Showing posts with label Văn. Show all posts
Showing posts with label Văn. Show all posts

Wednesday, October 6, 2021

Thích Tuệ Sỹ: Nước non cách mấy buồng thêu


Một ngày nóng, rồi một ngày lạnh. Người ta cứ mãi triền miên giữa những cơn nóng lạnh bức bách. Bức bách đến kỳ cùng, cho đến khi lòng người vĩnh viễn đắm chìm tận lòng biển. Không nghe và không thấy, người ta chỉ biết nói chuyện bằng những ngón tay, khi nào trời đã tối hẳn. Đến như thế thì đất đá lại biết nói chuyện hơn người. Để bàn tay bất động trên mặt bàn, mối mọt từ mấy trang sách sẽ từ từ chun ra. Trên mặt bàn sẽ hiện nhiều vết máu. Mùi tanh hôi từ các đồng trống kết tụ về ó tiếng quỷ cái đọc thư trên những xác lá.

Đừng nói chi đến mùa thu này đến mùa thu khác. Chỉ có mùi vị tức tưởi tanh hôi của những cảm khái trong các phong vận hư phù của tuế nguyệt. Những người quen thói chờ đợi và níu cái gì đến tức phải đến, những người ấy một khi ngửi ngửi phải mùi vị ấy thì lảo đảo ngây ngất như nhập đồng cốt, rồi sẽ chập chờn đứng dậy kêu gào, khản giọng kêu gào như quỷ đói. Quỷ đói thì cầu xin một bát cháo ở ngả ba đường, vạch cỏ mà tìm những hạt gạo muối.

Cũng thế, người ta có bổn phận tìm và lựa một đôi lời vụn vặt, nhưng nghe được, rồi đảo qua đảo lại để sắp đặt câu chuyện sinh tồn. Quỷ đói còn biết vạch cỏ để kiếm ăn để sống, người ta sao lại không? Tuy vậy, đã vì sinh tồn sao lại quên được cái cách điệu đong đưa tuế nguyệt? Dù sao, từng đoàn người cũng đã lũ lượt, chờ khi đêm tối, kéo nhau vào những chốn rừng thiêng nước độc, ghé mắt trông chừng những hang đá, mỗi hốc cây. Họ đi tìm ở đâu? Người ta nói, họ đi tìm tình yêu và sự chết. Có kẻ nói gọn hơn, họ đi tìm sự sống. Cũng có thể thực và cũng có thể không thực. Sự thực thì có đây, nhưng tình thực thì không. Sự tình nào thì chẳng nông và nổi. Cái sự của tình nó nông như vũng nước của dấu chân trâu, cái tình của nó nổi như bong bóng.

Rồi cứ thế mà nó mãi. Từng đoạn và từng đoạn xô bồ như đoàn người vội vã xô đẩy nhau. Gắng gượng chống chế để kéo dài mọi sự. Tóc càng dài càng trắng. Đoàn người càng dài càng tối đen, chuyện được kể lể càng dài càng sặc mùi quỷ quái tanh hôi. Cũng còn có những lời nói dài bất tận, dài đến độ trời trở nên xanh và lạnh, lá tre trở thành đỏ và rụng xuống như máu.

Mang nương ngâm lộng màn hàn không
Cửu Sơn tỉnh lục lệ hoa hồng.

Bài hát của cô gái mọi trên đỉnh Cửu Sơn, trong vùng đất Thương Ngô, chỉ hát cho một người nghe, và người độc nhất trong lịch sử văn học Trung Quốc có thể nghe, là vua Thuấn. Cái tinh anh và thể phách của ngài không ngự trị trên lịch sử văn minh Trung Quốc, mà chỉ phảng phất trên môi của cô gái mọi. Người ta bắt chước điệu nói hư phù của quỷ mới nói ra như vậy, chứ như điệu nói của người thực thì không bao giờ. Bởi vì nhìn lên thì thấy một xe quỷ, nhìn xuống thì thấy một con heo ủi đất. Thế là trong cái phong vận tiêu tao của tuế nguyệt, một khi trời đất mở ra chỉ thấy toàn heo và đất bùn, khi khép lại, chỉ thấy toàn có quỷ.

Trung Hoa có ba người tài: Tiên tài Lý Bạch, Nhân tài Đỗ Phủ, Quỷ tài Lý Hạ. Tiên tài không thấy có sự nghiệp của Nghiêu Thuấn gì hết, mà có Hằng Nga, có Dao Trì, thành ra chỉ có đàn bà và rượu.

Nhân tài thì có cười có khóc; có sao hôm sao mai.

Quỷ tài chỉ có cái xác chết của vua Thuấn và những bài ca vu vơ của cô gái mọi thôi sao?

Nhưng có thể chắc chắn là không có mối tư lự não nùng giữa những cái còn cái mất của ngày qua tháng lại. Quỷ mà sống thì cũng đồng như không sống? Chở quỷ một xe? (Kinh Dịch) chẳng khác nào chở cái không hư dạo giữa cõi tuần hoàn có sinh có diệt. Quỷ chỉ biết khóc mà thôi, và tiếng khóc của nó làm cho người ta sợ hãi thực. Biết sợ như thế rồi sau đó mới biết cười và biết nghêu ngao trong Du hí tam muội. Tóc trắng da mồi là tinh thể của Du hí tam muội: Bạch phát thương nhan, chính thị Duy ma cảnh giới (Tô Đông Pha). Nơi cõi đó có một mùa xuân vĩnh cửu kết tụ thành bụi phân hoa liễu:

Chi thượng liễu miên suy hựu thiểu
Thiên nhai hà xứ vô phương thảo
(Tô Đông Pha)

Sự kết tụ ấy đã khơi mở một nguồn suối tuôn trào, thành một niềm tương ứng vừa gần gũi vừa xa xôi của kẻ ở góc biển này và người ở chân trời nọ:

Ngồi kể lại chuyện ngày xưa cũ kỹ
Em không nghe vì anh cũng không nghe
Hồn hoa phấn xông hương sầu dị dị
Tóc vàng tơ tỉ mỉ ngón tay đè
Vì ngọc trắng cát lầm thu xiêu lệch
Gió băng trời xin thổi bụi bay theo
Ngàn xuân rộng vô ngần trong bóng nguyệt
Đầu xanh em tư lự suốt sông đèo
(Bùi Giáng – Mưa Nguồn)

Vì sự bức bách của nóng và lạnh, cho nên cái chuyện chưa từng xảy ra, bỗng chốc đã trở thành cũ kỹ. Từng ngày từng ngong ngóng buổi chiều để đi suốt qua một cánh đồng cỏ, ghé mắt trông chừng bóng liễu rũ. Trời sáng người làm quỷ, trời tối quỷ làm người. Người và quỷ cứ gây phiền muộn mãi cho nhau đến thế thì thôi.

Nước non cách mấy buồng thêu
Những là trộm nhớ thầm yêu chốc mòng

Trong buồng thêu đầy những mối mọt. Chúng không còn tham lam đắm đuối vật vờ với mùi giấy mùi mực của đống sách này chồng lên đống sách nọ như nấc thang dài vô tận đưa thẳng lên trời. Bây giờ chúng mê mẩn tâm thần chết lên chết xuống với cái mùi vị hương nồng của tóc cũ tóc mới, từ tóc ngắn chấm vai cho đến tóc dài chấm gót chân đó, chấm đến một vùng đất bạc.

Đứng mãi đây hay đi? Và đi đâu để đạp lên miền tương ứng? Tương ứng của xa vời trong gang tấc và của gang tấc trong xa vời? Hay một lần từ giã chỗ đứng đó để mà đi tức là đi mãi, đi cho biết hết cõi sinh tồn, hết cõi hủy diệt?

Gác kinh viện sách đôi nơi.
Trong gang tấc là gấp mười quan san.

Câu chuyện sau đây nghe được từ sau tấm vách của một gia đình nọ.

Cái gia đình ấy không tối nào mà vắng tiếng to tiếng nhỏ. Họ là hai anh em ruột thịt. Bằng cái tuổi ấy, nếu không nhịn được, ai cũng có quyền lập gia đình riêng, tội gì mà phải gắn bó, rồi chung đụng để cứ gây phiền toái cho nhau hoài. Họ làm phiền nhau thì có, mà làm phiền hàng xóm thì không. Bởi vì, dù họ có cãi nhau thực đấy, nhưng nghe rành rõi; không vội vàng gay gắt.

– Sao chú không bảo nó xéo đi nơi khác, thế có hơn không?

– Có gì mà phiền? Hắn đến đó vì chuyện riêng của hắn, can dự đến ai.

– Ừ, thì đã can dự gì đến ai. Sao chú không lấy mắt của chú treo lên trên cành cây mà nhìn nó có hơn không? Tội gì mà thấp thỏm trông chừng./.

Tuệ Sỹ

Mười huyền môn trật tự của thế giới trong tương quan vô tận


Nguồn: Thư Việt Phật Việt

Friday, June 23, 2017

LÊN NON XUỐNG NÚI UNG DUNG – ÔNG RÙA ĐÁ NGỘ

Tác giả và nhà giáo dục NHLD.
LÊN NON XUỐNG NÚI UNG DUNG – ÔNG RÙA ĐÁ NGỘ

Sáng nay, trong không gian yên tĩnh, ngồi đọc thơ Nguyễn Hoàng Lãng Du, người có tên thân thương khác mà chúng tôi thường gọi là Ông Rùa Đá, ôi sao nhẹ nhàng và diệu vợi như tiếng chuông ngân. Một sáng mai, trong lành như Buổi Sáng của NHLD,
Trên hồ xanh
Con cá quẫy
Bỗng động đậy
Mặt trời hồng.
Trong cái động đậy đó chúng tôi chợt nhớ đến Cội Nguồn của anh, cũng như của tất cả chúng ta.
Mai đây khi trở về nguồn
Suối trong róc rách nước ngon môi mềm
Giữa rừng cây quế đứng im
Ta say giấc giữa tiếng chim gọi đàn.
À thì ra, anh cũng đã và đang gọi đàn, vậy mà bấy lâu nay chúng tôi cùng đồng hành với anh lúc nào không biết. Trong thơ anh, chúng tôi thấy những thao thức, khát khao, cay đắng, hy vọng, tin yêu và tình thương mà người luôn muốn được chia sẻ cùng nhau. Cũng như bao nhiêu người Việt ly hương, anh luôn nhớ về nguồn cội và tìm mọi cách để góp phần xây dựng quê hương, nhất là lãnh vực giáo dục và văn học nghệ thuật. Anh còn là một trong những người sáng lập trang nhà Làng Huệ.
Tấm lòng cao thượng của anh là thế. Từ bi và trí tuệ song toàn; bút lực sung mãn. Anh vẫn âm thầm cống hiến cho cho văn thơ Việt Nam nói riêng và cho nền giáo dục Viện Nam nói chung. Âu đó cũng là những Phẩm Vật của Trần Gian mà anh hằng ấp ủ trong cuộc đời mong manh và ngắn ngủi này. Hãy nghe anh gởi gấm những thông điệp yêu thương, hoài niệm, trầm uất, khát khao, bi hùng, chí lý, dõng dạc, hiên ngang, đầy nghĩa tình, đầy khí phách, có khi buồn man mác nhưng lạc quan và nhân bản – Bài thơ Trên Giòng Sông Trắng là một trong nhiều bài thơ bất hủ của anh mà chúng tôi luôn đồng cảm.

Trên Giòng Sông Trắng  
                    
Đã có lần nơi đầu nguồn im vắng
Anh làm thơ trên lá thả theo giòng.
Em giặt lụa tay thơm bờ sông trắng,
Bóng xuân hồng cúi xuống vớt thơ trăng.

Ôi cái thuở lòng anh thơm gió núi
Và tình em hương lúa chín trên đồng.
Chim chóc hót những ngày như mở hội.
Thơ chúng mình tinh-khiết tựa sương trong…

Rồi quê-hương đêm ngút trời khói lửa.
Viên đạn đồng tàn-nhẫn đã bay qua.
Em nhắm mắt.. Đường mình chia hai ngả.
Anh lang thang, mưa gió mãi không nhà.
Sau cuộc chiến tìm về nguồn lạnh vắng.
Thơ không làm, lấy lá thả đời trôi.
Nơi cuối giòng vẫn nắng vàng, sông trắng.
Không còn người âu-yếm vớt hồn tôi.

Anh là thế hệ đi trước, đã trải nghiệm biết bao nhiêu thăng trầm và gian truân trong cuộc đời; anh đã sống qua thời Cải cách ruộng đất đến Chiến tranh Việt Nam. Từ Việt Nam ra hải ngoại, anh đã dọc ngang ngang dọc mọi thời khắp trời Đông Tây, cũng để rồi “tìm về nguồn lạnh vắng” để rồi anh ôm ấp Tình yêu thương rộng lớn của cõi đời hầu “ta giữ đến mai sau”.
Hay nói một cách khác, giữa sống và chết, giữa khỏe mạnh và ốm đau, giữa có và không, giữa còn và mất, anh vẫn giữ tấm tâm trong với thông điệp Yêu thương, Từ bi, Bác ái cho chính anh và cuộc đời. Âu đó cũng là chìa khóa cho một cuộc sống an bình và hạnh phúc cho mình, cho người và cho muôn loài. Hãy nghe nhà thơ tâm sự khi ngưỡng cửa thứ ba trong đời chào đón anh:

Giữa Cõi Đi Về

Trăng vẫn chiếu cuộc chơi từ cổ-độ,
Chợt vòng quay đảo lộn cả phương trời.
Nơi bãi vắng đóa hoa vừa nở rộ,
Thuyền ơi thuyền nước chẩy cứ trôi xuôi.

Cửa Trời Đất vô cùng đâu có hẹp.
Ta yêu nhau khi trăng thuộc về người.
Tới hay lui, lối đi nào cũng đẹp.
Ở hay về, đường vọng những lời chim.

Đây là chút yêu thương làm rượu ngọt,
Cho anh em chuếnh-choáng với mâm đời.
Rừng sương mộng, môi mềm ta cứ uống.
Giữa chợ chiều, tâm-thức nhớ an-vui.

Có tiếng hát mơ-hồ trên bến hẹn,
Tiễn chân nhau tới chốn ít ai tìm?
Cơn sóng lớn băng qua nguồn tắc-nghẽn.
Giòng máu nồng theo lối chẩy về tim.

Hỡi chăn gối đã đưa ta trở lại,
Tạ ơn nhiều êm-ái lúc thân đau.
Hỡi viên thuốc trên đầu môi tê-dại.
Dư-vị này ta giữ đến mai sau.
Anh vẫn lạc quan, yêu đời và biết ơn với cuộc sống. Âm điệu, thi ảnh, mầu sắc, và tư tưởng đều có đầy đủ trong bất cứ một bài thơ hay nào, mà anh thì có quá nhiều bài thơ tương tự để liệt kê nơi đây. Mà thơ nói chung, theo luận điểm 29 trong Mỹ Học của Geghen mà Phan Ngọc dịch, là "Vì ngôn ngữ là thực tại trực tiếp của tinh thần, cho nên thơ bao quát được đối tượng, mọi đề tài, "mọi nội dung, mọi sự vật, mọi biến cố, hành động, lịch sử, trạng thái bên ngoài hay bên trong. Nó lại thể hiện đối tượng trong sự vận động (điều mà điêu khắc, kiến trúc, hội hoạ không thể làm được). Đồng thời, thơ lại có thể dịch ra một ngôn ngữ khác mà vẫn không bỏ mất giá trị khi đọc hay xem bản dịch. Mỗi nghệ thuật điều có cái thời cực thịnh của mình..."

Những trang thơ của Nguyễn Hoàng Lãng Du đăng trên Làng Huệ là ‘thời cực thịnh’ của anh. Tư tưởng Mang Tình Yêu Thương Lớn (Bác Ái) của Thiên Chúa giáo hay Tứ Vô Lượng Tâm của Phật giáo đem vào cuộc đời để thắp sáng ngọn lửa tin yêu, hy vọng, an bình và giải thoát. Nhà thơ đi và về giữa cuộc đời với bao phong trần, khổ lụy mà không hề bám víu, hối tiếc hay khóc thương, xem lợi danh như bọt biển mây chiều.

Đây chén đắng, môi sầu ta mãi nếm.
Em xót-xa nên nước mắt lưng tròng.
Canh bạc đời một lần thôi đã kém.
Mỉm miệng cười, đứng dậy thấy tay không (Bến Nhớ).

Để rồi nhà thơ thong dong phủi tay lên núi Tiên tu đạo làm người.

Trên Núi Cao
1
Trên núi cao bỗng có cơn gió lớn
Cuốn hồn ta thành một kẻ trọc đầu.
Gã lang-thang nơi cuối trời mây trắng,
Chốn quê nghèo thoang-thoảng chút hương cau.
2
Ở nơi đó có mùa  trăng cổ-tích,
Mẹ hàng ngày quang gánh nặng yêu thương.
Cha ngạo-nghễ nên vui đời áo rách,
Thua-thiệt gì vẫn giữ cái tâm trong
3
Ở nơi đó có người em bé nhỏ,
Trái cam vàng em nhịn đợi chờ anh.
Chiều ly-biệt chao ơi tha-thiết quá!
Em ôm anh khóc ngất lúc xuân tàn.
4
Ở nơi đó có người tình thuở cũ,
Vỡ lòng yêu khi đi học chung trường.
Có ngờ đâu giòng đời như thác lũ,
Ngọn tre già nặng chĩu những tang-thương.
5
Ở nơi đó có căn nhà mái dột
Mẹ thở dài đêm trắng đợi mưa qua…
Trên núi cao đầy hoa thơm ngào-ngạt.
Con tu tiên quên cả chuyện quê nhà!

Anh lên núi buông bỏ tất cả những bụi bặm trần thế, thua-thiệt làm gì cho đời mãi long đong. Nên anh vẫn giữ cái tâm trong, mà trong cái tâm trong đó, dù kiếp này hay kiếp sau, anh cũng vẫn nhớ “chuyện quê nhà!” và anh đã thấy rằng:
“...Hôm nay trên đời
Anh em cơ-cực.
Ta ôm mặt khóc
Thân-phận làm người.”  (Kiếp Sau)

Ngộ ra đây là thân phận làm người Việt Nam, một dân tộc anh hùng nhưng đã ngàn năm thăng trầm và trầm luân đau khổ. Nhưng cũng bao nhiều thế hệ trước, anh vẫn lạc quan và nguyện cùng đồng hành cùng với tuổi trẻ, với dân tộc, anh vẫn “Mơ làm đuốc soi đường đêm giá lạnh. Trong rừng đào ôm sử đợi xuân sang.” Chúng ta có thể hiểu thêm về nhà thơ Nguyễn Hoàng Lãng Du qua loạt bài Chủ đề Tiếng Gọi Núi Sông, Giáo dục Thiếu nhi, Tranh-Thơ-Nhạc, hay chỉ riêng bài Gọi Dậy Ngàn Năm mà Giáo sư Nguyễn Văn Thái dịch ra tiếng Anh dưới đây.

Gọi Dậy Ngàn Năm
1
Rồi gã mù ôm mùa đông thức dậy.
Tiếng độc-huyền vang động tới ngàn năm.
Ngày Quê-Hương có gió xuân thổi lại.
Đêm linh-thiêng thơm ngát với hương trầm.
2
Đàn reo vui theo tiếng cười Uy-Viễn.
Thuở tiêu-dao ngất-ngưởng cưỡi lưng bò.
Đây núi sông,Tướng-Quân đùa với chén.
Bụi-bặm đời trôi-nổi dưới chân co.
3
Đàn giục-giã, trống đồng khi thúc trận.
Trên lưng voi thân gái trả thù nhà.
Muôn tiếng thét, quân reo tràn uất-hận.
Một cõi bờ dựng lại mặc phong-ba.
4
Đàn hào-hùng, điện Diên-Hồng sấm động.
Những cha già tóc trắng sát bên nhau.
Lời quyết-chiến tung bay theo gió lộng.
Người lên đường hăm-hở bước chân mau.
5
Đàn hiền-hòa, Đế-Vương khi mở nghiệp.
Núi La-Sơn thành-khẩn những ba lần.
Đây Quân-Đức, Dân-Tâm và Học-Pháp.
Thanh-âm này chĩu nặng ý Giang-San.
6
Đàn xót-thương, tiếng bom vang Sa-Điện.
Một ngày buồn, bão-tố ngập Quê-Hương.
Tráng-Sĩ đi một lần không để thẹn.
Rồi người người đứng dậy quyết noi gương.
7
Ta mắt mù, vui với đời cô-quạnh.
Mang yêu-thương trút xuống một dây đàn.
Mơ làm đuốc soi đường đêm giá lạnh.
Trong rừng đào ôm sử đợi xuân sang.

Awakening from Millennia

1
The blind bard from winter awakes.
The sound of his monochord resonates from millennia:
The day when Motherland enjoyed the breezes of Spring
And the sacred night was embalmed with frankincense.

2
The monochord is cheering along with Uy Vien’s laughter;
In a leisurely manner, he wanders here and there riding a cow,
Frolicking with a flask of rice wine in peaceful Fatherland,
Scorning all ephemeral matters that pass under his feet.

3
Its sound is hurrying, when the brass drums press for the battle.
On elephants’ backs the heroines seek revenge:
Through thousands of war cries, soldiers’ outrage clamors
For the rebuilding of the nation in spite of adversities.

4
The sound is becoming daring, when the Dien Hong Palace thunders,
By the gray-haired patriarchs shoulder to shoulder,
With the roar of the war cries ballooning the immense winds
That push people to eagerly accelerate the speed of their steps.

5
The sound is currently gentle: Forefather of our kingdom, Our Emperor
Has thrice sought advice from the Sage of Mount La-Son.
Here you are, “Virtues of a King, Hearts of the People, Practical Education.”
This tune is laden with multiple meanings of nationalism.

6
The sound now turns elegiac, when the bomb detonates in Sa Mian:
A sad day when the storms ravage Fatherland;
The hero once passed didn’t leave shame behind.
And people one after another rise up following his footsteps.

7
My eyes are blind, but I enjoy my loneliness:
I’m pouring love down onto the monochord,
Living the dream of a torch that lightens up the freezing cold night.
Embracing history, waiting for Spring to come again, in the cherry blossom tree garden.

Poem by Nguyễn Hoàng Lãng Du; English translation by Nguyen Van Thai
Notes: 2. Nguyễn Công Trứ; 3. Hai Bà Trưng; 5. Quang Trung và Nguyễn Thiếp; 6. Phạm Hồng Thái

Nhà thơ khiêm cung lắm, trí tuệ đó, cái oai hùng đó, mà anh bảo rằng, “Ta mắt mù, vui với đời cô-quạnh” nhưng để rồi anh lại “Mang yêu-thương trút xuống một dây đàn.” Mà thiệt những người như anh, những người âm thầm làm văn hóa và giáo dục nhân bản là những kẻ bơi ngược dòng, cô quạnh và đơn côi. Có lần Vũ hoàng Chương cũng nói về tâm trạng đó--thân phận làm người Việt Nam.
“Lũ chúng ta, đầu thai lầm thế kỷ,
Một đôi người u uất nỗi chơ vơ,
Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị,
Thuyền ơi thuyền! Xin ghé bến hoang sơ.”
Cảm nhận như vậy để thấy và biết rằng mọi sự trên đời đều qua những gian đoạn thành trụ hoại không. Cuộc đời chúng ta cũng thế, vốn là vô thường, có rồi không, còn rồi mất, lúc có lúc không. Nhưng bên cạnh nhà thơ luôn có những gã đồng hành; vậy thì hãy giữ lại những kỷ niệm đẹp như trong Cõi An Bình.
“Em giữ hộ mùa đông dăm giọt nắng,
Câu ngọt-ngào xót lại tự xa-xưa.
Hồn cổ-thụ, hoa sầu đơm trái đắng,
Thân trăm năm bụi-bặm thấy dư-thừa...”
Những cảm giác bùi ngùi, khắc khoải, thế thái nhân tình cũng chỉ là những hạt bụi dư thừa mà thôi. Vậy nhé,
Mai ta lên rừng
Làm con chim nhỏ.
Lá thơm, trái đỏ
Thỏa chút rong chơi.
Mai ta xuống đồi
Làm con cá lội.
Vài hàng đá cuội
Tung tăng một giòng.
Mai ta về đồng
Làm giây cỏ lạ.
Hoa vàng nắng hạ
Uống giọt sương trong...(Kiếp Sau)
Nhà thơ Nguyễn Hoàng Lãng Du đó, một đời lên non xuống núi, để rồi cũng ngộ rằng anh cũng chỉ là Hạt bụi bay giữa trời. Anh viết,
Thoáng nghe hạt bụi giữa trời,
Bay trong nắng hạ gọi người lãng-du.
Em về rủ gã chân tu,
Leo lên núi biếc đường mù khói sương.

Vậy gã chân tu hãy cùng em hiểu bài kệ ngài Như Trừng như là một sự thực tập nhé, “Bản tùng vô bản. Tùng vô vi lai. Hoàn tùng vô vi khứ. Ngã bản vô lai khứ. Tử sinh hà tằng lụy.” Tạm dịch “Tất cả các Cội nguồn / Gốc rễ bắt nguồn từ nơi không gốc rễ". Mọi sự từ vô vi đến và lại trở về với vô vi. Chúng cũng không đến không đi, thì tử sinh làm sao hệ lụy được.” Bài kệ này được cụ Võ Đình dịch ra tiếng Anh như sau:

The source begins from no source
It comes from nothingness
And it goes back to nothingness
We neither come nor go
Life and death are then of no concern.

Sacramento, đầu hè 2017
Mừng anh về thăm California.
Bạch Xuân Phẻ