Friday, May 1, 2020

Nguyên Giác: Đọc “Mõ Trâu: Dẫn Nhập Vào 10 Bức Tranh Chăn Trâu”

Sách vừa mới ấn hành trong tháng 4/2020 — nhan đề “Mõ Trâu: Dẫn Nhập Vào 10 Bức Tranh Chăn Trâu” – là phiên bản tổng hợp từ các bài giảng của Hòa Thượng Thích Phước Tịnh về Mười Bức Tranh Chăn Trâu dựa trên mười bài thơ của Thiền sư Quách Am (khoảng thế kỷ 12, Trung Quốc) do Thầy Tuệ Sỹ dịch sang tiếng Việt.
Bên cạnh mười bài giảng của Thầy Phước Tịnh là mười bài Thiền Ca Chăn Trâu được kẻ nhạc, do nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc sáng tác, dựa theo thơ Thầy Tuệ Sỹ. Sách in trên giấy đẹp, khổ vuông 8.5X8.5 inches, dày 90 trang. Sách “Mõ Trâu” do Tâm Nguyên Nhẫn thực hiện chỉ 30 ấn bản để tặng, theo các pháp thoại do Doãn Hương sưu tập lời giảng của Thầy Phước Tịnh về Thập Mục Ngưu Đồ. Doãn Vinh vẽ bìa và phụ bản. Nguyễn Đình Hiếu trình bày. Tâm Tường Chơn biên soạn.
Bài này sẽ nhìn Thập Mưu Ngục Đồ qua bản đồ học Phật của Đấng Thế Tôn. Trong hai tạng Kinh A Hàm và Nikaya, Đức Phật đã từng so sánh tiến trình tu tâm như việc chăn bò. Trong Phật Giáo Tây Tạng, cũng có một hướng dẫn tương tự như tranh chăn trâu, nhưng là lộ trình chín giai đoạn chăn voi.
A HÀM, NIKAYA: CHĂN BÒ, THIỀN TÔNG VÀ HẠNH BỒ TÁT
Trong Kinh Tạp A Hàm SA 1249, bản dịch của Thầy Tuệ Sỹ và Thầy Đức Thắng, Đức Phật dạy về kỹ năng tu tâm tương tự như kỹ năng chăn bò, với 11 pháp người chăn bò cần khéo biết. Cũng nên ghi nhận về Kinh SA 1249 và kinh tương tự bên Tạng Nikaya là Kinh MN 33, nội dung là chăn giữ đàn bò lớn, hàm ý phương pháp tăng thịnh tứ chúng, như dường nhóm kinh này là khởi đầu của Hạnh Bồ Tát để gìn giữ cho chúng sanh an ổn, và để tự mình an ổn và làm an ổn cho người khác. Như vậy, tu không có nghĩa là lui vào ven rừng, góc núi riêng tự lo cho mình an ổn, mà phải làm cho đàn bò hưng thịnh, tức là xuống núi, như chúng ta có thể suy đoán theo ngôn phong Thiền Tông, là thõng tay vào chợ hoằng pháp.
Trích Kinh SA 1249 như sau:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Người chăn bò nếu có đủ mười một pháp, sẽ không thể làm cho bò tăng trưởng, cũng không thể giữ gìn bầy bò lớn được an ổn. Những gì là mười một? Không biết sắc; không biết tướng; không biết trừ trùng; không băng giữ vết thương; không un khói; không biết chọn đường; không biết chọn chỗ nghỉ; không biết chỗ qua sông; không biết chỗ cho ăn; vắt hết sữa của bò; không biết chăm sóc con đầu đàn. Đó gọi là người có đủ mười một pháp thì không thể chăn giữ đàn bò lớn. Cũng vậy, Tỳ-kheo có đủ mười một pháp, không thể tự mình an ổn, cũng không thể an ổn cho người khác. Những gì là mười một điều? Không biết sắc; không biết tướng; không thể trừ trùng hại; không băng vết thương; không thể un khói; không biết đường chánh; không biết chỗ dừng nghỉ; không biết chỗ vượt qua; không biết chỗ để ăn; vắt hết sữa của bò; hoặc có Thượng tọa đa văn kỳ cựu, tu phạm hạnh lâu, được Đại Sư khen ngợi, mà không hướng đến các phạm hạnh có minh trí để khen ngợi đức độ kia, khiến tất cả tôn kính, phụng sự, cung dưỡng.” (1)
Tương tự, Kinh Trung Bộ MN 33 bản dịch của Thầy Minh Châu cũng ghi  rõ: “Này các Tỷ-kheo, người chăn bò đầy đủ mười một đức tánh này có thể chăn giữ đàn bò, khiến đàn bò trở thành hưng thịnh.”[1]
Phương pháp tu tâm theo hình ảnh chăn bò được ghi trong Kinh SA 1249 cũng là phòng hộ sáu căn, trích: “Thế nào là không băng vết thương? Mắt thấy sắc, theo đó nắm giữ hình tướng. Do không thủ hộ mắt, khiến cho tham ưu thế gian, pháp ác bất thiện chảy lọt vào tâm mà không thể phòng hộ. Tai mũi, lưỡi, thân, ý lại cũng như vậy. Đó gọi là không băng vết thương.”
Dẫn bò theo đường chánh là đưa tâm mình về, và đưa tâm chúng sanh vào Bát Chánh Đạo, trong khi pháp chăn thả bò được Kinh SA 1249 dạy là: “Thế nào là không biết chỗ chăn thả bò? Bốn Niệm xứ và pháp luật Thánh hiền, gọi là chỗ chăn thả bò. Ở đó mà không biết như thật, thì đó gọi là không biết chăn thả bò.”
Trong hai kinh A Hàm và Nikaya vừa nêu, Đức Phật cho biết có nhiều cách đưa bò qua sông. Trong đó, có pháp ẩn mật, có pháp hiển lộ. Có pháp cú nghĩa sâu xa mà người tu có thể tự biết nhưng không thể diễn rộng chỉ rõ. Nghĩa là, lời nói có khi có thể không nói được cảnh giới tự chứng xa lìa ngôn ngữ (văn phong này của Đức Phật như dường là những khởi đầu cho Thiền Tông, tức là Thiền pháp truyền từ ngài Bồ Đề Đạt Ma).
Trích Kinh SA 1249: “Thế nào là không biết chỗ vượt qua? Không biết Tu-đa-la, Tỳ-ni, A-tì-đàm, không biết tùy thời đến thưa hỏi thỉnh thọ, rằng, ‘Thế nào là thiện, thế nào là bất thiện, thế nào là có tội, thế nào là không có tội; tạo những pháp nào là pháp thù thắng không phải ác?’ Đối với pháp ẩn mật thì không thể khai phát, đối với pháp hiển lộ thì không thể hỏi rộng, đối với cú nghĩa sâu xa đã tự biết mà không thể diễn rộng chỉ rõ. Đó gọi là không biết chỗ vượt qua…”
Trong Kinh MN 33 ghi đoạn văn đó là tìm chỗ dễ cho bò vượt sông, trích:
“…”thế nào là Tỷ-kheo biết chỗ nước có thể lội qua? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thỉnh thoảng có đến gặp những Tỷ-kheo đa văn, được trao cho truyền thống giáo điển, những bậc trì Pháp, trì Luật, trì matika (các bản tóm tắt) có hỏi, có trả lời các vị ấy: “Thưa Tôn giả, điểm này là thế nào? Ý nghĩa này là gì? Những bậc Tôn giả ấy làm cho hiển lộ những điều chưa được hiển lộ, làm cho rõ ràng những điều chưa được rõ ràng, và đối với những nghi vấn về Chánh pháp, các vị đoạn trừ nghi hoặc. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo biết rõ chỗ nước có thể lội qua.”
— Bản Anh dịch của Thầy Sujato: “Those venerables clarify what is unclear, reveal what is obscure, and dispel doubt regarding the many doubtful matters.”1 (NG dịch: Các vị thầy đó làm sáng rõ những gì chưa rõ, tiết lộ những gì còn ẩn tàng, và xóa bỏ nhiều chỗ ngờ vực.)
— Bản Anh dịch của Thầy I.B. Horner: “These venerable ones disclose to him what was not disclosed, they make clear what was not made clear, and on various doubtful points of Dhamma they resolve his doubts.” (1) (NG dịch: Các vị tôn túc này tiết lộ cho học nhân những gì chưa được tiết lộ, làm rõ những gì chưa được làm rõ, đoạn nghi nhiều điểm về Pháp.)
Nghĩa là, có những pháp chưa được vị Thầy hiển lộ minh bạch, sẽ chờ tới đúng thời sẽ hiển lộ để đoạn nghi cho học trò. Đối với Thiền Tông, vị thầy sẽ chờ đúng thời để chỉ cho học nhân Bản Tâm, hay Bản Thể Diệu Hữu Chân Không của Tâm. Đây là phong thái rất mực Thiền Tông.
Trong khi đó, Kinh Trung Bộ MN 34 nói về Hạnh Bồ Tát, quán sát về những cách để làm sao lùa được tất cả bò qua sông.  Đặc biệt, đàng nào rồi cũng qua sông, kể cả “con bò còn nhỏ mới sanh, con bò này nhờ chạy theo con bò mẹ, vừa chạy, vừa kêu, sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, cũng qua bờ bên kia một cách an toàn”… Bò mới sanh, còn bú, vừa kêu vừa chạy theo bò mẹ, cũng qua sông an toàn; đó là các vị tùy pháp hành, tùy tín hành.
Trích Kinh MN 34, bản dịch của Thầy Minh Châu, cho thấy hạnh nguyện cứu độ chúng sinh, kể cả lo cứu bò con mới sanh:
Ngày xưa, này các Tỷ-kheo, tại Magadha có người chăn bò có trí, vào cuối tháng mùa mưa, trong mùa gặt hái, sau khi quán sát bờ bên này sông Hằng, sau khi quán sát bờ bên kia sông Hằng, đuổi đàn bò qua bờ bên kia tại Suvideha, tại chỗ có thể lội qua được. Người đó đuổi đi đầu những con bò đực già, những con đầu đàn. Những con này sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, qua bờ bên kia một cách an toàn. Rồi người đó đưa qua những con bò đực lớn mạnh, những con bò đực có được huấn luyện. Những con này sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, qua bờ bên kia một cách an toàn. Rồi người đó đuổi qua những con bò đực con, lớn, những con bò cái con, lớn. Những con này sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, qua bờ bên kia một cách an toàn. Rồi người đó đuổi qua những con bò con nhỏ, những con bò con còn bú. Những con này sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, qua bờ bên kia một cách an toàn. Này các Tỷ-kheo thời xưa ấy có con bò còn nhỏ mới sanh, con bò này nhờ chạy theo con bò mẹ, vừa chạy, vừa kêu, sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, cũng qua bờ bên kia một cách an toàn. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, vì người chăn bò ở Magadha là người có trí, vào cuối tháng mùa mưa, trong mùa gặt hái, sau khi quán sát bờ bên này sông Hằng, sau khi quán sát bờ bên kia sông Hằng, đuổi đàn bò qua bờ bên kia tại Suvideha, tại chỗ có thể lội qua được.”2
KIM CANG THỪA: BỨC TRANH CHĂN VOI
Trong khi đó, truyền thống Phật Giáo Kim Cang Thừa, xuất phát từ Tây Tạng và đang ảnh hưởng lớn tại Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Hoa, Nepal, Ấn Độ, Bhutan, Nga và nhiều nước khác, có pháp tu tâm theo lộ trình chín giai đoạn chăn voi.
Trong khi thể loại tranh chăn trâu có hai cách trình bày chính — Đại Thừa và Thiền Tông — với nhiều thiền sư khác nhau đề thơ cho 10 giai đoạn, tranh chăn voi của Kim Cang Thừa thống nhất, chia làm 9 giai đoạn. Chư tổ Trung Hoa chọn hình ảnh con trâu cho quen thuộc với nền văn hóa trồng lúa, trong khi chư tổ Tây Tạng chọn hình ảnh con voi cho quen thuộc với đời sống của người miền núi. Con voi tượng trưng cho tâm. Nếu voi rừng hoang dã, người dân làng xóm sẽ kinh hoàng. Như thế, nhu cầu là thuần hóa voi rừng, tức luyện tâm. Thêm nữa, dấu chân voi dễ nhìn thấy trong rừng vì là dấu chân to nhất, trong khi voi rừng phá hoạt nhiều nhất thì voi đã thuần lại có công nhiều nhất cho làng xóm. Đồ hình luyện voi này gọi là Chín Giai Đoạn An Tâm (Nine Deepening Stages of Calm-Abiding).
Theo các dẫn giải của các bản văn Kim Cang Thừa, đồ hình chăn voi ban đầu cho thấy voi có màu tối, tượng trưng tâm mờ nhạt và u ám. Hình ảnh vị sư trong đồ hình là người tu thiền. Màu sậm của con khỉ trong đồ hình tượng trưng sự tán tâm, không tập trung, và do vậy con khỉ hướng dẫn con voi chạy đi mọi nơi, chạy theo các đối tượng khác nhau; nơi người, tượng trưng tâm tán loạn chạy theo căn trần. Nhà sư trong đồ hình cầm sợi dây và móc sắt, tượng trưng cho chánh niệm tỉnh giác, kéo voi về đúng lối, tức là tỉnh thức với lối voi đi, cho khỏi chệch hướng.
Ngọn lửa trong đồ hình tượng trưng nhiệt tâm của nhà sư, tinh tấn thiền định. Ngọn lửa ban đầu lớn, rồi dọc theo đồ hình sẽ từ từ nhỏ lại, trong khi con voi đen từ từ chuyển sang voi trắng; ý nghĩa là tâm thuần hơn, dễ định tâm hơn, không cần nhiều nỗ lực mà voi vẫn đi đúng lối. Ban đầu là con khỉ dắt voi đi, nhưng sau khi nhà sư làm chủ được voi, sư dắt voi đi, khỉ chỉ còn chạy lẹt đẹt theo sau voi để quấy rối, níu kéo voi. Voi từ từ trắng nơi đầu trước, lan dần màu trắng xuống thân; ý là người tu thiền chủ yếu làm thanh tịnh tâm trước, trong khi các dư nghiệp khác sẽ từ từ nhuộm trắng sau.
Trong giai đoạn 1 và 2 của đồ hình chăn voi, người tu giữ giới, học pháp nghĩa để tin nhân quả, vững tín tâm và không lui sụt, và tập định (chỉ, samatha) theo hoặc là pháp theo dõi hơi thở, hoặc là pháp lắng nghe, hoặc cả hai. Giai đoạn 3 và 4 vẫn học sâu thêm pháp nghĩa, bớt tán tâm và định vào sâu hơn. Giai đoạn 5 và 6, nhờ chánh niệm vững vàng, mặc dù định chưa thuần nhất, nhưng người tu đã vững vàng nhận biết tất cả những gì đang xảy ra và biết mình đang làm gì. Giai đoạn 7 và 8, hai pháp chỉ và quán đều thuần thục, định tâm của người tu không bị gián đoạn nữa, voi thuần trắng từ giai đoạn 8. Giai đoạn 9, tâm hoàn toàn an tĩnh, tâm tự nhiên an nghỉ, nhà sư cỡi voi với tay phải cầm thanh kiếm lửa, tượng trưng dùng chi và quán chứng ngộ tánh không (realization of voidness) của vạn pháp.
MƯỜI TRANH CHĂN TRÂU
Với các nhà sư Việt Nam, hình ảnh chăn trâu tượng trưng cho luyện tâm từ xa xưa đã được nói tới. Thầy Thích Đức Thắng trong bài viết nhan đề “Con Trâu Đất – Một Biểu Tượng Độc Đáo của Tuệ Trung” đã nêu một số câu thơ của ngài Tuệ Trung Thượng Sỹ (1230–1291) về cách chăn trâu cũng như luyện tâm. Trong khi đó, Thiền Sư Quảng Trí (thời nhà Lê) biên soạn tập sách nhan đề “Thập Mục Ngưu Đồ Tụng Luận Giải” — sách này được nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn dịch và chú thích, cũng được Thầy Thích Thông Phương dịch và Thầy Thích Thanh Từ bình giảng. Trong khi đó, nhà nghiên cứu Tâm Minh Ngô Tằng Giao biên soạn một sách tổng hợp nhan đề “Phật Dạy Luyện Tâm Như Chăn Trâu” được NXB Diệu Phương ấn hành năm 2010, với nhiều bản vẽ tranh chăn trâu và thơ tụng từ nhiều thiền sư.
Nơi đây, chúng ta chỉ trình bày về sách “Mõ Trâu: Dẫn Nhập Vào 10 Bức Tranh Chăn Trâu” (viết tắt: Mõ Trâu, hoặc MT) mới ấn hành, do Thầy Phước Tịnh giảng, thơ của Thầy Tuệ Sỹ. Chữ “mõ trâu” nghe xa lạ với giới trẻ thành phố, cả trong và ngoài VN. Lời Thưa giải thích: Mõ trâu là một chiếc hộp bằng gỗ hay bằng tre, bên trong có treo những thanh gỗ nhỏ, được buộc vào cổ trâu bằng sợi dây thừng. Khi trâu di chuyển, các thanh gỗ nhỏ lúc lắc gõ vào hộp gỗ, tạo ra những “âm thanh lọc cọc vui tai”… Trong sách Mõ Trâu: Bản chữ Hán là của Thiền sư Quách Am (thế kỷ 12, còn gọi là Quách Am Sư Viễn); Bản thơ tiếng Việt là của Thầy Tuệ Sỹ; lời bình của Thầy Phước Tịnh. Đây là tranh chăn trâu Thiền Tông, nên trâu thuần trắng ngay từ khi mới được dò ra. Tất cả các thơ trong bài này đều do Thầy Tuệ Sỹ dịch. Tuy nhiên, cần ghi nhận rằng phiên bản trong sách này có khác một số chữ so với một số bản trên mạng, cùng dịch giả Tuệ Sỹ.
Bức tranh thứ nhất là Tầm Ngưu, tức Tìm Trâu (sách Mõ Trâu, trang 5-9).
Nức lòng vạch cỏ rong tìm
Non xa, nước rộng, đường chim mịt mù
Sức cùng dạ mỏi tìm mô?
Rừng phong bóng ngả nghe hồ ve ngâm.
Bốn câu thơ dịch trên của Thầy Tuệ Sỹ cho thấy người tu vạch cỏ tìm, mà không thấy trâu, trong khi “bóng ngả” cho thấy đêm sắp về, ngày sắp tắt. Thầy Phước Tịnh bình rằng trong khi đời người chóng qua, tu mà chệch hướng thì thê thảm, trong khi “Cuộc đời càng về già, chúng ta càng nhìn thấy mịt mù trước mặt, không biết khi nào sẽ rơi vào hố sâu thăm thẳm của cái chết” (MT, trang 9)…
Bức tranh thứ hai là Kiến Tích, tức Thấy Dấu (sách Mõ Trâu, trang 11-15).
Dấu chân bên suối ven rừng,
Cỏ thơm che lối biết dừng nơi đâu.
Dù cho núi thẳm rừng sâu
Trời cao mũi rộng, nơi nao dấu mày.
Thầy Phước Tịnh bình rằng thấy dấu chân trâu bên suối, ven rừng, thấy mũi con trâu cao đụng trời xanh, chỉ cho “tâm Phật sáng ngời trùm khắp chính ta.” Như vậy là thấy tâm, thấy dấu chân trâu ở suối, rừng, nhưng cỏ che lối vì còn thanh, sắc, suy tư cuốn hút. Dấu chân trâu có thể nhận ra rằng: không có tâm, thì không thể có cảnh, vì cảnh theo tâm mà hiện. Đó là lý do nói mũi trâu nằm ở cả trời cao, núi thẳm, rừng sâu.
Bức tranh thứ ba là Kiến Ngưu, tức Thấy Trâu (sách Mõ Trâu, trang 17-21).
Trên cành chim hót líu lo,
Gió lay, nắng ấm bên bờ liễu xanh.
Chỗ này thôi hết chạy quanh
Đầu sừng bề bộn, họa hình khó thay.
Nghe tiếng chim, thấy gió lay, cảm nhận nắng ấm, nhận ra màu sắc liễu xanh… vậy là thấy đầu và sừng trâu rồi, vì chính trong cái thấy nghe hay biết chính là dấu tích của tâm, là thấy tâm rồi. Thầy Phước Tịnh bình rằng “Tuy có thể thấy được trâu nhưng nó vẫn thoáng ẩn thoáng hiện, mờ ảo, rối rắm, chập chùng, không rõ ràng nền hình ảnh nó vẫn chưa rõ nét.” (MT, trang 20)
Bức tranh thứ tư là Đắc Ngưu, tức Bắt Được Trâu (sách Mõ Trâu, trang 23-27).
Trăm đường mới chộp được mi
Tánh hung, sức bạo, làm chi được nào.
Đôi khi nhảy đến đồi cao
Lại trong mây nổi, dạt dào buông lung.
Thầy Phước Tịnh bình rằng người tu phải khéo mới nắm được mũi con trâu, vì “Con trâu vốn tính hung bạo, sức lực rất mạnh nên thật là khó mà ghì giữ nó. Nó lôi mình đi mà mình không có cách gì để khống chế lại được…” (MT, trang 26) Thầy ghi nhận rằng hình ảnh trâu chạy hung hăng là “tham sân, buồn giận, bất an…” (MT, trang 27) cứ lôi kéo người tu hoài.
Bức tranh thứ năm là Mục Ngưu, tức Chăn Trâu (sách Mõ Trâu, trang 29-33).
Dây roi mang sẵn kè kè
Sợ mi tung vó theo bè trần ai.
Bao giờ thuần tánh hăng say,
Roi giàm vứt bỏ mà mày vẫn ngoan.
Thầy Phước Tịnh bình rằng, “chúng ta phải luôn thực tập phòng hộ (cầm dây, dùng roi) để coi chừng con trâu tâm thức của mình. Chúng ta chăm sóc như cho đến khi thân đi dâu, tâm theo đó, tâm không rời thân trong mọi nơi chốn, mọi thời điểm… Hãy nhận diện tỏ tường rằng những ý thức, suy nghĩ như tham sân, chấp trước, tự tôn, tự hào… biểu hiện mạnh mẽ hay âm thầm, cũng là những thứ sở hữu của ta. Đó đơn thuần chỉ là dòng chảy (hiện hành) của những hạt giống thức tâm sinh diệt mà không phải là trạng thái thanh nguyên của tâm thức ta.” (MT, trang 32-33)
Bức tranh thứ sáu là Kỵ Ngưu Quy Gia, tức Cỡi Trâu Về Nhà (sách Mõ Trâu, trang 35-39).
Lưng trâu thong thả ta về
Sáo lên vi vút ngoài đê ráng chiều.
Lời ca tiếng diệp phiêu diêu
Tri âm nào phải ra điều nói năng.
Thầy Phước Tịnh bình rằng chữ “tri âm” gốc từ chữ Hán nói về những người bạn rất thân, không cần nói gì với nhau mà vẫn hiểu nhau, nhưng nơi đây còn có nghĩa: “…chữ tri âm ở đây hàm ý hướng nội; nghĩa là điều phục được tâm, sống được với tâm, lúc nào mình cũng an trú trong chánh niệm, không cần khởi lên tiếng nói thì thầm. Một khi sống được với năng lượng chánh niệm vững chải và giàu có của tự tâm, chúng ta có thể biết rõ đời sống tu tập của mình; ta có thể quan sát tâm ý một cách rõ ràng mà không cần ai chỉ bảo. Khi ấy tâm tự an trú trong niệm và định mà không cần phải tác ý dẫn dắt công phu.” (MT, trang 38)
 Bức tranh thứ bảy là Vong Ngưu Tồn Nhân, tức Quên Trâu Còn Người (sách Mõ Trâu, trang 41-45).
Cõi trâu về đến quê xưa
Lỏng tay thả quách, người vừa rảnh rang.
Trời cao nắng ấm, mộng vàng
Dây roi chăn dắt có cần nữa đâu.
Trong hình, trâu biến mất rồi (thấy vô tâm) trong khi mặt trời hiện lên sáng rỡ (bản tâm với chánh niệm chiếu sáng) và chú mục đồng ngồi bó gối (tức rảnh tay), roi và dây vứt nơi góc nhà vì không cần nữa. Thầy Phước Tịnh bình rằng giai đoạn bó gối này là đạt được “phẩm tính thong dong khi thiền tập”… Thầy giải thích đó là khi ý thức nhận biết sáng tỏ trong mọi động tác, “Cách thiền tập này có tên là Niệm thân hành; hàm nghĩa mọi cử động của thân dù chỉ là ngheo mắt nhướng mày hay một co giãn của cơ bắp ta đều phải nhận biết tỏ tường. Niệm nghĩa là tâm nhận biết bình lặng, không có tiếng nói thì thầm. Chỉ đơn thuần là sự nhận biết sáng tỏ, phủ sóng toàn thân, như mặt trời phóng ánh sáng phủ trùm hành tinh một cách liên tục, không một kẽ hở, không một giây ngưng…” (MT, trang 45).
Bức tranh thứ tám là Nhân Ngưu Câu Vong, tức Người Trâu Đều Quên (sách Mõ Trâu, trang 47-51).
Người trâu roi vọt chẳng còn
Trời xanh bằng bặt tinh mòn mỏi tinh
Lò hồng sạch dấu tuyệt vời
Đến đây Phật Tổ và mình không hai.
Trong hình, chỉ còn một hình tròn, trong khi tất cả (trâu, người, cảnh) đều biến mất. Thầy Phước Tịnh bình rằng, “Hiển nhiên là ta vẫn còn một hình hài con người; vẫn ăn, vẫn thở, vẫn cười bình thường; vẫn đi đứng sinh hoạt trên hành tinh như bao người. Như vậy, trạng thái sáng tỏ, rỗng không, vắng lặng của thiền giả thể nghiệm do công phu quán chiếu ở đây là muốn nói đến các phần thọ, tưởng, hành, thức của ta không còn nơi để bám víu, không còn chỗ để chấp chặt, không còn thấy đây là bản ngã của ta để tự hào, kiêu ngạo hay ưu tư phiền muộn. Đây gọi là đạt đến giai đoạn thấy người cũng không mà cảnh cũng không. Người và trâu đều không (người trâu đều quên).” (MT, trang 50)
Bức tranh thứ chín là Phản Bổn Hoàn Nguyên, tức Trở Về Nguồn Cội (sách Mõ Trâu, trang 53-57).
Phí công về đến nhà xưa
Đâu bằng ngay đó lặng lờ bặt duyên.
Trong am bặt hết nẻo huyền
Nước trôi hoa thắm an nhiên một trời.
Trong hình không còn người, không còn trâu, chỉ là cành liễu bên dòng sông, với hoa lá bay… Thầy Phước Tịnh dẫn ra câu chữ Hán “Tịnh như trực hạ nhược manh lung” trong đó chữ “nhược manh lung” là “như là mù và điếc”… Thầy bình rằng, “Đâu bằng ngay bây giờ và ở đây, hãy là người vô sự, không cảnh nào đến với mắt, với tai mà có thể làm cho tâm thức ta xao động…  đối với hành giả tu tập, cái thấy, cái nghe vẫn tỏ rõ nhưng không âm thanh, sắc tướng nào làm cho họ sinh lòng phân biệt ghét thương, ưu tư, phiền muộn nên gọi là nhược manh lung. Am trung bất kiến am tiền vật – Ngay nơi thấy nghe nhận biết tỏ tường từng pháp trần sinh khởi và hoại diệt, nhưng tâm không vướng vào một pháp nào nên gọi là như tuồng câm điếc. Trong am (hay trong tâm) không thấy gì ngoài sự rỗng không, tĩnh tại, lặng lẽ” (MT, trang 56)
Bức tranh thứ mười là Nhập Triền Thùy Thủ, tức Thõng Tay Vào Chợ (sách Mõ Trâu, trang 59-63).
Lưng trần, chân đất, chợ người
Cát lầm bụi vẫn ta cười say xưa.
Thần tiên mấy biết cũng thừa
Cây khô thoắt đã đong đưa nhụy vàng.
Thầy Phước Tịnh bình rằng, “Bức tranh số 10 có tên Nhập triền thùy thủ, dịch nghĩa là Thõng tay vào chợ. Nếu chưa quen với cách diễn đạt của Thiền Tông, chúng ta sẽ rất ngạc nhiên vì không thấy nét gì là thiền đạo trong bức tranh này cả. Ở đây vẽ hình một ông già bụng to, ăn mặc xốc xếch và một chú mục đồng với cây gậy quảy bầu rượu đằng trước, phía sau là một con cá chép, đang cùng nhau đi phố… ý nói tới đây hành giả đi vào phố thị, hàng quán rất thong dong, tức là đi vào cuộc đời mà không ngần ngại, cũng không còn bị ràng buộc, dính mắc hay bị dẫn dắt vào ham muốn, đam mê dục lạc (ngũ dục)… Hành giả khi tu tập đến giai đoạn thõng tay vào chợ thì cho dù cát bụi có bôi bẩn hình hài vẫn luôn nở nụ cười đầy nét hồn nhiên thánh thiện; phiền nhiễu thời gian có thế nào cũng không thể bén vào họ được.” (MT, trang 62-63)
Nếu đối chiếu mười tranh chăn trâu của Thiền Tông, với tranh chăn voi qua chín giai đoạn của Kim Cang Thừa, chúng ta thấy hành giả đều cần trải qua kinh nghiệm chứng ngộ tánh không. Trong pháp chăn voi, khởi đầu là tu định, hoặc theo dõi hơi thở, hoặc lắng nghe, và liên tục dùng cả chỉ và quán cho tới khi voi thuần thục, hết quậy phá, là để tâm an nghỉ tự nhiên trong chánh niệm, từ đây hướng về chứng ngộ tánh không (hành giả cầm thanh kiếm lửa, tượng trưng thấu suốt được tánh không). Trong pháp chăn trâu, chứng ngộ tánh không là tranh thứ 8 khi trâu người đều quên, tức là nhận ra tánh không, và tranh thứ 9 là về cội nguồn, lúc đó chỉ thấy cảnh (cây liễu, dòng sông) hiện lên nhưng không còn có ai (nơi đây nói, y hệt như mù và điếc). Tranh chăn trâu thứ 9 gợi nhớ tới bản Kinh Bahiya Sutta3, khi Đức Phật dạy rằng hãy để cái được thấy nghe hay biết chỉ là cái được thấy nghe hay biết, tức là chỉ có cảnh trần hiện lên nhưng không hề có ai (ý như mù, điếc)…
Và tuyệt vời của tranh chăn trâu Thiền Tông là tranh số 10, khi hành giả thõng tay vào chợ. Đây là hạnh Bồ Tát, để tìm phương tiện hoằng pháp, như lời Đức Phật dạy là đi lùa bò qua sông, bò lớn có lối qua sông thì dĩ nhiên, nhưng ngay cả bò con còn bú, còn kêu mẹ vẫn được hành giả tìm lối cạn để lùa qua sông. Có vẻ như hình ảnh này cho thấy Đức Phật không bỏ chúng sinh nào hết, và hoàn toàn không có chuyện Thế Tôn vào Niết Bàn là biến hẳn đi luôn.
Sách “Mõ Trâu: Dẫn Nhập Vào 10 Bức Tranh Chăn Trâu” chưa ấn hành rộng, nhưng dự kiến sẽ đưa lưu hành trên mạng Amazon trong năm nay. 
______________________________________
[1] Kinh SA 1249 – https://suttacentral.net/sa1249/vi/tue_sy-thang
Kinh MN 33, bản Việt: https://suttacentral.net/mn33/vi/minh_chau
Kinh MN 33, bản Sujato: https://suttacentral.net/mn33/en/sujato
Kinh MN 33, bản Horner: https://suttacentral.net/mn33/en/horner
3 Bài Pháp Khẩn Cấp – Bahiya Sutta: https://thuvienhoasen.org/a14273/bai-phap-khan-cap-bahiya-sutta

Thursday, April 30, 2020

Chùa Xưa Trăng Nước Nơi Nao

Chùa Xưa Trăng Nước Nơi Nao

Lê Diễm Chi Huệ

Tôi người Huế và không có diễm phúc lớn lên dưới mái chùa Thiên Mụ hay lắng nghe tiếng chuông Diệu Đế bởi những biến thiên dâu bể. Hình ảnh dòng sông Nhật Lê, phố An Cựu nhạt nhoà theo lời mẹ kể về cuộc di cư vào Nam khi tôi mới vài tháng tuổi. Tuổi ấu thơ của tôi gắn liền với khung cảnh núi rừng thâm u và tiếng niệm Phật trong đêm. Tôi không nhớ đã yêu trăng tự lúc nào, chỉ nhớ là rất mê ngắm trăng, một cái thú mà lắm lúc làm cho mẹ tôi phải phàn nàn. Mẹ năm lần bảy lượt gọi tôi vô ăn cơm tối, nhưng tôi cứ lưỡng lự vì mải say sưa vân du cùng bóng nguyệt. Giữa núi rừng hoang vu tĩnh mịch, tôi bầu bạn cùng trăng và ánh trăng là niềm an ủi vô tận. Ánh sáng mờ đục rọi xuống sân nhà đã cùng tôi dệt bao mộng mơ.
Chìm sâu trong màn đêm, cú kêu não nề như tiếng rên rỉ những oan hồn yểu tử dưới lòng đại dương ở góc trời xa. Nơi tôi ở không chùa không miểu, tứ bề hoang vu. Góc nhà tranh vách đất, ánh đèn dầu liu riu và tấm hình Phật nhỏ xíu được chưng trên bàn. Không biết ai dạy mà chị tôi biết lỏm bỏm đọc kinh. Tôi là đứa em út nhút nhát. Chị lớn hơn tôi vài tuổi, lanh lợi. Chị kêu chấp tay tôi chấp tay, biểu quỳ tôi quỳ và bắt tôi niệm Phật theo. Mỗi cử chỉ của chị đầy thành tâm và nghiêm trang khiến tôi nể sợ, mặc dầu chị không giải thích ý nghĩa của việc chị làm, chắc thấy tôi nhỏ nên chị không màng giải thích mà chỉ bắt làm theo. Đêm đêm, chị em tôi chúi đầu quỳ lạy trước tấm hình Phật trong khói hương nghi ngút. Đó là lần đầu tiên tôi “thấy” và “cảm” Phật với nét mặt hiền hoà, nụ cười từ bi đã lay động trái tim bé nhỏ của tôi.
Lúc tôi lên bảy tuổi, gia đình quảy về thành thị, nói là thành thị nhưng nơi tôi ở vẫn mang cảnh thôn quê. Trong một dịp Vu Lan, mẹ và chị dẫn tôi lên thiền viện cho quy y. Thiền viện Thường Chiếu mới, đẹp với nhiều kiến trúc mỹ thuật. Cảnh chùa khang trang, thanh tịnh với hàng dương liễu đong đưa.
Lần đầu tiên nghe tiếng chuông, tôi ngẩn ngơ. Âm thanh trầm mặc gợi chút u buồn vốn ẩn dật đâu trong tiềm thức và kể từ đó tôi rung động bởi tiếng chuông chùa. Thiền viện trở thành chốn thân quen. Những ngày nghỉ học, tôi lân la thiền viện phụ giúp mấy sư cô làm việc vặt: xe nhang, sao chép kinh thư. Hình ảnh sư cô ì ạch đèo thùng nhang lên con dốc dưới cái nắng oi ả giữa trưa hè khiến tôi cảm động. Tôi thương những giọt mồ hôi đẫm ướt chảy dài trên khuôn mặt hiền từ. Tôi thường tìm đến sân chùa ngồi hóng gió mát, ngắm cảnh và để được nghe tiếng chuông chùa trầm bỗng ngân vang. Âm thanh thanh thoát xoáy vào thâm tâm buồn bã gợi bao ảo giác lạ lùng: huyền thoại như cổ tích, chập chờn như mộng mị. Đêm xuống, ánh trăng bàng bạc bao phủ ngôi thiền viện. Mùi trầm nhang quyện vào không gian bao la khiến khung cảnh thêm huyền ảo. Hình ảnh đó in sâu vào tim óc mà khiến tôi bao năm qua vẫn thổn thức.
Sau đó, tôi qua Mỹ định cư tại một tiểu bang lạnh giá, hiu hắt người Việt. Nơi tôi ở không một bóng chùa, chỉ một đạo tràng nhỏ được nhiều bác qua trước hùn lo. Đạo tràng cách nhà tôi hơn một giờ lái xe, không khí ấm cúng đượm tình đồng hương. Thỉnh thoảng tôi đi ké xe những bác gần nhà. Đó là mái chùa đầu tiên tôi đến trên xứ Mỹ, nơi sưởi ấm những ngày đông tuyết. Cuộc sống trở nên bận rộn khiến tôi ít có dịp ghé đạo tràng hay thưởng thức trăng. Trăng lặng lẽ theo tôi vào đời. Căn phòng ngủ của tôi có cửa sổ hướng ra phía sau vườn, nơi có bóng cây và ánh trăng hắt về phía phòng ngủ. Nhìn ánh trăng huyền mặc, tôi chạnh lòng nhớ lại tháng năm xưa. Ký ức xanh thỉnh thoảng trỗi dậy, nhưng cảm xúc không còn nguyên trinh như thủa lên năm lên bảy. Hình như trăng cũng lớn dần. Trăng không còn e thẹn ngập ngừng, trắng lung linh nhưng có vẻ vàng đục hơn. Trăng cạn cùng tôi chén sầu viễn xứ. Bao năm rong ruỗi mộng phù trầm, bao ảo ảnh vờn cợt khiến hồn sướt mướt:
Có rồi không, không rồi có, tất cả rồi cũng như ảo mộng như chiêm bao, như “bóng nguyệt lòng sông”. Tôi tìm lại ánh trăng và tiếng chuông như tìm sự bình an. Tiếng chuông không còn là âm thanh huyền thoại như cổ tích, như mộng mị ngày xưa. Bây giờ, chuông vọng tỉnh thức, chuông gợi từ tâm. Trăng vẫn bồng bềnh, huyền hoặc. Dường như trăng đã lên non tự thủa nào mà tôi vẫn bôn ba xuôi ngược với trăm gánh đường đời.
Lẩn quẩn với ra đi trở về, với quá khứ hiện tại, với gặp gỡ ly tan, hương sầu tịch mịch phủ trùm kiếp nhân sinh. Mấy mươi năm vèo trôi như thoáng mộng, tôi gặt hái, chiêm nghiệm ít nhiều nghiệt ngã, khổ đau. Ánh trăng và tiếng chuông năm nào đã đưa tôi vào đời, ru tôi với những ngày tháng tha hương, trôi nổi theo bước chân lưu lạc. Qua bao hụp lặn, hai hình ảnh đó ẩn hiện mãi trong tâm tưởng và ngày càng trở nên da diết. Trăng và tiếng chuông bây giờ là hai hình ảnh tương phản quấn chặt miền tâm thức. Trăng mang tôi đến cõi bồng bềnh, lãng đãng sương khói. Tiếng chuông quất vào tôi những làn roi tỉnh thức, thôi thúc sự giải thoát khỏi bao mê lầm. Khi khổ đau chín mùi và tỉnh thức dâng cao, cả hai hoà tan trong dòng cảm xúc mãnh liệt và tất cả tan biến dần, nhường chỗ cho sự tịch lặng tuyệt đối. Mọi lao xao, gò bó, khuôn khổ, định kiến, hơn thua…không còn ý nghĩa, chỉ còn tiếng chuông như một thông điệp từ bi, trí tuệ nhắn nhủ quay về với tự tánh:
Ta muốn nhặt bóng mình
trong đám bèo rong trôi nổi
khởi giác niệm
bên tách trà
dong ruỗi ngắm trăng sao
ừ thôi thế cuộc xoay vần
người đi kẻ ở bao lần đổi thay
ừ thôi về ngắm mây bay
ừ thôi giã biệt tháng ngày trở trăn
Chúng ta rời quê hương mang theo biết bao hình bóng cũ: cây đa, bến nước, ngôi chùa cổ, mái trường làng, vv…Hình ảnh, dư âm xưa có nhạt nhòa theo năm tháng nhưng luôn ở trong tiềm thức và lâu lâu chợt bừng dậy một vùng ký ức khiến lòng xao xuyến, nao nao.
Lê Diễm Chi Huệ(Tiếng thơ Hoa Vàng)

A BRIEF BIOGRAPHY OF THE MOST VENERABLE THÍCH QUẢNG ĐỘ

A BRIEF BIOGRAPHY OF THE MOST VENERABLE THÍCH QUẢNG ĐỘ 
(This version is for GĐPT)

The Most Venerable Thích Quảng Độ (27 November 1928 – 22 February 2020) was a Vietnamese Buddhist monk and scholar who was the patriarch of the Unified Buddhist Church of Vietnam (UBCV) from 2008 until his death. He was born Đặng Phúc Tuệ in the Thanh Chau village in Thái Bình Province in northern Vietnam,[4] and became a monk at the age of 14. When he was 17, he witnessed his religious master Thích Đức Hải being executed by the revolutionary People's Tribunal.


As a member of the leadership of the UBCV, Thích Quảng Độ became an activist, fighting against the anti-Buddhist policies of the Catholic President of South Vietnam Ngô Đình Diệm. After a military raid of Buddhist monasteries in Hue and Saigon, Thích Quảng Độ was arrested on 20 August, 1963. He and thousands of other Buddhists endured torture and persecution while imprisoned by the Diem government. He was released after the Diem regime was toppled in a military coup in November of 1963. As a result of his imprisonment, Thích Quảng Độ struggled with tuberculosis before having a lung operation in Japan in 1966.


In 1965, Thích Quảng Độ was appointed as the Secretary-General of the Viện Hóa Đạo (Institute for the Dissemination of Dharma) of the UBCV.


In 1975, Vietnam was under communist control, and the UBCV was once again unwelcome in Vietnam. As a result, UBCV facilities were seized, and documents burned. Thích Quảng Độ was active in protesting the government's actions, and after attempting to gather Buddhists from other regions in non-violent opposition, he was arrested on charges of 'anti-revolutionary activities' and 'undermining national solidarity'.[3] He spent 20 months at the Phan Dang Luu Prison in solitary confinement, before he was tried and released in December of 1978. Later that year he was nominated by Betty Williams and Mairead Maguire to receive the Nobel Peace Prize.


He quoted in an open letter to Communist Party Secretary-General Do Muoi in 1994 that "Then and there I vowed to do all that I could to combat fanaticism and intolerance and devote my life to the pursuit of justice through the Buddhist teachings of non-violence."


In the 1950s, Thích Quảng Độ travelled to India, Sri Lanka, and other parts of Asia to further his Buddhist training and serve as an academic at various universities, spending seven years abroad before returning to Saigon in South Vietnam to teach Buddhism. He was a professor at the Van Hanh Buddhist University and Saigon University, among other institutions, in the 1960s and 1970s. He translated various Buddhist texts into Vietnamese and wrote Buddhist textbooks, notably a two-volume Buddhist dictionary between Vietnamese and Sino-Vietnamese, and oversaw a nine-volume Vietnamese language Buddhist encyclopedia.


In 2002, he was awarded the Homo Homini Award for human rights activism by the Czech group People In Need, which he shared with his predecessor as patriarch, Thích Huyền Quang and Thadeus Nguyễn Văn Lý. He was also awarded the Thorolf Rafto Memorial Prize and was nominated for the Nobel Peace Prize.


In 2008, as one of his last wishes, Patriarch Thich Huyen Quang named Thích Quảng Độ as the new patriarch of the Unified Buddhist Church of Vietnam, a position he would occupy until his death.[4] Upon succeeding Thich Huyen Quang, Thích Quảng Độ stated that, ”The best way to honor our late Patriarch is by putting his words into practice in our daily lives. The Supreme Bicameral Council pledges to do its utmost to re-establish the legal status of the UBCV and maintain its historic tradition of independence”.


After 20 years at Thanh Minh, he returned north to Thai Binh, before returning to Saigon to stay at the Tu Hieu Temple in Saigon. He passed away peacefully on 22 February 2020, at the age of 92.  


His life is a great example for us to learn, follow, and practice the teachings of Buddha and the Vietnamese Buddhist Youth's motto: Compassion-Wisdom-Courage


Chan Dung HT Thich Quang Do
Sơ Lược Tiểu Sử
Đại Trưởng Lão Hòa Thượng THÍCH QUẢNG ĐỘ
Đệ Ngũ Tăng Thống
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
(1928 - 2020)

1/ Thân Thế:
Hòa thượng Thích Quảng Độ, thế danh Đặng Phúc Tuệ, sinh ngày 27 tháng 11 năm 1928, nhằm 16 tháng 10 năm Mậu Thìn, tại xã Nam Thanh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, trong một gia đình làm nghề nông, theo Nho học và đời đời kính tin Phật Pháp. Thân phụ Ngài là cụ ông Đặng Phúc Thiều, tự Minh Viễn. Thân mẫu là cụ bà Đào Thị Huân, Pháp danh Diệu Hương, hiệu Đàm Tĩnh. Hòa Thượng có ba anh em trai, người anh cả là Đặng Phúc Trinh, anh thứ là Đặng Phúc Quang và Ngài là con út.

2/ Xuất gia tu học:
Năm 1934, Ngài theo học trường làng, đến năm 1942 xuất gia với Hòa thượng Thích Đức Hải, Trụ trì chùa Linh Quang, thôn Thanh Sam, xã Trường Thịnh, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông, được ban cho pháp danh Quảng Độ, sau đó được Bổn Sư gởi đến tu học tại Phật học viện Quán Sứ Hà Nội.

Năm 1944 Ngài thọ giới Sa di và năm 1947, đăng đàn thọ Cụ túc giới.

Năm 1952, Tổng hội Phật giáo Việt Nam được thành lập tại Bắc Việt do Hòa Thượng Thích Trí Hải:Tri Sự Trưởng, HT Thích Tâm Châu:Tri Sự Phó, HT Thích Tố Liên: Tổng Thư Ký. Tổng Hội này cử HT Quảng Độ đi du học ở Tích Lan, theo học tại Phật học viện Kelaniya Pirivena.

Tiếp đó, Ngài rời Tích Lan sang Ấn Độ du học cùng thời 1952-1953 với quý Ngài Thích Minh Châu,Thích Quảng Liên,Thích Trí Không và Thích Huyền Dung, trong lúc các vị Thích Tâm Giác, Thích Thanh Kiểm, Thích Thiên Ân và Thích Quảng Minh thì được cử sang Nhật du học cũng vào khoảng thời gian này. Trong thời gian du học Ấn Độ, HT Quảng Độ có dịp đi chiêm bái các Phật tích và di tích Phật giáo tại Nepal, Bhutan, Tây Tạng…

3/ Thời kỳ hành đạo:
Năm 1958, Ngài trở về Sài Gòn, chuyên dạy học và dịch Kinh sách. Biến cố 1963, Ngài tham gia Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo trong ban Thông tin Báo chí. Trong chiến dịch Nước Lũ đêm 20 tháng 8 năm 1963, Ngài bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt cùng hơn 2,000 Tăng Ni, Phật tử trên toàn quốc, nhất là tại Sài Gòn và Huế.

Sau cuộc đảo chánh của giới quân nhân ngày 01/11/1963 Ngài được thả về cùng toàn bộ chư Tăng Ni, Phật tử. Trong thời gian bị giam cầm, vì không chịu khai báo nên bị tra tấn dữ dội. Ngài và cư sĩ Cao Hữu Đính là hai người bị tra tấn dã man nhất, đến mức di chuyển phải bò vì không thể đứng bằng đôi chân. Vì vậy, sau khi được phóng thích, Ngài phải trị bệnh ba năm mà vẫn không dứt. Năm 1966 phải sang Nhật giải phẫu phổi. Một năm sau, 1967, Ngài mới bình phục trở về nước. Trên đường về Ngài ghé qua các nước Đài Loan, Hồng Kông, Thái Lan, Miến Điện để khảo sát tình hình Phật giáo Á châu. Về nước Ngài tiếp tục dịch Kinh sách và giảng dạy tại các trường: Phật học viện Từ Nghiêm, Phật học viện Dược Sư, Viện đại học Vạn Hạnh (Saigon), Viện đại học Hòa Hảo (An Giang)..v.v…

Năm 1972, Hòa Thượng là Phát ngôn nhân kiêm Thanh tra của Viện Hóa Đạo Giáo Hội PGVN Thống Nhất.

Tháng 11 năm 1973, tại Đại hội kỳ V công cử Ngài giữ chức Tổng Thư Ký Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất.

Thập niên 1970-1980: Vì không chịu để cho nhà nước Cộng Sản giám sát Giáo hội, và soạn thảo, tập hợp nhiều tài liệu gởi đến chính quyền mới để tố cáo nhiều hình thức bạo hành và đàn áp Giáo Hội, nên cùng với HT Huyền Quang và 5 Giáo phẩm cao/trung cấp khác ở Viện Hóa Đạo, Hòa Thượng đã bị nhà chức trách Việt Nam bắt giam từ tháng 4/1977, đến tháng 12/1978 được tha bổng sau một phiên tòa tại Sài Gòn nhờ áp lực của chính giới và truyền thông Âu Châu sau chuyến đi Pháp đầu tiên của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng. Đến năm 1982, bản thân Ngài và Mẫu thân của Ngài bị trục xuất khỏi Sài Gòn, cưỡng bách an trí tại nguyên quán là xã Vũ Đoài, huyện Vũ Thư, Thái Bình.

Mười năm sau Hòa Thượng tự ý bỏ nơi cưỡng bách cư trú, tìm vào Nam hoạt động công khai đòi tự do tôn giáo tại Việt Nam. Chính Quyền đã ra lệnh trục xuất Ngài về Bắc nhưng Ngài không thi hành, vì Ngài cho rằng công dân Việt Nam có quyền cư trú ở bất cứ đâu trên đất nước theo Hiến pháp quy định.

Tháng 8 năm 1995, để cấm đoán GH chuyến đưa phẩm vật đem về miền Tây Nam Bộ để ủy lạo hàng chục nghìn nạn nhân bão lụt, công an Sài Gòn đã thực hiện lệnh bắt tạm giam Hòa Thượng, sau đó, Tòa án Sài Gòn đã xét xử, tuyên phạt  Hòa Thượng 5 năm tù giam và 5 năm quản chế về tội "phá hoại chính sách đoàn kết và lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước". Các vị khác cùng bị án tù cùng vụ Thầy Không Tánh, Thầy Nhật Ban, Thầy Trí Lựcvà 2 Cư Sĩ Đồng Ngọc, Nhật Thường.

Năm 1998: Dưới áp lực của chính phủ Hoa Kỳ, Hòa thượng được trả tự do và bị yêu cầu phải đi tỵ nạn tại Mỹ, nhưng Hòa Thượng từ chối và nói rằng Ngài phải ở lại trong nước với quần chúng Phật tử. Tuy mang tiếng là được thả ra, nhưng thực chất Hòa Thượng vẫn bị quản thúc và cấm thuyết pháp. Có một đồn công an nằm trước Thanh Minh Thiền Viện giám sát gắt gao mọi người ra vào Thiền Viện.

Năm 2003, trong phiên Đại Hội Đặc Biệt của GHPGVNTN tổ chức tại Tu viện Nguyên Thiều, Bình Định, ĐH cung cử Ngài Huyển Quang vào tôn vị Tăng Thống, còn Hòa thượng được cung cử vị trí Viện trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN.

Năm 2003, Hòa thượng Thích Quảng Độ được Tổ chức People in Need, Cộng hòa Czech trao giải thưởng Homo Homini vì những hoạt động bảo vệ nhân quyền, tự do dân chủ và tự do tôn giáo ở Việt Nam.

Năm 2006, Hòa Thượng được trao Giải Thorolf Rafto vì đã "dũng cảm và kiên trì chống đối ôn hòa chế độ Cộng sản Việt Nam". Ngài là nhà lãnh đạo dũng mãnh không chùn bước trước thế quyền, dõng dạc đòi quyền tự do sinh hoạt của GHPGVNTN từ sau năm 1975 tới nay. Do vậy, Ngài cũng đã nhiều lần được đề cử giải Nobel Hòa Bình.

Năm 2008, sau khi hòa thượng Thích Huyền Quang viên tịch, theo chúc thư để lại thì Hòa thượng Thích Quảng Độ được ủy thác thừa đương tôn vị Đức Tăng Thống thứ năm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Trong khi chờ chính thức suy tôn, Ngài là Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống.

Tháng 11 năm 2011 trong Đại hội kỳ IX của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tổ chức tại Chùa Điều Ngự, Westminter, California, Hoa Kỳ, Hòa Thượng chính thức được suy tôn Đệ ngũ Tăng thống của Giáo Hội.

Sau 20 năm lưu trú tại Thanh Minh Thiền Viện, cuối năm 2018, vị Trụ trì Thiền viện này đã gây sức ép để Hòa Thượng phải rời đi. Ngày 15 tháng 9 năm 2018, HT Thích Quảng Độ đã phải rời khỏi Thiền viện, tá túc tại một số ngôi chùa; và ngày 5 tháng 10 năm 2018 lên tàu về quê ở Thái Bình. Đến ngày 18 tháng 11 năm 2018 thì Ngài trở lại Sài Gòn và đến ngụ tại chùa Từ Hiếu, Quận 8 cho đến ngày viên tịch.

4/Công trình phiên dịch và biên soạn
Trong suốt cuộc đời tu tập và hành đạo của Đại Lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, dù phần lớn thời gian bị quản thúc trong chốn lao tù, và bận rộn quá nhiều Phật sự quan trọng của Giáo Hội,  nhưng sự nghiệp trọng đại của Ngài vẫn là hoằng dương Chánh pháp để cứu độ chúng sanh qua việc thuyết giảng, phiên dịch kinh luận và giáo nghĩa Phật học để truyền bá giáo lý thậm thâm vi diệu của đức Thế Tôn. Dưới đây là một số tác phẩm và dịch phẩm của Hòa Thượng để lại cho đời: Kinh Mục Liên (3 quyển), Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân (7 quyển), Truyện Cổ Phật Giáo, Thoát Vòng Tục Lụy (lịch sử tiểu thuyết), nguyên tác của Thích Tinh Vân, Dưới mái chùa Hoang (Truyện), Nguyên Thủy Phật Giáo Tư Tưởng Luận, nguyên tác của Kimura Taiken., Tiểu Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận, nguyên tác của Kimura Taiken, Đại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận, nguyên tác của Kimura Taiken, Chiến Tranh và bất Bạo Động, nguyên tác của S.Radhakrishnan, Từ điển Phật học Hán Việt (ngài được mời hiệu đính), Phật Quang Đại Từ điển (9 tập), -Thơ trong tù (1977-1978), Thơ lưu đày (1982-1992) v.v...

5/ Viên tịch và Tang lễ:

Sau vài ngày pháp thể khiếm an, Đại lão Hòa thượng đã thuận thế vô thường an nhiên viên tịch tại Phương trượng Chùa Từ Hiếu, Sài Gòn  lúc 21 giờ 30 phút ngày 22 tháng 2 năm 2020, nhằm ngày 29 tháng Giêng năm Canh Tý, Phật lịch 2563, trụ thế 93 năm và 73 hạ lạp.

Theo thông báo của HT Thích Nguyên Lý, Trụ Trì Chùa Từ Hiếu, gởi đi ngày 23 tháng 02 năm 2020, Di huấn của cố Đại Lão Hòa Thượng là tổ chức Tang lễ đơn sơ, không để quá 3 ngày, Tăng Ni, Phật tử đến lễ bái, thọ tang không phúng điếu, kể cả vòng hoa và trướng liễn, không có điếu văn, tiểu sử, cảm tưởng và các hình thức thông thường khác, sau khi hỏa táng thì rải tro cốt xuống biển.

Trải suốt cuộc đời gần một thế kỷ, từ khi xuất gia, hành đạo cho đến lúc viên tịch, Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ đã nỗ lực không ngừng trong công cuộc xiển dương đạo pháp. Cuộc đời Ngài là một tấm gương sáng ngời về đạo hạnh, và sự nghiệp hoằng hóa của Ngài xứng đáng cho Tăng Ni và Phật tử noi theo.  Đặc biệt tinh thần vô úy của một vị Bồ Tát tại nhân gian. Mặc dù sắc thân của Ngài không còn nữa nhưng pháp thân và sự nghiệp hoằng hóa của Ngài sẽ mãi mãi là ngọn đuốc soi đường cho Tăng Ni Phật tử Việt Nam ở hiện tại và mai sau.

 Nam Mô Tân Viên Tịch Ma Ha Tỷ Kheo Bồ Tát Giới, Việt Nam Phật Giáo Thống Nhất Giáo Hội, Nguyên Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, Đệ Ngũ Tăng Thống, húy thượng Quảng hạ Độ, Đại Lão Hòa Thượng Giác Linh thùy từ chứng giám.



VP Thường Trực Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTN-HN tại UĐL-TTL

(Biên soạn theo nhiều tư liệu khác nhau)