tự do cho cây lá cỏ
Cho suối nguồn trôi tự tại kia
Tặng hết mênh mông tam giới mộng
Không còn chi giữ chẳng chi lìa
Xuống núi lại qua cùng thế sự
Hòa cát bụi đời với tỉnh mê
Huyễn hóa mà thôi cười thương hết
Nên cứ tùy duyên bước đi về
Kề cận, thân mật, hoan hỷ, tùy duyên theo nhịp thở khoan thai với từng ngọn cỏ, lá cây, với mỗi viên sỏi, cục đá cuội lăn lóc dọc đường. Bước đi kỳ cùng cuộc lữ, thi nhân đã từng mở cuộc Thiên lý độc hành bằng hai bàn chân đi bộ và đi bộ như Basho hay Rimbaud, dãi nắng dầm mưa suốt gần cả năm trời. Băng qua khắp sơn khê, đầm đìa gió sương cát bụi, ruổi rong trên cao nguyên, rừng hoang rú rậm Lâm Đồng:
“Trên đỉnh đèo cao bát ngát trông
Rừng mây xanh ngất tạnh vô cùng
Từ ta trải áo đường mưa bụi
Tưởng thấy tiền thân trên bến không”**
Bến không nào mà tiền thân thấp thoáng? Vạn dặm nào mà thi sỹ trải áo thơ? Để cho: “Cuộc tình chia phôi từ độ đó. Bên này là những dòng tuế nguyệt cứ mãi trôi đi và bên kia là một chân trời đồng vọng không có đến. Bóng chiều rủ lên tảng đá ven đường, đọng trong mắt của người một mối sầu cô lữ…”****
Phải chăng, đó là mối sầu vạn đại của một khách lữ thiên thu, đi và đi mãi không bến bờ đỗ lại giữa cuộc mộng trần ai:
“Người đi đâu bóng hình mòn mỏi
Nẻo tới lui còn dấu nhạt mờ
Đường lịch sử bốn nghìn năm dợn sóng
Để người đi không hẹn bến bờ”*
Bờ bến nào không hẹn đến, nên mãi ngao du suốt từ bốn nghìn năm lịch sử trên miền Thi tưởng xứ. Phơ phất tà áo thi ca và tư tưởng tung bay khắp dọc cao nguyên xuống bình nguyên, đồng bằng, châu thổ về phố thị, làng mạc, bản thôn, lượn qua các tòng lâm, thiền viện, tịnh thất, am mây và gởi lại, trao lại cho đời chút tình yêu không tên gọi mà luôn luôn mới:
“Gởi lại tình yêu ngọn cỏ rừng
Ta về phố thị bởi tình chung
Trao đời hương nhuỵ phơi hồn đá
Thăm thẳm mù khơi sương mấy tầng”**
Mấy tầng sương khói mù khơi là hình ảnh cuộc đời còn mông lung, diệu vợi, cho nên thân phận kiếp người cũng chơi vơi theo cuộc thiên diễn hết đó cùng đây qua viễn xứ tháng ngày, vi vút gió mây bay:
“Thân tiếp theo thân ngày tiếp ngày
Mờ trong dư ảnh lá rừng bay
Dõi theo lối cũ bên triền đá
Sao vẫn còn in dấu lạc loài?”**
“Sao vẫn còn in dấu lạc loài?” Bài thơ bỏ lửng, dừng lại ở đó, không cần có câu trả lời. Thôi khỏi bận tâm, cứ khơi vơi như mây trắng giữa vô cùng.
Vô cùng giữa thái hư lồng lộng thì đừng có hỏi, mây trắng từ đâu bay đến rồi sẽ bay về đâu? Cũng vậy, giữa vô thủy vô chung, trùng trùng duyên khởi trong cuộc tồn sinh đầy hỗn độn, bức bách này, chúng ta cũng không nên thắc mắc, con người bắt đầu từ đâu sinh ra và cuối cùng sẽ đi về đâu trên mặt đất? Vì Đức Phật đã trả lời rốt ráo về vấn đề trọng đại ấy từ gần ba nghìn năm trước rồi.
Vậy thì chúng ta chỉ có thể ngạc nhiên thôi, ngạc nhiên trước những sự kiện, hiện tượng xảy ra giữa đời sống thường nhật, như vào lúc mới 25 tuổi mà nhà thơ đã viết một tác phẩm u huyền Triết học về Tánh Không.
Thật đáng ngạc nhiên chứ? Tánh Không là gì? Tác giả tự hỏi rồi tự đáp:“Khi con bướm mùa hè dừng lại trên đóa hoa, khép lại đôi cánh và đong đưa theo cơn gió của cỏ nội hoa ngàn…”
Long Thọ, một luận sư về Tánh Không thì nói: “Cái gì là duyên khởi, cái đó là Tánh Không. Tánh Không ấy do y trên giả danh, chính nó cũng là Trung đạo, nên Trung đạo đó cũng là Niết bàn tuyệt đối. Bởi vì nó chính là Tánh Không, được định nghĩa như là tự tính không sinh khởi của tất cả tồn tại, loại trừ hai thái cực siêu nhị nguyên đối đãi của hữu thể và vô thể…”
Còn du sỹ thì mỉm cười, mần thơ Đọc Triết học về Tánh Không chơi:
Đọc Triết học về Tánh Không
Là xem những chữ trên dòng suối kia
Trôi qua luôn mới lạ kìa
Ngữ ngôn rực rỡ như tia chớp lòe
Ừ nghe lại cái tánh nghe
Thấy lại cái tánh thấy nè tuệ minh
Lật qua nếp gấp hồn mình
Chạm trời tuyệt đối nên thinh lặng cười
Lý và sự rỗng rang chơi
Không tâm không cảnh không người không ta
Chơn Không Diệu Hữu chan hòa
Có mà chẳng kẹt vào ta hay người
Lý sự, tánh tướng, chân vọng, hữu vô, ngộ mê…đều viên dung trong nụ cười Chơn Không Diệu Hữu. Sống chẳng kẹt vướng, không cố chấp, xa lìa mọi đua tranh, giành giật với người khác là một thái độ thanh thản, an nhiên.
Biết buông xả hết những thứ danh lợi, hơn thua, được mất, lại còn biết phát tâm đại nguyện, hiến dâng tâm tình cho mọi người nữa.
Đó là đại nguyện thượng thừa của Thắng Man, phu nhân vua Hữu Xứng, sống cùng thời với Đức Phật. Phu nhân tin tưởng tuyệt đối trong mình có sẵn Như Lai tạng, nên thực hành Bốn nhiếp sự: Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự.
Thắng Man là một hình ảnh tiêu biểu cho người thục nữ đi làm việc từ thiện, không những từ thuở xa xưa mà ngay ngày hôm nay cũng xuất hiện rất nhiều thục nữ như Thắng Man vậy. Chúng ta hãy nghe Tuệ Sỹ nói:
“Thắng Man phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc với bổn phận tôn kính bậc trưởng thượng, yêu mến những người thấp hơn, cho đến những sinh hoạt trong cộng đồng xã hội, biết săn sóc những người côi cút, biết làm vơi nỗi khổ và tăng niềm vui cho mọi người. Như trong lời phát thệ của phu nhân đã nói rõ: “Không vì riêng mình mà thực hành bốn nhiếp sự.”******
Thư thả lắng nghe những lời giảng luận mạch lạc, khúc chiết của Tuệ Sỹ mà Cảm tác Thắng Man giảng luận:
Bờ Nhất thừa bến muôn chiều
Làm cho tất cả cùng tiêu dao hòa
Về nương tựa Phật Thích Ca
Là nương tựa chính ruột rà Tâm linh
Pháp thân thường trụ trong mình
Từ vô lượng kiếp vốn minh mẫn rồi
Bồ tát đạo vào muôn nơi
Tùy duyên hóa độ chuyển hồi phục nhanh
Bố thí Ái ngữ Lợi hành
Và Đồng sự nữa là thanh thoát lòng
Bốn nhiếp sự như nước trong
Làm tươi nhuận mát bao hồng hào xinh
Thắng Man càng tin tưởng mình
Sẵn Như Lai tạng chẳng sinh diệt gì
Pháp thân không đến không đi
Vượt ngoài sinh tử ồ kỳ tuyệt thay!
Kỳ diệu, tuyệt vời hơn nữa là mỗi sớm tinh sương hay lúc chiều tà nhạt nắng, lặng hồn nhịp võng đong đưa trên đồi cao, chú tâm đọc và thưởng thức Huyền thoại Duy Ma Cật, một tác phẩm thâm huyền, uyên áo mà Phạm Công Thiện, khi giới thiệu tác phẩm này bên Hoa Kỳ đã ca ngợi hết lời. Vậy Duy Ma Cật là ai mà gây nguồn cảm hứng xuất thần như thế?:
“Duy Ma Cật điển hình cho cư sỹ lão thành, thể hiện Bồ tát đạo bằng du hý tam muội với đời sống phóng khoáng, thong dong không hề câu nệ vào hình danh sắc tướng…
Bằng ngôn ngữ của thi ca, bằng hình ảnh của hội họa mà ẩn tình u uẩn, những khát vọng thầm kín của con người được bộc lộ một cách trung thực. Cũng vậy, bằng ngôn ngữ và biểu tượng, xuất phát từ chỗ chứng thật tướng và thuyết thật tướng, nhà đại nghệ sỹ Duy Ma Cật đã phơi mở tất cả kho tàng huyền diệu vô biên của thế giới cho những ai muốn thấy, muốn biết…
Với Duy Ma Cật thì phòng trà, quán rượu, chẳng đâu không phải là thanh tịnh đạo tràng. Bởi vì ông thực sự đã là người kế thừa quốc độ thanh tịnh của Phật. Cho nên, bằng pháp Bất nhị, ông thể hiện du hý thần thông tam muội, rong chơi suốt trong sáu nẻo luân hồi mà không úy kỵ gì...”*******
Nghe Tuệ Sỹ giới thiệu như thế, nên liền cao hứng, phấn chấn tinh thần bèn mần thơ Cảm nhận Huyền thoại Duy Ma Cật tức thì:
Duy Ma Cật vẫn thung dung bước
Chốn trà đình tửu điếm chẳng ngại chi
Thõng tay vào chợ cười rong dạo
Chẳng cần tu hay chứng đắc gì
Vì đã thấy ngọn ngành Tánh giác
Nên hòa chơi với kẻ mê lầm
Bước chân Bất nhị vô phân biệt
Khiến mọi người ai cũng sáng tuệ tâm
Tự do hát bài ca tự tại
Giữa chập chùng sắc tướng âm thanh
Thanh sắc có không như huyễn mộng
Pháp là đây ngay đó thực hành
Hành vô sự rỗng rang đi đến
Thênh thang về chuyển hóa vô ngôn
Mang lại nguồn vui cho thiên hạ
Thượng thừa chơi khơi mở cuộc sinh tồn
Vô sự mà làm, vô ngôn mà nói, tự nhiên đem lại an lạc, trang nghiêm cho cuộc đời, trong một cõi tịch mặc vô ngôn:
“Cõi vô ngôn ấy là gì, ở đâu? Đó là tiếng vọng trên âm vực tuyệt đối cao vút, rung lên từ vực sâu thăm thẳm trong tận cùng đáy sâu của những tâm hồn thiết tha với sự sống, lẽ sống.
Đó là sự im lặng sấm sét của Tu Bồ Đề, thản nhiên ngồi khâu áo trong hang đá, trong không gian rực sáng và ngập tràn tiếng hát thiên thần. Đó là tiếng rống Sư Tử của bậc Đại trí Văn Thù, khi khám phá cảnh giới tịch mặc vô ngôn trong căn nhà trống của Duy Ma Cật. Tiếng vọng ấy không thể nghe được bằng tai cũng không thể suy được bằng lý…”*******
Bằng lý, bằng tai cũng không nghe được tiếng gầm sấm sét, mặc như lôi ấy, vì đó là cảnh giới bất khả tư nghì. Vô ngần khơi mở trên bước thượng thừa, nhà thơ hùng tâm tráng khí đi về, chân không lưu dấu mà vẫn còn dư vang thoảng vọng lại trong những tác phẩm thâm trầm đầy huy hoàng sáng tạo.
Những tác phẩm thơ văn, luận triết tuyệt trù nằm rải rác đó đây trên khắp dặm trường gió bụi hơn nửa thế kỷ nay, được Hạnh Viên sưu tập lại thành Tuệ Sỹ văn tuyển, tha hồ cho chúng ta thưởng thức Tuệ Sỹ văn tuyển quá tuyệt vời:
Muôn nghìn kinh một chữ Tâm
Từ thiên thu nọ sáng rằm trăng thơ
Tan bao u tối mịt mờ
Ngời soi mặt mũi ban sơ giữa lòng
Muôn nghìn kinh một chữ Không
Không tham chấp nhiễm nên bồng tênh chơi
Chơi trên mặt đất tuyệt vời
Tuệ Sỹ văn tuyển muôn nơi chốn tình
Tám mươi bốn nghìn pháp kinh
Pháp nào áp dụng cho mình hợp luôn?
Chẳng đâu xa ấy cội nguồn
Là tâm ý thức từ muôn thuở rồi
Là tâm ý thức từ muôn thuở rồi. Tâm ý thức là chi? Trừ cái Tâm Phật, cái Tâm tuệ giác Bát nhã, hiểu theo nghĩa Chân đế ra, chúng ta có thể tìm hiểu tâm theo nghĩa Tục đế:
“Tâm là cái tâm có tác dụng ý niệm hóa, cái tâm kiến thức ý niệm, cái ý thức biện biệt, cái lý trí phán xét, cái trực giác nhận thức, sự tự tri nhận, cái ý thức về bản thân, sự tự ý thức, ý tưởng, tư tưởng, suy tưởng, cảm xúc, cảm giác, tư duy, tinh thần, tâm linh, thần thức, linh thức, thông minh, thông tuệ, lý luận, diễn dịch, quy nạp, linh hồn, tâm hồn, tâm trạng…
Tất cả những gì mình có thể nghĩ, có thể ý niệm, có thể cảm biết, có thể định đoạt, có thể cảm thông và thông cảm. Tất cả những gì mình có thể suy tư và trầm tư, có thể lãnh hội, thấu đạt. Tất cả những gì mình có thể hiểu biết, ý thức và chính cái ý thức, vô thức, tiềm thức ấy…đều thuộc về Tâm…”
Phạm Công Thiện đã giải thích như thế về Tâm trong Những bước chân nhẹ nhàng trở về sự im lặng.
Còn Tuệ Sỹ thì:“Tâm là kinh nghiệm đời sống, tất cả những gì đã từng trải bằng hành động và nhận thức, tích lũy lại thành tâm. Nếu diễn tả ra trong cuộc đời con người, từ khi biết suy nghĩ, biết hành động và có ghi nhớ cho đến khi chết, tất cả những ghi nhớ trong óc não còn lại đó là tâm.
Chính những ghi nhớ đó tác thành một con người, hoặc thiện hoặc ác, tùy theo kinh nghiệm, môi trường, hoàn cảnh. Vì thế, ta nói tâm hướng dẫn đời sống con người.
Như vậy, tâm đó chính là nghiệp, là hành vi của con người…Nếu nhận thức được thực tại, thấy được thực tại, hiểu rõ được chân lý thì có thể biến đổi được thế gian này.
Làm cho nó tồn tại hay làm cho nó huỷ diệt, đó chính là nói rằng ma hay Phật cũng đều do tâm, ba cõi duy chỉ một tâm, là nói theo ý nghĩa này.”***
Tâm cũng là thức. Thức là nhận thức, nhận biết của con người. Chỉ một chữ Thức thôi mà Thế Thân luận giải dài hơn 700 trang và Tuệ Sỹ dịch là Luận thành Duy thức. Cả tháng trời nằm võng đọc chưa xong, vội viết vài dòng Đọc Luận thành Duy thức:
Đời hay đạo một cung cầm
Phàm hay thánh cũng do tâm thôi mà
Tâm ý thức chẳng đâu xa
Ngay nơi tánh biết quyện hòa điệu chơi
Từ tánh biết hiện chiếu ngời
Thấy ra tà chánh thảnh thơi vẫy chào
Vào ra thực tại chiêm bao
Đến đi hý lộng cười khào như không
Như đại dương lượn giữa lòng
Tiêu dung mọi thứ đục trong nọ này
Đùa với tỉnh rỡn với say
Mỉm cười như thị chớ bày đặt chi
Vậy đó, mỉm cười như thị chớ bày đặt chi. Vì Phật hay ma cũng đều do tâm mình tạo ra cả. Hoa Nghiêm kinh nhấn mạnh rõ một điều:
“Nếu người muốn biết rõ
Chư Phật khắp ba đời
Hãy quán pháp giới tánh
Đều do tâm tạo thôi”
Nhất thiết duy tâm tạo, Đức Phật đã nói như thế như Thiền sư Lâm Tế cũng nói như vậy:
“Chân Phật là gì? Chân Pháp là gì? Chân Đạo là gì?
Phật thật là sự thanh tịnh của tâm mình, Pháp thật là ánh sáng của thân mình, Đạo thật là ánh sáng thanh tịnh chiếu soi khắp chốn. Ba cái vốn là một, đều là giả danh, không thật có. Người học đạo chân chính thì phải biết duy trì chánh niệm về ba đối tượng ấy một cách miên mật.
Nếu quý vị đạt tới tính Vô sinh của vạn pháp, biết rằng tâm là huyễn hóa, thật ra không có một đối tượng nào, một hiện tượng nào là có thật. Bất cứ đâu cũng là thanh tịnh thì đó là Phật rồi.
Này chư vị! Người hành giả đích thực thì tuyệt nhiên không nắm bắt Phật, không nắm bắt Bồ tát, không nắm bắt những cái gì gọi là tốt đẹp nhất trong ba cõi dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Người ấy một mình thong dong, không bị bất cứ sự vật nào câu thúc, ràng buộc.
Dù trái đất có đảo ngược, tôi cũng không bị một chút nghi hoặc nào làm cho ngăn ngại. Dù cho chư Phật mười phương có xuất hiện ngay trước mắt thì tôi cũng không quỳ lạy, không khởi một niệm vui mừng. Dù cho địa ngục và ba đường dữ xuất hiện liền trước mắt thì tôi cũng không nao núng, không khởi một niệm sợ hãi. Bởi vì tôi đã thấy rõ tường tận tướng Không của vạn pháp.
Khi biểu hiện gọi là có, lúc không biểu hiện gọi là không. Ba cõi đều do tâm, vạn pháp đều do thức. Cũng vì vậy, cho nên tất cả vạn pháp hữu vi đều là mộng huyễn, đều là hoa đốm giữa hư không. Tại sao ta phải chạy tìm kiếm, nắm bắt chi nữa cho thêm mệt nhọc?”
“Ba cõi đều do tâm, vạn pháp đều do thức.” Thức và tâm bao trùm pháp giới. Pháp giới là tất cả sự vật trong vũ trụ, dù ẩn mật hay hiển lộ, hoặc có hoặc không, những gì đã biết hay chưa biết đều là pháp giới cả.
Tâm mê muội là ma, tâm giác ngộ là Phật, tuy hai mà vốn thật chẳng khác, vì khi mình tỉnh thức, biết mê thì ngay đó, lập tức ngộ liền xuất hiện với một nụ cười u mặc Mê ngộ trào lộng chơi:
Khi mê thì chấp chặt đời
Ngộ rồi trôi chảy như chơi thôi mà
Thánh phàm Phật Chúa quỷ ma
Danh từ khái niệm chỉ là giả danh
Khi mê thì tập tu hành
Ngộ rồi đối nghịch tan nhanh chóng liền
Hết mâu thuẫn thuận tùy duyên
Thõng tay vào giữa chợ triền dạo rong
Khi mê thì dính kẹt vòng
Ngộ rồi cởi trói dung thông đi về
Thực ra đâu có ngộ mê
Tuệ đăng xóa hết trò hề thế gian
Trên sân khấu cuộc đời, mọi sinh hoạt cá nhân hay tập thể, tầm cỡ quốc gia hay quốc tế đi chăng nữa thì cũng chỉ là trò hề múa rối “mua vui cũng được một vài trống canh” giữa cuộc đại huyễn hóa mà thôi.
Trừ khi Trí tuệ Bát nhã bùng vỡ ra ánh sáng tuệ giác “chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách” thì mới có thể thấy được toàn diện cái Nhất nguyên tuyệt đối.
Lúc đó, mới tỏ tường được sinh tử và Niết bàn chẳng khác nhau, như Long Thọ tuyên bố: “Thực tế của Niết bàn cũng chính là thực tế của sinh tử. Giữa hai hoàn toàn không có một chút khác biệt nào.” Cũng như Huyền Giác, một Thiền sư thi sỹ vĩ đại, phát biểu trong Chứng Đạo ca, mở đầu bằng 4 câu, chỉ thẳng ngay lập tức:
“Dứt học vô vi ấy đạo nhân
Không trừ vọng tưởng chẳng cầu chân
Tánh thực vô minh tức Phật tánh
Ngay thân ảo hóa tức Pháp thân”
Pháp thân, Phật tánh vốn không sinh diệt, là nguyên lý tối hậu của muôn loài vạn vật, là bản thể của tự tánh cùng khắp không gian, thời gian. Tuy vô hình, vô thanh mà vẫn hiện ảnh vang thanh, vô cùng ứng hiện biến hóa, linh động đầy năng lực thần diệu vẹn toàn:
“Các Thiền sư thường nói:
Thanh thanh thúy trúc
Tận thị Pháp thân
Uất uất hoàng hoa
Vô phi Bát nhã
Trúc biếc xanh xanh, đâu cũng là Pháp thân. Hoa vàng rậm rạp, đâu cũng là Bát nhã. Như vậy, lý tưởng của các nhà Đại thừa là không chỉ học hỏi Chánh pháp từ kinh điển.
Họ học bất cứ ở đâu, từ những sự thể vụn vặt trong cuộc sống hằng ngày. Để có thể được như vậy, phải trải qua những thời đào luyện tâm linh, sao cho tâm trí sẵn sàng mở rộng để đón nhận những chân lý cao cả được giảng thuyết nơi từng hạt bụi.
Họ nói: “Phá vi trần xuất kinh quyển”. Chẻ hai hạt bụi ra sẽ thấy kho tàng bất tận của chân lý…”***
Chân lý là gì? Là thực tại, là sự thật của vũ trụ và nhân sinh. Sự thật nhân sinh là sự thật về con người, về tự ngã, bản ngã của con người. Tự ngã là chi? Tuệ Sỹ lý giải:
“Tất cả giáo pháp của Phật đều hướng đến diệt trừ tự ngã. Tôi đang tồn tại, đó là một hiện thực, đồng thời cũng là một ảo ảnh. Đau khổ là sự thực. Cái tôi đang đau khổ ấy lại là ảo ảnh. Cái ta ảo ảnh được bọc trong vỏ trứng vô minh, nó được định hình bằng vọng tưởng, thành thân thể ta, linh hồn ta, sở hữu của ta, tài sản của ta, cho đến núi sông này là của ta, tài sản này là của ta, ta là tài sản này, sông núi này là của ta, ta là sông núi này.
Cho nên, khi tán gia bại sản, khi sông núi sụp đổ, cái ta vọng tưởng cũng sụp đổ, thì có kẻ trầm mình xuống sông hoặc treo cổ trên cành.Vì thế, khi nghe nói cái ta này là ảo ảnh, là không thực, người nghe có thể kinh hoàng, như nghe sét đánh ngang tai.
Tiếng sét đó là từ Kim cang Bát nhã. Duy có điều, mọi người đều mù, chỉ thấy bóng tối, mọi người đều điếc, chỉ nghe tiếng vo ve. Làm sao có thể thấy Cái ta chỉ là ảo ảnh? Làm sao nghe được tiếng sấm từ kinh Kim cang?
Với những ai có mắt để thấy, có tai để nghe, kinh Kim cang sẽ chỉ đường để đối diện với ảo ảnh của Cái tôi và chỉ cách vận dụng chày Kim cang đập vỡ vỏ trứng vô minh bao bọc tự ngã…
Kinh nói: “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh.” Làm thế nào để nhìn tất cả đời sống này như một giấc chiêm bao, để thấy đau khổ hay hạnh phúc cũng chỉ như là giấc chiêm bao?
Có lẽ quá nhiều người hiểu rõ điều đó và nói quá nhiều về điều đó, nhưng tỉnh giấc chiêm bao để thấy cái gì hư, cái gì thực thì chắc là quá ít, phải không?”***
Khốc liệt là một câu hỏi như vậy. Có ai trong chúng ta, những hành giả, đạo sỹ, thi nhân, văn nghệ sỹ, những người hay nói đời là giấc mộng, phù du, huyễn hóa, là cõi tạm, là hoa đốm giữa hư không, hãy thử trả lời đi…
Còn du sỹ rong chơi giữa đôi bờ thực mộng, bồng bềnh trên tinh thần: “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” đó, một chiều nọ dừng gót lãng du bên Thị Ngạn Am, lắng lòng Nghe Tuệ Sỹ giảng Kim cang:
Chuyện sướng khổ buồn vui đều vắng lặng
Ghét hay thương được mất tựa mây trời
Phiền não bồ đề thiên đường địa ngục
Cũng đều do mê vọng khởi lên thôi
Vì ảo giác tưởng có này có nọ
Có tài năng tốt xấu những khen chê
Nên dốc lòng ra chạy theo đeo bám
Tham sân si tác hại mãi ê chề
Cứ nhiễm vướng lo âu đầy sợ hãi
Giật giành nhau khổ lụy quá chất chồng
Bỗng nhiên xuất hiện cây tuệ kiếm
Chém sạch làu hoa đốm rụng hư không
Mộng huyễn cả hơn thua trò danh lợi
Rơi tàn tro dưới gươm báu Kim cang
Tâm không dính vào đâu cười như thị
Thì tự nhiên mặt đất trổ hoa ngàn
Tâm không dính vào đâu cười như thị. Thì tự nhiên mặt đất trổ hoa ngàn…Mở ra cuộc lữ tân kỳ, hy hữu theo nhịp bước vô úy, đại hoan hỷ, tuỳ thuận nhập cuộc rong chơi khắp bụi cát ngàn phương.
Phương này hay chốn nọ cũng chính là vườn tâm hay cõi tâm mình chứ chẳng ở đâu xa. Dù có phiêu lưu đi khắp cả quả địa cầu này, thì cũng không ngoài cõi tâm của mình đây thôi, như đại văn hào Henry Miller đã phát biểu:
“Chỉ có một cuộc phiêu lưu vĩ đại nhất mà thôi, đó là đi vào bên trong tâm hồn sâu kín, thăm thẳm trong lòng mình và đi vào giữa lòng mình thì thời gian, không gian, ngay đến hành động cũng không quan trọng gì cả.
Một thi nhân chân chính, một kẻ sáng tạo đích thực thì luôn luôn độc hành, tự do tự tại. Cái mà người thi sỹ cần, chính là sự cô độc, cô đơn, cô liêu…”
Cho nên, cuộc Thiên lý độc hành của Tuệ Sỹ cũng là một cách điệu phiêu bồng, ngao du, chơi rong trong vườn lòng xanh thanh tịnh, cảnh giới tâm linh tịch mịch của chính mình thôi vậy, như Hạnh Viên, người thân cận nhất của thi nhân cũng có vài lời cảm nhận về cuộc hành trình cô lữ đó:
“Nghìn năm sau…kể chuyện Thiên lý độc hành, có người ngay thẳng và thực tế sẽ hỏi: Đi như vậy, tự đọa đày như vậy để làm gì? Những bước chân vô định kia có để lại chút dấu vết nào nơi đá cuội ven đường?
Có lẽ không hoặc có để lại một giấc mơ bên hiên nhà tạm trú đêm qua. Không biết mưa lũ cao nguyên rồi sẽ cuốn phăng nó về đâu? Mà Thiên lý độc hành là gì? Đâu phải chỉ là một chuyến đi. Cuộc đi không có khởi hành, không nơi đến thì làm sao có sự kết thúc trở về.”**
Thế đó, cuộc đi không có khởi hành cũng không có kết thúc, như cuộc hành viễn xứ, không từ đâu đến và cũng chẳng về đâu. Tuy vậy vẫn có cái diệu dụng phi thường của nó.
Đó là thi nhân qua những bước chân bộ hành giữa cuộc tồn sinh như thế, ngụ ngầm mở ra một phương trời thênh thang sáng tạo, chẳng ở đâu xa mà ngay giữa tâm hồn mình. Khơi mở cho chúng ta một sinh lộ hướng thượng, vượt lên trên thân phận trầm kha, đắm chìm trong mịt mù u tối, rồi lặng lẽ đi về, lắng nghe giữa hun hút thẳm sâu lòng:
“Ta về một cõi tâm không
Vẫn nghe quá khứ ngập trong nắng tàn
Còn yêu một thuở đi hoang
Thu trong đáy mắt sao ngàn nửa khuya”**
“Ta về một cõi tâm không” đủ nói lên toàn thể cuộc lữ hành, tuy đi nghìn trùng, quan san vạn lý nhưng tâm vẫn bất động như như nơi không xứ, không chỗ trú cư trong thời gian và không gian. Đó là 4 câu thơ mở đầu Thiên lý độc hành và kết thúc tập thơ bằng 2 câu ngắn gọn:
“Khi về anh nhớ cài quai nón
Mưa lạnh đèo cao không cõi người”**
Hai câu thơ cuối cùng trong tập thơ, hiểu sao cũng được mà không hiểu thì cũng chẳng sao. Thi phẩm gồm 13 bài thơ không đề, được dịch qua 4 ngôn ngữ Anh, Pháp, Nhật, Hán Nôm. Góp phần cho hồn thơ, tiếng thơ bi tráng ấy vang lên trên khắp bốn phương trời trong đêm dài lữ thứ, man thiên…
Tiếng thơ của thi nhân cứ âm động, trầm vang giữa ngày tháng ngao du, nghe như một cung bậc ẩn ngữ, ngân rung thánh thót từng giọt đàn thơ trong khuya khoắt lặng trăng mờ…
Ở đây, tâm cảnh, ngoài trong, mộng thực, có không, sống chết…đều dung thông, vô ngại giữa Cuộc lữ thiên thu ngay từng giây phút đang là, cùng ngắm vầng trăng vô vi, nghìn năm về thị hiện, huyền đồng:
Ngợp lòng xanh ánh trăng lồng
Mông mênh trên biển lặng trông huyền hòa
Nghìn năm trong một sát na
Hiện sờ sờ giữa đang là đây thôi
Cười theo lãng đãng mây trời
Thân như sương khói nên chơi rong hoài
Ngoại phương trời bước khoan thai
Vô vi là cuộc đi dài thiên thu
Đơn hành ca khúc tuyệt trù
Như cơn gió lạ thoảng vu vơ cùng
Từ vô thủy tới vô chung
Chưa từng sinh diệt trên vùng tâm uyên
Sinh diệt là cõi Tục đế, con người cứ mãi lặn hụp, nổi chìm trong dòng sinh tử luân hồi từ vô lượng kiếp, còn không sinh không diệt là cõi Chân đế, miền Không xứ của những bậc liễu sinh thoát tử, tự tri tự ngộ, đã giải thoát khỏi vòng sống chết, đến đi. Tuy nhiên, Chân hay Tục thì cũng không ngoài cái thực tại Nhất nguyên tuyệt đối này:
“Ngay trong phiền não tức là Bồ đề, ngay trong những nguy hiểm đáng sợ hãi của sinh tử cũng chính là Niết bàn an ổn. Sợi dây bị tưởng lầm là con rắn, nhưng không phải hủy diệt sợi dây để diệt trừ ảo giác gây nên sợ hãi.
Ngoài những gì vô thường được thấy, được kinh nghiệm bằng chính mắt, tai, mũi, lưỡi này, không tồn tại một thế giới chân thường, đại lạc hay đại ngã nào khác. Đó chính là thực tại Nhất nguyên tuyệt đối.”******
Thực tại hiện tiền đó chẳng đâu xa mà ở ngay liền trước mắt, đương xứ tức chân. Cho nên các Thiền sư tự do, họ rong chơi trong tam giới với phong thái tự tại, phiêu bồng, thong dong Thõng tay vào chợ, hòa cùng giọt lệ và nụ cười của thập loại chúng sinh, tùy duyên mà hóa độ muôn loài vạn vật:
“Làm trai dốc chí xông trời đất
Chớ dẫm Như Lai bước đã qua”
Quảng Nghiêm bỗng hét lên như thế
Ồ nghe rúng chuyển khắp sơn hà
“Đỉnh non có buổi leo lên thẳng
Gầm dài một tiếng lạnh hư không”
Không Lộ gầm chi mà sấm sét
Dội vang rúng động cõi bụi hồng
“Đi cũng thiền ngồi cũng thiền
Nói im động tịnh thảy an nhiên”
Huyền Giác phát ngôn như vậy đó
Cho nên dứt tuyệt hết ưu phiền
“Một cõi Vĩnh Hằng thu giọt nắng
Nghe tình du tử chợt xôn xao”
Tuệ Sỹ đi về cùng nhập diệu
Tiêu dao như trăng nước ra vào
Sau cuộc lữ muôn trùng, bỏ lại sau lưng ngút ngàn vạn lý, Tuệ Sỹ tự do như trăng lồng bóng nước, ra vào, tiêu dao, vô ngại giữa cuộc đời. “Một cõi Vĩnh Hằng thu giọt nắng. Nghe tình du tử chợt xôn xao.”
Vì sao xôn xao một chút tình du tử? Khiến cho chúng ta chợt nhớ lại Mười năm trong cuộc lữ, một bài thơ đã đăng trong Tư Tưởng, Đại học Vạn Hạnh mà Tuệ Sỹ làm từ năm 1970, lúc 27 tuổi, thời kỳ lêu lổng, lang thang trên phố núi Đà Lạt ướt đẫm khói sương sa:
“Ta làm kẻ rong chơi từ hỗn độn
Treo gót hài trên mái tóc vào thu
Ngồi đếm mộng đi qua từng đọt lá
Rủ mi dài trên bến cỏ sương khô
Vì lêu lổng mười năm trời nói mộng
Ôm tình già quên bẵng tuổi hoàng hôn
Một sớm nọ nghe chim buồn đổi giọng
Người thấy ta xô dạt bóng thiên thần
Đất đỏ thắm nên lòng người hớn hở
Đá chưa mòn sao lòng dạ trơ vơ
Thành phố nọ bởi sương mù nắng quái
Nên mười năm quên bẵng mộng giang hồ”
Mười năm trong cuộc lữ và Mưa cao nguyên của Tuệ Sỹ là hai bài thơ mà kẻ du tử này thích nhất, nên cứ ngâm nga mãi trên khắp dặm ngàn lang bạt. Bát ngát trời thơ đất mộng, sông núi bồng tênh trên con đường thênh thang sáng tạo vẫn hoài tiếp tục hòa âm cùng cung đàn vô sở trú cư của kẻ cô hành độc lữ:
“Từ tâm tình đến cuộc tình, từ cuộc tình đến cuộc chơi, rồi từ cuộc chơi đến cuộc hẹn. Thế là, đang lân la bỗng đột ngột phát hiện một phương trời viễn mộng xa xôi. Trong cõi đó, lữ khách bao giờ cũng thấy mình đang bươn bã ra đi, đi biền biệt, đi triền miên, tưởng như không bao giờ có bến bờ để đỗ lại, nhưng đi là đi mất, trong từng khoảnh khắc, cái đến và nơi đến đã đến tự bao giờ”***
Như vậy, cuộc lữ Thiên lý độc hành đã đi và đến tự bao giờ, từ thuở nào vô biên tế và bất ngờ, dừng gót lữ lại nơi đây, ngay giữa đại dương trên núi ngàn cao đầy phong quang sáng rực, bừng nở một nụ cười diệu ảo “vô sở tòng lai diệc vô sở khứ” này.
Ở đây, trên tuyệt đỉnh cô phong, chỉ có mây trắng, nắng vàng trộn lẫn với gió thiên thu lồng lộng và một hồn thơ Không có vấn đề chi nữa hết. Chỉ còn vô ngôn, tịch mặc lặng u huyền:
Chất ngất đầu non trời diệu viễn
Tuyệt đỉnh cô phong lặng bóng ngồi
Vời trông bỗng thấy vô lượng kiếp
Heo hút muôn trùng nước mây trôi
Từ khi thiêu rụi ngàn khái niệm
Đốt sạch tín điều lý thuyết kia
Rỗng rang thoát vượt ngoài ba cõi
Bốn phương chẳng dính cũng chẳng lìa
Bước chân vân thủy không chỗ trú
Vô công dụng hạnh hữu với vô
Mượn luôn thanh sắc muôn loài vật
Làm chỗ giao du chốn giang hồ
Nhận biết hiện tiền ngay lập tức
Nên cứ thư nhàn vạn pháp không
Không có vấn đề chi nữa hết
Đến đi tùy thuận giữa bụi hồng
Tâm Nhiên
* Tuệ Sỹ. Giấc mơ Trường Sơn. An Tiêm, Paris 2002
** Tuệ Sỹ. Thiên lý độc hành. Văn Học Press, Hoa Kỳ 2020
***Tuệ Sỹ. Tuệ Sỹ văn tuyển (3 tập) Phương Đông, Sài Gòn 2017
**** Tuệ Sỹ. Tô Đông Pha những phương trời viễn mộng. Ca Dao, Sài Gòn 1973
***** Tuệ Sỹ. Những điệp khúc cho dương cầm. Phương Đông, Sài Gòn 2009
****** Tuệ Sỹ. Thắng Man giảng luận. Phương Đông, Sài Gòn 2012
******* Tuệ Sỹ. Huyền thoại Duy Ma Cật. Phương Đông, Sài Gòn 2007