Wednesday, March 18, 2020

Quê hương, ngôi chùa và thiên nhiên trong cõi thơ của Trần Nhân Tông

Quê hương, ngôi chùa và thiên nhiên trong cõi thơ của Trần Nhân Tông

Thị phi, thành bại, vinh nhục cùng bao nhiêu chuyện đời lô nhô lố nhố khác cũng ra đi cùng với trận mưa đêm qua. Cuối cùng, chẳng còn lại gì cả, chỉ còn một chút "núi non tịch mịch" đọng lại trong hồn Thiền sư thi sĩ mà thôi.
I. Quê hương là gì?

Một bữa nọ về thăm quê của Tổ phụ, Trần Nhân Tông đã leo lên ngọn đồi cao sau làng. Ta có thể đoán chắc như vậy, vì phải đứng trên cao thì Trần Nhân Tông mới thấy toàn thể cảnh vật buổi chiều tà nơi phủ Thiên Trường. Như bài thơ mà ông đã làm sau đây:
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên 
Bán vô bán hữu tịch dương biên 
Mục đồng địch lý quy ngưu tận 
Bạch lệ song song phi hạ điên. 
(Thiên trường vân vọng)

Thôn trước, thôn sau đều mờ mờ như khói phủ 
Bên bóng chiều (cảnh vật) nửa như có, nửa như không 
Trong tiếng sáo, mục đồng lùa trâu về hết 
Từng đôi cò trắng hạ cánh xuống đồng.

Dù đó chỉ là buổi chiều tà trên làng Tức Mặc của phủ Thiên Trường, nơi chôn nhau cắt rốn của Tổ tiên Trần Nhân Tông, nhưng với chúng ta, là người Việt Nam, mà hầu hết cuộc đời đều gắn chặt với miếng ruộng, mảnh vườn, thì bốn câu thơ mà Trần Nhân Tông đã tả cảnh chiều trên quê hương của ông, cũng có thể là cảnh chiều tà trên quê hương của mỗi người trong chúng ta nữa.

Nhưng vì long đong chạy theo cuộc sống nên chúng ta bị bắt buộc phải sống tha hương. Rồi đến một lúc nào đó, khi ta đã bắt đầu cảm thấy già nua, tàn tạ, khi ta cảm thấy mất mát nơi tâm hồn, thì lúc bấy giờ ta mới ngoái nhìn lại tuổi thơ: Ở đó, có con đường làng êm ả, có đàn cò trắng đứng trên cánh đồng lúa xanh, có dăm ba đứa trẻ lùa trâu về chuồng, trong bóng chiều mờ mờ khói phủ.


Thứ bóng chiều mà Trần Nhân Tông đã quan sát rất tinh tế qua câu: "Bán vô bán hữu tịch sương biên". Tức là "Trời nhá nhem tối" hay "Trời chạng vạng" như người dân ở các miệt miền quê thuộc miền Trung vẫn thường gọi như vậy, để chỉ lúc ngày và đêm đang giao thoa với nhau.

Thật là một điều sai lầm, trong thi ca cổ điển của Việt Nam, ngay cả Nguyễn Du, một thi hào đã nhìn thấu suốt hết nỗi "đoạn trường" của kiếp nhân sinh, khiến mỗi lần chúng ta đọc đến là thấy tâm hồn buốt lạnh. Vậy mà khi tả về phong cảnh thì tuyệt nhiên không thấy con trâu, con bò, con cò trắng hay cánh đồng lúa xanh đâu cả. Phải đợi đến Nguyễn Khuyến, tức là đến tận cuối thế kỷ thứ 19 thì phong cảnh và đời sống "chân lấm tay bùn" của quê hương mới xuất hiện trong thi ca. Vì sao như vậy? Có lẽ, đó là kết quả đương nhiên của lối học từ chương chăng? Hay cũng có thể là vì mặc cảm nữa, rằng sự nghèo nàn và mộc mạc đối với họ không phải là cái đẹp mà thi ca họ muốn hướng đến.

Chính vì thế, mà mỗi khi tả về phong cảnh thì lúc nào cũng phải có "tuyết, nguyệt, phong, hoa" hay "hồ, đình, liễu, tạ", những cảnh mà ta bắt gặp đầy dẫy khi đọc thi ca Trung Quốc. Mặc dù, chính họ thì đang sống và đôi chân hằng ngày vẫn lê bước trên những con đường thôn dã của Việt Nam.

Trong khi đó, Trần Nhân Tông được sinh ra và lớn lên giữa chốn triều đình, không sống ở thôn dã. Thế mà Trần Nhân Tông đã làm một bài thơ phong cảnh, có thể nói là hoàn toàn Việt Nam. Như vậy, ta thấy rằng tấm lòng ông mộc mạc và gần gũi với quê hương đất nước đến chừng nào.

Một lần khác, cũng tại quê nhà, Trần Nhân Tông đi dạo một mình trên con đường đất có nhiều bùn lầy. Cơn mưa vừa tạnh, đã xóa sạch những đám bùn nhơ đó. Trước mắt Trần Nhân Tông hiện ra những màu sắc linh hoạt vô cùng:

"Lục ám hồng bi bội tịch liêu 
Tễ vân thôn vũ thổ hoa tiêu"

Màu xanh thẫm, màu đỏ thưa, cảnh thêm vắng vẻ 
Mây quang, mưa tạnh, ngấn bùn đất cũng mất sạch

Trần Nhân Tông vừa đi vừa ngước nhìn ngôi chùa Phổ Minh rêu phủ thì lòng chợt u hoài vì nhớ đến vua cha:

"Phổ Minh phong cảnh hồn như tạc 
Phảng phất canh trường nhập mộng nhiên"

 Phong cảnh chùa Phổ Minh vẫn như trước,
 Phảng phất trong chiêm bao hình dánh vua cha, như trông tường thấy bóng, ăn canh thấy hình...

Tại sao nhìn ngôi chùa mà lại nhớ đến vua cha? Phải nhìn những gì có liên hệ đến sinh hoạt của vua cha khi còn sanh tiền, như nơi làm việc của vua cha, lăng mộ của vua cha, nơi vua cha thường đi dạo như vườn ngự uyển thì nhớ vua cha mới hợp lý chứ? Có lẽ, đây là lần đầu tiên ngôi chùa và hình bóng người cha lại xuất hiện cùng một lúc trong cõi thơ của Việt Nam vậy.

Vì dường như, với Trần Nhân Tông, thì ngôi chùa, người cha, hay quê cha đất tổ cũng chỉ là một mà thôi?
 
Còn một biến cố này nữa, vào năm Mậu Thân, tức là năm 1308, chị của Trần Nhân Tông bị bệnh nặng. Thiên Thụy công chúa muốn thấy mặt em mình trước khi nhắm mắt, bèn sai người nhà lên Yên Tử báo tin. Trần Nhân Tông liền chống gậy xuống núi. Theo sách Thánh Đăng ngữ lục, thì Trần Nhân Tông bắt đầu rời núi từ mồng 3 nhưng đến mồng 10 mới đến kinh đô Thăng Long. Sau khi thăm và dặn dò chị xong, đến ngày Rằm Trần Nhân Tông lại chống gậy về núi trở lại.

Trên đường trở về, Trần Nhân Tông ghé và nghỉ lại trong một ngôi chùa cổ ở làng Hương Cổ Châu. Sáng hôm sau, trước khi tiếp tục lên đường, Trần Nhân Tông đã ghi lại bốn câu thơ này trên vách tường của chùa:

"Thế số nhất sách mạt 
Thời tình lưỡng hải ngân 
Ma cung hồn quản thậm 
Phật quốc bất thắng xuân" 
(Đề cổ Châu Hương thôn tự)

Số đời hoàn toàn mờ tịt 
Tình người đổi thay qua đôi mắt 
Khi cung ma bị quản chặt 
Thì cõi Phật tràn ngập màu xuân.

Có những bài thơ, ta đọc mà không cần biết làm ở đâu và trong hoàn cảnh nào, nhưng đọc vẫn cứ thấy hay. Nhưng ngược lại, có những bài thơ mà ta phải biết lý do và hoàn cảnh khi tác giả làm, thì đọc mới thấy hay được. Đây là trường hợp bài "Đề cổ Châu Hương thôn tự" này chẳng hạn.

Đứng trước cái chết sắp xảy ra cho chị mình, Trần Nhân Tông không giữ được sự xúc động về số phận bi thảm của kiếp người.

Nhưng kiếp người càng đen tối bao nhiêu, thì ông lại càng tin tưởng mãnh liệt vào con đường đi lên đầy chông chênh mà ông đang đi bấy nhiêu. Vì, như Trần Nhân Tông đã viết:

"Phật Quốc bất thắng xuân" 
Vì cõi Phật thì tràn ngập màu xuân

Và trên đỉnh cao của núi Yên Tử ấy, chắc Trần Nhân Tông đã tìm thấy một mùa xuân vô tận?

Nhưng bài thơ độc đáo ở chỗ, khi đọc lên ta thấy nỗi dằn vặt khôn nguôi của Trần Nhân Tông về thân phận bi thảm của kiếp người.

Đêm ấy, trong một ngôi chùa cổ ở làng Hương Cổ Châu, ta có thể đoán chắc rằng, cả đêm Trần Nhân Tông đã không chợp mắt được, vì ông đã bị đôi mắt của người chị mình ám ảnh. Trong đôi mắt ấy, hiện ra những mảnh đời: những năm tháng làm vua trong triều, cơ nghiệp nhà Trần, dù đang hồi hưng thịnh đấy, nhưng cuộc đời thì đầy dâu biển, chắc chắn một ngày nào đó không xa, rồi cũng sẽ như đôi mắt của chị mình, đôi mắt như đang luyến tiếc cả những năm tháng huy hoàng xưa, rồi cũng từ từ khép lại vĩnh viễn mà thôi.

Thì ra, ngôi chùa với Trần Nhân Tông, không chỉ là nơi ông trở về để an thân lập mệnh, mà cũng còn là nơi chốn để ông tâm sự về những nỗi dằn vặt và khổ đau của chính đời mình nữa.

II. Nếu ai đã từng đọc Thiền (Zen) và thi ca Nhật Bản, chắc khó quên được hai nhà thơ Tây Hành (Saigyo) và Ba Tiêu (Bashô).

Lịch sử thi ca Nhật Bản gọi họ là hai nhà thơ lãng tử, vì cả hai đều bỏ trọn cả đời để đi lang thang khắp mọi nẻo đường, nhất là những nẻo đường thôn dã của nước Nhật.

Họ đã đi tận đến những nơi xa xôi, đến tận những chân trời mênh mông bát ngát để lắng nghe niềm im lặng của cỏ nội hoa đồng.

Tây Hành và Trần Nhân Tông của Việt Nam có nhiều điểm tương đồng.

Tây Hành đã từ bỏ chức quan dưới triều Kiếm Thương (Kamakura). Và Trần Nhân Tông thì từ bỏ ngôi báu của nước Đại Việt. Như vậy là, cả hai cùng từ bỏ giai cấp quý tộc của mình để đi tu, và cả hai đều say mê Phật giáo Thiền Tông.
 
Ở Nhật Bản, chân dung của Tây Hành trong chiếc áo du tăng, đứng ngóng ngọn núi Phú Sĩ phủ đầy tuyết trắng được trưng bày khắp nơi như niềm hãnh diện của dân tộc Nhật.

Nhưng rất buồn là ở Việt Nam, hầu như chỉ biết Trần Nhân Tông như một nhà anh hùng dân tộc hay vị sơ tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, chứ ít ai biết Trần Nhân Tông như một thi sĩ lang thang. Sách Tam Tổ Thực Lục có ghi: "Điều ngự (tức Trần Nhân Tông) đã đi khắp mọi nẻo đường thôn quê, khuyên dân phá bỏ các dâm từ và thực hành giáo lý Thập Thiện".

Dĩ nhiên trong tư cách một Thiền sư, mà lại là người đã sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, thì sứ mạng chính là hoằng dương chánh pháp, khai mở yếu chỉ của Thiền tông. Nhưng khi bước chân của Trần Nhân Tông đã lang thang đây đó thì cái đẹp của thiên nhiên cũng đã quyến rũ tâm hồn ông rất nhiều. Mặc dù, đang gánh vác nhiều trách nhiệm nặng nề nhưng khi đứng trước cái đẹp của thiên nhiên, thì Trần Nhân Tông như muốn bỏ hết mọi hệ lụy của cuộc đời, để được đắm mình trọn vẹn vào cái đẹp hồn nhiên của thiên nhiên. Bởi vậy, ông gần như muốn đưa ra một điều kiện cho những ai muốn cùng ông thưởng thức cái đẹp của thiên nhiên. Ví dụ, khi đứng trước một mùa xuân như thế này:

"Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì 
Họa đường thiềm ảnh mộ vân phi" 
(Xuân cảnh)

Trong khóm hoa dương liễu rậm, chim hót chậm rãi 
Dưới bóng thềm ngôi nhà chạm vẽ, mây chiều lướt bay.

 Thì điều kiện của Trần Nhân Tông đưa ra như sau:

"Khách lai bất vấn nhân gian sự 
Cộng ỷ lan can khán thúy vi"

 Khách đến chơi không hỏi việc đời 
 Mà nên cùng tựa lan can ngắm màu xanh mờ mịt ở chân trời.

Chuyện đời, với Trần Nhân Tông là chuyện gì?

"Thị phi niệm trục triêu hoa lạc 
Danh lợi tầm tùy dạ vũ hàn 
Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch 
Nhất thanh đề hiểu hựu xuân tàn"

Niềm thị phi rụng theo hoa buổi sớm 
Lòng lợi danh lạnh theo trận mưa đêm 
Hoa rụng hết, mưa đã tạnh, núi non tịch mịch 
Một tiếng chim kêu, lại cảnh xuân tàn.

Thị phi, thành bại, vinh nhục cùng bao nhiêu chuyện đời lô nhô lố nhố khác cũng ra đi cùng với trận mưa đêm qua. Cuối cùng, chẳng còn lại gì cả, chỉ còn một chút "núi non tịch mịch" đọng lại trong hồn Thiền sư thi sĩ mà thôi.

Để tiếp tục cuộc lãng du của đời mình, vào năm 1301, Trần Nhân Tông quyết định đi Chiêm Thành, không phải đi trong tư cách một vị Thái Thượng Hoàng của nước Đại Việt, mà ông đã ra đi như một du tăng, vì lúc bấy giờ ông đã đi tu rồi.

Khởi hành từ mùng 3 nhưng mãi đến tháng 11 năm đó Trần Nhân Tông mới về lại Thăng Long.

Không còn hồ nghi gì nữa, chắc chắn Trần Nhân Tông đã mang thông điệp hoà bình của Phật Giáo Đại Việt đến cho Chế Mân, vua của nước Chiêm Thành, trong cuộc gặp gỡ giữa hai người tại kinh đô Đồ Bàn.

Và cũng nhân cơ hội này, để tạo tình hữu nghị lâu dài cho hai nước nên Trần Nhân Tông đã hứa gả con gái mình, tức Huyền Trân công chúa cho Chế Mân. Ta có thể xem đây như là một hy sinh lớn lao, vì Trần Nhân Tông đã đặt quyền lợi Tổ quốc lên trên quyền lợi gia đình.

Nhưng điều mà ta muốn nói ở đây là: Trần Nhân Tông đã ra đi như một thi nhân, một thi nhân rất khát khao đến những miền đất xa lạ.

Con đường thiên lý từ Thăng Long đến Đồ Bàn (Bình Định ngày nay) biết bao là kỳ hoa dị thảo trên bước chân của thi nhân. Thiên nhiên lúc ấy vẫn còn hoang sơ. Sở dĩ ta gọi là hoang sơ vì con người thời ấy chưa hề có ý nghĩ chinh phục thiên nhiên.

Và con người sẽ trơ trọi biết bao, nếu con người bị ly cách khỏi thiên nhiên!

Ta có thể tạm kết luận một cách thơ mộng rằng, Trần Nhân Tông là thi nhân đầu tiên của nước ta, đã nhìn được dãy Trường Sơn chạy dọc theo miền Trung bấy giờ.

Có lẽ, từ thủa con người mới biết làm thơ, thì núi non đã là nơi gợi hứng vô tận cho hồn thơ của họ rồi, nhất là các thi sĩ của Đông phương.

Chẳng hạn, Tây Hành và Ba Tiêu luôn luôn đứng ngóng đỉnh núi Phú Sĩ của Nhật Bản phủ đầy tuyết trắng, Tô Đông Pha của Trung Quốc vẫn ôm giấc mộng khám phá cho được chân diện mục của núi Lô Sơn khuất sau những tảng mây mù, và Nguyễn Du của Việt Nam vẫn thường rong chơi trên chín ngọn Hồng Lĩnh.

Có lẽ, vì núi cao và đầy hiểm hóc, nên núi non vẫn luôn luôn là biểu tượng cho những kẻ đi tìm tuyệt đối.

Mà thi nhân, chẳng phải là kẻ đi tìm tuyệt đối đó sao?

Với Trần Nhân Tông cũng thế, trong bài phú bằng tiếng Nôm, bài "Cư trần lạc đạo", ông viết:

"Núi hoang rừng quạnh, ấy là nơi dật sĩ tiêu dao 
Chiền vắng am thanh, chỉn thật đạo nhân du hí.." 

Trần Nhân Tông mất ngày 1 tháng 11 năm Mậu Thân (1308). Vậy mà tháng 9 năm đó, ông đã cùng với đệ tử là Bảo Sát đi dạo khắp các núi nằm trong dãy Yên Tử, thì ta biết lòng của Trần Nhân Tông yêu núi non biết chừng nào!
 
Và đây là bài thơ ông đã làm khi đứng trên đỉnh núi cao:

"Địa tịch đài du cổ 
Thời lai xuân vị thâm 
Vân sơn tương viễn cận 
Hoa kính bán tình âm. 
Vạn sự thủy lưu thủy 
Bách niên tâm ngữ tâm 
Ỷ lan hoàng ngọc địch 
Minh nguyệt mãn hung khâm"

Cảnh vắng đài thêm cổ 
Xuân sang mầu chửa hồng 
Xa gần mây núi hợp 
Rợp bóng nẻo hoa lồng. 
Vạn sự nước xuôi nước 
Trăm năm lòng ngỏ lòng 
Tựa hiên nâng sáo thổi 
Trăng sáng đầy cõi tâm 
(Nguyễn Lang dịch)

Có cái gì thôi thúc trong lòng muốn nói thành lời, nhưng ngôn ngữ không diễn đạt được, nên Trần Nhân Tông đành:
"Bách niên tâm ngữ tâm" 
Trăm năm lòng ngỏ lòng.

Và trên đỉnh núi cao chót vót ấy, có lẽ ông đã thoáng thấy "thiên thu vĩnh cửu" đang khẽ động trong lòng:

"Minh nguyệt mãn hung khâm" 
Trăng sáng đầy cõi tâm. 
Và còn gì nữa trong cõi thơ ấy?

Còn mùa thu. Nhưng mùa thu ở đây không phải là mùa thu của "rừng phong đã nhuộm màu quan san" hay màu thu của "Dặm xa lữ thứ" đượm màu biệt ly sầu thảm, mà ta đã từng thấy qua nhiều thời đại thi ca. Mùa thu ở đây hoàn toàn khác.

Đây là mùa thu của những kẻ đi tìm kiếm con đường để vượt qua khỏi giới hạn của sự sống và chết, vì đó là cội nguồn của khổ đau:

"Lão dung ảnh lý tăng quan bế 
Đệ nhất thiền thanh thu tứ trương"

Dưới bóng đa già, vị sư đang đóng cửa chùa 
Một tiếng ve sầu, tứ thu man mác.

Dù thời gian có đang đi nhanh qua mái đầu bạc trắng, nhưng họ vẫn như "trơ gan cùng tuế nguyệt":

"Tục đa biến thái vân trường cẩu 
Tùng bất tri niên tăng bạch đầu"

Thói đời nhiều thay đổi 
Như mây trắng hóa chó xanh 
Cây tùng chẳng biết đến năm tháng 
Nhà sư đầu đã bạc. 
Cây tùng và nhà sư đầu bạc.

Ta có thể xem đây là hai hình ảnh mà Trần Nhân Tông muốn gởi đến cho những người đang kiên trì đi tìm ý nghĩa đích thực của đời sống vậy.

III. Nhưng khi thi nhân đã trở thành Thiền sư, thì cách nhìn về thiên nhiên và nhất là về cuộc đời cũng hoàn toàn đổi khác.

Như bài thơ sau đây của Trần Nhân Tông:

"Niên thiếu hà tằng liễu sắc không 
Nhất xuân tâm tại bách hoa trung 
Như kim khám phá đông hoàng diện 
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng"

Niên thiếu chưa từng hiểu sắc không 
Xuân sang hoa sắc vướng tơ lòng 
Diện mục xuân nay từng khám phá 
Thiền tọa an nhiên ngắm rụng hồng. 
(Nguyễn Lang dịch)

Khi đọc bài thơ này, sẽ có nhiều người nghĩ là tâm hồn của các Thiền sư đã nguội lạnh rồi, không còn biết rung động với bao nỗi vui buồn của nhân thế nữa, thì làm sao các Thiền sư có thể xuống núi để cứu khổ cho cuộc đời.

Để tránh ngộ nhận này, ta có thể lấy câu: "Nhậm vận thịnh suy vô bố úy" - "Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi" của Thiền sư Vạn Hạnh đời Lý, mà giải thích câu: "Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng" - "Thiền tọa an nhiên ngắm rụng hồng"... của Thiền sư Trần Nhân Tông đời Trần.

Như vậy "Thiền tọa an nhiên ngắm rụng hồng" không phải là không còn thiết tha với cuộc đời, mà phải hiểu là các Thiền sư không còn sợ hãi mọi thịnh suy, hưng phế, thành bại mà con người vẫn thường nơm nớp lo sợ.

Chính tinh thần không sợ hãi (vô bố úy) này của Phật giáo, mà Trần Nhân Tông đã hai lần lãnh đạo toàn dân đánh tan đạo quân xâm lược của đế quốc Nguyên Mông đến xâm lược nước ta, trong khi từ Đông sang Tây vào thời bấy giờ đang nằm trong cơn sốt Thát Đát (Tartar).

Để rồi cuối cùng, Trần Nhân Tông đã cùng với dân tộc hát lên bài ca chiến thắng:

"Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã 
Sơn hà thiên cổ điện kim âu"

Xã tắc hai phen chồn ngựa đá 
Non sông nghìn thuở vững âu vàng.              
(Trần Trọng Kim dịch)

Nhưng khi đã thành công rồi thì rút lui về lại núi rừng, để tìm lại niềm vui muôn thuở:

Cảnh tịch an cư tại tâm 
Hương phong xuy đệ nhập tùng âm 
Thiền sàng thọ hạ nhất kinh quyển 
Lưỡng lự thanh nhàn thắng vạn kim"

Cảnh lặng, sóng yên, lòng tự tại 
Gió mát thổi đến dưới bóng cây tùng 
Giường thiền dưới gốc cây, kinh một quyển 
Hai chữ thanh nhàn quý hơn vạn nén vàng

Đã gần tám thế kỷ trôi qua, thế mà những người con của quê hương đất nước vẫn tiếp tục ngóng vọng về dãy núi Yên Tử ấy, như để tìm lại vết chân của người.

Phải chăng Người là biểu tượng cho sự trở về của dân tộc?

Thích Phước An

Tuesday, March 17, 2020

Free Online Materials and Resources


Tài liệu và tài nguyên giảng dạy trực tuyến miễn phí dành cho mọi người

All subjects and grades

CDC Free Educational Resources for Distance Learning



Khan Academy
Sacramento Public Library (live homework help, online courses, etc.)
○ Folder with Help Document in multiple languages for accessing students’ free
online accounts
OER (Open Educational Resources) Commons
BrainPop
● Open List of Education Companies Offering Their Tools for Free During School Closures
● Call/ Video Chat or text through - Google Hangout
Talking to students about the Coronavirus
Coping With Stress During Infectious Disease Outbreaks
Talking to Children About COVID-19 (Coronavirus) A Parent Resource
* Mindfulness in the Classroom's resources and information.

Grades TK-2:
● Math

○ Online Math Help & Learning Resources

http://www.mrmathblog.com/
https://www.ixl.com/
https://pbskids.org/games/math/
i-Ready.com/AtHome
● ELD:
      ○ https://www.starfall.com/h/
      ○ Online books: https://www.tumblebooklibrary.com/Home.aspx?categoryID=77
      ○ Brainpop ELL: https://ell.brainpop.com/ (free stuff)
● ELA/ELD: 2nd Kahan Beta https://www.khanacademy.org/ela
      ○ ReadWriteThink
      ○ UnboundEd
      ○ OpenLibrary
● Science
       ○ Ask Doug videos: https://mysteryscience.com/mini-lessons
● Counseling
      ○ Personal Social
           ■ Find resources
           ■ Anonymous options for calling and texting
      ○ College/ Career
           ■ California Career Resource Network
● Physical Education
      ○ GoNoodle
      ○ Cosmic Kids
      ○ Open PhysEd
● Music
      ○ Classics for Kids
      ○ Sing and Move with Ms. Lorentzen
      ○ Carnegie Hall Activities
      ○ Chrome Music Lab
● Art
      ○ Art for Kids hub

Grades 3-5:
● Math - Online Math Help & Learning Resources
      ○ http://www.mrmathblog.com/
      ○ https://www.ixl.com/
      ○ https://pbskids.org/games/math/
      ○ Learn Zillion
      ○ i-Ready.com/AtHome
● Science
       ○ Ask Doug videos: https://mysteryscience.com/mini-lessons
● ELD
       ○ Online Books from Tumblebook Library
       ○ BrainPop ELL
       ○ https://www.learningchocolate.com/
● ELA
       ○ CommonLit
       ○ ELA/ELD: 3-5th Khan Beta https://www.khanacademy.org/ela
       ○ LearnZillion
       ○ ReadWriteThink
       ○ UnboundEd
       ○ i-Ready.com/AtHome
       ○ OpenLibrary
       ○ ManyBooks
● History-Social Science
       ○ Ted-ED Videos
       ○ SchoolYard Rap
● Physical Education
       ○ GoNoodle
       ○ Cosmic Kids
       ○ Open PhysEd
● Music
       ○ Classics for Kids
       ○ Carnegie Hall Activities
       ○ Dr. Selfridge Music
       ○ Chrome Music Lab
● Art
       ○ Art for Kids hub
● Counseling
        ○ Personal Social
             ■ Find resources
             ■ Anonymous options for calling and texting
        ○ College/ Career
             ■ California Career Resource Network

Grades 6-8
● Math - Online Math Help & Learning Resources
          ○ http://www.mrmathblog.com/
          ○ https://www.ixl.com/
          ○ https://www.desmos.com/
          ○ Learn Zillion
● ELD:
         ○ https://www.usalearns.org/
         ○ Learn English Teens
● Science
         ○ Amplify Science (students access through their San Juan Portal login)
         ○ https://www.khanacademy.org/
         ○ http://www.bozemanscience.com/
● World languages:
         ○ Practice tools:
             ■ Listening: FluentKey
             ■ Reading: Edji (to create reading practice after you select a reading, or click “Discover” to find and use readings that have already been created); Ideas for authentic materials from Fluent U
             ■ Writing: Padlet
             ■ Speaking: Seesaw or FlipGrid
● ELA
        ○ CommonLit
        ○ LearnZillion
        ○ ReadWriteThink
        ○ UnboundEd
        ○ OpenLibrary
        ○ ManyBooks
● History-Social Science
       ○ Ted-ED Videos
       ○ Digital Public Library of America (DPLA)
       ○ SchoolYard Rap
● Physical Education
        ○ GoNoodle (up to age 12)
        ○ Darebee Fitness Videos
● Music
        ○ Music Lessons
        ○ Dr. Selfridge Music
        ○ SmartMusic
        ○ Music Tech Teacher
● Art
        ○ The virtual instructor (sketchbook)
● Counseling
        ○ College career
               ■ Naviance- Available on student portal or staff log in.
Description of expanded free resources available in Naviance
               ■ California Career Resource Network
         ○ Personal Social
               ■ Find resources
               ■ Anonymous options for calling and texting

Grades 9-12
● Math - Online Math Help & Learning Resources
     ○ http://www.mrmathblog.com/
     ○ https://www.ixl.com/
     ○ https://www.desmos.com/
     ○ LearnZillion
● ELD:
      ○ https://www.usalearns.org/
      ○ Learn English Teens
● Science:
      ○ https://www.khanacademy.org/
      ○ http://www.bozemanscience.com/
● World Languages:
      ○ Practice tools:
          ■ Listening: FluentKey
          ■ Reading: Edji (to create reading practice after you select a reading, or click “Discover” to find and use readings that have already been created); Ideas for authentic materials from Fluent U
          ■ Writing: Padlet
          ■ Speaking: Seesaw or FlipGrid
ELA
      ○ CommonLit
      ○ LearnZillion
      ○ Jim Burke’s Digital Textbook
      ○ ReadWriteThink
      ○ UnboundEd
      ○ OpenLibrary
      ○ ManyBooks
● History-Social Science
      ○ Georgia Virtual Learning
      ○ Ted-ED Videos
      ○ Digital Public Library of America (DPLA)
      ○ SchoolYard Rap
● Physical Education
      ○ Darebee Fitness Videos
● Music
      ○ Music Lessons/ Music Theory
      ○ SmartMusic
      ○ Music Tech Teacher
● Art
      ○ The virtual instructor (sketchbook)
● Counseling
      ○ College/Career
            ■ Naviance- Available on student portal or staff log in.
Description of expanded free resources available in Naviance
            ■ California Career Resource Network
       ○ Personal Social
            ■ Find resources
            ■ Anonymous options for calling and texting



Other Resources


Instructional Materials and Glossaries (NY)

I. Free Online Courses Websites:

  1. https://www.coursera.org - Coursera provides universal access to the world’s best education, partnering with top universities and organizations to offer courses online.
  2. https://www.udacity.com - Free Online Courses & Nanodegree Programs
  3. http://ureddit.com - University of Reddit
  4. https://www.edx.org - EdX offers the highest quality courses from different institutions

II. World Languages Website / Ngoại Ngữ:
duolingo.com
memrise.com
livemocha.com
busuu.com
verbling.com

III. Math Website / Toán Học:
wolframalpha.com
projecteuler.net
mathrun.net

IV. Website lập trình:
codeacademy.com
learncodethehardway.com
net.tutsplus.com
htmldog.com
trypython.org

V. Other: Chuyển tiếng Việt thành không dấu.
http://tienich.bambu.vn/towiac.aspx



6. 8 Travel Grants and Fellowships for Educators


Covid-19 statistics information
Another good site to monitor this pandemic. Developed by a 17-year-old computer whiz from Seattle. It’s an interactive map to keep the world updated on the COVID-19 pandemic. The website has been visited by 12 million people since it was launched by Avi Schiffmann in December, according to The Times of Israel.

https://ncov2019.live/data

https://www.boredpanda.com/17-year-old-builds-website.../...

A few other sites worth visiting are mentioned in this article

https://thehill.com/.../487469-here-are-some-of-the-best...

Thơ Phạm Công Thiện

Tâm Thường Định tiễn tiền bối Phạm Công Thiện - Thư pháp: Uyên Nguyên

Thơ Phạm Công Thiện
Ngày Sanh Của Rắn 

I

tôi đi đông chìm
trời âm u thung lũng khô
nhiều mây chim bay không nổi
tôi đi
dưới kia sụp đổ
núi cấm nổ tôi ra
cửu long ca từ tây tạng
tôi về
tôi hiện
đèn tắt trời gió tắt trăng
chim lạ
kêu tiếng người
hố thẳm ra đời
tôi bay trên biển
II

tôi nằm cho rã chiếu cạp điều
nước chảy lên vùng phố tịch liêu
tôi nhớ một lần cây quế mọc
tôi đứng gọi hương trọn buổi chiều
III

mưa chiều thứ bảy tôi về muộn
cây khế đồi cao trổ hết bông
IV

trời mưa nữu ước cây mọc
nhớ hương trời mưa ngày tháng
nhớ hương đường hoang mái vắng
nữu ước chỉ còn hương trong giấc ngủ
tim anh tràn máu
con chim đã bay về rừng đạn
anh không còn làm tu sĩ
anh chỉ còn hương trong giấc ngủ
anh chỉ còn máu để đổ vào tim hương
đổ vào tám tách cà phê đen anh uống mỗi đêm
tại greenwich village
tại làng thi sĩ
tại đường khói bay
tại hương trong giấc ngủ
tại chiều ba mươi tết ở việt nam
bây giờ anh xa hương đến mấy đại dương xanh
mấy phương trời cỏ mọc
mấy phương trời hương khóc
hương còn ca hát
hương còn phơi áo giữa phố buồn
hương còn cười
mười năm rồi cây quế vẫn mọc trên đời anh
trên mắt anh
môi anh
trên bước chân buồn phố mẹ ngày xưa
trên bước chân chiều phố lạ hôm nay
mưa làm tóc anh thơm
mùi cây quế
giữa hồ
mọc giữa hồ quế hương
tóc anh mọc dài
che chở hương
lúc mưa rơi
lúc đông lạnh
lúc chim chiều đi mất
mưa trên phố đêm
trên quán cà phê ý đại lợi
trên chiến tranh
của quê hương
của quế hương
còn anh
V

rạng đông tôi xin thề thức dậy ba giờ sáng
đợi kinh đào chảy ngược
cửa nhỏ đóng kín
những chiếc cầu tuổi dại
mười sáu năm tôi thức trong đời
mười sáu con kinh đào không bao giờ chảy ngược
đứng ngang cầu pont-neuf
nhìn sông seine tôi thấy cửu long
paris đuổi mất mây mộng hoang đường
đập vỡ cơn điên trên triền đá sương
tôi trốn giặc đời
tắm trong hồn hương
trái đu đủ
trong khu vườn xưa
con rắn nhỏ
VI

tôi chấp chới
đắng giọng
giữa tháng ngày mơ mộng
nốt ruồi của hương
hay nốt ruồi của rigvéda
tôi mửa máu đen
trên nửa đêm paris
tôi giao cấu mặt trời sinh ra mặt trăng
tôi thủ dâm thượng đế sinh ra loài người
cho quế hương nằm ở nhà thương điên của trí nhớ
mặt trời có thai!
mặt trời có thai!
sinh cho tôi một đứa con trai mù mắt
VII

tôi nuốt nọc đen giữa đường guillaume apollinaire
từ xóm saint-germain-des-prés
mọc lên giáo đường hang động
cà phê biến hồn đầu thai
hoá thành một triệu con ma đen
nhảy múa trên núi lửa đầu tôi
tôi mặc đồ xanh
và mang đồng hồ da đen
tôi chứa chấp sáu ngọn lửa điên
trong sáu diêm quẹt còn rớt lại
tôi gọi hương và tôi chết giấc
tôi chạy lên trời làm rắn thâu đêm
máu đổ mưa đen
ồ cây mồng tơi
của thời trẻ dại
tôi gọi thầm
rắn cuộn tròn
tương lai
VIII

mười năm qua gió thổi đồi tây
tôi long đong theo bóng chim gầy
một sớm em về ru giấc ngủ
bông trời bay trắng cả rừng cây
gió thổi đồi tây hay đồi đông
hiu hắt quê hương bến cỏ hồng
trong mơ em vẫn còn bên cửa
tôi đứng trên đồi mây trổ bông
gió thổi đồi thu qua đồi thông
mưa hạ ly hương nước ngược dòng
tôi đau trong tiếng gà xơ xác
một sớm bông hồng nở cửa đông
IX

rắn trườn vỡ trứng chim rừng
tôi nghe tiếng hát hoang đường nửa đêm
khuya buồn tủi nhục môi em
mưa bay nhỏ nhẹ qua thềm bơ vơ
tiếng ru chín đỏ điện thờ
hoang vu tôi đứng đợi chờ chim kêu
tay còn ôm giữ tình yêu
tôi về phố động những chiều hư vô
đời đi trên những nấm mồ
đau tim em hát cơ hồ khăn tang
phố chiều tôi bước lang thang
nuôi con sông nhỏ mơ màng biển xanh
nửa đêm khói đốt đời anh
yêu em câm lặng khô cành thu đông
lời ca ru cạn dòng sông
trọn đời chạy trốn mống vồng cầu điên
bỏ mình nước chảy đồi tiên
theo con chim dại lạc miền thiên hương
về đâu thương những con đường
lê thê phố cũ nghe buồn hè xưa
X

mùa xuân bay thành khói
tôi ca hát một mình
suốt đời không biết nói
nước chảy tràn con kinh
quá khứ bay lên trời
biến thành cánh chim non
tôi quì hôn lá mới
đau khổ trắng linh hồn
hư không đổ ra khơi
kỷ niệm trôi qua cầu
bãi chiều chưa người tới
tình nhỏ quên từ lâu
xuân bay trắng núi đồi
tôi nằm ngủ mơ chim
bỗng hét lên trong tối
ngồi thức dậy bảy đêm
trời cuối năm gác trọ
đèn tắt suốt đêm dài
con chim mười năm nhỏ
bay về đậu nơi đây
hơi thở giết thời gian
bướm nằm chết thang lầu
tiếng chim ru ngày tháng
máu chảy về sông sâu
suốt đời không biết nói
tôi ngồi thức một mình
đốt thuốc lên nhìn khói
đêm rạng điềm hư linh
XI
tôi lái ô tô buýt giữa thành phố new york
mỗi ngày tôi lái ô tô buýt đi trên những con đường không người những con đường chim chết
những con đường của mỗi ngày
từ riverside drive đến broadway đến đại lộ thứ năm rồi đến washington square
công trường nghệ sĩ tóc bay hương hát
từ greenwich village tôi đi về chinatown
mười lăm xu mỗi chuyến
xa hay gần hay mau hay chậm
tôi vẫn lái cuộc đời tôi trên những con đường quen thuộc không mây
mùa lá hay mùa kèn nửa đêm
dong buồm thổi đến honolulu lặng gió
xa việt nam đà lạt và cà phê tùng cuối năm
tôi cúi đầu trong hầm cà phê figaro nữu ước
chuyến ô tô buýt của đời tôi vẫn chạy hoài
trên những con đường mỹ châu trống rỗng
chuyến xe không về harlem đói lửa
vì mỹ châu trống rỗng trên chuyến ô tô buýt chiều nay tóc bay hương khóc
tôi vẫn lái chuyến xe này đi về đêm tối
đêm tối nữu ước là đêm tối nhà xác
tôi đốt đèn cầy để nhìn xác tôi giữa nhà mồ mỹ châu lạnh lẽo mưa đen
đêm qua tôi thấy máu đổ trong hầm xe điện irt
giữa con đường 42nd hay times square
tôi thấy việt nam ngang tàng cho mặt trời vẫn mọc trên rắn lửa
trên mái ô tô buýt chiều thu
XII

buổi chiều mưa đụng tim
mưa đụng máu
đèn đường đổ xuống nước xanh
xin hét lên rừng u minh đầu đông
tử hình trong ngục
nhốt vào trong ngục
suốt đời trong ngục
khói vóc lửa núi
nhóm nước đầu thu
xin đừng nói
lá chuối
lá me non
xanh nhà thương
ngồi trong thành phố
hoa trắng không còn
con chó đứng nhìn xe lửa mỗi ngày
chùm hoa trắng rụng một hai bông rất nhỏ
bông trắng quá nhỏ
buổi chiều ích kỷ
con đường quá dài
những cây trắc bá chùi đầu lên nghĩa địa
một người hoạ sĩ thất tình
nhân loại đều thất tình
nói đi thật nhiều
khoai tây
lang thang ngược vòng những vũ trụ
anh nói gì
tôi không nghe
xuống phố và lên phố
chạy hun hút qua hai nghĩa địa
cây trắc bá
chôn vùi con chó nhà ga

Nguồn:tienve.org

Thơ Cho KhoảngTrống
(trong tập Trên tất cả đỉnh cao là lặng im)

Chim dồng dộc hong thơ trên cửa sài, gái thổ gài tổ chim trên lưng ngựa thồ.

Vùng núi cao thổ phồn sinh sôi nẩy nở phôi châu của ngút ngàn bông đậu tía.

Cơn giông tố rã rượi trên thiên đảnh tuyết sơn, hốt nhiên vùng dậy tung hoành, làm sụp ngã những cây tùng lạc diệp, và bao dong con chim dồng dộc hong thơ trên cửa sài. Tổ chim trên lưng ngựa thồ và rừng bông đậu tía tuyên chiến với tất cả ngôn ngữ loài người, phôi dựng khởi nguyên từ mút cùng cõi đất. Ban đầu là phôi châu, bông đậu tía bên cửa sài, tổ chim dồng dộc được gài trên lưng ngựa thồ của gái thổ, thiên đảnh thổ phồn, dông tố ban đầu, lạc diệp tùng sụp đổ từ mút cùng cõi đất. Ban đầu là phôi châu, thai mẹ, ngôn ngữ việt mường, tiếng nói thai tạng, cha, má, mẹ, mạ, cái, phôi châu bông đậu tía, bông trắng đậu hoà lan ở trước mặt bàn viết, gái thổ, đen và đẹp, gài tổ chim trên lưng ngựa thồ, thổ phồn, lan nhã ngút ngàn bông đậu tía. Ban đầu là giông tố nổi lên từ thiên đảnh tuyết sơn. Ban đầu là chim dồng dộc hong thơ trên cửa sài.

Gài tổ chim trên lưng ngựa!

Tuyên chiến với tất cả ngôn ngữ loài người!

…Mùa lúa chín vàng, chim dồng dộc bay về, luồng gió tuyết sơn thổi hiu hắt về nam phố.

Luồng gió rì rào trên thiên cấm sơn, từ núi cấm thổi về mỹ tho, rồi thổi về đà lạt. Mùa lúa chín vàng, chim dồng dộc bay về nam phố. Giông tố vùng vẫy trên thị trấn cũ ven sông cửu long, giông tố làm sụp đổ những cây sao trên đường phố và tuổi thơ trốn biệt từ mút cùng cõi đất.

Trở về thị trấn ven biển, đâu là hoài phố? Phố Hiến, Hội An, hoài phố, nỗi sầu lãng đãng trên ba trăm năm ở những vùng thị trấn ven biển của quê hương, những cửa sài của vùng lan nhã đất mẹ từ một ngàn năm trước, những con dê con trên vùng núi đầy chim dồng dộc. Ban đầu là dộng cửa sài của lãng sĩ tu hành ẩn dật trên non cao, dộng đầu té lọt vào rừng bông đậu tía, chim dồng dộc bay về mùa lúa chín, lạc diệp tùng sinh sôi nẩy nở, từ mút vùng cõi đất, dông tố thổi về nam phố. Ban đầu là hoài phố! hoài phố! Thị trấn buồn ven biển, ngút ngàn bông đậu tía.

Tuyên chiến với tất cả ngôn ngữ loài người!

Giông tố từ thiên đảnh tuyết sơn trở về bao dong tổ chim dồng dộc. Luồng gió buồn thổi về nam phố, những bông sao rụng trên con đường vắng, trời mưa lất phất, giàn đậu hoà lan trắng xoá, những con chim yểng học nói tiếng người, năm con dê con trên vùng núi đầy chim bói cá.

Người ta đã đốn những cây sao trên đường phố, và tuổi thơ sụp đổ. Giông tố thổi hiu hắt về nam phố. Mùa lúa chín vàng có sao phướn đi qua.

Sao phướn đi qua.

Và có tiếng đóng đinh vào cái quan tài nhỏ bé của tuổi thơ.

Tuổi thơ đem những hột lúa ra ngâm nước trên ngược dòng sông cửu long.

A! Lúa đã nứt mộng! Lô giang và triết sơn? (Lô sơn bảng lảng khói mưa, triết giang con nước triều đưa rạt rào? Sống chưa đến đó nghẹn đau, tới rồi về lại thấy nào khác xưa? Lô sơn bảng lảng khói mưa, triết giang con nước triều đưa rạt rào!) Ban đầu là Nứt mộng! Lúa vừa nứt mọng, khi chim dồng dộc bay về mùa lúa chín vàng và rừng bông đậu tía phất phơ gần bên thị trấn ven biển.

Luồng gió buồn từ tuyết sơn thổi hiu hắt về nam phố. Chim yểng bay đi và chim bói cá trở về trên mặt nước…

Ban đầu là?

Cơn sấm sét chấn động long vỡ cả trời đất.

Không! Sấm hãy còn trong lòng đất vùng núi tuyết sơn. Có người lạ đẽo gỗ trên rừng đậu tía.

Cả khu rừng đậu tía đã bị đẽo sạch, từ mút cùng cõi đất rã rượi, chim dồng dộc vụt bay về làm tổ. Một hạt phong châu bông đậu tía còn sót lại trong lông cổ vàng dợt chim nhỏ. Hạt phôi châu rớt giữa kẽ chân gái thổ, nường bước chậm rãi và giẫm chân đạp mạnh phôi châu lún xuống dưới bóng cây lạc diệp tùng và dương trở lại… dần dần hưng thịnh và nuôi dưỡng tổ chim dồng dộc sinh sôi nẩy nở ngút ngàn bông đậu tía.

Chim dồng dộc lại hong thơ trên cửa sài.

Người con gái thổ lại trở về gài tổ chim trên lưng ngựa thồ.

Mưa rừng cao tưới tắm trên đôi vú đen và đẹp.

Gái thổ bước ra và bước vào hang động tuyết sơn. Sau bảy ngày, ngựa thồ trở về đứng đợi bên giàn đậu hoà lan trắng xoá. Cửa ải thổ phồn đóng kín.

Và kẻ thương lữ không còn lên đường đẽo gỗ, và lãng sĩ ẩn dật núi cao không còn coi xét bốn phương, yên lặng nuôi dưỡng tổ chim dồng dộc phôi dựng trở lại ban đầu.

Gái thổ đi giữa rừng là đầy chim bói cá và trở lại một mình với lan nhã ngút ngàn bông đậu tía. Dê con vừa mới sinh ra đời.

Dộng đầu té lọt vào rừng bông đậu tía.

Luồng gió buồn thổi về nam phố, giông tố vùng dậy tung hoành trên những thị trấn ven biển.

Mùa lúa chín vàng có sao phướn đi qua. Sao phướn đi qua và có người lạ đóng đinh vào quan tài tuổi thơ.
Tuổi thơ ngâm lúa trên mặt nước cửu long. Nứt mộng! Gieo mạ trên vùng núi lô sơn, nhìn ngó nước triều Triết Giang rào rạt, và chim bói cá trở về thị trấn ven biển, hoài phố! Hoài phố! Thị trấn buồn ven biển, ngút ngàn bông đậu tía…

Tuyên chiến với tất cả ngôn ngữ loài người!

Mùa lúa chín vàng có sao phướn đi qua.

Sao phướn đi qua.

Chim dồng dộc hong thơ trên cửa sài.

Gái thổ, đen và đẹp, gài tổ chim trên lưng ngựa thồ. Luồng gió thét gào trên núi cấm. Tuổi thơ trốn biệt từ mút cùng cõi đất. Bầy chim bói cá sinh sôi nẩy nở.

Bông đậu hoà lan trắng xoá trên bàn.

Giông tố nổi lên từ thiên đảnh tuyết sơn.

Những bông sao rụng trên con đường vắng. Con chim yểng học nói tiếng người. Sau nỗi sầu lãng đãng trên ba trăm năm, có còn kẻ thương lữ nào trở lại phố hiến và hội an? Phố phường hoang vắng, có người lạ đóng đinh vào quan tài, và người đàn ông đã lìa bỏ hoài phố và đi đâu biệt tích. Mười năm tuyệt tích giang hồ.

Rồi trở về lại hà hơi trên tổ chim dồng dộc.

…Chim dồng dộc trở về hong thơ trên cửa sài, và gái thổ một mình trở lại gài tổ trên lưng ngựa thồ và luồng gió buồn vẫn thổi hiu hắt về nam phố…

Nguồn: thivien.net