Friday, May 29, 2020

Tuệ Sỹ: Người Tòng Quyền

Tuệ Sỹ: Người Tòng Quyền

Đỗ Thái Nhiên



Thầy Tuệ Sỹ (Ảnh tư liệu)
Mãi tới bây giờ tôi vẫn còn nhớ: Khoảng trung tuần tháng 6 năm 1979, trong khu C1 trại giam Phan Đăng Lưu, công an đã di chuyển tôi từ phòng IV qua phòng I. Theo phản ứng tự nhiên của một người tù, vừa bước chân vào phòng I/C1, tôi đảo mắt nhìn quanh mong tìm thấy một người tù có thể tin cậy được. Chỉ vài phút sau đó, tôi bị “bắt mắt” bởi một thanh niên trạc 40, dáng gầy, cao trung bình, đặc biệt đôi mắt của anh ta rất sáng, rất nhân từ, nhưng vô cùng cương nghị. Trong đôi mắt ấy, nhiều khi người ta tìm thấy một tin yêu tha thiết, nhưng cũng chính trong đôi mắt ấy nhiều khi người ta lại bắt gặp một dửng dưng trước mọi gian nguy của đời sống. Người tù có đôi mắt vừa nóng bỏng vừa lạnh lùng một cách kỳ lạ này chính là anh Tuệ Sỹ.
– Đúng như mong ước của tôi, tôi được Tuệ Sỹ đối xử như một người bạn thân. Tuệ Sỹ và tôi bằng tuổi nhau. Tuy vậy, Tuệ Sỹ có diện mạo trẻ hơn tôi rất nhiều nhờ mắt sáng, da mịn, hàm râu Ăng lê. (mỗi ba tháng công an cho tù mượn đao cạo râu một lần). Mặc dầu bằng tuổi nhau và Tuệ Sỹ trông trẻ hơn, tôi vẫn thường xuyên có cảm tưởng Tuệ Sỹ là bậc đàn anh của tôi. Phong cách ở tù của Tuệ Sỹ đã gây cho tôi có cảm tưởng này. Bạn tù cùng phòng không bao giờ thấy một thoáng xao động trên gương mặt của Tuệ Sỹ vào những ngày công an cho tù ăn cầm hơi để gây áp lực lấy khẩu cung. Bạn tù cùng phòng không bao giờ nghe Tuệ Sỹ ca tụng Phật giáo theo kiểu tôn giáo độc tôn mặc dầu rất nhiều khi Tuệ Sỹ giảng giải cho bạn tù nghe một cách rất uyên bác triết học Phật giáo. Bạn tù cùng phòng không bao giờ chứng kiến Tuệ Sỹ đã dính líu vào bất kỳ một vụ xích mích nào giữa tù với tù. Giả sử bạn là tín đồ quá khích của một tôn giáo nào đó, khi tiếp xúc với Tuệ Sỹ, bạn sẽ ngạc nhiên vì không tìm ra một mảy may ngăn cách nào về mặt tín ngưỡng giữa Tuệ Sỹ và bạn. Tuệ Sỹ sẽ làm cho bạn nhận biết thật rõ tính chất đồng điệu nổi bật nhất giữa bạn và Tuệ Sỹ, đó là lòng yêu nước thiết tha.
Sống cùng phòng với nhau gần một năm, sau đó Tuệ Sỹ và tôi phải chia tay để mỗi người lại tiếp tục nổi trôi theo “dòng tù”.
Giữa năm 1983, tình cở tôi gặp lại Tuệ Sỹ trên đường Trương Minh Giảng quận Ba Sài gòn. Tuệ Sỹ ân cần thăm hỏi tôi, đồng thời nhắc nhở tôi phải làm một cái gì đó trước cảnh lầm than của Việt Nam. Về phần mình, Tuệ Sỹ cho biết Phật giáo Việt Nam gắn chặt với những thăng trầm của dòng sống dân tộc từ trong quá khứ xa xăm của lịch sử, Phật giáo và Dân tộc thân thiết như bóng với hình. Vì vậy Tuệ Sỹ không thể do khiếp sợ cảnh tù ngục mà không dám tiếp tục băn khoăn về tương lai dân tộc. Kinh nghiệm ở tù cho tôi biết hầu hết thất bại của những tổ chức chống cộng tại nội địa tại Việt Nam đều bắt nguồn từ tình trạng hiểu biết về tình báo quá yếu kém. Tôi nói cho Tuệ Sỹ nghe kinh nghiệm vừa kể của tôi, Tuệ Sỹ nheo mắt nhìn tôi cười. Đó là lần sau cùng tôi gặp Tuệ Sỹ, Tháng 4 năm 1984 tôi nghe tin Tuệ Sỹ bị bắt lần thứ hai.
Ngày I2 tháng 10 năm 1988. Tin ghi nhận Tuệ Sỹ đã bị cộng sản kết án tử hình đã làm cho tôi vô cùng xúc động, mặc đầu tôi không ngạc nhiên, lòng yêu nước tha thiết và tính tự trọng cao độ của người đại-trí-thức trong Tuệ Sỹ khi va chạm với tập đoàn độc tài và ngu dốt kiểu cộng sản thì án tử hình chỉ là một hệ quả tất nhiên.
Dưới chế độ cộng sản, rất nhiều người chống cộng đã bị kết án tử hình. Nhưng với tôi, trường hợp Tuệ Sỹ là trường hợp làm tôi xúc động nhất.
Xúc động rằng: Trong thực tiễn đời sống cũng như trong lý luận xây dựng xã hội, quyền lợi dân tộc và quyền lợi của đảng cộng sản là hai thực thể biệt lập và đối lập.
Cộng sản Việt Nam từ rất lâu vận dụng toàn bộ guồng máy thông tin tuyên truyền của họ trong nỗ lực đồng hoá quyền lợi của cộng sản với quyền lợi của dân tộc là một. Án tử hình dành cho Tuệ Sỹ là một phản kháng bằng máu đối với nỗ lực đồng hoá vừa nói.
Xúc động rằng: Trường hợp của Tuệ Sỹ là một trường hợp tòng quyền can đảm và thảm sầu. Kinh là những nguyên tắc thuộc công bằng và lẽ phải có tính căn bản và bất biến. Nhân phẩm của một người được cân đo trên mức độ tôn trọng và bảo vệ kinh, gọi tắt là chấp kinh, của người này. Tuy nhiên giữa chốn thiên biến vạn hoá của sinh hoạt xã hội, hành vi chấp kinh càng ngày càng trở nên phức tạp. Trong rất nhiều hoàn cảnh chúng ta buộc phải tạm gác kinh này đề thực hiện kinh kia. Hành động như vừa kể có nghĩa là tòng quyền. Chúng ta tránh giết người có nghĩa là chúng ta chấp kinh, nhưng nếu chúng ta giết một người để cứu trăm người tức là chúng ta tòng quyềnKinh dạy chúng ta phải sống từ bi hỉ xả. Tuy nhiên đạo từ bi hỉ xả không thể phát triển giữa chiến trường đấu tranh giai cấp. Vì vậy muốn thực sự từ bi hỉ xả, người ta phải tìm cách giải tán đấu tranh giai cấp. Nói cách khác người ta phải tạm gác chấp kinh từ bi hỉ xả để tòng quyền giải tán đấu tranh giai cấp. Tuệ Sỹ, nhà đại trí thức Phật giáo đã nhận lãnh án tử hình trên con đường tòng quyền vừa kể. Vì vậy tôi gọi trường hợp tòng quyền của Tuệ Sỹ là trường hợp tòng quyền can đảm và thảm sầu.
Xúc động rằng: Từ rất lâu, nhất là sau 30.4.75 tại hải ngoại, người Việt Nam vẫn thường xuyên trong âm thầm và kiên nhẫn chờ đợi ở giới lãnh đạo Phật giáo một thái độ rõ rệt đối với cộng sản. Cuộc chờ đợi tưởng chừng phải kéo dài bất tận đã được đáp lại bằng án tử hình đối với Tuệ Sỹ, đáp lại bằng chính máu xương của một bậc chân tu, một nhà trí thức cao cấp, một thanh niên được xem như yêu tổ trọng yếu tạo thành linh hồn của Phật giáo Việt Nam tại quốc nội cũng như quốc ngoại. Kết án tử hình Tuệ Sỹ, cộng sản Việt Nam đã tạo điều kiện để người chí sĩ trẻ tuổi này xác quyết một cách ân cần và cảm động rằng: Phật giáo và Dân tộc như hình với bóng.
Vào lúc Dân tộc lâm nguy, Phật giáo không thể không chia sẻ sinh lực với Dân tộc. Đó là ý nghĩa của Chính Trực.
Do tâm lý hẹp hòi người ta thưởng dễ dàng khi chỉ trích và lưỡng lự khi ca tụng người khác. Riêng đối với Tuệ Sỹ tôi chỉ ngại không đủ ngôn từ hoặc thiếu bút pháp vững vàng trong việc tôn vinh Tuệ Sỹ. Tôn vinh Tuệ Sỹ không vì những tình cảm riêng tư giữa Tuệ Sỹ và tôi. Tôn vinh Tuệ Sỹ chính vì Tuệ Sỹ đã dùng nhiệt huyết của tuổi trẻ, trí thức của bậc học giả, uy tín của bậc chân tu đề diễn đạt liên hệ mật thiết giữa Dân tộc và Phật giáo. Lịch sử dân tộc trôi vào vùng đen tối, Phật giáo chấp nhận lao mình vào cõi đen tối đó bằng trọn vẹn ân tình, trọn vẹn tim óc và máu xương.
Chính giữa bức tranh kết hợp bởi những nét trọn vẹn vừa kể người ta thấy hiện ra thật sáng ngời: đôi mắt của Tuệ Sỹ, đôi mắt tưởng chừng như nóng bỏng, tưởng chừng như lạnh lùng…
Đỗ Thái Nhiên
(trích Hoa Sen, số 5, phát hành ngày 1.11, 1988) 

Thursday, May 28, 2020

Vĩnh Hảo: Lời Ca Của Gã Cùng Tử (Tuyển tập 100 Lá Thư Chủ Bút Nguyệt San Chánh Pháp)

Lời Ca Của Gã Cùng Tử 

(Tuyển tập 100 Lá Thư Chủ Bút Nguyệt San Chánh Pháp)

Vĩnh Hảo

LỜI CA CỦA GÃ CÙNG TỬTuyển tập 100 Lá Thư Chủ Bút Nguyệt San Chánh Pháp
Biên Soạn: Vĩnh Hảo
Hương Tích Phật Việt xuất bản, 2020.
Bìa: Uyên Nguyên
Trình bày và layout: Nhuận Pháp và Tâm Thường Định
Copyright © 2020 Vĩnh Hảo, Hương Tích Phật Việt.
ISBN: 9798644156986
All rights reserved.
___________________

Tựa

Biết mình là cùng tử, biết mình có viên ngọc trong chéo áo, thì không còn là cùng tử.
Không còn là cùng tử thì không còn lang thang.
Nhưng lang thang, một khi không phải là hệ lụy từ vô minh vọng tưởng thì lang thang trở thành tất yếu.
Lên đường đi đâu, về đâu? Ai vạch, ai vẽ nên con đường ấy?
Nếu mọi con đường đều từ tâm khởi thì con đường nào cũng vô tận.
Khổ đau bất tận, thúc bách khát vọng tìm cầu hạnh phúc, cũng bất tận; và cặp đôi này luôn dẫn vào những mê lộ thăm thẳm vô biên.
Không có đích đến cho những truy cầu, vọng tưởng.
Những nơi tạm dừng hay ở lại lâu dài cũng không phải là đích đến.
Thế nên, cuộc lên đường của cùng tử không phải là những bước chân giang hồ lang bạt của một kẻ nghèo cùng khốn khổ, mà là cuộc du hành của một kẻ rất ư tự tin, giàu có. Có thể gọi cuộc rong chơi này là du- hí tam-muội.
Dừng lại là thể; rong chơi là dụng.
Diệu dụng của mọi cuộc rong chơi chính là ba-la-mật.
Trăm lời ca hay ngàn lời ca cũng đều là tiếng vọng của một kẻ lãng du đi qua trần gian mộng huyễn, như gió đùa qua nước. Gió đôi khi cuồng nộ như giông bão, nhưng thường khi chỉ là những thoáng nhẹ vi vu, không dấu vết, để lại đôi vòng sóng lan man, gợn trên mặt hồ tĩnh lặng.
Ngày xa quê nơi quê xa
Vĩnh Hảo

Tự Do Khỏi Tự Ngã

Thư tòa soạn số 52, tháng 03.2016
Những ngày Tết rộn ràng trôi qua thật nhanh; nhưng hoa xuân vẫn trên cành. Buổi sáng nơi vườn ríu rít tiếng chim. Cành mai chưa kịp ra hoa; các nụ vừa chớm, mũm mĩm vươn lên từ những chồi lá xanh mướt; trong khi hoa đào thì khiêm nhường khoe sắc hồng tía nơi một góc hiên. Các nhánh phong lan kiêu sa nhè nhẹ đong đưa theo làn gió sớm. Bầu trời xanh biếc không gợn mây. Lòng bình yên, không muộn phiền…
Người ta vẫn thường cho rằng văn minh là tiến bộ, là đi tới. Dừng lại hoặc đi lui thì không văn minh. Thực ra, càng tiến bộ, con người càng tăng thêm nhiều nhu cầu; càng nhiều nhu cầu, càng tăng thêm nhiều gánh nặng và trói buộc.
Hãy tạm gác qua một bên định nghĩa điển chương của chữ văn minh (civilization) như là đỉnh cao thành tựu của một nền văn hóa (dân tộc hay nhân loại) trong một giai kỳ nào đó. Hãy nói về nền văn minh của con người trong ý nghĩa là thành tựu mục tiêu (hay ước vọng) đem lại phúc lạc thực sự cho mình, cho người, một cách bình an.
Trong ý nghĩa đó, nhân loại ngày nay quả thực là không có văn minh: kêu gọi tự do cho mình mà lại tước đoạt tự do của người; xóa bỏ giai cấp bằng đấu tranh giai cấp; muốn bình đẳng nhưng lại đối xử phân biệt (giới tính, chủng tộc, tôn giáo, đảng phái); chống độc tài mà lại muốn độc quyền độc tôn; nâng đỡ, ủng hộ những người này bằng cách cướp đoạt, đày đọa những người khác; mưu cầu hòa bình bằng khởi động chiến tranh… Chúng ta, loài người tân tiến, loay hoay đi tìm sự bình an bằng những phương tiện bất an; tìm hạnh phúc bằng con đường đau khổ.
Cho nên, không phải cứ nhắm mắt bước tới, bước lên, là văn minh. Có khi cần phải dừng lại. Có khi cần phải bước lui.
Dừng lại những manh động của tự ngã: hành động, lời nói và ý nghĩ nào nhằm tư lợi, vinh danh cá nhân (dù bằng hình thức tinh vi nhẹ nhàng nhất), đều không phải văn minh; ngược lại, chúng là đầu mối cho những xung đột, mâu thuẫn, làm rối loạn xã hội.
Bước lui để tự kiểm và tránh xa sự nuôi lớn bản ngã: tự hào, tự mãn, tự cao, tự tôn… đều là những biểu hiện lộ liễu và lố bịch của con người trước những thành công lớn hay nhỏ trong cuộc sống; đặc biệt là đối với danh vọng—nó thường cho người ta ảo tưởng về sự vượt trội và vĩ đại. Hào quang danh vọng luôn làm mờ mắt và choáng ngộp những ai bước lên đỉnh cao (nơi họ nghĩ là tột cùng)—mà không tự biết rằng nơi ấy thường khi lại là chỗ xuất phát cho tiến trình sa đọa, đi xuống.
Có người sẽ hỏi, bằng hình ảnh cụ thể, một kẻ đã lên đến đỉnh đồi rồi thì đi đâu nữa? – Câu trả lời thông thường là người ta có khuynh hướng đi quanh, hoặc đi xuống.
Thực ra vẫn còn một lối đi cho kẻ chạm đến đỉnh đồi, đó là bước vào khoảng không. Có thể mượn lời của Thiền sư Cảnh Sầm mà nói rằng “Bách trượng can đầu tu tiến bộ,” nghĩa là đứng trên đầu sào trăm trượng, vẫn nên bước thêm bước nữa. Bước vào hư không.
Đó không phải là con đường của mọi người. Cũng không phải là con đường dẫn đến văn minh vật chất, hữu thể.
Đó là con đường của kẻ thiên lý độc hành; là con đường siêu tuyệt vượt lên tất cả mọi nền văn minh, vượt qua tất cả mọi trói buộc của tự ngã, vượt qua cả sự vượt qua, đạt đến tự do tuyệt đối (mà kỳ thực cũng chẳng có gì để vượt qua hay đạt đến).
Chỉ có những gì rất thực và rất thường ở nơi này. Bầu trời không mây, tím sẫm. Đêm bình yên trong tiếng gió, nhẹ khua chiếc phong linh, và những giò lan âm thầm tỏa hương. Trăng đầu mùa lừng lững lên cao. Lòng bình yên, thong thả châm trà.
California, ngày 27.02.2016

Wednesday, May 27, 2020

Hải Triều Âm: Lời Vào Tập cho “Kỷ yếu Tang Lễ Đại Lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang”

Hải Triều Âm: Lời Vào Tập cho “Kỷ yếu Tang Lễ Đại Lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang”

Bảo Tháp Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang trong khuôn viên Tu viện Nguyên Thiều
(Tâm Quang Vĩnh Hảo chấp bút theo yêu cầu của Ban Biên Tập Hải Triều Âm)
 Khi một thiền tăng nằm xuống, giới nhà thiền gọi riêng sự kiện này một cách tôn kính là “viên tịch” hoặc “thị tịch”, hàm nghĩa rằng sự ra đi chỉ là hoàn thành sứ mệnh của mình đối với thế gian, trở về với nơi tịch diệt niết-bàn; và đến hay đi, nhập hay xuất, nơi cõi ta-bà này cũng chỉ là phương tiện quyền biến của một lữ khách mà thôi, thực sự không có sinh tử trong cõi đời mộng huyễn.
Trong ý nghĩa cao viễn ấy, sự viên tịch chính là một hành tướng của giải thoát, tự tại; và chính vì giải thoát, tự tại, dấu chân của thiền tăng là vô tích, hành trạng của thiền tăng là vô hành. Những gì cần lưu dấu, khắc ghi để noi gương hoặc giữ làm kỷ niệm là của người ở lại.
Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang, Tăng Thống GHPGVNTN, đã thị hiện và thị tịch nơi cõi đời này 89 năm, với 71 hạ lạp (theo tiểu sử, ngài thọ cụ túc giới năm 18 tuổi, không phải 20 tuổi như qui chế đàn giới qui định). Suốt một đời tận tụy hoằng pháp, hành đạo, gánh vác việc giáo hội, ngài đã trải không biết bao nhiêu là khổ nhọc, gian truân, tân toan lo nghĩ và dấn thân gầy dựng một tương lai tốt đẹp cho Đạo pháp, và cho Dân tộc. Nhưng những hoàn cảnh khổ nhọc gian truân ấy, đối với tâm thái của một thiền tăng, chỉ là hình sắc bên ngoài, chỉ là hoa đốm hư không; và đối với thời gian thực tế của đời ngài thì chỉ là một phần nhỏ. Một tù nhân không biết làm gì khi bị giam nhốt sẽ cảm thấy thời gian ở tù của mình là uổng phí, vô vị; còn đối với ngài, thời gian ở tù hoặc bị quản thúc, chẳng qua là thời gian tạm ngừng nghỉ một số Phật sự nào đó, nhưng việc hành trì, nhiếp chúng không gián đoạn; và nhìn một cách lạc quan, có thể nói chính thời gian này là thời gian ngài làm được nhiều việc nhất. Ngồi một chỗ mà có thể cứu độ, cảm hóa vô số chúng sanh, tạo vô biên công đức. Những gì ngài làm, nói, và nghĩ, cũng như tâm hành tự tại thênh thang của ngài thì không làm sao ghi hết được. Nếu cố gắng cô đọng trong một bài viết hoặc tiểu sử, cũng chỉ phác thảo được một vài nét chính. Mà những nét gọi là “chính” ấy, hẳn là không thể nêu bật được cuộc đời và phẩm cách một bậc long tượng hàng đầu của Phật giáo Việt Nam đương đại, nếu người soạn viết chỉ khai thác những khía cạnh nhỏ và thứ yếu trong toàn cảnh bức tranh đời ngài.
Hình trái: Quang cảnh Lễ Nhập Tháp của Đức Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN,
Tỳ Kheo Thích Huyền Quang
Hình phải: Hòa Thượng Thích Quảng Độ trong tang lễ
Đức Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang
(Ảnh tư liệu Quangduc.com)
Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang viên tịch ngày 05 tháng 7 năm 2008 (nhằm ngày mùng 3 tháng 6 năm Mậu Tý), đến nay đã tròn một tháng. Trong những ngày qua, Tăng Ni và Phật tử của nhiều giáo hội, tổ chức, tự viện, từ trong nước đến hải ngoại, đã cử hành lễ tang, lễ tưởng niệm và thọ tang ngài một cách tôn kính, long trọng. Tang lễ diễn ra tại Tu viện Nguyên Thiều, theo như tin tức và hình ảnh cho thấy, thật là trang nghiêm, trọng thể, dù đã có chủ ý tổ chức đơn giản, “vô tướng.” Hơn 1000 Tăng Ni và 2000 đoàn viên GĐPT, cùng với hàng ngàn thiện tín nam nữ khác đã tham dự tang lễ cho thấy niềm kính tiếc của Phật giáo đồ đối với ngài như thế nào.
Nhiều báo chí, trang nhà điện toán, đài truyền thanh và truyền hình, cũng đã nhắc đến tên ngài, hoặc đưa thông tin về tang lễ (trong nước) và các buổi lễ tưởng niệm ở khắp nơi. Đặc biệt ở hải ngoại, tin tức về lễ tang và lễ tưởng niệm ngài rất đầy đủ, được thông tin từ nhiều nguồn khác nhau: Phật giáo, các giáo hội khác nhau, các tôn giáo bạn, các tổ chức và hội đoàn chính trị, các cơ quan truyền thông… (lược bớt một đoạn) Một số các lễ “tưởng nguyện” ngài, người tham dự được nghe sự vinh danh ca tụng tinh thần yêu nước, đấu tranh chống cộng sản,… được nghe ban tổ chức công khai gièm pha chỉ trích Tăng Ni và các lễ tưởng niệm cử hành ở những chùa khác… nhiều hơn là nghe về đạo nghiệp và phẩm cách cao đẹp của một bậc tôn giả[1] chốn Không môn.
Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ trước Linh Đài Đức Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN,
Tỳ Kheo Thích Huyền Quang tại tu viện Nguyên Thiều
Thứ Ba 8-7-2008 (Ảnh tư liệu Nhuận Pháp)
Trước tình trạng như vậy, chúng tôi cảm thấy có trách nhiệm thực hiện tập tài liệu này để sưu tập một số văn kiện, tin tức, hình ảnh, văn thơ điếu, khả dĩ nêu bật được công hạnh kỳ vĩ của Đại lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang. Một vài bài viết điển hình do ngài trước tác trước và sau năm 1975 cũng được trích dẫn ở đây để thấy tính cách nhất quán trong đường hướng, hoài bão và tâm nguyện của ngài đối với Phật giáo và dân tộc. Một số văn kiện được ban hành từ Viện Tăng Thống do ngài ấn ký trước khi có giáo chỉ số 2 và số 9 cũng thể hiện lòng từ bi, khoan dung và cởi mở của ngài đối với tha nhân, bao gồm những người đồng đạo, khác đạo, và ngay cả những người bất thiện cố ý triệt hạ Phật giáo, hoặc tổn hại đến giáo hội và các thành viên do ngài lãnh đạo. Một tập kỷ yếu về ngài đầy đủ hơn, hy vọng sẽ được môn đồ pháp quyến thực hiện trong những năm tháng tới. Riêng sưu tập này, với thời gian ngắn để hoàn thành, chúng tôi chỉ ghi nhận những tài liệu nào có trong tầm tay. Những lễ tưởng niệm, thọ tang, văn kiện và sự việc nào liên quan đến sự viên tịch của Đại lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang mà không có trong sưu tập, có thể vì một trong những lý do sau đây:
  • nơi tổ chức không viết tường thuật, không chụp ảnh, cũng không phổ biến tin tức về buổi lễ;
  • nơi tổ chức có thông tin về buổi lễ nhưng không cung cấp cho ban biên tập chúng tôi;
  • nơi tổ chức quá thiên về hình thức hành chánh mà không chú trọng nội dung: lễ thọ tang Đức Tăng Thống mà chỉ lo tố cáo, chỉ trích cá nhân hoặc tổ chức khác;
  • nơi tổ chức có vẻ nặng không khí chính trị, ân cần tiếp đón thỉnh mời chính khách và Tăng Ni ngoại quốc để tô phồng ảnh hưởng quốc tế không thực có mà không quan tâm đến thực thể Tăng Ni và Phật tử Việt Nam.
Sau cùng, xin thưa rằng tập tài liệu này sẽ không sao tránh khỏi những thiếu sót, rất mong sự bổ khuyết của chư tôn đức Tăng Ni và Phật tử gần xa, để nếu có điều kiện tái bản, sẽ được hoàn chỉnh hơn.
Ước mong tập tài liệu nhỏ này có thể gửi đến chư tôn đức Tăng Ni và Phật tử khắp nơi biểu tượng Huyền Quang, như một bậc tôn giả của Phật giáo Việt Nam, và như một đại sĩ hiện thân nơi cõi ta-bà khổ não này.
Với ước mong đó, chúng tôi cung kính đảnh lễ cúng dường giác linh ngài, và xin thành tâm dâng tặng tiểu phẩm này đến liệt quí vị.
Ngày 05 tháng 8 năm 2008
Ban Biên Tập Hải Triều Âm
_____________________________________________
[1] Chữ dùng của Đại lão Hòa Thượng Thích Trí Quang trang trọng tôn xưng Đại lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang trong bức liễn điếu gửi đến Tu viện Nguyên Thiều. Chữ này chỉ dành để gọi những bậc thượng thủ đáng tôn quí, đáng xưng tụng và qui ngưỡng trong Tăng đoàn.

_______________________
BÌNH ĐỊNH (trích Việt Báo Thứ Tư, 7/9/2008) — Theo tin VB, các huynh trưởng Gia Đình Phật Tử đã dựng lên nhiều lều để làm chỗ đón nhiều ngàn tăng ni Phật Tử , và thay nhau đứng bếp suốt 24 giờ mỗi ngày để cung cấp lương thực cho các đợt Phật Tử tới dự tang lễ cố Đaị Lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang, Đức Tăng Thống của GHPGVNTN. Nhiều vị tôn túc nổi tiếng trong giới học thuật của Tu Viện Quảng Hương Già Lam cũng đã từ Sài Gòn khẩn cấp tới dự lễ tang, trong khi nhiều vị tôn đức khác từ nhiều tỉnh cũng tới thọ tang.
Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ đã có mặt tại Tu Viện Nguyên Thiều hôm Thứ Ba 8-7-2008 để cầu nguyện cho hương linh ngài Huyền Quang. Thượng Tọa Thích Thanh Huyền (cũng từ Già Lam) đã có mặt từ nhiều ngày trước, và đã đích thân tham dự lễ nhập quan cho ngài Huyền Quang.
Các đơn vị Gia Đình Phật Tử mặc đồng phục thay nhau giữ gìn trật tự. Các huynh trưởng mang băng trật tự đứng từ ngã ba Diêu Trì (lối vào Tu Viện Nguyên Thiều) dọc theo nhiều cây số tới cổng để đón, chỉ dẫn lối đi cho Phật Tử bằng nhiều phương tiện giao thông tới dự tang lễ.
Người đông tới tiếp đón tất bật. Tất cả các lều của các đơn vị Gia Đình Phật Tử Bình Định đều được trưng dụng khẩn cấp để dựng lên tiếp đón. Các anh chị huynh trưởng Gia Đình Phật Tử đứng nấu bếp 24 giờ thay nhau để lúc nào cũng có nước sôi và thức ăn cho người tham dự. Lương thực thực phẩm địa phương không cung ứng kịp. Các huynh trưởng phải đặt mua xa, từ Nha Trang. (…)
Cũng hôm Thứ Ba, các Dân Biểu Liên Bang Loretta Sanchez (Dân Chủ), Dân Biểu Zoe Lofgren (Dân Chủ) và Dân Biểu Tom Davis (Cộng Hòa) đã cùng ký tên trong một lá thư phân ưu đến với Hòa Thượng Thích Quảng Độ và đồng bào phật tử của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong và ngoài nước về việc viên tịch của Đức Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang.
Bản văn của 3 dân biểu ca ngợi “Đại Lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang là người khiêm tốn đầy lòng yêu thương đã dâng hiến cuộc đời ông để đứng lên cùng chính nghĩa tranh đấu cho tự do tôn giáo và nhân quyền cho người dân Việt Nam.
“Ngài là biểu tượng cho phong trào đấu tranh ôn hòa cho tự do tôn giáo và nhân quyền của người dân Việt Nam. Chúng tôi biết hơn 3 thập niên qua, Đại Lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang đã bị bị quản thúc tại thiền viện vì đã kiên trì đấu tranh cho tự do tôn giáo và nhân quyền bất chấp các cấm cản. Chúng tôi chắc sự cố gắng suốt đời của Đức Tăng Thống sẽ không bị oan uổng và mong rằng nhà cầm quyền Việt Nam sớm thừa nhận và kính trọng quyền tự do tôn giáo.
“Chúng tôi cũng được biết nhà cầm quyền Việt Nam đang cố gắng hạn chế Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong công việc tổ chức tang lễ cho Đức Tăng Thống Thích Huyền Quang theo như truyền thống và ý nguyện của Giáo Hội. Một lần nữa, chúng tôi xin chân thành bày tỏ lòng thương tiếc và gởi lời thành kính phân ưu đến với Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong thời gian khó khăn này. Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến quyền tự do tính ngưỡng và độc lập của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và quyền tự tuyển cử Đức Tăng Thống thừa kế Đại Lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang.
“Chúng tôi hiểu rõ tình trạng đàn áp tự do tôn giáo và nhân quyền vẫn tiếp tục xãy ra tại Việt Nam. Chúng tôi sẽ luôn cố gắng làm việc cùng các đồng nghiệp và cộng đồng thế giới để nói lên tình trạng đàn áp tự do tôn giáo và nhân quyền tại Việt Nam.”
Bản văn của 3 dân biểu cũng gửi chung cho Đại Sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ, Lê Công Phụng; Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, Michael Michalak.
Đặc biệt, bản Điếu Văn của Ban Hướng Dẫn Trung Ương Gia Đình Phật Tử đã do đại diện quý huynh trưởng đọc trứơc linh quang của cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang hôm Thứ Ba.
Trong tấm ảnh mà Việt Báo nhận được từ quý huynh trưởng, cho thấy quý huynh trưởng đang quỳ đọc trứơc linh quan, và đứng trứơc là Thượng Tọa Thích?Minh Tuấn (môn đồ pháp quyến).

Phụ bản  toàn văn bản Điếu Văn của GĐPT Việt Nam
PHỤC BÁI THƯỢNG VĂN
Của BHDTƯ TRONG LỄ TƯỞNG NIỆM ĐỨC ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG
Thượng HUYỀN hạ QUANG – ĐỆ TỨ TĂNG THỐNG GHPGVNTN
***
Sông Côn sóng cuộn,
Đỉnh Thái mây vần;
Bốn nghìn năm non nước lặng chuông ngân,
Suốt nghìn dặm hoa vàng in ngấn lệ,
Rừng thông bóng ngả, chợt lênh đênh dép cỏ rêu mờ,
Canh mộng đèn lu, nghe lạnh buốt nhà Lam mưa rủ.
Đường đời vinh nhục, không nhạt màu son,
Vận nước thăng trầm, dễ mòn nẽo Đạo.
Giữa lúc thuyền Chánh Pháp vượt ngàn thác lũ,
Ánh Hùng Tinh lịm tắt bờ Tây;
Đàn chim dại bơ vơ, cội Bồ Đề lá rụng.
Chúng con tòan thể Lam viên khắp mọi miền thế giới,
Từ tận cùng hải đảo xa xôi,
Hoặc hiện tiền, hoặc xa cách,
Hết thảy đồng quy tâm về trú xứ Nguyên Thiều,
Đồng phủ phục dưới bóng Linh đài,
Chí thành kỉnh niệm Giác Linh xưa,
Gia phong truyền nếp, tín nguyện túc căn.
Giang sơn Bình Định kết thái anh hoa;
Nhân kiệt địa linh ươm mầm Thánh chủng.
Tuổi đồng chơn cát ái từ thân, nhẹ gót siêu phương.
Đường Bắc Nam xuyên suốt dặm trường,
Mười bốn năm theo Thầy học đạo.
Giữa lúc nhân tâm thế đạo ngửa nghiêng,
Đất nước ngập tràn máu lệ,
Quê hương nô dịch ngọai bang;
Gío Tây điên đảo, tà thuyết hòanh hành;
Chín năm ròng lặn lội hiểm nguy, vào tù ra khám,
Mong manh chiếc áo nâu sòng mà đương cự cuồng phong, dương cao Chánh Lý. Khi đất nước qua phân, củi đậu nấu đậu,
Mà nước sông Côn chưa cạn tình người;
Sừng sững Trường Sơn,
Bóng rập phương trời khói hận.
Sân chùa nắng đỏ, đỉnh tháp sương in;
Ánh đèn khuya soi lối cửa tùng,
Hồn dân tộc rạng ngời Bắc đẩu.
Ba mươi năm vật đổi sao dời,
Bền nguyện cả dẫu lênh đênh chìm nổi.
Cửa Thiền bổng rộn ràng khóa lợi,
Đèn Tổ chong leo lét Tăng luân.
Đường Bắc Nam một dải sơn hà,
Tình nhân thế chập chờn phản phúc.
Thị phi không đầu mối,
Nhân nghĩa khớp dàm danh.
Bóng xuất trần nặng trĩu gánh nhân sinh,
Gương đạo lý phôi pha màu thế lụy.
Người về đâu, muôn dặm thân cô,
Cắm gậy trúc vững nền Đạo thống.
Đi về đâu, nghìn nhà một bát,
Quải nạp y ấp ủ hương Nguyền.
Bánh xe Hóa đạo xoay vần theo quỹ đạo Nhật thân,
Bĩnh pháp truyền đăng
Giữ gìn lưu truyền Thánh sử.
Nghìn năm Huyền sữ, đêm âm u bởi lạc hướng văn minh.
Một lớp thiêu thân, gió dập dồn theo lửa đèn hư huyễn.
Đầu đường xó chợ lác nhác trẻ thơ,
Quán rượu phòng trà quay cuồng niên thiếu.
Để đưa đàn nai qua rừng an ổn,
Tránh xa cạm bẩy yêu ma;
Chúng con nương nhờ đức Cả, tựa bóng sông chùa,
Dọn vườn Lam tiếp đãi hậu sinh,
Lắng nước Tuệ ươm mầm chánh tín.
Những cánh chim non đã tung bay khắp bốn phương trới,
Bằng BI TRÍ DŨNG mà vượt ngàn giông bão.
Kỳ diệu thay! Chúng sanh ngiệp cảm bất khả tư nghì;
Gốc cổ thụ nghìn tầm sừng sững.
Rồi một sớm, cỗng nhà Thiền chợt khóa nẻo vườn Lam,
Đàn Oanh vũ xua bay tứ tán.
Từ ly lọan nghe ẩn tình thâm thiết,
Lướt phong ba nên chí nguyện kiên cường.
Trên trời cao ngự án mây Từ,
Cho cỏ dại vươn cao, dù nắng mưa bãp táp.
Ô hô ai tai!
Dòng sanh diệt sát na khônh đình trú,
Cõi vô thường một thóang sương mai.
Bến Kim Hà rụng cánh hoa Đàm,
Miền đất khổ nghẹn lời Di huấn.
Kể từ đây, đường về cõi Tịnh, bóng ẩn hoa vàng;
Lối cỏ Nguyên Thiều, rêu mờ gậy trúc.
Biển Đông vang dậy muôn lớp sóng triều,
Cánh hạc ngút ngàn phương trời thăm thẳm.
Bóng Thầy lồng lộng,
Đi về tự tại đường mây;
Lênh đênh một chiếc thuyền Lam,
Mù mịt ba nghìn thế giới.
Còn đây vẳng lời Thầy dạy,
Mênh mông bể khổ, bất khà nại hà.
Chốn Ta Bà ô trược,
Chúng con nguyền không quản chông gai;
Đời nhân ngã thị phi,
Còn đức nhẫn nên sáng màu đạo nghĩa.
Ô hô, phục vọng Giác Linh tiền.
Quý huynh trưởng đang quỳ đọc trước linh quan hôm Thứ Ba 8-7-2008,
và đứng trước là Thượng Tọa Thích Minh Tuấn (môn đồ pháp quyến)
tại Tu Viện Nguyên Thiều, Bình Định.

Nguyên Giác: Vô Tướng Tam Muội

Vô Tướng Tam Muội
Nguyên Giác

Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay. Lời Đức Phật và chư tổ truyền dạy sẽ được trình bày một cách thực dụng nơi đây, hy vọng làm cửa vào cho nhiều độc giả. Bài viết phần lớn sẽ dựa vào kinh luận, vì bản thân người viết không có thẩm quyền nào. 
Đức Phật đã dạy đường vào giải thoát có nhiều cửa, không phải chỉ một. Học nhân thời nay, đặc biệt là tại Tây Phương, không chú ý nhiều về Vô Tướng Tam Muội, nhưng đây lại là một cửa vào giải thoát phổ biến trong Thiền Tông Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bản, và Đại Hàn. Có thể tóm tắt pháp môn này là, “Không hề có một pháp nào để làm.” Bởi vì phải thấy ngay rằng không hề có một chỗ nào trong tâm để bấu víu.

Kinh Trường A Hàm DA 12 nói về nhiều pháp dẫn tới Niết Bàn, bản dịch của Thầy Tuệ Sỹ và Thầy Đức Thắng, trích:
Thế nào là một pháp dẫn đến Niết-bàn? Thường tinh cần tu niệm xứ về thân. Đó là một pháp dẫn đến Niết-bàn. (...)
“Thế nào là hai pháp dẫn đến Niết-bàn? Chỉ và quán.(...)
“Thế nào là ba pháp dẫn đến Niết-bàn? Ba tam-muội: không tam-muội, vô tướng tam-muội, vô nguyện tam-muội.(...)
“Thế nào là bốn pháp dẫn đến Niết-bàn? Bốn niệm xứ: thân niệm xứ, thọ niệm xứ, tâm niệm xứ, pháp niệm xứ.(...)
“Thế nào là năm pháp dẫn đến Niết-bàn? Năm căn: tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn.(...)
“Thế nào là sáu pháp dẫn đến Niết-bàn? Sáu tư niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm thí, niệm giới, niệm thiên.(...)
“Thế nào là bảy pháp dẫn đến Niết-bàn? Bảy giác chi: niệm giác chi, trạch pháp giác chi, tinh tấn giác chi, khinh an giác chi, định giác chi, hỷ giác chi, xả giác chi.(...)
“Thế nào là tám pháp dẫn đến Niết-bàn? Tám Hiền Thánh đạo: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.(...)
“Thế nào là chín pháp dẫn đến Niết-bàn? Chín thiện pháp: 1. hỷ, 2. ái, 3. duyệt, 4. lạc, 5. định, 6. thật tri, 7. trừ xả, 8. vô dục, 9. giải thoát.(...)
“Thế nào là mười pháp dẫn đến Niết-bàn? Mười trực đạo: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, chánh giải thoát, chánh trí...” (1)
Pháp môn Vô Tướng Tam Muội như thế tương thông với Không Tam Muội và Vô Nguyện Tam Muội.

Bởi vì vào cửa bằng vô tướng, cho nên có khi quý ngài tự ngờ vực dù là đã đạt được pháp định vô tướng, thấy tâm không dao động (xa lìa các đợt sóng vọt lên, chìm xuống trong tâm), có khi giải thoát (thấy tâm lúc đó lìa tham sân si) rồi mới an trụ (sau mới thấy định), và có khi theo chiều ngược lại. Kinh Phật kể về một vị tỳ kheo đạt được vô tướng tam muội, mới đi tìm ngài Anan (một trí nhớ kho tàng kinh điển, một thư viện sống) để hỏi, nhưng tới gần ngài Anan tới 6 năm mới mở miệng hỏi. Kinh không giải thích vì sao vị này chờ 6 năm mới hỏi.
Kinh Tạp A Hàm SA 558, bản dịch của hai Thầy Tuệ Sỹ, Đức Thắng viết, trích:
Lúc bấy giờ, có một Tỳ-kheo kia đạt được vô tướng tâm tam-muội, nghĩ rằng: “Ta hãy đến chỗ Tôn giả A-nan, hỏi Tôn giả, nếu Tỳ-kheo đạt được vô tướng tâm tam-muội, không vọt lên, không chìm xuống, sau khi giải thoát rồi an trụ, sau khi an trụ rồi giải thoát; thưa Tôn giả A-nan, Thế Tôn dạy nó là quả gì, công đức gì? Nếu Tôn giả A-nan hỏi ta: ‘Tỳ-kheo, ông đã đạt vô tướng tâm tam-muội này phải không? Đáp, tôi chưa từng có’. Hỏi thật mà đáp khác đi. Ta sẽ theo sát Tôn giả A-nan, hoặc giả có người khác hỏi nghĩa này, nhờ đó mà ta được nghe.”
Tỳ-kheo này đi theo Tôn giả A-nan suốt sáu năm, mà không có ai hỏi đến nghĩa này, nên mới tự hỏi Tôn giả A-nan:
“Nếu Tỳ-kheo hỏi vô tướng tâm tam-muội, không vọt lên, không chìm xuống, sau khi giải thoát rồi an trụ, sau khi an trụ rồi giải thoát, thì thưa Tôn giả A-nan, Thế Tôn dạy nó là quả gì, công đức gì?”
Tôn giả A-nan hỏi Tỳ-kheo này:
“Tỳ-kheo, ông đã đạt tam-muội này chưa?”
Tỳ-kheo này im lặng. Tôn giả A-nan nói với Tỳ-kheo này rằng:
“Nếu Tỳ-kheo đã đạt tâm vô tướng tâm tam-muội, không vọt lên, không chìm xuống, sau khi giải thoát rồi an trụ, sau khi an trụ rồi giải thoát, thì Thế Tôn nói đó là trí quả, trí công đức.”(2)

Trong một kinh khác, Đức Phật nói rằng trong các pháp định, đệ nhất là Không Tam Muội, từ đây dẫn tới Vô Nguyện Tam Muội, và rồi tới Vô Tướng Tam Muội. Đức Phật giải thích rằng Không Tam Muội là không thấy có mình, không thấy có người, không thấy có thọ mệnh (tức là thấy pháp vô sinh diệt), và do vậy không tạo ra gốc rễ của hành (tức gốc rễ sinh tử luân hồi; chúng ta có thể nhắc rằng các việc làm không cố ý sẽ không nhất thiết thọ quả báo, vì tác ý chính là nghiệp).
Kinh Tăng Nhất A Hàm EA 45.6 ghi lời Đức Phật dạy, qua bản dịch của hai Thầy Tuệ Sỹ, Đức Thắng, trích:
Lành thay, lành thay, như Xá-lợi-phất mới có thể an trú nơi Không tam-muội. Vì sao vậy? Trong các tam-muội, Không tam-muội là tối thượng đệ nhất. Tỳ kheo an trú Không tam-muội không chấp trước ngã, nhân, thọ mạng, cũng không thấy có chúng sinh, cũng không thấy có bản mạt của các hành. Do không thấy có, nên không tạo gốc rễ của hành. Do không có hành nên không còn tái sinh đời sau. Do không còn tái sinh đời sau nên không còn thọ nhận quả báo khổ lạc. Xá-lợi-phất, nên biết, ngày xưa khi Ta chưa hành Đạo, ngồi dưới gốc thọ vương, suy nghĩ như vầy: Các loài chúng sinh này do không nắm bắt được pháp gì mà phải trôi lăn trong sinh tử, không được giải thoát? Khi ấy, Ta lại nghĩ, vì không có Không tam-muội nên phải trôi nổi sinh tử, không được giải thoát. Có Không tam-muội này, nhưng chúng sinh chưa đạt được, khiến chúng sinh khởi tưởng niệm đắm trước. Do khởi tưởng thế gian nên thọ nhận phần sinh tử. Nếu đạt được Không tam-muội này, không có gì là sở nguyện, do đó đạt được Vô nguyện tam-muội. Do đạt được Vô nguyện tam-muội, không mong cầu chết nơi này sinh về nơi kia; hoàn toàn không có tưởng niệm. Bấy giờ hành giả ấy lại đạt được và an trú trong Vô tướng tam-muội.” (3)

Câu hỏi nên nêu ra là: có cách nào để nhận ra tánh không trong các pháp? Đức Phật dạy rằng, nhận ra Pháp Duyên Khởi chính là tương ưng với Không. Tức là, vì cái này có, nên cái kia có. Cũng như tiếng đàn nghe được, có chẻ cây đàn ra làm trăm mảnh cũng không tìm được, vì nhiều duyên (người đàn, tài năng, học đàn nhiều năm, gỗ rừng cưa về làm đàn, dây đàn, người nghe…). Không đủ duyên, pháp không hiện lên.
Kinh SA 293, bản dịch của hai Thầy Tuệ Sỹ, Đức Thắng viết:
Ta vì các Tỳ-kheo nói pháp tùy thuận duyên khởi xuất thế của bậc Hiền thánh tương ưng với Không. Nghĩa là cái này có nên cái kia có, cái này khởi nên cái kia khởi…” (4)
Như thế, khi nhận ra tánh không (từ luật duyên khởi), chúng ta sẽ không xem bất cứ những gì trước mắt và bên tai như là có thực nữa. Tất cả các pháp đều không thực tướng, không chỗ nào để khởi tâm bấu víu (tức là, tự nhiên sẽ thấy không còn tư lường nghĩ ngợi gì, sau khi nhận ra tánh không).

Kinh Tăng Nhất A Hàm EA 24.10, bản dịch hai Thầy Tuệ Sỹ, Đức Thắng ghi lời Đức Phật dạy cách quán để vào Không: 
Có ba tam-muội này. Những gì là ba? Là Không tam-muội, Vô tướng tam-muội, Vô nguyện tam-muội.
“Thế nào là Không tam-muội? Không là quán tất cả các pháp đều là không hư. Đó gọi là không tam-muội.
“Thế nào là vô tướng tam-muội? Vô tướng là đối với tất cả các pháp tất cả đều không tưởng niệm gì, cũng không có gì được thấy. Đó gọi là vô tưởng tam-muội.
“Thế nào là vô nguyện tam-muội? Vô nguyện là đối với tất cả các pháp cũng không mong cầu. Đó gọi là vô nguyện tam-muội.
“Như vậy, này các Tỳ-kheo, ai không đạt được ba tam-muội này thì ở lâu nơi sinh tử, không thể tự giác ngộ.” (5)

Tương tự, ngài Mục Kiền Liên giải thích về pháp định vô tướng, qua Kinh Tương Ưng SN 40.9, trích bản dịch của Thầy Minh Châu:
Vô tướng tâm định, Vô tướng tâm định” (animitto cete samādhi), như vậy được nói đến. Thế nào là Vô tướng tâm định?
Và này chư Hiền, tôi suy nghĩ như sau: “Ở đây, Tỷ-kheo không tác ý tất cả tướng, chứng và trú Vô tướng tâm định”. Ðây gọi là Vô tướng tâm định.
Rồi này chư Hiền, tôi không tác ý tất cả tướng, chứng và an trú Vô tướng tâm định. Này chư Hiền, do tôi trú với an trú này, (tôi đạt được) thức tùy thuận tướng (nimittànusarivinnànam).” (6)

Hễ đã nhận ra pháp duyên khởi, tức nhận ra tánh không trong cả nội xứ và ngoại xứ, tâm sẽ tự nhiên tịch lặng, nhìn thấy thân tâm mình y như xác chết đang đi, đang đứng, đang nằm, đang ngồi, đang nói, đang cười trong cõi huyễn hóa, và thấy được thực tướng chính là vô tướng. 
Kinh EA 40.8, bản dịch hai Thầy Tuệ Sỹ, Đức Thắng viết:
Hết thảy các hành đều rỗng lặng, cái sanh và cái diệt đều như huyễn hóa, không có chơn thật. Cho nên, Tỳ-kheo, hãy ở trong hơi thở ra vào tư duy về tưởng chết để thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, buồn rầu, khổ não.” (7)
Thấy các hành rỗng lặng, thấy sanh diệt huyễn hóa, thấy duyên khởi không tánh, thấy các pháp đều không hư, thấy niệm tưởng tư lường tự nhiên vắng bặt (vì tâm đã không, và không còn gì để khởi tưởng lành dữ, đúng sai, ưa ghét…), tức là thấy tánh, còn gọi là thấy thực tướng vô tướng, còn gọi là thấy bản tâm, còn gọi là thấy pháp thân Phật.
  
Chúng ta có thể lấy một thí dụ như sau để nói về bản tâm. Giả sử như trong một hý viện tại Hà Nội hay Sài Gòn, một buổi trình diễn nhạc dân tộc truyền thống, với tham dự của 500 quan khách từ nhiều quốc tịch (Việt, Pháp, Mỹ, Hoa, Nhật, Hàn…). Tất cả mọi người cùng nhìn thấy trên sân khấu có vài chục nhạc sĩ sử dụng đàn tranh, đàn đá, đàn bầu, sáo, vân vân… trong các bộ trang phục cổ truyền dân tộc Việt. Tất cả quan khách cùng nhìn thấy sân khấu rực rỡ như thế, và thấy như thế là qua tâm mỗi người, nhưng cái được thấy (hình ảnh, màu sắc…) tùy theo từng quan khách sai biệt nhau do duyên (tùy vị trí ghế ngồi, mắt bình thường hay mắt cận, viễn…). Không phải cái thấy là của riêng quan khách A hay B, dù cái được thấy hiển lộ dị biệt. Bởi vì cái thấy là do tâm, nhưng không ai chủ động được cái thấy, không ai tự bảo hình ảnh phải được thấy trễ một chút hay sớm một chút, vì không ai chủ động từng khoảnh khắc cái thấy trừ phi nhắm mắt. Tức là có cái được thấy, nhưng không có chủ thể cái thấy. Hễ lúc đó khởi niệm tư lường là lạc mất, là níu vào cái thấy của quá khứ, mất cái thấy hiện tiền. Cái thấy không phải riêng hay chung, không phải là của mình, và tương tự cũng không phải là của người nào. Nhưng lìa thân ngũ uẩn ra, không có hiển lộ từ cái thấy.
Tương tự, với tai nghe. Tất cả quan khách cùng nghe người dẫn chương trình nói tiếng Việt, nhưng chỉ người biết tiếng Việt mới hiểu (tức là, có duyên sinh làm người Việt hoặc được học tiếng Việt). Tất cả mọi người cùng nghe say mê tiếng sáo, tiếng đàn vì không có lời, nhưng thẩm âm mỗi người khác nhau tùy kiến thức âm nhạc và sở thích. Người Nam có thể ưa nghe đờn ca tài tử hơn, người Bắc có thể ưa nghe các điệu quan họ hơn. Tất cả cùng nghe, nhưng không ai chủ động được cái nghe. Không ai tự bảo là có thể hoãn nghe hay tự dặn là nghe chậm hay nghe sớm hơn, vì không ai chủ động từng khoảnh khắc cái nghe trừ phi bước ra ngoài. Tức là có cái được nghe, nhưng không có chủ thể cái nghe. Hễ khởi niệm tư lường là lạc mất, là níu vào cái nghe của quá khứ, mất cái nghe hiện tiền. Cái nghe không phải riêng hay chung, không phải là của mình, và tương tự cũng không phải là của người nào. Nhưng lìa thân ngũ uẩn ra, không có hiển lộ từ cái nghe.
Tượng tự, với cảm thọ của thân. Lúc đó có thể cảm nhận hơi gió lạnh hoặc ấm từ máy điều hòa không khí. Không ai bắt được thân mình cảm thọ nhiều hay ít hơn, nếu không mang theo áo ấm, vân vân. Tức là có cái được cảm thọ, nhưng không có chủ thể cái cảm thọ. Hễ khởi niệm tư lường là lạc mất, là níu vào cái cảm thọ của quá khứ, mất cái cảm thọ hiện tiền. Cái cảm thọ không phải là của mình, và tương tự cũng không phải là của người nào. Nhưng lìa thân ngũ uẩn ra, không có hiển lộ từ cái cảm thọ.
Như thế, bản tâm, hay là cái tánh thấy nghe hay biết, tuy do duyên hiển lộ khác nhau, nhưng không hề có cái gì gọi là “tôi hay người” hay “của tôi hay của người” trong đó, không hề gọi được là nhiều hay ít, không chỉ được là ở trong hay ngoài (thân tâm), không trước không sau, không hề có phân biệt ưa ghét hay lành dữ… Ngay ở bản tâm đó là lìa tham sân si, là gương tâm chiếu sáng (để thấy nghe hay biết). Thấy được tánh này sẽ thấy mình và người và các pháp không cách biệt (Huyền Quang: Hồn nhiên người với hoa vô biệt). Đó là lý do cổ đức nói rằng tâm này lìa sinh diệt, vì niệm là sinh diệt nhưng gương tâm không hề mất tánh sáng thấy nghe hay biết, và niệm (có sinh, có diệt) không phải là bản tâm. Cổ đức còn nói rằng tâm này bao trùm trời đất. Nhận ra bản tâm sẽ thấy không có gì để tu hết, vì không còn thấy có mình hay người nữa.

Lục Tổ Huệ Năng trong Kinh Pháp Bảo Đàn, bản dịch của Thầy Duy Lực, giải thích về tâm này, trích:
Sao gọi là Ma Ha? Ma Ha là đại, tâm lượng quảng đại như hư không, chẳng có biên giới, cũng chẳng vuông tròn lớn nhỏ, cũng chẳng phải xanh vàng đỏ trắng, cũng chẳng trên dưới dài ngắn, cũng chẳng giận, chẳng vui, chẳng phải chẳng quấy, chẳng thiện chẳng ác, chẳng đầu chẳng đuôi. Các cõi Phật đều đồng như hư không, diệu tánh con người vốn không, chẳng có một pháp có thể đắc, tự tánh chơn không cũng như thế. Thiện tri thức, chớ nên nghe ta nói KHÔNG mà liền chấp KHÔNG. Trước nhất chớ chấp KHÔNG, nếu để tâm KHÔNG tĩnh tọa là lọt vào VÔ KÝ KHÔNG. Thiện tri thức, thế giới hư không bao hàm sắc tướng vạn vật, mặt trời mặt trăng, núi sông đất đai, cây cối, biển lớn, kẻ dữ người lành, pháp ác pháp thiện, thiên đàng địa ngục, tất cả đều ở trong hư không, TÁNH KHÔNG của con người cũng vậy. Thiện tri thức, tự tánh hay bao hàm muôn pháp là ĐẠI,muôn pháp đều ở trong tự tánh của con người. Nếu thấy điều dữ điều lành của người, tất cả đều chẳng lấy chẳng bỏ, chẳng chấp chẳng nhiễm, tâm như hư không gọi là ĐẠI, nên nói là MA HA. Thiện tri thức, kẻ mê miệng nói, người trí tâm hành. Lại có kẻ mê để tâm không mà tĩnh tọa, trăm điều chẳng nghĩ, tự xưng là đại, với bọn người này không thể nói gì được, vì họ bị rơi vào tà kiến. Thiện tri thức, tâm lượng quảng đại cùng khắp pháp giới, dùng thì liễu liễu rõ ràng, ứng dụng liền biết tất cả. Tất cả tức một, một tức tất cả, tới lui tự do, tâm thể vô ngại tức là BÁT NHÃ.” (8)

Thiền sư Đạo Tuân Minh Chánh ở chùa Bích Động thuộc tỉnh Ninh Bình, thời vua Minh Mạng, trong sách Bát Nhã Trực Giải đã giải thích về tâm này như sau, qua bản dịch của Thầy Thích Nhật Quang, trích:
Nói Lớn thì không có cái gì hơn Tâm, nên nói Tâm bao trùm cả thái hư, lượng khắp các cội nước nhiều như số cát, dọc suốt ba đời, ngang giáp mười phương. Kinh Lăng Nghiêm nói: "Phải biết hư không sanh trong tâm ông giống như một đốm mây điểm trên bầu trời xanh, hà huống thế giới ở trong hư không ư!". Do đó, biết thế giới bao hàm cõi nước, hư không bao hàm thế giới, tâm bao hàm hư không, nên Rộng lớn là nói về thể lượng của tâm. Rộng lớn khắp giáp hàm dung như thế, nhưng tâm thể tuy lớn, thánh phàm bình đẳng mà lại có trong đục, mê ngộ, thuận trái khác nhau. Tại Thánh thì từ lâu đã lóng đục thành trong, bỏ mê về ngộ, bỏ trái về thuận, cho nên thường thanh tịnh giác ngộ. Quán tất cả các pháp sắc không muôn tượng, biết là sắc huyễn như hoa đốm trong hư không, chỉ do tâm tạo ra, vốn chẳng phải thật có, nên chẳng sanh tâm phân biệt phan duyên. Hễ được Như như chẳng động thì Diệu tánh chân như trong lặng, sáng ngời, sự thấy biết tròn sáng khắp cùng các cõi nước nhiều như cát bụi. Pháp giới nầy thuần là Diệu tánh chân như, không có một tướng nào, một vật gì chẳng phải là chân như. Kinh Kim Cang nói: "Chẳng chấp nơi tướng thì như như chẳng động". Còn kẻ phàm phu thì chấp tướng trái giác theo trần, mê mờ căn tánh chạy theo thức tình. Thức tánh hư vọng bị các tướng làm cho tối tăm liền có năm lớp hỗn trược. Quán tất cả pháp sắc không muôn tượng, chẳng biết là chỉ do tâm hiện ra, từ nhân duyên sanh, duyên sanh không có tự tánh, vốn chẳng phải thật có. Mê tâm vọng chấp là thật, khởi niệm phân biệt thiện ác, tốt xấu, có không, hay dở, tranh chấp, nhân ngã, buông thả tham sân si. Vừa khởi tâm động niệm bèn là chân như chẳng giữ tự tánh, theo vào vô minh. Từ đây tối tăm vẩn đục, chỉ biết có niệm lực và gọi đó là tâm, nên vĩnh viễn trái nghịch tánh chân như vắng lặng chiếu soi, trong sạch rộng lớn. Tâm niệm lự thì ở đâu cũng thiên cuộc, thế nên nhỏ hẹp, tối tăm, vẩn đục, mà chẳng phải là tâm thể rộng lớn trong sạch nầy. Muốn thấy tâm thể rộng lớn trong sạch nầy, chỉ cần dứt tâm niệm lự phân biệt kia thì tâm sẽ vắng lặng mà thường chiếu, chiếu mà thường lặng.” (9)
  
Như thế, nhận ra tâm này, sẽ thấy được tánh không trong vạn pháp, sẽ hiểu được diệu lý “ngộ trước, tu sau” và khi thấy tất cả tâm không, tức là thấy được pháp môn không hề có cửa vào của Thiền Tông. Đó cũng là Vô Tướng Tam Muội. 
  
GHI CHÚ:




.