Showing posts with label Đoàn Thêm. Show all posts
Showing posts with label Đoàn Thêm. Show all posts

Friday, March 20, 2020

ĐOÀN THÊM: Đẹp Là Gì?

Cõi riêng - Photo: BXK

Đẹp Là Gì? 

  
Nhà biên khảo Đoàn Thêm


Trong những lúc tìm Đẹp, tôi đã từng phải băn khoăn nhiều lần về một câu hỏi: Đẹp là gì?

Vấn-đề đặt đúng hay không, sẽ liệu xét sau, nhưng trong thực-tế nó đă nẩy ra thì cũng cần xem đưa tới đâu, đến kết-luận tích cực hay tiêu-cực: nếu không giải đáp nổi, vẫn nên nhận định để rồi sau khỏi mất thời giờ nghĩ quẩn.

Cái hộp sơn này đẹp, mặt người đó đẹp, bức tranh kia đẹp, ngôi nhà ấy đẹp, hoa mai nở đẹp; điệu đàn nghe chiều qua, trang sách mới đọc, hương vừa thoảng quanh đây... mọi vật mọi sự kể trên tuy khác hẳn nhau, đều có một cái gì chung: đẹp. Đẹp không phải là màu, vì cũng là mùi, không phải là hình dáng vì còn là âm thanh, không những là đối- tượng trông thấy, nhưng cũng có thể không màu không tiếng không mùi vị mà cứ rung động buồn vui ở bài thơ hay. Vậy ai giải thích cho tôi thỏa-mãn?

Rồi sau tôi mới rõ rằng nghĩ miên man như vậy, chẳng phải chỉ một mình tôi, nhưng từ mấy ngàn năm nay, nhiều người đã vướng phải thắc-mắc tương-tự, và đã thử tìm thử nắm cái Đẹp chung kia.

Theo Platon, triết-gia Hy-Lạp (thế-kỷ thứ IV trước dương lịch) thì Đẹp không phải là hình sắc hương thanh, Đẹp có sẵn như trời đất, ở bên ngoài mọi vật, rồi hễ nhập vào đâu thì đem thú vị say sưa vào đó, vào cây thì cho thấy hoa ngoạn mục, vào người cho thấy duyên-dáng, vào nhạc cho thấy du-dương (1). Đẹp hiện ra nhiều vẻ, đẹp vật chất, đẹp tinh thần, Thiện và Chân chẳng qua cũng là Mỹ có thể tiến về Chân và Thiện (2).

Đẹp như thế là hoàn-toàn, mà hoàn toàn là đặc-tính của Trời (le divin) nên Đẹp là sự thiêng liêng tối-cao, tối-quí, siêu-việt, vĩnh-cửu, con người chỉ có thể hướng lên gần, nghệ-thuật phải làm sao phản chiếu được thật nhiều cái Đẹp muôn năm trường tại ở trên mọi vật nhất-thời. Bởi Đẹp là một ý-tưởng, mà ý-tưởng đó lại phải thỏa mãn cả Thiện và Chân, chỉ có thể hiện ra trong sự dung-hòa kết-hợp, cần tương giao tương-ứng, cân-xứng, thăng bằng, nghĩa là dưới những vẻ mà ta nhận thấy lý-trí sáng suốt êm đểm hơn là những cảm-tình hỗn-độn sôi nổi. Platon đưa ra các tỉ-dụ Đẹp đáng làm khuôn mẫu, những hình kỷ-hà đơn thuần, đều đặn như lục-lăng bát giác (3).

Nhưng ngay ở thời ông, đã có người không đổng ý. Triết-gia Aristote, môn-đệ của ông, không chịu rằng Đẹp hoặc mọi ý-tưởng khác từ bên ngoài nhập vào sự vật, Đẹp không phải là một sức bí-huyền có trước khi con người sinh ra, rồi sau bay nhập vào thần trí mà cho thấy những gì ưa thích. Nếu theo Platon, thì Thơ chẳng hạn, là phép kỳ-diệu của Trời cho và nếu không sẵn thiên- phú, chẳng thể thành thi-sĩ; nlurng đối với Aristote, Thơ chẳng qua là ở sự-vật, con người phỏng theo sự vật mà nói lên bằng lời đẹp những rung động nội-tâm. Chúng ta biết sự vật và Đẹp nhờ ngũ-quan, sau khi nhìn thấy, nghe thấy, nghĩa là biết Đẹp một cách hậu-nghiệm, và mỹ-cảm nuôi tưởng tượng cho con người sáng tạo. Con người có thể tạo ra Đẹp bằng cách sắp đặt sự vật thế nào cho có trật-tự và hòa-hợp (4). Nghệ-thuật tuy bắt nguồn từ thực-tế, không phải là sự bắt chước như hệt thực-tế (Mimésis) vì Đẹp vượt quá thực-tế, song Đẹp nhờ xúc-động cá-nhân nghệ- sĩ mà hiển-lộ (Carthasis).

So sánh hai lý-thuyết, tôi thấy Aristote có khuynh-hướng thiết thực hơn Platon, nhưng vẫn không cắt nghĩa cái Đẹp chung kia. Nêu nó không ở một thế- giới linh-tượng của Platon mà rơi xuống trẩn-gian, thì từ đâu lại để tôi thấy nó, khi chung quanh tôi chỉ có vật này đẹp, người kia đẹp, hay cây kia đẹp? Nếu bảo rằng nó nằm sẵn trong thâm-tâm tôi từ kiếp nào, như mọi ý-tưởng tổng-quát khác (concept) thì cũng chỉ đưa ra một giả-thuyết không dựa vào chi vững chắc mà lôi cuốn tin-tưỏng của tôi.

Nêu vậy tôi sẵn lòng theo Platon? Nhưng Platon sẽ kéo tôi đi quá xa, vào cõi bao-la dễ lạc: nhận Đẹp là một linh-tượng, thì phải nhận cả thế-giới diệu-huyền ở bên ngoài thế-giới ngũ-quan và chứa đựng bao nhiêu linh-tượng khác chung sống với Đẹp, mắt không trông được, tai không nghe thấy, không khả-giác nhưng vẫn khả-tri. Rổi lan man như thế, tôi sẽ vướng phải rất nhiều thuyết nữa về vũ-trụ, và thể nào cũng bị các nhà siêu-hình-học bắt bẻ vì lẽ này lẽ nọ, cũng như họ đă chống đối nhau mấy ngàn năm chưa dứt.

Tôi đành chịu, không dám tin Platon, nhưng không khỏi ngậm ngùi luyến tiếc: thế-giới của ông có lẽ chỉ là một ảo-mộng, song không thiếu thi-vị, và khi ở trên đường, trong nhà, ngoài đồng, chỉ thấy những mặt đẹp, những chiếc bình đẹp, những màu cỏ đẹp, tôi vẫn ước rằng cái Đẹp chung có nơi nương gửi, ở một Thiên-thai bên ngoài gió mây...

Mà đâu phải chỉ có tôi phân vân? Nhiều triêt-gia sau Platon và Aristote, chắc cũng thấy khó khăn, nên không thấy ai tán đồng hẳn hay phản đối hẳn hai tiền triết Hy-Lạp, và ở phạm-vi thẩm mỹ, chỉ cho biết như thề nào thì đẹp, mỗi thứ nghệ-thuật có những vẻ đẹp gì, nghệ-sĩ tìm đẹp ra sao... còn mọi định-nghĩa thường hàm-hồ, hoặc tóm lại vài tính cách sự Đẹp, chứ không dứt khoát về bản-chất bí-huyền. Dù sao, qua nhiều thiên đại-luận thuyềt trình với lập-trường riêng, vẫn nhận ra được những ý-kiến có thể qui về hướng Platon hoặc Aristote.

Triết - gia Kant (1724 -1804) không bảo rằng Đẹp ở bên trên hay ngoài mọi vật, ông căn cứ vào ưa thích tự-nhiên mà nhận định ra Đẹp. Đẹp là cái gì khiền ta ưa thích ngay tức khắc ở sự vật, không cần ý-niệm gì, không phải lý luận chứng minh như sự thiện, không đòi hỏi công-dụng như sự cẩn-ích. Sự Đẹp phải được mọi người mọi thời đều thấy; nghệ-thuật cần theo những qui-lệ, nhưng qui-lệ đó có sẵn trong trời đằt, tạo hóa chỉ mượn bậc kỳ-tài truyền lại cho đời (5).

Hegel (1770-1834) coi Đẹp là sự thể-hiện của Ý-Tưởng (L’Idée) Ý-Tưởng là nội-dung khả-giác của nghệ-thuật; nghệ-thuật cho ý-tưởng mượn các hình-thể mà xuất phát cho giác-quan và tưởng tượng thấy rõ. Mới đầu Ý-tưởng của con người còn lộn-xộn, cần tìm cách diễn tả, chỉ đạt một cách gọi là, thành những hình thù thô kệch như tượng đá cổ lỗ (thời-kỳ tượng-trưng, âge symbolique); rồi tới nhứng hình thể tinh-vi (thời-kỳ cổ-điển, âge classique) phải đợi thời-kỳ Lãng- Mạn (âge romantique) mới thâu được cả ngoại-giới vào nội-tâm mà đến hình-thể xứng hợp nhất, tỉ như thơ tự-tình (poésie lyrique) — Người ta đã công kích ông về nhiều điểm, nhưng riêng tôi ở đây chỉ thắc mắc tự hỏi: ông có công nêu rõ sự biến chuyển của nghệ-thuật qua các thời-đại, hoàn-cảnh, và tâm-hồn cá-nhân; nhưng ông chỉ biết đến thời ông, khi Lãng-Mạn đương thịnh: sao quả quyết là nghệ thuật đã thật xứng hợp với Ý- Tưởng, thế còn về sau này thì không? Ông cắt nghĩa Đẹp bằng Ý-Tưửng: nhưng Ý-Tưởng đó ở đâu ra và là cái gì, hay lại là linh tượng từ thiên-cung của Platon rớt xuống? Tôi rất ngờ, khi còn nghe ông nói gần như Platon: nghệ-thuật đạt tới tuyệt đích nếu cho nhận thức và biểu lộ được Thiêng-Liêng (6).

Sau ông, ảnh-hưởng Hy-Lạp cũng chưa hết. M. Blanchot tin rằng Thơ vốn có sẵn, rồi mới nhập một cách bí-mật vào thi nhân mà thành bài: khác gì Platon? (7). Theo Bachelard, Bergson, Malraux, sự Đẹp bắt đầu hiện ra trong hổn nghệ-sĩ với một hình ảnh lơ mơ (images, schèmes) nhưng nghệ-sĩ không bắt chước thực-tề, trái lại, biến đổi đi mà sáng tác: Aristote đã từng nghĩ thế (8).

Phải vài pho sách mới lược thuật được các ý-kiến... Nhưng chưa ai giải nổi cho sự thắc-mắc ngàn xưa: Đẹp là gì? Hégel thấy không tài nào xét kịp từng vẻ đẹp riêng ở mỗi đồ vật khác nhau, nên phải cố xem sự Đẹp chung cho mọi vật ra sao; nhưng rốt cuộc, chính ông cũng phải lùi "Đẹp là đối-tượng của tưởng tượng, của trực-giác, của tình cảm, nên không thể là đề-tài nghiên-cứu của một khoa-học hay triết học" (9).

Vậy tốt hơn hết là tạm gác bỏ ảo-vọng định nghĩa sự Đẹp mà trở về các hình-thái đẹp trong thực-tế, ở thiên-nhiên hay nghệ-thuật.

Nhưng ngay ở phạm-vi này, nhiều khi tôi vẫn chưa khỏi e dè... Bên cạnh những vẻ đẹp thấy ngay giây lát như bông hoa nở thắm, còn bao vẻ lâu dần mới nhận ra đẹp hay xấu: thơ, nhạc v.v...

Những gì đã khiến tôi ngần ngại? Chưa đủ kiến-thức về nghệ- thuật? thiếu tự-tín trong phán đoán? học hỏi, xem xét, suy nghĩ, thì tự giải thoát. Song còn những sự-kiện ỏ quanh tôi và chẳng tùy tôi hẳn: những thành-kiến, những cố-chấp. nghĩa là những áp-lực nặng nề. Tôi tự nhủ: tìm đẹp cho mình, thì cứ việc theo chủ- quan, hà-tãt phải kể đến người khác?

So đo, cọ xát với tha-nhân, không phải là vô-ích, vì đôi khi tỉnh ngộ. Vả chăng, tôi không khỏi buồn nếu mình khen đẹp mà người chẽ xấu, và ngược lại; sự cô-đơn trong sáng tác cũng như trong thưỏng-thức, làm giảm mất vui, và ỏ đây vẫn cần chia xẻ. Nếu không gặp bạn đồng-tâm chia xẻ thực-sự, ít ra cũng phải hy vọng rằng người khác nếu thấy chắc cũng đồng-ý với mình là tranh mình vẽ hay ngắm cũng coi được, đàn mình gảy hay nghe cũng êm tai... Những sự lố-lăng mà tôi bác bỏ, cũng mong bạn hữu đừng ca ngợi. Tóm lại, nghệ- sĩ hay khán-giả, thính-giả hay thức-giả đều cẩn một sự cảm thông thật, hoặc sự khả-hợp, dù khi ích-kỷ thấy đẹp muốn giữ riêng cho mình. Bởi vậy, tôi lại gặp một thắc-mắc nửa, về tính cách riêng hay chung của mọi vẻ đẹp.

Một đằng tôi thường nghe nói: mỗi người thích một vẻ, mỗi người ưa một mầu, không lấy gì làm chuẩn-đích được: chỉ có sự đẹp chủ-quan. Theo triết-gia Kierkegaard (1813-1855), không thể có sự Đẹp khách-quan hay sự Đẹp lý tưởng chung cho cả nhân loại, mỗi nghệ-sĩ tự-do tìm ra một thứ đẹp riêng theo ý mình (10).

Đằng khác, biết bao áng văn, bản nhạc, pho tượng... được nhiều người tán dương; các tuyển-tập, các giải thưởng, các viện bảo-tàng đều công-nhận sự Đẹp chung. Triết-gia Kant, tuy căn cứ vảo chủ-quan mà giao cảm đop xâu. cũng tin rằng sự Đẹp phải được tôi-đa-sô ở mọi thời ira chuộng (11).

Theo quan-điểm thứ nhất, thì tự-do cá-nhân được tôn trọng, không ai chê bai kẻ khác nếu họ chẳng xét đoán như mình. Nhưng sự thông-cảm có thể gặp trở ngại, nghệ-sĩ mặc sức buông thả theo hứng riêng, hav lạc vào bí-mật, qiái-dị: trường-hợp nhiều thơ siêu-thực và nhiều tranh trừu tượng.

Với quan-điểm thứ hai, người ta muốn hòa-hợp, nghệ-thuật ở điều-độ thăng-bằng, có thể lên cao mà vẫn dễ hiểu: trường-hợp các nghệ-sĩ và các môn-phái Cổ- điển. Nhưng người ta hay dựa vào sự đồng-ý, tôn những vật hoặc người đitợc nhận là đẹp làm kiểu-mẫu, đưa những đồng điểm lên làm tiêu-chuẩn, biến những sở-thích của số đông làm thể-lệ, lấn áp cả sáng-kiền của những ai không tán thành.

Ở đâv, tôi ba phải, và nghĩ cả hai quan-điểm kể trên đều có phần đúng. Mỗi con người đều có cảm xúc riêng tư không ai chối cãi và khó lòng cắt nghĩa. Nhưng ngoài ra, đã cùng giống loài, cùng xác thịt, cùng nếp sống, v.v... đã có nhu-cầu chung thì phản-ứng đối với những phương-tiện thỏa mãn cũng có thể tương-tự nhiều hay ít: đối với sự Đẹp và nghệ- thuật, cũng vậy (12). Sự đẹp do chủ-quan của một nghệ-sĩ tìm ra, thường được truyền thụ cho nhiều người khác thấy: hiểu người khác, tôi có thể thay đổi chủ-quan của tôi để giống họ và hòa nhập vào các chủ-quan khác, để tới ý-niệm khách-quan về sự Đẹp chung.

Song nếu tôi không chịu chú ý kiểm soát, thì sự hòa-đồng kia cũng có hại. Lắm khi tôi yên trí là đẹp tại nhiều người khác ưa. Xưa kia, có bậc tôn-trưởng bảo tôi rằng thơ ấy thơ nọ được sĩ phu bốn phương ngâm nga, thế là từ đó tôi cũng thấy hay; nhiều bức tranh được tôi ca ngợi chỉ vì đã nổi tiếng; về sau đọc lại, ngắm lại, chẳng thấy rung cảm, tôi đành rút lui về chủ-quan, và từ đó, tôi không ngần ngại gạn lọc dần những cái đẹp «ưa lây» đã ngấm ngầm len lỏi vào tâm hồn tôi tuy trái với sở-thích, dẫu tác-phẩm nằm trong văn-học-sử hay ngủ ở viện bảo-tàng.

Tôi cũng đã từng chịu sự lừa dối của những chữ, nhửng lời lẽ tâng bốc, mới đầu để nói bóng, sau quen đi thành tiếng thông dụng, rồi in sâu vào óc tôi lúc nào chẳng biết. Đẹp như Tây-Thi, Tống-Ngọc: không ai dám chê là xấu vì mấy mươi vạn người truyền tụng rồi, và nói hay không, chưa ai trông thấy bóng nàng kia và chàng đó: tôi cũng nghĩ là mỹ-mạo tuyệt-trần. Hoa-khôi hoa-hậu thế-giới: coi hình ảnh ở báo hav màn bạc, tôi không mê, tuy không dám chê, trước áp-lực của dư-luận. Ngẫm kỹ, tôi phủ nhận, vì tiếng rằng của «thế-giới», nhưng thực ra chỉ là của đa-số trong vài chục ông giám-khảo, chọn trong vài trăm cô; rất có thể mấy ông nhà văn ghi lại dung nhan để sau này làm tập nghiên cứu như «l'éternelle et changeante Beauté" của Madge Garland, rổi hậu-thế tưởng rằng đó là Đẹp điển-hình của nhân loại năm 1936 hay 1961, và nhiều ông khác dựa vào đó mà rút ra những kết luận hùng-hồn về đường lối thẩm-mỹ chung của thế-hệ chúng ta. Cho nên, tôi không tin nửa rằng những nàng bụng tròn của Cranach hoặc những bà mập của Rubens tiêu biểu cho cả phái đẹp ở thời các ông: có lẽ đấy là một vài cô đứng làm kiểu-mẫu như Hélène Fourment mà thôi.

Theo cùng một đà suy luận như vậy, tôi càng thấy hụyền-hoặc, nhiều ý-kiến về sự Đẹp chung. Người ta thường bảo: nhà văn nhà thơ ấy nói lên được tiếng nói của thời-đại: nghĩa là đã tìm được cái hay cái đẹp chung cho cả một nưóc hoăc cả loài người 1890 hay 1940? Tôi nghĩ bất-quá các vị cũng như hoa-khôi hoa- hậu, hợp với một số nào, ở một vài giới nào, về những điểm nào đó thôi; còn khi sáng tác, chẳng ai dám chắc sẽ vừa ý bao nhiêu người xa lạ. Nếu trách họ không nói đưoc tiếng nói của thế-hệ, là tự nhận mình làm phát-ngôn-viên của thế-hệ mà phê bình, khi chỉ căn cứ vào chủ-quan của mình đem dựng lên làm chủ-quan của mấy chục, mấy trăm triệu người (13).

*


Về tính-cách vĩnh-cửu hay nhất thời của sự Đẹp, tôi lại càng dè dặt hơn.

Hiện nay, các lý-thuyết tiến hóa lan tràn mạnh-mẽ, và trong sự hăng-hái tranh thủ tương-lai, nhiều người phủ nhận một cách tiên-nghiệm những vẻ đẹp cũ và chủ-trương rằng thời nào nghệ- thuật ấy, thời qua đẹp hết, thấy gì không mới mẻ thì nghi kỵ. — Ngược lại, nhiều người khác ngờ vực những chi được ca ngợi bây giờ, coi những phát-minh của nghệ-thuật hiện-đại như sự bồng- bột chốc lát, chẳng bao lâu sẽ bị chê bai: hoặc chỉ ưa chuộng luyến tiếc những vẻ đẹp đã quen thuộc từ xưa. Những sự xung đột ấy đã có hồi khiến nhiều ý kiến của tôi bị lung lay, tôi không biết mình nên bỏ hay giữ những ưa-thích mới hoặc những tha thiết cũ, và phân-vân tự hỏi mình muốn thứ đẹp nào?

Rồi tôi thấy cần phân biệt rõ ràng hai phương-diện sáng-tác và thưởng-thức.

Nghệ-sĩ sáng tác, tìm đẹp cho mình và cho người, tất phải khám phá ra những dáng vẻ chưa từng thấy, còn nếu chỉ phỏng theo lắp lại người trước về mọi mặt, thì khó rung động được người chung quanh, cũng không tới chỗ độc-đáo mà thể hiện nổi cá-tính, một trong những mục đích nghệ-thuật.

Nhưng ngay về phương-diện này, cững lại phải tách rời kết quả và phương-tiện; miễn là kết quả mới, những phương-tiện thực hiện vẫn có thể cũ một phần nào. Với câu 12 âm Alexandrin, mà Ronsard dùng ở thế-kỷ XVI, những thi-nhân về sau này, Victor Hugo, Jules Supervielle, Jean Cocteau hay Marie-Noel, vẫn diễn tả nổi những tâm-tình mới. Ai dám cả quyết rằng ngũ-ngôn hay lục-bát chữ nôm đã được tân dụng khả-năng ở thời Nho-học? Trái với một vài dư-luận, tranh thể-hiện (peinture figurative) chưa lỗi-thời để phải nhường bước cho tranh trừu-tượng (peinture abstraite) vì vẽ người, cây cỏ, nhà cửa vẫn có thể thành công như Dunoyer de Segonzac, khi nghệ-sĩ biết sử-dụng một cách đặc-biệt các phương-tiện kỹ-thuật cũ. Nom chiếc đỉnh đồng, phần đông chê là cũ kỹ: nhưng chỉ cũ kỹ nếu đứng trên tủ chè hoặc án thư, mà nghi ngút khói hương giữa hai bình bông; còn nếu đặt trên thảm rộng giữa phòng tiếp-tân cho khách bỏ tàn thuốc lá, như tôi đã thấy ở nhà một ngoại-kiều, thì trông chẳng cổ-kính như tôi vẫn tưởng: vì vị- trí và công-dụng khác xưa. Thiết nghĩ đối với chữ trong thơ, âm trong nhạc, và hình sắc trên tranh... cũng vậy mà thôi. Bởi nhiểu khi tôi xét quá vội vàng, nên mới trách oan họa-sĩ này hay thi-nhân khác là đi theo những vết đường mòn.

Còn về phương-diện thưởng thức, thiết nghĩ thành-thực là hơn. Mới hay cũ, Đẹp chỉ để cho một mình thích thú, miễn là tôi không một mực chối từ những vẻ đẹp khác mà người ta ưa chuộng: nói vậy, chứ nhiều khi rất khó, tôi đã bị cái ưa-thích của tôi làm cho ngứa ngáy khó chịu trước những ưa-thích trái ngược, nên tôi phải cố sức nén lòng mới giữ yên được sự kèn cựa của chủ- quan tôi; cũng vì thế, tôi không dám vừa sáng tác vừa phê bình trong ngành sáng-tác của mình.

Nhưng chính tại trót ưa một vài thứ đẹp cũ, mà cứ bị chê hoài, tôi đă ngẫm xem nên xử thế nào, đành xét lại cả nhửng sự được coi là dĩ-nhiên.

Mặt trăng, hoa hồng, giọt sương trong... đă có mấy vạn năm rồi, chẳng ai nở chê là xấu và cũ. Vậỵ thì chắc chắn nhiều vẻ đẹp rất cũ mà vẫn đáng ưa, có thể tìm ra nhiều tỉ-dụ khác, bên ngoài lãnh vực thiên-nhiên.

Ở con người, tôi ngắm lại những hình ảnh thời xưa: tóc đuôi gà lê thê của các bà các cô, tôi không thích. Nhưng giá thử vợ tôi có nhan-sắc của La Vallièré hay Mancini thế-kỷ thứ XVII, chắc tôi cũng chẳng thấy cũ kỹ và đáng ghét.

Tiến vào nghệ-thuật, tôi gặp không biết bao nhiêu kiệt-tác cũ: nếu phải gạt bỏ, sẽ cần phá các viện bảo-tàng và đốt sách như Tần-Thủy-Hoàng. Chúng ta chỉ có thể xác-định giá-trị của một tác-phẩm sau sự thử-thách của thời-gian, nghĩa là khi nó đã cũ rồ.

Vả chăng, cũ đối với ai? Cũ người mới ta là sự rất thường. Tỏi đã đọc chán truyện Kiều, nhưng cháu tôi học bài thuộc lòng đến đoạn «Buồn trông cửa bể chiều hôm» khen rối rít là hay: tôi mỉm cười với một ý nghĩ chế nhạo của kẻ đã thừa biết. Có khác nào một bạn thấy tôi xem tranh Le Greco, hỏi tôi coi làm chi những mầu sắc cũ? Nhưng tôi chưa từng thấy, thì vẫn mới nguyên.

Dưới mắt trẻ thơ, cuộc đời đầy dẫy sự mới mẻ, nên nó lần mò vui thú với những đổ vật không còn sức rung cảm tôi nữa: cái khuy bóng, cái lõi chỉ tròn, mảnh giấy xanh đỏ. Tôi ra đời giữa một nhân-loại đã tìm thấy từ mấy vạn năm nay muôn vẻ đẹp mà những người sinh trước tôi chán ngán lâu rồi: nếu tôi chỉ muốn theo kịp ngưới ta, tất sẽ bỏ phí những kho tàng vô-giá.

Sau nữa, con người tôi rất phức tạp, vì là kết-quả của bao nhiêu sự kiện mới và cũ, nên những phản-ứng trước mọi vật cũ mới không thể giản dị cho tôi dứt khoát. Tôi gặp bạn, bắt tay chào: cử chỉ đó mới truyền cho chúng ta ngót 100 năm nay từ khi người Pháp sang Việt-Nam. Tôi nhớ quê hương xa cách: một mối tình đã ràng buộc mấy ngàn năm... Cạnh những đòi hỏi của cuộc sống mới, còn những nhu cầu bắt nguồn bắt rễ tận da thịt sương tủy thuộc nòi giống lâu đời, và ở đáy lòng mờ mịt chìm sâu vào những thời qua: vì thế, tôi vẫn ưa những nhan-sắc của Le Titien thời Phục-Hưng thế- kỷ XVI, và những tao-nhã của Vương-Duy Lý-Bạch nhà Đường.

*


Nếu nhiều người cùng tôi khen một bức tranh đẹp, tôi càng dễ tin là đẹp thật.

Khi nói đẹp thật, tôi mặc-nhiên thừa nhận là hợp lắm với một sự Đẹp lý-tưởng nào đó để mọi người cùng hưởng và cùng làm tiêu-chuẩn so sánh các vẻ đẹp riêng biệt ở nơi này, lúc khác. Thành thử tôi lại quay về cái Đẹp khuôn mẫu của Platon?

Chưa hẳn, vì cái Đẹp chung kia của mọi người cũng không bất-di bất-dịch như hình-tượng Hy-Lạp. Hồi 1930-1940, phần đông các kép đào điện-ảnh phải tuấn-tú như Ramon Novarro, xinh xắn ngây thơ như Danielle Darrieux... Sau thế-chiến II, chàng Ben-Hur phải vạm vỡ gân guốc như Charlton Heston, và các nàng phải nở trước nở sau như Lolo hay Tina Louise. Nhu-cầu Đẹp, ước-vọng Đẹp chung, theo những mẫu mực (canons) biến chuyển khó lường. Đến đây, hình như tôi lại thấy Hegel nói chí-lý, đúng hơn Platon?

Nhưng nếu trở lại những hình ảnh cũ, tôi nhận rằng mặc dầu những sự thay đổi tùy thời-trang, tóc dài hay tóc ngắn, thân thể mập hay mảnh rẻ, môi trái tim hay dày mọng, ở rất nhiều người được khen là diễm-lệ, vẫn có một số điểm chung, dù Lucrèce Borgia thế-kỷ XVI hay Marylin Monroe ngày nay: các đường nét tròn cong hay ngay thẳng, vẫn phải cân đối nhịp nhàng, các thành phần phải xứng hợp với toàn thể, nõn nà bóng bảy chớ không xù xì, mềm mại chứ không gãy nhọn... Ở đàn ông, các lực-sĩ đẹp vạm-vỡ đều đặn như thế nào chăng nữa, cũng chỉ gợi lại kích thước bề-thế của thần Thái dương Apollon hoặc người ném đĩa Le Discobole ở Hy-Lạp. Phải chăng những chi-tiết vừa kể là những đặc-điểm của một sự Đẹp muôn thuở hay ít ra là nhiều thuở, ở bên ngoài và bên trên những sự gia giảm của mỗi thời?

Chỉ căn cứ vào các đặc-điểm kia, thì sẵn sàng tin có Đẹp vĩnh cửu. Chỉ chú trọng vào những sự tô-điểm, thì dễ nói rằng chỉ có Đẹp nhất-thời. Nhưng phân biệt như trên, tôi đã vô-tình dung hòa Platon với Hegel?

Ở triết-học, lý-thuyết nào cũng bị những lý-thuyết về sau công kích, và nhiều khi phá vỡ gần hết: trong nhiều trường-hợp, tôi tránh sao khỏi hoài nghi?

Trái lại, ở nghệ-thuật, mỗi vẻ đẹp mới và độc-đáo, là một phát- minh còn lại mãi, dù người khác tìm ra vẻ khác, vì mỗi người một lối, không thể so sánh một cách máy móc các thứ kiệt-tác. Đẹp của Renoir không diệt đẹp của Le Tintoret: không có kiệt-tác cũ kỹ.

Thành thử mỗi sự khám-phá chỉ làm giầu thêm cho nhân-loại, và chung sống với các khám-phá trước. Tôi ưa nghệ-thuật chính vì thỏa mãn cho tôi, hoặc ít ra cho tôi ảo-tưởng thỏa mãn ở cõi này một nhu-cầu day dứt, một khát vọng trường-lưu (le désir d’éternité).

GHI CHÚ:
(1) Le beau n'était pas un attribut particulier à mille et un objets; sans doute, hommes, chevaux, vêtements, vierge ou lyre, sont des choses belles, mais au-dessus de tout cela, il y a la Beauté elle-même (theo Raymond Bayer nói về Platon: Méthode esthétique).
Une beauté première qui, par sa présence même, rend belles les choses que nous appelons belles (theo P. M. Schuhl - Platon et l'Art de son temps).

(2) Một kẻ si-tình, mới đầu yêu vì sắc và bằng thân-thể, rồi yêu cả tâm-hồn mỹ - nhân, yêu thì phải thực lòng và tốt với người đẹp, rồi có thể thành người tốt, ái tình tổng hợp cả Chân Thiện Mỹ.

(3) Đẹp lý-tưởng của Platon đã đưa tới một quan-niệm nghệ thuật tuyệt-đối với những qui-mô bất-dịch. Người thời trước tìm thấy Đẹp, người thời sau cứ việc noi theơ thì dễ thấy đường. Trong ngót hai mươi thế kỷ, các môn phái gọi là Cổ-Điển dù ở hội-họa, kiến-trúc, văn-chương... đều chịu ảnh-hưởng của ông. Kết-quả là nhiều kiệt-tác, nhưng cũng là một tinh-thần nệ- cổ, lệ thuộc những mẫu-mực kích-thước kìm hãm sự phát-triển nghệ-thuật.

(4) Un être ou une chose composée de parties diverses ne peut avoir de beaute qu’autant que ses parties sont disposées dans un certain ordre et qu'elles ont en outre une dimension qui ne peut pas être arbitraire, car le beau consiste dans l'ordre et la grandeur.
(Nếu theo Aristote mà suy luận ra, thì nghệ-thuật bắt nguồn ở tạo vật hơn là ở ý-thức, thiên về cảnh và tình hơn lý, ưa động hơn tĩnh, biến đồi thực-tế chớ không theo sát, tùy sức cá-nhân hơn là theo những mẫu mực ngàn xưa. Dù sao, hai lý-thuyết ròng rã mấy chục thế kỷ, cứ tùy nơi tùy lúc lên xuống cạnh tranh mà chi phối kiến-trúc, thi ca, hội-họa. Như ở hội họa, thì trọng màu sắc dễ rung cảm hơn đường nét lạnh lùng: ỏ thời Phục-Hưng Ý, họa-phái thành Florence chịu ảnh-hưởng Platon, họa-phái thành Venise chịu ảnh hưởng Aristote (René Huyghe — L' Art. et l’Homme).

(5) Le beau plait universellement et sans concept.
Le génie est la disposition innée de l'esprit par laquelle la nature donne ses règles à l’Art.
L'Art est une imitation dont la nature a donné des règles par le moyen du génie. (Critique du jugement — traduction P. Picon et Denis Huisman).

(6) L’Art atteint son but suprême quand il rend conscient et exprime le divin — Hegel. (theo Denis Huisman — L'Esthétique).

(7) Le poème est ce qui doit exister sans lui et avant lui (le poète) dans une conscience supérieure où s'unissent l'obscur du fond de la terre et la clarté d’un pouvoir universel... M. Blanchot: La part du Feu.
Ce n’est pas en eflet par art, mais inspiration et suggestion divine que tous les grands poctcs épiques comỹosent tous ces beaux poèmes... Ces beaux poèmes ne sont ni humains ni faits par des hommes, mais divins et faits par les Dieux — Platon.

(8) L’Art et l’imagination — Textes de P. Picon.
(9) Le beau étant l’objet de l’imagination, de l'intuition, du sentiment, ne saurait être l'objet d’une science et ne se prêterait pas à un traitement philosophique (Hégel — theo Denis Huisman).

(10) L'heure de la pensée germanique — (L'Art et l'Âme — René Huyghe).
(11)....L'accord le plus parfait possible àe tous les temps et de tous les pays. (Critique du jugement — Kant).

(12) Kant gián-tiếp nhận có sự Đẹp khách-quan, nhưng đã giải thích như sau vì sao Đẹp chủ-quan có thể hợp với Đẹp khách-quan: cảm mà ưa thích là tùy chủ quan; nhưng khi ta nhận xét rằng vật này vật kia là đẹp, ta phỏng đoán rằng người khác cũng nhận như ta, ta mặc-nhiên dựa vào một ý-niệm đẹp chung mà xét "La nécessité du consentement universel concue dans un jugement de gout, est une nécessité subjective, représentée comme objective sous la supposition d’un sens commun".

(13) Ở trường hợp này, triết-gia Kant đã không lầm, khi ông nêu ra sự phỏng đoán một quan-niệm Đẹp chung, suy ta ra người mà xét.

PHỤ LỤC:
Sự Đẹp là ánh huy-hoàng cùa sự thật: Le Beau, c'est la splendeur du Vrai. (Triết-gia PLATON? RAVAISSON?)
Sự Đẹp là cái gì đồng-nhất giữa mọi sự dị-biệt canh-cải: Le Beau est l'unité dans la variété. (Triết-gia ARISTOTE?)
Sự Đẹp, là vật thể. Đó là bằng chứng lạ lùng và không ngờ rằng ngoại-thể lại chính là nội-dung: Le Beau, c'est la forme. Preuve étrange et inattendue que la forme, c'est le fond. (Thi-sĩ VICTOR HUGO)
Sự Đẹp tức là sự quái dị: Le Beau, c'est le bizarre. (Thi-sĩ BAUDELAIRE)
Sự Đẹp chắc chắn là cuộc tương-phùng của mọi sự thích-hợp: Le Beau est assurément la rencontre de toutes les convenances. (Họa-sĩ DELACROIX)
Sự Đẹp là nguyên nhân kích-thích tất cả các sinh lực của chúng ta: Le Beau est ce qui cause une stimulation vitale de toutes nos energies. (Triết-gia GUYAU)
Sự Đẹp là sự hoàn-toàn mà ta được thấy rõ: La Beauté est l'évidente perfection. (Học giả PAUL SAURIAU)
Sự Đẹp là sự thành công hiển nhiên của nghệ-thuật, trong một bầu không-khí bình-tĩnh hòa-hợp, cao-cả tương-xứng, điều-độ và lại còn đầy hạnh-phúc và yêu đương: Le Beau est l'évidente réussite đe l'Art dans un climat de calme, d'harmonie, đe grandeur, de justes proportions, de mesure, et même de bonheur et d'amour. (Mỹ-học-gia ETIENNE SOURIAU)

Đoàn Thêm

Tìm Đẹp
Nam Chi Tùng Thư, 1964
Nguồn: http://www.hocxa.com/TieuLuan/DoanThem_DepLaGi.php