Showing posts with label GHPTVNTN. Show all posts
Showing posts with label GHPTVNTN. Show all posts

Thursday, March 4, 2021

Đức Đệ Nhất Tăng Thống Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết: Thông Điệp “Ý Thức Về Nguồn”

 

Đức Đệ Nhất Tăng Thống
Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết

 

Ngài tên thật là Nguyễn Văn Kính, sinh ngày 17 tháng 11 năm Tân Mão (1890) tại làng Dưỡng Mong Thượng, xã Phú Mỹ, quận Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên, con trai thứ 3 của cụ Nguyễn Văn Tốn và bà Tôn Nữ Thị Lý.

Năm lên chín tuổi, Ngài bắt đầu theo học chữ Nho. Với tư chất thông minh, chẳng bao lâu Ngài đã tinh thông những bộ sách căn bản của Nho học. Nhưng có lẽ do túc duyên nhiều đời, chí xuất trần đã sẵn, nên sau sáu năm sách đèn theo Khổng học, Ngài quyết chí xin song thân được cùng người anh ruột xuất gia tu học tại chùa Tường Vân, làng Dương Xuân Hạ, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, thụ giáo ngài Thanh Thái (dòng thiền Lâm Tế) đệ tam tổ chùa Tường Vân. Ngài được Tổ nhận làm đệ tử ban pháp danh là (thượng) Trừng (hạ) Thông, tự Chơn Thường.

Sau 3 năm, Ngài đã học xong chương trình trung đẳng Phật học. Mặc dù trong thời gian mới nhập đạo này, đúng theo truyền thống Thuyền Tông, Ngài phải chấp tác rất nặng nhọc, ngồi việc học hành kinh kệ.

Vốn bẩm tính thông minh, sẵn có một đạo phong uy nghi từ lúc hãy còn nhỏ tuổi, nên Ngài rất được các bạn đồng tu kính nể. Cũng do tư chất đặc biệt xuất chúng ấy, mà Ngài đã được đặc cách miễn tuổi để thụ tam đàn cụ túc vào năm 19 tuổi (năm 1910), chỉ 3 tháng sau khi thụ Sa di giới. Đại giới đàn này do Ngài Vĩnh Gia làm Đàn đầu. Ngài Tâm Truyền làm Yết Ma và ngài Hoằng Phú làm Giáo thụ. Sau khi thụ cụ túc giới trở về chùa. Ngài phát tâm lạy bộ vạn Phật nhất tự nhất bái suốt ba năm liền. Và đến năm 23 tuổi thì song thân Ngài từ trần cùng một lượt, ứng theo một lời nguyện khi sinh tiền của hai Cụ là được vãng sinh cùng một lúc.

Năm 26 tuổi, Ngài được bổ xứ Trụ trì chùa Phước Huệ là chùa của Tuy Lý Vương lập cho một vị công tôn xuất gia tại Vỹ Dạ.

Năm 30 tuổi (1921) Ngài đắc Pháp và được Bổn sư cho kệ:
澄 聰 心 法 本 同 然
付 汝 真 常 道 志 堅
非 有 非 無 非 所 見
寂 然 開 悟 主 人 前

Phiên âm:
Trừng Thông tâm pháp bổn đồng nhiên,
Phó nhữ chơn thường đạo chí kiên.
Phi hữu phi vô phi sở kiến,
Tịch nhiên khai ngộ chủ nhơn tiền.

Tạm dịch:
Tâm, pháp Trừng Thông vốn tự đồng
Đạo thường, chí vững gởi trao ông

Chẳng không, chẳng có, không gì thấy
Trước chủ nhân khai ngộ lặng trong.

và cho đạo hiệu là Tịnh Khiết. Ngài thuộc đời thứ 42 dòng thiền Lâm Tế, đời thứ 8 pháp phái Liễu Quán Nam Hà. Năm Ất Hợi (1935) đời vua Bảo Đại triều Nguyễn; Pháp huynh của Ngài trú trì Tổ đình Tường Vân viên tịch, Ngài được kế thế ngôi vị Trú trì từ đây. Năm này Ngài được 44 tuổi đời. Ngài thường được thỉnh vào cung nội để giảng Pháp cho Hồng gia, nhất là cho Tam tôn cung tức là các bà Thánh cung, Tiên cung, và Từ cung.

Năm 32 tuổi, Ngài trở về Tổ đình cư tang Nghiệp sư viên tịch. Sau đó Ngài theo học lớp Cao đẳng Phật học với Hòa thượng Huệ Pháp chùa Thiên Hưng. Ngài Phước Huệ chùa Thập Tháp, tham cứu kinh điển Đại thừa suốt thời gian 5 năm.

Năm 42 tuổi, Ngài làm dẫn thỉnh sư tại Đại giới đàn Từ Hiếu. Năm 44 tuổi, Ngài trở về trú trì chùa Tường Vân, kế vị Hòa thượng Tịnh Hạnh là anh ruột Ngài vừa viên tịch. Năm 1938 Ngài làm Chứng minh Đạo sư sáng lập An Nam Phật Học hội. Năm 1940 Ngài làm Giám đốc Đạo hạnh, Cao đẳng Phật Học viện mở tại Tổ đình Tường Vân và Báo Quốc, có những Tăng sinh về sau trở thành những bậc pháp khí như cố Hòa thượng Thiện Hoa, Hòa thượng Thiện Hòa, Hòa thượng Hành Trụ, Thượng tọa Trí Tịnh, Thượng tọa Thiện Siêu, Thượng tọa Thiện Minh, Thượng tọa Trí Quang… Năm 1944, Ngài làm Yết Ma Đại giới đàn mở tại Tổ đình Thuyền Tôn. Năm Ất Dậu (1945), Ngài phó pháp cho Pháp tử Pháp danh Tâm Ấn, tự Vĩnh Thừa, hiệu Viên Quang đời thứ 43. Trong dịp này, Ngài ban cho đệ tử đắc pháp bài kệ dưới đây:
Tâm ấn viên minh ngộ đạo tiên
Tham thuyền liễu đạt thấu chơn nguyên
Niên hoa phó nhử Như lai tạng
Tục diệm huệ đăng vạn cổ truyền.
Tạm dịch: Sớm ngộ đạo mầu Tâm ấn sáng
Tham thiền đạt trọn thấu nguồn chơn
Nên học, ta gởi Như lai tạng
Đèn tuệ muôn năm vẫn nối truyền.

Năm 1947, Ngài thụ phong chức vị Tùng Lâm Pháp chủ Trung Việt. Năm 1949 (Kỷ sửu), Ngài làm đàn đầu Hòa thượng cho đại giới đàn Báo Quốc và năm 1950 thì được suy tôn chức vị Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam. Năm 1951, Ngài ra Bắc chủ tọa Đại hội Giáo hội Tăng già toàn quốc tại chùa Quán Sứ, Hà Nội. Năm 1952, Ngài trở vào Nam chủ tọa lễ truy phong Pháp chủ Phật giáo Nam Việt tại chùa Ấn Quang. Năm 1955 Ngài tham dự đại hội Phật giáo Thế giới tại Tích Lan và chiêm bái Phật tích tại Ấn Độ. Trong cuộc hành hương này Ngài có cảm tác hai bài kệ chữ nho như sau:

Bài thứ 1:
Đạp tuyết phong vân quá hải hà.
Du du hốt kiến lâu đài đa
Bảo tháp thất từng kim tú lệ,
Bồ Đề thiên trượng ngọc bích hoa.
Cảnh tối thâm u tần đáo tự
Duy thường ái tịch niệm Thích Ca
Nhân duyên Bồ-tát khai phương tiện
Nhiếp tận chúng sinh lễ Phật đà.
Nguyên Hồng dịch :
Lướt mây cỡi gió mấy dặm xa,
Lâu đài chợt hiện tựa sao sa.
Tháp báu bảy tầng vàng chói lọi,
Bồ-đề muôn trượng ngọc đơm hoa.
Cảnh giới trang nghiêm từng đặt bước,
Tâm tâm niệm niệm lễ Thích-ca.
Nhân duyên Bồ-tát khai phương tiện,
Độ khắp chúng sinh trở lại nhà.

Bài thứ 2:
Lâm quang tịnh mậu trước thi biên
Phật quốc du ký hữu đại duyên
Tận địa kim ngân triệt vũ trụ
Thanh phong châu ngọc mãn nhân gian
Bồ đề thành đạo trang nghiêm cảnh
Lộc uyển sơ niên chuyển pháp tiên
Ấn Độ hoa khai chân tịnh xứ
Kỳ viên trùng kiến tợ thiền thiên.
Tạm dịch : Cây rừng là bút viết nên thơ,
Nước Phật bao năm những đợi chờ.
Trải khắp bạc vàng nghiêm cõi Phật,
Ngàn phương châu ngọc lẽ đâu mơ.
Bồ-đề cổ thụ nay còn đó,
Lộc uyển vườn xưa đã xứng cơ.
Ấn Độ khai hoa chân thị hiện,
Kỳ viên hội ngộ tự bao giờ.

Mặc dù công việc đối ngoại của Giáo hội đa đoan, Ngài vẫn không bao giờ xao lãng việc nhiếp hóa đồ chúng tùy căn cơ trình độ. Trong một mùa an cư, Ngài đã gởi đến quí vị Đại đức Tăng Ni những lời huấn dụ như sau: “Đạo Phật tồn tại không chỉ y cứ vào những hình thức chùa tháp, lễ nghi, kinh điển – mặc dù kinh điển là kim chỉ nam hướng dẫn ta trên đường đi tới đạo quả vô thượng Bồ đề. Nhưng sự tồn tại đích thực chính là sự thể hiện đạo phong, những nếp sống gương mẫu của các bậc tăng già nghiêm trì giới luật và biết tận lực phục vụ chính pháp để chính pháp mãi mãi tồn tại với con người, cuộc đời và làm lợi ích cho chúng sinh.” Và có lần Ngài gửi huấn dụ cho một đệ tử ở hải ngoại: “Vạn vật biến chuyển không ngừng, dục vọng con người khởi diệt thế nào con đã rõ. Bên trong thì tâm niệm sát na vô thường, bên ngồi thì thanh sắc quyến rũ mãnh liệt, trong không chỗ nương, ngồi không chỗ tựa, bậc trượng phu giữa đời lại hiếm có, tự mình dễ cảm thấy lẻ loi. Nếu không phải là người nuôi chí xuất trần, quyết lánh vọng tìm chân, thì thật khó bảo tồn chí nguyện sơ tâm vậy.”

Đối với những đồ đệ được diễm phúc sống gần gũi bên Ngài đều cảm nhận: Ngài là hiện thân của một bài thuyết pháp hùng vĩ linh động qua đạo phong cốt cách, qua những lời giáo huấn vàng ngọc đề cao trí tuệ và đức tự chủ tự giác. Ngài luôn luôn khuyến khích sự học hỏi Phật pháp cũng như thế pháp, nhưng đồng thời Ngài vẫn thường khuyến cáo môn đệ đừng rơi vào cạm bẫy của trí thức suông.

Trong việc tu trì, Ngài khuyên đệ tử hãy luôn luôn nhiếp tâm chánh niệm trong bốn uy nghi vào tất cả các thời và phải tự chủ đối với pháp môn tu tập, chớ để bị pháp biến chuyển. Ngài khuyên môn đệ sau mỗi thời tụng kinh, lễ bái hay niệm Phật, nên tập ngồi thiền, để tâm an trú ở chỗ vắng lặng, không nghĩ thiện, không nghĩ ác, đừng mãi bám víu vào 1 câu trì chú hay niệm Phật. Ngài thường khuyên dạy bằng một lời vắn tắt: “Gắng tự làm chủ lấy!”. Đối với những phật tử tại gia phải gánh vác nhiều bổn phận, Ngài khuyên một phương pháp giản dị: “Mỗi tối trước khi ngủ, hãy ngồi thẳng trên giường, chí thành tha thiết niệm thong thả 10 lần cầu hồng danh Nam mô A Di Đà Phật. Trong những năm sau này, khi một số đông Tăng Ni còn sơ cơ phải ra làm công tác xã hội thực thi hạnh cứu khổ, Ngài không ngừng khuyên hãy thận trọng gìn giữ sơ tâm, nghiêm trì giới luật. Ngài nhấn mạnh phương châm “Tùy duyên bất biến” và khuyên đệ tử đừng bao giờ lợi dụng địa vị, tuổi trẻ, chức phận mà dễ dãi với bản thân và làm những chuyện phương hại đến đạo nghiệp. Trong những năm gần đây, khi tuổi đã già, sức đã kiệt, Ngài thường dạy đệ tử: “Trước, ta dạy các con bằng lời nói, có khi bằng roi gậy, nhưng nay thì ta dạy bằng sự im lặng.” Ai đã từng có duyên lành hầu cận Ngài, đều phải công nhận Ngài có một uy nghi hùng vĩ trong tất cả các thời. Mặc dù già yếu, Ngài luôn luôn ngồi thẳng người theo thế nhập định. Dáng đi oai vệ như sư tử chúa. Đôi tay dài quá gối buông thẳng khoan thai mỗi khi Ngài đi bách bộ. Đôi mắt luôn luôn nhìn thẳng uy nghiêm. Và đặc biệt, Ngài rất ít khi ngồi ở chỗ không phải chỗ ngồi thường nhật của Ngài trong tự viện. Thế nên chỗ Ngài ngồi trong Tổ đình Tường Vân đã trở thành một nơi thiêng liêng đối với Phật tử miền Trung.

Dù cho Ngài phải xa xứ Huế trong nhiều năm, nhưng suốt thời gian này, và có lẽ mãi mãi từ đây, Phật tử nào bước chân đến Tổ đình cũng vẫn tự nhiên cúi đầu cung kính khi đi ngang qua pháp tòa của Ngài là bộ phản gỗ đơn sơ. Một làn hương không tên nhưng có thật, tỏa ra từ nơi thiêng liêng ấy, khiến mọi người phải cúi đầu úy phục, không dám bước mạnh nói lớn hay có những cử chỉ thiếu uy nghi hay ngay cả một tâm niệm bất chính. Làn hương đó có lẽ là di tích vô hình, vô thanh, vô hương, nhưng linh động nhất của Ngài, đó là làn hương của Giới, Định, Tuệ, làn hương của hạnh kham nhẫn, của đức giải thốt vô vi.

Trong những tháng Ngài ngọa bệnh phải vào điều trị tại dưỡng đường Duy Tân và Sùng Chính, những lúc bệnh tình trầm trọng, đệ tử có thăm hỏi: “Bạch Cố, Cố có mệt lắm không?” thì Ngài trả lời: “Thân ta mệt, nhưng tâm ta thì không”. Hạnh giải thốt vô vi của Ngài biểu lộ trong đức tính “Tùy duyên nhiếp hóa”. Ngài không bao giờ tham cầu đệ tử hay nghĩ đến việc mở mang ngôi Tổ đình cho lớn rộng. Hình thức, nghi lễ không phải là mối quan tâm chính yếu của Ngài. Nhưng có lẽ do định luật y báo, chính báo không rời nhau, nên Ngài đến đâu thì trang nghiêm y báo, đồ chúng sum vầy, đông đúc, mừng vui như con thơ gặp lại mẹ hiền, như nắng hạn gặp cơn mưa lớn.

Ngôi Tổ đình Tường Vân đã bao năm điêu tàn vì thời gian và chiến cuộc, nhưng Ngài không bao giờ cho phép đồ đệ quyên góp trùng tu, vì cảm thông tình trạng kinh tế eo hẹp của Phật giáo đồ hiện tại. Mãi đến gần đây, trong thời gian Ngài xa Huế, một số đệ tử thân tín mới khởi công tái thiết. Lễ khánh thành sắp tổ chức thì được tin Ngài tỏ ý mong trở về, và những căn rạp dựng lên cho cuộc khánh thành, than ôi, bây giờ lại được sử dụng cho tang lễ.

Mãi cho đến ngày rằm tháng 11 năm Nhâm Tý, từ Sài Gòn (lúc bấy giờ Ngài an trú tại Tu viện Quảng Hương Già Lam, do Hòa thượng Thích Trí Thủ làm giám viện), Ngài quyết liệt bày tỏ ý muốn trở về Huế. Trong lúc Hội đồng Lưỡng Viện tới làm lễ tiễn đưa Ngài về Huế, Thượng tọa cố Viện tưởng Thích Thiện Hoa có bạch: “Xin cung thỉnh Đức Tăng Thống sau khi về thăm cố đô ít ngày, rồi xin Ngài trở lại thủ đô để lãnh đạo Giáo Hội.” Ngài nghiễm nhiên đáp: “Thôi, tôi không vô nữa”.

Sau khi trở về cố đô, Ngài lần lượt viếng thăm các Tổ đình Huế như Thuyền Tôn, Tây Thiên, Từ Đàm, Báo Quốc, Linh Quang, Quốc Ân, Kim Tiên v.v… và các Phật học viện cùng Ni viện. Không ngờ, lần viếng thăm này lại là lần vĩnh biệt cuối cùng! Trong dịp đầu Xuân Quý Sửu, khi quý vị Thượng tọa Giáo hội Phật giáo Thừa Thiên đến Tổ đình Tường Vân đảnh lễ chúc thọ đầu năm, dường như linh cảm trước sự ra về vĩnh viễn, Ngài đã ân cần phú chúc những lời huấn dụ hết sức cảm động: “Tôi thấy sức khỏe tôi đã kém nhiều, tôi khuyên các Tăng Ni Phật tử cố gắng lo việc tu hành để báo đáp công ơn Tam Bảo, thương mến mà đoàn kết với nhau để xây dựng Giáo hội và góp phần vào nền hòa bình dân tộc.” Ngài khuyên nhủ Tăng Ni cố gắng nghiêm trì giới luật để giữ gìn mối đạo và đừng bỏ rơi chúng sinh thời mạt pháp.

Chỉ sau vài ngày pháp thể khiếm an, Ngài an tường xả báo thân vào lúc 20 giờ 45 phút ngày 23 tháng giêng năm Quý Sửu (nhằm 25-12-1973). Ngài trụ thế 83 năm, hạ lạp 62. Tháp Ngài do môn đồ phụng lập tại khuôn viên Tổ đình Tường Vân.

Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Nhất Thế,  Trùng Hưng Tường Vân Tổ Đình, Việt Nam Phật Giáo Thống Nhất Giáo Hội Đệ Nhất Tăng Thống bảo vị, húy Thượng Trừng hạ Thông, tự Chân Thường, hiệu Tịnh Khiết Đại Lão Hòa Thượng Giác Linh thùy từ chứng giám.

Thông Điệp “Ý thức về nguồn”
của Đức Tăng Thống
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất

Đại Lão Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết
công bố vào Xuân Tân Hợi 1971

 

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

Kính gửi Chư Hòa Thượng, chư Thượng tọa, Đại đức Tăng Ni, cùng toàn thể Phật tử và đồng bào trong, ngoài nước.

Trước anh linh Tổ quốc và khí thiêng sông núi.
Trước bàn thờ Phật, và khởi từ lòng người thanh tịnh trong cảnh đầu xuân, tôi cầu nguyện cho mọi người một năm mới an lành, và hòa bình sớm thực hiện trên đất nước chúng ta.

Dân tộc Việt Nam chúng ta trong hơn hai mươi năm chiến tranh, từng chịu nhiều khổ cực, biết bao nhân mạng, sức lực và tài sản đã bị hủy diệt. Mà nguyên nhân chính chỉ vì mỗi phía đã phục vụ cho một ý hệ chủ thuyết và quyền lợi khác nhau, rồi tự coi đó là phục vụ Tổ quốc, nhưng đích thực chỉ biết có quyền lợi riêng tư ích kỷ, cố tình tạo mâu thuẫn để có cớ tàn hại lẫn nhau. Đó là một bi thảm của lịch sử dân tộc thời đại!

Dân tộc Việt Nam ta vốn hiếu hòa, không bao giờ chấp nhận sự trả thù, trả oán giữa những người cùng một nòi giống.

Quả tình chúng ta đã đánh mất niềm tin và tình thương yêu bao bọc lẫn nhau.

Quả tình chúng ta đã xa nguồn gốc tổ tiên.

Quả tình đã có những người nghĩ, nói và làm theo những biên kiến, thiên kiến không mấy trong sáng, thậm chí hành xử theo chỉ thị của ngoại nhân, vô tình đưa dân tộc vào con đường phiêu lưu hủy diệt, nhưng lại cứ đinh ninh rằng mình đang thi hành sứ mạng cứu dân, cứu nước.

Hỏi đến bao giờ chúng ta mới thật TỈNH THỨC?

Mỗi lần Tết đến là mỗi lần dân tộc ta có những đổi thay. Cảnh vật đổi mới, lòng người đổi mới. Ý thức đổi mới, nhân dịp này, tôi cầu mong tinh thần Tỉnh Thức sẽ bừng sáng nơi tâm hồn mọi người, để ý thức VỀ NGUỒN, trở về với dân tộc thuần chính, xóa đi những hận thù không bao giờ do chúng ta chủ trương, mà chính ý hệ chủ thuyết và thế lực vật chất vô minh đã thúc đẩy, chỉ huy.

Chúng ta hãy nhìn nhau với sự cảm thông và tình thương yêu chân thật.

Sự cảm thông và tình thương yêu khi đã được thể hiện nơi mọi người, thì công cuộc hóa giải ý hệ, hóa giải hận thù, hóa giải chiến tranh, hóa giải nếp sống sẽ là những ngọn đuốc thắp sáng cho Tổ quốc Việt Nam, mang lại nguồn phúc lợi chung cho dân tộc và hòa bình cho xứ sở.

Trong một năm, thật không có dịp nào tốt đẹp hơn ngày Tết. Chúng ta hãy gột rửa mọi ý niệm vọng ngoại, gột rửa những thiên kiến, biên kiến và luôn luôn Tỉnh Thức, đổi mới tâm hồn. Phải cẩn trọng trong mọi hành động của mình. Có thiện chí là một điều hay. Nhưng có thiện chí mà kém sáng suốt thì đôi khi lại là một tai họa lớn. Chúng ta hãy đoàn kết lại, tạo thành một khối dân tộc lớn mạnh, duy nhất. Chúng ta hãy góp phần tích cực xây dựng một quan niệm sống, một đường lối sống, một khuôn mẫu sống dựa trên tính chỉ từ bi trí tuệ bình đẳng giải thoát và tự chủ, hợp với rung cảm, suy tư và trình tự của một dân tộc tiến bộ, đi lên, thì đó là chúng ta xây dựng nổi một xã hội lành mạnh, ấm no, bình đẳng, đúng theo nghĩa “tình người” và lòng bao dung độ lượng của một nòi giống văn minh – nòi giống Lạc Hồng. Đó là Ý thức Về Nguồn của hết thảy chúng ta, ở bên này cũng như ở bên kia giới tuyến. Và, đó cũng chính là điều mà thâm tâm tôi hằng trông đợi.

Với lòng tự tin, với ý chí kiên nhẫn, với truyền thống bất khuất của dân tộc, càng nhìn vào quá khứ oanh liệt của tiền nhân, tôi càng thêm tin tưởng vào sức quật khởi của chúng ta – Một dân tộc đã tự chủ vượt qua mọi cuộc đồng hóa, đem vinh quang về dâng cho Tổ quốc mến yêu, suốt từ thời tự chủ Đinh – Lê – Lý – Trần, thế kỷ thứ IX XIII, đến các thời đại kế tiếp. Tổ tiên chúng ta khi ấy thực sự đã tạo được thế Hòa giải, đã hoàn thành được sứ mạng lịch sử cứu nước, giữ nòi. Thì, trong hiện tại và tương lai, chúng ta quyết không bao giờ phá vỡ, đi ngược lại truyền thống và đường hướng VỀ NGUỒN và KHỞI ĐI TỪ NGUỒN cao đẹp ấy.

Ý THỨC VỀ NGUỒN, nếu được mọi người chấp nhận, đó mới là căn bản chính thức của sự HÓA GIẢI chiến tranh, HÓA GIẢI hận thù, đem lại nguồn thương vui và hòa bình lâu dài cho dân tộc ta.

Trước thềm năm mới, tôi cầu chúc cho mọi người thành đạt nổi ý thức VỀ NGUỒN ấy.

Nam Mô Đại Từ Di Lặc Tôn Phật
Sài Gòn, Xuân Tân Hợi, Phật lịch 2514 – D.L 1971
Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất

Đại Lão Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết

______________________________________

Lịch sử có khi chỉ là sự lặp lại

Văn Công Tuấn

Cố đô Huế – Sắc tứ Tường Vân tự. Mười ba thế kỷ trôi qua kể từ dạo ấy.

Từ ngày ấy đến nay trong những chốn thiền môn trên cùng khắp năm châu bốn bể, đã có không biết bao nhiêu bài pháp kệ được trao đi truyền đến, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Tuy không phải là việc trao truyền y bát của những dòng thiền lớn nhưng cũng là do chư Tổ, chư Thánh Tăng từ đời trước truyền lại cho môn đồ đời sau. Đã không biết bao nhiêu bậc đại tăng thạc đức thực chứng và hành đạo, đã từng trao truyền tâm pháp cho đệ tử trong tông môn. Tiếc rằng những sự kiện ấy ở Việt Nam rất ít được ghi lại để cho hậu sanh có cơ hội được chiêm nghiệm và hàng Phật Tử thêm tín tâm, tin tưởng vào sự nhiệm mầu của đạo pháp.

Trong số những vị thạc đức tu chứng ở Việt Nam thời nay, ta phải kể đến Đức đệ nhất Tăng Thống Trưởng lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết.

Hòa thượng Thích Tịnh Khiết thế danh là Nguyễn Văn Kỉnh, sinh ngày 17.12.1891 (tức ngày 17 tháng 11 năm Tân Mão) tại làng Dưỡng Mong, xã Phú Mỹ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Bào huynh của Ngài cũng đi xuất gia là Hòa thượng Trừng Hương Tịnh Hạnh. Ngài Tịnh Hạnh sinh năm Kỷ Sửu (1889), xuất gia năm 1905, thọ Cụ túc giới năm 1910, từng là Trụ trì tổ đình Tường Vân, Huế. Ngài Tịnh Hạnh viên tịch vào năm 1933.

Năm 15 tuổi (1906) Ngài Tịnh Khiết xuất gia với Hòa thượng Thanh Thái Phước Chỉ (1858-1921). Năm 19 tuổi (1910) Ngài được đặc cách thọ Tỳ kheo Bồ tát giới tại giới đàn chùa Phước Lâm ở Hội An, tỉnh Quảng Nam với pháp danh là Trừng

Thông, pháp tự là Chơn Thường. Năm 1920 Ngài đắc pháp, được Bổn sư ban pháp hiệu là Tịnh Khiết. Năm 1933 Ngài kế vị đảm nhận chức vị trụ trì chùa Tường Vân, sau khi Hòa Thượng Tịnh Hạnh viên tịch. Năm 1938 sau khi xây dựng xong chùa Hội Quán Từ Đàm, An Nam Phật học hội cung thỉnh Ngài kiêm nhiệm trụ trì và chứng minh Đạo sư cho Hội. Năm 1940 Sơn môn Tăng già Thừa Thiên cung thỉnh Ngài làm Giám đốc Đạo hạnh cho Viện Cao đẳng Phật học tại chùa Bảo Quốc. Đầu năm 1951, Ngài chứng minh và chủ tọa Hội nghị thành lập Giáo hội Tăng già Trung Việt tại chùa Linh Quang, Huế. Năm 1959 Đại hội kỳ III của Tổng Hội Phật giáo Việt Nam họp tại chùa Ấn Quang, Sài Gòn, Chư tôn đức Hội nghị cung thỉnh Ngài đảm nhận ngôi vị Hội chủ.

Những năm sau đó chính quyền liên tiếp khủng bố và đàn áp Phật Giáo, nặng nhất là ở các tỉnh miền Trung Việt Nam. Vào ngày 02.02.1962, Ngài Tịnh Khiết đã ký một văn thư gởi Tổng thống Ngô Đình Diệm và Quốc hội Việt Nam Cộng hòa, với lời khuyến cáo “Tôi muốn tránh cho lịch sử dân tộc một chấm đen, đồng thời muốn ngăn ngừa một tai họa cho quốc gia, khi mà hàng Phật tử thấy cần bảo vệ đúng mức tôn giáo của mình!”. Thế nhưng chính quyền Ngô Đình Diệm đã không chịu lắng nghe mà lại càng tiếp tục khủng bố, đàn áp thêm.

Vì thế, cuộc đấu tranh của Phật giáo mùa hè năm 1963 đã bùng phát mạnh mẽ. Trên cương vị lãnh đạo tối cao, dù đã 72 tuổi, Ngài dấn thân không mỏi mệt để dẫn dắt cho phong trào, vẫn luôn đồng cam cộng khổ cùng chư Tôn đức Tăng Ni và Phật tử để lèo lái cho phong trào đến ngày thành tựu. Đầu năm 1964 Hội nghị của mười một Giáo phái và Hội đoàn Phật giáo tại  Sài Gòn cung cử Ngài lên ngôi vị Đệ nhất Tăng Thống GHPGVNTN. Đức Trưởng lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết viên tịch ngày 25.02.1973 (âm lịch: 23 tháng Giêng năm Quý Sửu), trụ thế 82 tuổi và 63 hạ lạp.

Thuở sinh tiền chí sĩ  Sào Nam Phan Bội Châu từng là bạn tâm giao của Ngài. Lúc cụ Phan đang bị thực dân Pháp đưa về an trí tại Bến Ngự, cụ thường lui tới chùa viếng thăm và đàm đạo với Hòa thượng. Trong một dịp cụ Phan vào chùa vấn đạo, Hòa thượng đã biếu cụ một cây hoa ngọc lan. Sau đó,  Phan tiên sinh mượn nét tinh khiết và hương thơm của hoa để viết tặng Hòa thượng một bài thơ tán thán mật hạnh vô vi của Ngài. Bài thơ như sau:

Nguyên văn chữ Hán:

前 身 種 出 自 蓬 莱
唯 向 菩 提 院 裏 栽
素 萬 光 争 冬 夜 雪
奇 芳 品 奪 領 頭 梅
真 香 王 者 天 垂 賞
荘 此 嫦 娥 月 暗 猜
唯 佛 從 来 能 識 佛
慇 勤 惠 我 此 花 魁
巢 南

Phiên âm:
Tiền thân chủng xuất tự bồng lai,
Duy hướng bồ đề viện lý tài.
Tố vạn quang tranh đông dạ tuyết,
Kỳ phương phẩm đoạt lãnh đầu mai.
Hương chân vương giả thiên thuỳ thưởng,
Trang thử thường nga nguyệt ám xai.
Duy Phật tùng lai năng thức Phật,
Ân cần huệ ngã thử hoa khôi.
Sào Nam

Bản dịch của thầy Chơn Thiện:
Thân trước vốn người tự cõi tiên
Sao vì trí giác đến rừng thiền,
Sắc màu đông tuyết còn thua thắm
Hương chất hoàng mai lại kém duyên.
Dáng vẻ triều vương trời ái mộ
Hằng nga trang tỉ nguyệt ưu phiền.
Phật duyên tương cảm nên tương ngộ
Cành ngọc lan trao tới cựu hiền.

Bản dịch của Nguyên Hồng:
Giống tự Bồng lai đến cõi này,
Bồ đề viện nội trổ nên cây.
Sắc màu rực rỡ đêm đông tuyết,
Hương toả đầu non tựa lão mai.
Vương giả chân hương trời bủa xuống,
Hằng nga cốt cách nguyệt nhường ngôi.
Chỉ Phật mới hay thân Phật Tổ,
Ân cần trao gửi nhánh hoa tươi.

Văn bia tại bảo tháp của Ngài ở tổ đình Tường Vân có ghi Bài Tưởng niệm do Thiền Sư Quy Thiện ở Huế trứ tác, thay cho Chư Tăng Ni ở chốn thần kinh tán thán công đức Ngài và bào huynh Ngài là Hoà thượng Tịnh Hạnh, ví như anh em hai đại luận sư Vô Trước và Thế Thân thời xưa.

Văn bia ghi như sau:
Hương giang chi nguyệt; Ngự lĩnh chi vân; Sơn xuyên dục tú; Đỉnh xuất Kỳ nhân;
Giác trần thị huyễn; Duy đạo vi trân; Nghi huynh nghi đệ; Vô Trước Thiên Thân;
Chấn khởi thuyền phong; Chiết phục tà thái; Hoả mãn diêm phù; Kỳ huynh nan tái;
Vân án trường thiên; Ba cuồng đại hải; Huệ chúc từ phàm; Duy sư thị lạ;
Vi giáo hội chủ; Vi chúng trung tôn; Giáo lưu nam độ; Thục dự tỉ luân;
Pháp hoằng gia vụ; Đạo kế tông môn; Nghi đoan biểu chính; Mục kích đạo tồn;
Bổng xướng tuỳ nghi; Nhân hàm kính ngưỡng; Thanh tịnh nan danh; Ứng dụng vô lượng;
Phật pháp đống lương; Tông môn bảo chướng; Tuyển Phật tràng trung; Lễ tôn Hoà thượng; Xuân thành hậu tấn; Cửu phụ đức âm; Vô nhĩ biểu thành; Kiền bị chuyết châm;
Nguyệt thuỳ liên nhãn; Phủ giám quy thâm; Vĩnh phụng trần sát; Tương thử thâm tâm.

Nghĩa:
(theo bản dịch của Tâm Quang, Trang nhà GĐPT Việt Nam)
Trăng sông Hương, mây núi Ngự, tinh anh sông núi khéo đúc nên bậc khác thường.
Giác ngộ trần lao như huyễn, chỉ Đạo là quý. Xứng huynh xứng đệ như Vô Trước Thiên Thân. Chấn hưng Thiền phong, chiết phục tà thái. Hóa độ cõi Ta bà đã xong, thì anh Ngài về chầu Phật.
Than ôi! Mây phủ ngất trời, sóng gầm biển lớn. Đuốc tuệ thuyền từ chỉ còn Ngài làm chỗ cậy nương. Làm Pháp chủ Giáo hội, làm bậc Chúng trung tôn. Giáo pháp lưu truyền đất Nam mấy ai sánh kịp. Xem việc Hoằng pháp là việc nhà, nối tiếp Đạo thống Tông môn. Hình nghi đoan chánh, mắt trừng ánh đạo, đánh hét tùy cơ. Người người kính ngưỡng.Thanh tịnh khó bàn, ứng dụng vô lượng, đống lương của Phật pháp, bình phong che chở Tông môn.Trong trường tuyển Phật, suy tôn Hòa thượng. Kẻ hậu lai ở cố đô từ lâu nương nhờ ân đức, không biết lấy gì bày tỏ, xin cung soạn bài Châm vụng về này, ngưỡng mong Ngài hạ cố chứng giám lòng thành.
Nguyện đem thâm tâm này vĩnh viễn phụng sự chúng sanh!

Câu chuyện độc đáo ghi lại khả năng nhìn thấu suốt sự việc 42 năm sau của một bậc chứng ngộ là Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Tăng Thống Thích Tịnh Khiết có liên quan mật thiết đến tấm bia này.

Friday, February 26, 2021

Tuệ Sỹ: TÂM SỰ ĐẦU NĂM

 TÂM SỰ ĐẦU NĂM

1

社稷兩回勞石馬
山河千古奠金甌

Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu
                                   Hoàng đế Trần nhân Tông

Những ngày vui Xuân trong nỗi lo đại dịch cũng đã qua nhanh; tuần lễ kỳ an cho một năm mới cũng vừa hoàn mãn. Nhịp sống bình thường bắt đầu trở lại, cùng với những hy vọng và ưu tư trong một năm mới.

Trong lúc đất nước vừa qua khỏi hai tai kiếp lớn trong năm, thiên tai và đại dịch; cả nước đang vui mừng chuẩn bị đón những ngày Xuân đầy hứa hẹn, bỗng chốc bóng đen đe dọa của loại vi khuẩn chủng mới vừa phát hiện, các biện pháp giản cách xã hội lại được tuân thủ triệt để, và những ngày vui Xuân sum họp gia đình lại trôi qua trong khoắc khoải, ưu tư.

Cho đến hôm nay, ngày Rằm tháng Giêng âm lịch, các đàn tràng Dược Sư trong nhiều tự viện cũng vừa hoàn mãn, cùng lúc cơn lốc hoành hành của đại dịch cũng đang được chặn đứng. Niềm vui trong tình cảm tự hào dân tộc, trong truyền thống thương yêu, liên đới trách nhiệm, cùng hòa hiệp trong cộng đồng phấn đấu khắc phục tai họa đang làm điên đảo thế giới.

Niềm vui và hy vọng về một ngày mai tươi sáng hơn, trong đó vẫn còn vương vấn nỗi buồn khắc khoải bởi hận thù nghi kỵ hơn nửa thế kỷ đã trôi qua sau cuộc chiến dai dẳng huynh đệ tương tàn, mà một thời chấn động lương tâm nhân loại.

Thảm họa chết chóc bởi bom đạn vô tình đã không làm nhụt chí tình tự dân tộc; nhưng ám ảnh không nguôi về một tương lai bấp bênh đè nặng bởi bóng tối của hận thù, nghi kỵ, bởi tham vọng quyền lực, tham ô tài vật, trong một xã hội bất an, đạo đức băng hoại, những mỹ từ nâng cao phẩm giá con người nghe ra phảng phất như là ngôn từ sáo rỗng trên các bảng hiệu quảng cáo sản phẩm rẻ tiền.

Dù vậy, trong tận cùng tâm khảm của đồng bào vẫn âm thầm trôi chảy dòng tâm thức thấm nhuần đức tính từ bi, nhân ái, giữ vững khí tiết của một dân tộc qua nhiều thế hệ.

Thủa xưa, trong khi cả nước, từ Quân vương cho đến sĩ tốt, từ lão ông cho đến thiếu niên, xuất phát từ Hội nghị Diên Hồng, giữ vững ý chí kiên cường bất khuất trước thế lực hùng mạnh đang dẫm nát thế giới dưới vó ngựa chinh phục; bấy giờ một số kẻ hèn nhát, mãi quốc cầu vinh, đã phản bội mà theo giặc. Cho đến ngày chiến thắng, triều thần trình lên Vua danh sách những kẻ phản bội để bị xử trị đích đáng. Nhưng Vua truyền lệnh đốt hết mà không hề xem đến. Đất nước đang cần sự hòa hiệp đồng tâm nhất trí của toàn dân để xây dựng lại những gì đổ vỡ do chiến tranh. Hãy quên đi những lỗi lầm lớn nhỏ của bên này hay bên kia, ứng xử với nhau bằng khoan dung, tha thứ, không nhìn nhau bằng đôi mắt hoài nghi, phẩm chất đạo đức quân vương ấy khơi nguồn dòng suối nuôi dưỡng khí phách của dân tộc này, dù cho thế lực tham tàn hung bạo như thế nào cũng chưa hề, và cũng sẽ không bao giờ làm cho cạn kiệt:

Xã tắc hai phen chồn ngựa đá,
Non sống muôn thủa vững âu vàng.
                             (Trần Trọng Kinh dịch)

TueSy 12a

2

人生識字多憂患
Nhân sinh thức tự đa ưu hoạn
Người đời, càng hay chữ càng nhiều lo nghĩ.
                                   Nguyễn Trãi

Cuối 2019, đại dịch vùng vỡ, cùng với thiên tai do biến đổi khí hậu hoành hành, cho đến cao điểm tháng 8/2020, các định chế dân chủ phương Tây từng là chuẩn mực cho những giá trị nhân quyền và dân chủ bắt đầu bộc lộ những khuyết điểm dẫn đến phân hóa xã hội, phân biệt chủng tộc, xung đột tôn giáo, đã là nhân tố cho sự bành trướng của chủ nghĩa dân túy mà các chính khách không từ thủ đoạn dối trá mị dân để nắm lấy quyền lực, và tham vọng bành trướng của chủ nghĩa bá quyền đang hoạch định sách lược phân chia quyền lực thống trị thế giới.

Trong bối cảnh sôi động và hỗn loạn đó, các y bác sỹ đã quên mình chiến đấu với kẻ thù vô hình vì sự sống của đồng loại; các nhà khoa học căng thẳng với những bài toán khí hậu cho một quả đất an toàn; các nhà văn hóa, giáo dục, tổng hợp tất cả dữ liệu được quan sát và thu thập từ những biến đổi trong thiên nhiên cho đến những biến động trong các cộng đồng xã hội, âm thầm nghiên cứu bối cảnh xã hội trong thời hậu đại dịch chuẩn bị sẵn sàng, trong khả năng có thể, phương pháp luận tư duy và quan sát cho thế hệ tiếp nối sẽ bằng tự năng lực mà tự định hướng cho một chu kỳ tiến hóa trên một điểm cao trong vòng tròn xoắn ốc.

Những ngày gần đây, từ các phương tiện truyền thông, xuất hiện một số từ ngữ mang tính sử quan và dự trắc. Các nhà giáo dục, các nhà khoa học, kinh tế học, các nhà hoạt động vì môi trường, các nhà vận động nhân quyền, bảo vệ phẩm giá của con người, cho đến các nhà doanh nghiệp sản xuất và tiêu thụ, thường xuyên nêu câu hỏi: chúng ta sẽ làm gì cho “thế hệ thứ bảy”, thế hệ con cháu trong một xã hội “thất thế đồng cư”, từ ông Sơ, ông Cố cho đến cháu chắt cùng chung gia tộc, cùng sống chung trong một bối cảnh xã hội, cùng tiêu thụ chung những sản phẩm bởi kỹ thuật tân tiến nhất, và khổ quả thật là bất hạnh, cùng xung đột gay gắt về nhân sinh quan, thế giới quan.

Những biến cố thiên nhiên và xã hội không xảy ngẫu nhiên hay đột biến, như Dịch kinh đã nói “…phi nhất triều nhất tịch chi cố; kỳ do lại tiệm hỷ”, không phải là duyên cớ chỉ trong một sớm một chiều, mà nguyên do phát triển lần hồi từ lâu xa.

Cuối những thập niên thế kỷ trước, một phương pháp sử học được áp dụng để giải thích những biến thiên xã hội, “lý thuyết thế hệ.” (theory of generations). Nó đặc biệt được nhiều nhà nghiên cứu áp dụng để khảo sát xã hội Mỹ và Úc châu như là chuẩn mực cho các xã hội khác áp dụng trong những bối cảnh khác nhau.

Tầng lớp lãnh đạo chính trường Mỹ hiện tại vào lứa tuổi xế chiều của đời mình đều là những nhân vật thuộc “Thế hệ Tăng vọt” (Boom Generation), con đẻ của những chiến binh G.I trở về từ các chiến trường Thế chiến II, sinh sau ngày hòa bình, tính cho đến 1960, và đến tuổi vào đời khi mà chiến tranh Việt Nam leo thang đến hồi quyết định bằng cuộc tấn công Mậu thân 1968. Tuổi vào đời của họ đã làm kinh hoàng thế giới, đã làm thay đổi cục diện chiến tranh Việt Nam; và vào tuổi cuối đời, họ cũng đang làm điên đảo thế giới.

Thế hệ con cái của họ, Thế hệ X (Generation X), sơ sinh xấp xỉ trong khoảng 1976-1981, lớn lên trong sự phồn vinh, phát triển cao độ của chủ nghĩa tư bản; khi đến tuổi thành nhân, họ chứng kiến sự sụp đổ của khối Cộng sản châu Âu, và trong tuổi trưởng thành họ đã đưa một người da đen lên làm Tổng Thống quyền lực nhất hành tinh, làm nức lòng những sắc dân nhược tiểu, và nước Mỹ trở thành biểu tượng của những giá trị dân chủ và nhân quyền được hiểu theo truyền thống tư duy tôn giáo và triết học phương Tây. Nhưng trong đó, càng lúc càng bộc lộ mâu thuẫn gay gắt của “bảy thế hệ đồng cư”; xung đột thế hệ cha và con thành hai thái cực gần như thù địch mà xem ra tưởng chừng chỉ có thể giải quyết bằng bạo lực. Và nó đã dọa sẽ xảy ra như vậy.

Xung đột lan sang thế hệ cháu của họ, Thế hệ Y (Generation Y), sơ sinh xấp xỉ sau 1996. Thế giới đã một phen sửng sốt một cách thích thú khi mục kích một cô bé 15 tuổi, Greta Thunberg, từ Thụy điển, năm 2018, đứng trước Hội nghị Liên hiệp quốc về Biến đổi khí hậu (The 2018 United Nations Climate Change Conference), dõng dạc tuyên bố trước những chính khách đang nắm vận mệnh của hằng tỉ con người trên quả đất: “Các Ông đã lừa dối chúng tôi. Nhưng thế hệ trẻ chúng tôi hiểu rõ sự phản bội của các ông. Những cặp mắt của tất cả thế hệ tương lai đang nhìn vào các Ông. Và nếu các Ông tìm cách lừa dối chúng tôi, tôi nói với các Ông rằng chúng tôi không bao giờ tha thứ cho các Ông.”

Thế rồi, từ Djakata cho đến New York, hàng hàng lớp lớp thiếu nhi và thiếu niên từ các lớp Tiểu học và Trung học rời sân trường, bước ra đường phố, kêu gọi Ông và Cha của chúng chịu trách nhiệm với những gì đã làm, để lại hậu quả tồi tệ cho các thế tương lai phải gánh chịu.

Rồi thế hệ này đang trưởng thành, và chúng có chăng sẽ gây hậu quả với những vấn đề biến đổi khí hậu và biến thiên xã hội, như thế hệ ông-cha đã làm? Chu kỳ lịch sử sẽ quay trong một vòng tròn khép kín, hay trong một vòng xoáy xoắn ốc?

Thế hệ tiếp theo, được gọi tên là Thế hệ Alpha. Các nhà nghiên cứu hàn lâm đang thu thập và tổng hợp các dữ liệu để dự trắc Thế hệ Alpha này sẽ suy nghĩ như thế nào, làm việc ra sao, và tiêu thụ theo thị hiếu gì? Cùng lúc, các nhà doanh nghiệp sản xuất cũng dự đoán thị hiếu tiêu thụ của thế hệ này để cung cấp những sản phẩm mang lại lợi nhuận tối ưu.

Các nhà truyền giáo, các lãnh đạo tôn giáo, cũng đang thương nghị về đức tin của tín hữu sau thời đại dịch. Trong ác mộng bởi đại dịch hoành hành, khi mà các nhà khoa học không còn được tin tưởng, một số đông tín đồ tôn giáo trước do bị chi phối bởi xã hội tiêu thụ nên tỏ ra thờ ơ với các lễ nghi cầu nguyện, nay quay về với Đấng Tối Cao của họ, cầu nguyện ân sủng để được bảo vệ. Thế nhưng, tín tâm theo giải pháp tình thế ấy có thể bền vững không, và những biện pháp ứng phó đại dịch có trở thành tập quán sinh hoạt trong thời hậu đại dịch hay không? Hiểu biết để tồn tại, đó là quy luật tồn tại cho mọi sinh vật, không riêng gì loài người.

Và ở đây, chúng ta, các đệ tử Phật, từ những kinh nghiệm ứng phó đại dịch, dự hướng về các thế hệ tương lai, cần học những gì, tư duy như thế nào, tu tập pháp môn nào, từ Tam tạng Thánh điển y chỉ nguyên tắc khế lý và khế cơ, để có thể bằng kinh nghiệm thực học, thực tu và thực chứng, trao truyền, hướng dân các thế hệ hậu bối vững vàng trong Chánh đạo.

Khi được thỉnh vấn và khả năng Chánh pháp diệt tận, Đức Thế Tôn trả lời Tôn giả Ca-diếp: Chiếc thuyền ra khơi chất đầy hàng hóa; nó không chìm vì sóng nước, giông bão, mà chìm vì chính trọng tải của nó.

Trước khi nhập Đại Niết-bàn, Thế Tôn di giáo: Các hành vô thường, các ngươi hãy không ngừng tinh tấn.

Lời cầu nguyện đầu năm: cầu nguyện cho bốn chúng đệ tử có đầy đủ nghị lực tinh tấn để khắc phục mọi chướng ngại, cùng hòa hiệp đồng tu trong Chánh pháp, vì sự tăng ích và an lạc cho chính mình và cho nhiều người, trong đời này và trong nhiều đời sau.

Đêm Trăng tròn, tháng Giêng Tân sửu, PL. 2564.
Tuệ Sỹ


Nguồn: Thư Viện Phật Việt 

https://thuvienphatviet.com/thich-tue-sy-tam-su-dau-nam/

Wednesday, September 30, 2020

Thư gởi Chư Thiện tri thức trong và ngoài nước nhân Tết Nhi đồng Việt Nam ~ Suy tư hướng về các thế hệ tương lai


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
VIỆN TĂNG THỐNG

SỐ: 05/VTT/VP
Phật lịch: 2564

Thư gởi Chư Thiện tri thức trong và ngoài nước
nhân Tết Nhi đồng Việt Nam ~ Suy tư hướng về các thế hệ tương lai

 

Không ít những người trong chúng ta đã sinh ra và lớn lên sau những ngày thế giới đang hồi sinh trước một hiểm họa diệt vong toàn thế giới, nhưng lại đang dấy lên nỗi lo sợ của những nhà khoa học vĩ đại nhất của thế kỷ, sau khi chứng kiến kết quả sức hủy diệt của hai quả bom nguyên tử, sản phẩm trí tuệ, đã phải cùng nhau lên tiếng “Chúng ta, những nhà khoa học, đã phạm tội với nhân loại”. Nhiều thế hệ sau vẫn biết ơn họ, những gì mà họ đã đóng góp xoa dịu khổ đau thể chất của loài người; những người mà suốt đời vùi đầu trên những trang giấy, nguệch ngoạc với những con số, những hình thể vuông tròn, cong thẳng, không hề bận tâm đến mọi tranh chấp danh lợi của thế gian; tính toán trên những hạt vật chất cực kỳ bé nhỏ, những khám phá kỳ diệu mang đến cho loài người nguồn cảm hứng cùng với nguồn hy vọng về một thế giới an toàn được bảo vệ bằng các phân tử vật chất, đồng thời cũng ghi đậm ám ảnh bởi các vật thể cực kỳ bé nhỏ ấy, một ngày nào đó có thể làm nổ tung trái đất bởi tham vọng điên cuồng của con người.

Số lớn trong chúng ta được nuôi dưỡng, lớn lên trong một đất nước nhỏ bé, trải qua hơn nghìn năm nô lệ cho các thiên triều phương Bắc, hơn trăm năm phải cúi đầu chấp nhận một nước Pháp xa xôi làm đất mẹ để được là thành viên của một nền văn minh xa lạ. Cho đến ngày độc lập dân tộc được tuyên bố, niềm tin chủ quyền dân tộc, quyền tự quyết trước các thế lực siêu cường thế giới được khơi dậy. Thế rồi, một cuộc đấu tranh quyền lực mới, có vẻ ôn hòa nhưng khốc liệt, phân chia bản đồ thế giới bắt đầu với cuộc chiến tranh lạnh, chẳng mấy chốc đẩy đất nước Việt Nam leo thang vào một cuộc chiến tranh mới, huynh đệ tương tàn, như là nơi đọ sức của các siêu cường “ai thắng ai”.

Trước những hiểm họa liên tục đe dọa hòa bình vốn dĩ mong manh cho thế giới, và trực tiếp đe dọa sinh mệnh của dân tộc Việt Nam trong bối cảnh chia đôi không chỉ về mặt địa lý mà cả về mặt ý thức hệ, thế hệ sinh trưởng sau thời đại thế chiến tuy vẫn được nghe những mẫu chuyện xảy ra trên các chiến trường thế chiến từ cha anh, chứng kiến những cảnh thân thích phân ly Nam Bắc đau lòng, nhưng vẫn ngây thơ trong sự bảo bọc của gia đình, xã hội; những ngày tiết Trung thu vẫn vô tư thắp đèn dạo chơi khắp phố phường. Những thế hệ tiếp theo, tuổi thơ vẫn vô tư trong tiết Trung thu thắp đèn dạo chơi khắp phố phường; cùng lúc, tuổi thơ trong các vùng chiến sự đêm đêm nhìn ánh hỏa châu thay cho những chiếc lồng đèn và ánh trăng rằm, cũng vô tư trong sự bảo bọc của cha mẹ, những người thân thích.

Cho đến tuổi trưởng thành, một số trong chúng ta phải vội vã bước vào đời để tìm kế mưu sinh không chỉ dưới mưa nắng thất thường, mà còn qua những trận mưa bom đạn bất trắc, với vốn kiến thức non yếu và kinh nghiệm đơn sơ làm hành trang; số khác, may mắn hơn, tìm vào các cổng Đại học để chuẩn bị vào đời trước viễn tượng mơ hồ về một tương lai trong chiến tranh hay hòa bình. Những thế hệ trẻ thơ tiếp theo, vẫn lớn lên trong nụ cười và ánh mắt hồn nhiên, rồi ngã xuống hay tiếp tục đi tới tương lai bất định.

Cho đến ngày hòa bình và thống nhất được công bố, tuổi thơ vẫn hồn nhiên vác cờ chiến thắng đi khắp phố phường cho đến các ngõ ngách thôn xóm, đả đảo văn hóa đồi trụy, chối bỏ, thiêu hủy, những gì cha anh đã gầy dựng bằng máu và nước mắt cho con em mình với hy vọng một tương lai tươi sáng trong một đất nước hòa bình dân tộc. Sự nghiệp văn hóa, giáo dục của Phật giáo Việt Nam từ cấp Tiểu học cho đến Đại học trong 20 năm chiến tranh, đã đóng góp không ít cho sự tiến bộ của miền Nam trong tiến bộ chung của các dân tộc Đông Nam Á, cùng lúc bị xóa sạch. Các thế hệ sinh trưởng trong hòa bình phần lớn có thể nghe đến xã hội miền Nam với thủ đô Saigon hoa lệ, hòn ngọc Viễn đông, như nghe chuyện kể về một đất nước xa lạ.

Công đức của các Cư sỹ Phật tử đã đóng góp vào sự nghiệp văn hóa, giáo dục ấy không nhỏ, trong thời chiến cũng như thời bình.

Vị trí của hàng cư sỹ, được Đức Phật gọi là cận sự nam (upasoka) và cận sự nữ (upasikã), trong những ngày đầu hoằng pháp dường như chỉ giới hạn trong những công đức “tứ sự cúng dường” cho hàng xuất gia có đủ nhu yếu cho đời sống hằng ngày để tu tập. Tuy vậy, trong các Kinh điển nguyên thủy hay gần nguyên thủy, tương đối không ít những đoạn Đức Phật giáo giới người tại gia như bốn nhiếp sự,  bốn vô lượng tâm sau này được phát triển trở thành căn bản tu đạo và hành đạo trong Bồ-tát đạo của Đại thừa. Cho đến khi ba nhân vật tại gia, nửa hư cấu nửa lịch sử xuất hiện trong văn học chính thống của Đại thừa – Vimalakĩrti (Duy-ma-cật), Srĩ-Mãlã-devĩ (Thắng Man Phu nhân) và Sudhana-kumãra (Thiện Tài đồng tử), đã xác nhận vị trí của hàng tại gia với ba thế hệ của một đại gia đình trong một xã hội Ấn-độ phát triển đa dạng với các hình thái tôn giáọ, các hệ tư tưởng triệt học, hoặc thuận hoặc nghịch, cùng với sự phát triển các kiến thức về ngôn ngừ học tinh tế, những phương pháp nội quan đi sâu vào các bí ẩn của hoạt động tâm lý, những quan sát có tính khoa học về thế giới vật lý và tồn tại vật chất. Trong bối cảnh xã hội đó, sự xuất hiện các Cư sỹ tương đối có đù thời gian nhàn hạ để đi sâu vào các nguồn mạch tư duy từ Thánh điên mà trước kia chi dành cho hàng xuất gia đã dứt bỏ mọi ràng buộc thế tục, chuyên tâm Thánh đạo.

Cư sỹ học đạo và hành đạo không chì vì lợi ích an lạc của riêng mình ưong đời này và đời sau. Họ học đạo, nhưng không thể dứt bỏ tất cả để chuyên tâm Thánh đạo chi vì ràng buộc bởi danh lợi thế gian, nhưng số lớn vi không thể dễ dàng dứt khoát gánh nặng gia đình, phận sự đối với quốc gia xã hội. Phận sự chính là giáo dường con cháu của chính mình trưởng thành với một nhân cách tốt không chi để tốt cho bản thân và gia đình, mà trong trình độ khả dì, tốt cho cá quốc gia xã hội. Nhân cách nữa huyền thoại như Vimalakĩrti, không chỉ giàu có đến mức chiếm một vị trí ưu việt trong xã hội, đủ uy tín để có thể giáo dục như là bậc thầy của các vương tôn công tử, chỉ dần họ rèn luyện phẩm chất đạo đức và kiến thức chính trị xã hội sẽ xứng đáng là bậc quân vương lãnh đạo một đất nước trật tự, thanh bình, an lạc. Có dư tài sản để chẩn tế những hạng bần hàn cùng khổ. Có dư phẩm chất đạo đức để có thể đi vào thanh lâu tửu điếm mà thức tỉnh những tâm hồn sa đọa. Đây không phải là những điều khoa trương không thực tế. Một Asoka Đại đế của Ấn-độ. Một Nhân Tôn Hoàng đế của Đại Việt. Một Thánh Đức Thái tử của Nhật Bản. Những bậc quân vương Phật tử ấy đã để lại dấu ấn không thể phai mờ trong lịch sử dân tộc của những nước này, mặc dù triều đại phế hưng có thay đổi, các thế hệ con cháu về sau của họ có thể uốn cong dòng chảy lệch hướng lịch sử nhưng vẫn không thể xóa nhòa niềm kiêu hãnh dân tộc của một thời.

Lướt qua nhừng dữ kiện hoặc lịch sử, hoặc huyền thoại hư cấu, vai trò của trí thức trong bất cứ xã hội nào, chính yếu vẫn là kế thừa và bảo tồn di sản của tiền nhân, đồng thời giáo dục các các thế hệ theo sau tiếp tục sự nghiệp kế thừa, bảo tồn và phát triển. Trí thức Phật tử, một bộ phận trong bốn chúng đệ tử, trong tư cách là con dân của đất nước, của xã hội, dự phần trong các sự nghiệp toàn dân, giáo dục các thế hệ trẻ trưởng thành xứng đáng tầm vóc góp phần lãnh đạo từ những thôn xóm nghèo nàn cho dến những đô thị phồn vinh trong một quốc gia hưng thịnh; và đồng thời, là gạch nối, là nhịp cầu để các hàng xuất gia từ thâm sơn cùng cốc, từ những Thiền thất, Tĩnh viện, qua đó mang ánh sáng của Chánh Pháp soi tỏ tận chốn cùng khổ nhân sinh. Đó là sứ mệnh, là phận sự, đối với quốc gia dân tộc, là tâm nguyện Bồ-đề hành, lý tưởng Bồ-tát đạo, trong lý tưởng phụng sự Dân tộc và Đạo pháp.

Nguyện ấy, và hành ấy, lý tưởng cao cả ấy, dù vậy, không thể vượt qua những giới hạn của lịch sử, trong tương quan duyên khởi giữa con người và thiên nhiên, từ đó, giữa phát minh kỹ thuật và tiến bộ xã hội. Trong xã hội chi phối bởi tập quán gia trưởng, giáo dục con cháu thuộc quyền tuyệt đối của cha ông; nhất là trong xã hội chịu ảnh hưởng nặng của Nho giáo, với nguyên tắc trung-hiếu “quân sử thần tử, thần bất tử bất trung; phụ sử tử vong, tử bất vong bất hiếu”, quyền định hướng tương lai cho các thế hệ kê thừa tuyệt đối thuộc về cha ông, con cháu không có quyền quyết định tương lai sự nghiệp của chính mình. Trong Phật giáo, những chú Sa-di nhỏ “cát ái từ thân” không phải hiếm thấy, nhưng chỉ được dự hàng Tăng-già khi nào thân và trí được xác định là phát triển đầy đủ, để có thể lãnh hội và thực hành những điều Phật dạy. Đạo Phật được gọi là đạo của trí tuệ, trẻ nhỏ chưa đủ trí năng để phân biệt thiện ác thì chưa đủ điều kiện để thọ trì Tam quy Ngũ giới, trừ những trường hợp được xem là muốn gieo mầm Bồ-đề, cầu phước báo; hoặc xem như bán khoán cho Phật để được bảo vệ không bị ma quỷ quấy rối, vì là “con của Phật”. Tất nhiên, với trẻ nhỏ thì không thể giảng giải cho hiểu thế nào Tam quy, thế nào là Ngũ giới; nhưng cũng hiếm thấy nơi nào giảng cho trẻ nhỏ biết thế nào là khổ đế, cho đến con đường dẫn đến diệt khổ là đạo đế. Lại càng khó giảng hơn, tuy chỉ là vấn đề kỹ thuật, thế nào an lạc của sự tĩnh lặng, tĩnh tâm. Trong suốt trên dưới hai nghìn năm lịch sử, Phật giáo Việt Nam hầu như chỉ dành cho người lớn, thậm chí chỉ là tôn giáo cho người chết, thịnh hành với các nghi thức cầu siêu, chẩn tế cô hồn. Vắng bóng tuổi thơ.

Tình trạng như thế đã bắt đầu thay đổi, từ khi linh cảm không chỉ nguy cơ đất nước có thể sẽ là một tỉnh lẻ của Pháp quốc bên tận trời Tây; nhưng cùng đồng thời đe dọa hủy diệt nguồn tín tâm đã đồng hành với dân tộc qua hai nghìn năm thăng trầm vinh nhục; các hội đoàn Phật giáo với cơ cấu mới của Tăng-già, đồng thời các hội đoàn cư sỹ cũng lần lượt xuất hiện, trong giai đoạn gọi là “Chấn hưng Phật giáo”. Một trong những bước tiến của giai đoạn đó là thành lập tổ chức thanh niên Phật tử, tiên khởi với Gia đình Phật hóa phổ, sau đó cải danh là Gia đình Phật tử Việt Nam, và sau đó nữa, là đích tử trung kiên của GHPGVNTN.

Tạm thời nhìn qua phương Tây. Phật giáo chỉ được biết đến, chính thức trong giới học thuật, cũng từ thế kỷ thứ 17; cho đến cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, một phần cũng chỉ giới hạn trong phạm vi nghiên cứu, tán dương cũng nhiều, mà phê bình chỉ trích cũng không ít. Thật khó cho quảng đại quần chủng phương Tây chấp nhận một hệ tư tưởng tôn giáo không tin vào một Thượng đế sáng tạo.

Cho đến vài thập niên hậu bán thế kỷ 20, và những năm đầu thế kỷ 21, Phật giáo như vết dầu loang, một cách chậm chạp, ôn hòa và khiêm nhượng, được các thế hệ quần chúng trong các xã hội phương Tây đón nhận như một nguồn cảm hứng bổ sung cho sinh hoạt tâm linh. Tuy tín tâm đối với Phật pháp ở đây chưa trải qua thời gian dài như Việt Nam, cũng chưa thể nói sâu hoặc cạn; nhưng giáo dục con em theo hướng Phật giáo đã trở thành ưu tư của những cha mẹ mới biết đến và mới tin Phật, và những con số sách dạy con trẻ về giáo lý Phật thì vượt quá xa Phật giáo Việt Nam vốn tự hào đã có trên dưới hai nghìn năm lịch sử. Những tập sách nhỏ bé, với số lượng cũng nhỏ bé, cũng không phải hiếm thấy về các đề tài ở đây, nhưng hiếm thấy ở Việt Nam: Buddhism for Kids, Meditation for Kids, cho đến Buddhism for Young Mothers… ; cũng có cố gắng giải thích cho thiếu nhi, mượn hoạt cảnh chú mèo, hiểu biết khổ đế là gì, cho đến đạo đế là gì; những điều mà ngay cả những bác đi chùa lớn tuổi ở Việt Nam cũng cảm thấy khó hiểu.

Theo thống kê không chính thức hiện tại, có rất nhiều nhóm lớn nhỏ được tổ chức sinh hoạt và tu học Phật pháp cho thanh thiếu niên và đồng niên trong cả ba miền Nam-Bắc-Trung; tổng số đoàn sinh, đoàn viên ước lượng khoảng 102,000, trực thuộc các Giáo hội, hoặc các hệ phái trong Giáo hội này hay Giáo hội khác. Mặt khác, con số thanh thiếu niên và đồng niên sinh hoạt các khóa tu học mùa hè mỗi năm vài lần trong các nhóm hay tự viện độc lập ước lượng khoảng 166,000. Đây là con số thật khích lệ cho những ai quan tâm đến giáo dục Phật giáo các thế hệ tương lai. Nhưng so với con số hơn 6 triệu đoàn viên đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, thì con số ấy chỉ như viên sỏi lăn lóc dưới khối đá lớn.

Nhìn vào bối cảnh sinh hoạt các tổ chức này, lớn nhỏ tự phát trực thuộc hoặc không thuộc Giáo hội nào hay hệ phái nào; những thuyết giảng giáo lý đa dạng, phong cách thuyết giảng hay căn bản giáo lý được nghe nhìn phổ biến trên các trang mạng truyền thông có khá nhiều điều ít tìm thấy trong các hệ Thánh điển được lưu truỵền cho đến nay. Đây quả thực không thể nói là hiện tượng trăm hoa đua nở trong vườn Thiền; nên nó là những dòng thác lũ có thể cuốn sập lâu đài Phật giáo Việt Nam được xây dựng cả nghìn năm lịch sử.

Ở đây chúng ta không nói đến sự cần thiết của một dòng phát triển chính thống, nhằm loại trừ các dòng phát triển được xem là không chính thống, mà là dòng hợp lưu của những phát triển tự phát và đa dạng, thích hợp cho nhiều căn cơ trong một xã hội phát triển đa dạng tương lai. Để thực hiện được điều này, không thể không cần đến các hoạt động của kiến thức hàn lâm từ các cơ sở Đại học theo đường hướng giáo dục nhân bản và khai phóng, như dịnh hướng giáo dục của Viện Đại học Vạn Hạnh trước đây, trong đó tụ hội các trí thức Phật tử hàng đầu không chỉ trong giới Phật giáo mà trong cả nước, từ đó không chỉ giáo dục đào tạo những nhân viên phục vụ trong các tập đoàn xí nghiệp lớn nhỏ, mà còn là những khả năng khả dĩ lãnh đạo quốc gia, kiến thiết xã hội, và khi cần thiết, trong một xã hội đang có nguy cơ thoái hóa, với số lượng sinh viên dù nhận thức để gây phong trào thúc đẩy xã hội tiến tới trong tinh thần bao dung, hòa hiệp. Một cơ cấu hàn lâm như vậy có thể là mối đe dọa đối với những chính khách tham quyền, do đó một Viện Đại học hoạt động giáo dục nhân bản và khai phóng theo nguyên tắc tự trị sẽ khó vượt qua chướng ngại của quyền lực chính trị. Vì vậy, cho đến nay, đất nước hòa bình gần nửa thế kỷ, một cơ chế Đại học chưa hề được chấp nhận cho Phật giáo. Các cơ sở giáo dục cấp cao mà Nhà Nước cho phép cũng chỉ là các trường Cao cấp Phật học dành riêng cho giới xuất gia, không được thừa nhận tương đương với hệ giáo dục Cao đẳng, nói gì đến Đại học chuyển tải các kiến thức Phật pháp cũng như thế gian pháp.

Theo thống kê dân số của Tổng Cục Thống Kê, “Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019”, công bố ngày 19/12/2019 vào lúc 2:33:35 PM, trên trang mạng truyền thông toàn cầu: tổng số dân của Việt Nam là 96.208.984. Trong số đó, đông nhất là tín đồ Công giáo, 5,9 triệu người. Tiếp theo, 4,6 triệu người theo Phật giáo, chiếm 4,8% tổng số dân cả nước. Nhìn vào số liệu này, con số được gọi là Trí thức Phật tử trong số 4,6 triệu người theo đạo Phật, quả là quá ít, so với hơn 5 triệu đảng viên và trên 6 triệu đoàn viên Thanh niên Cộng sản, nếu chúng ta thực hiện chỉ cần một phép tính đơn giản. Rõ ràng đây là những con số khống chế bằng áp lực chính trị và kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, số lượng ấy không đủ để lập thành một dòng chảy chính qui điều hòa dung hợp nhiều dòng chảy thành một hợp lưu, để không trở thành những mâu thuẫn xung đột gay gắt có thể dẫn đến những tổn hại cho xã hội, không chỉ về mặt tín ngưỡng tiêu cực, mà còn tác hại đến các định hướng giáo dục, văn hóa, kinh tế, xã hội cho các th hệ tương lai.

Ngày nay, trong những biến động từ thiên tai đến nhân họa, những đấu tranh quyền lực gay gắt nội bộ và xung đột quốc tế giữa các quyền lực, dấu hiệu hay dự báo một sự phân chia quyền lực quốc tế đang hay có thể sẽ diễn ra; những điều có thể ảnh hưởng không lớn đối với chúng xuất gia tịnh tu trong các tĩnh thất hay thiền viện, nhưng tác động không nhỏ đến các chúng tại gia, cơ bản là vấn đề an ninh xã hội, và điều kiện kinh tế, từ đó tác động đến các sinh hoạt giáo dục, văn hóa. Trong tình trạng có thể diễn ra ấy, trí thức Phật tử tự trang bị cho mình một căn bản giáo lý để có khả năng quan sát những biến động xã hội, tự mình định hướng và đồng thời y chỉ trên căn bản giáo lý được học và hành trợ duyên cho con em mình cũng đủ khả năng tự định hướng cho tương lai, góp phần định hướng cho sự phát triển của xã hội, của quốc gia dân tộc.

Tuy nhiên, hàng Phật tử tại gia thường trực sống trong xã hội đầy biến động, chỉ có thể bình tâm định hướng cho chính mình và trợ duyên cho các con em của mình tự định hướng cho tương lai, nếu có cơ sở vững chắc. Ngôi Tam bảo mà Đức Thế Tôn thiết lập cho thế gian, sở y cho bốn chúng hòa hiệp đồng tu, trong đó Tăng-già thanh tịnh hòa hiệp, là hiện thân trong lòng thế tục làm sở y vững chắc cho sự hòa hiệp của bốn chúng. Cơ chế Tăng-già tan vỡ sẽ kéo theo sự phân hóa, mâu thuẫn xung đột giữa bốn chúng, như thực tế đã diễn ra.

Nói tóm lại, uy đức của Tăng-già thanh tịnh và hòa hiệp là sở y cho sự hòa hiệp đồng tu của bôn chúng đệ tử. Sự tụ hội của bốn chúng trong hòa hiệp đồng tu là cơ sở để kiến thiết một Giáo hội, trong đó luật đạo và luật đời không mâu thuẫn, có đủ phẩm chất và năng lực góp phần trong các sự nghiệp giáo dục, văn hóa, xã hội, kinh tế, đưa đất nước tiến vào thời kỳ trật tự, thanh bình và an lạc. Đây cũng là lý tưởng Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành của bốn chúng đệ tử của Đức Thế Tôn, vì sự an lạc của tự thân, gia đình, và xã hội.

Tiết Trung thu, niềm vui của thiếu nhi, cũng là nguồn cảm hứng hy vọng hướng về tương lai của bốn chúng đệ tử Phật.

Phật lịch 2564,

Tiết Trung thu, năm Canh Tỷ Khâm thừa Uy thác,

Tỳ-kheo Thích Tuệ Sỹ

______________________________
*Bản sao kính gởi Chư Tôn đức đế kính tường