Phe Bach
Do all things with Kindness. Mọi việc bắt đầu từ sự tử tế. Trang nhà Tâm Thường Định (Bạch X. Phẻ)
Thursday, October 15, 2020
SHORT POEMS ABOUT FAMILY
Phe Bach
Monday, October 5, 2020
Thích Mãn Giác: Cố Hòa Thượng Thích Thiện Minh
Thích Mãn Giác: Cố Hòa Thượng Thích Thiện Minh
Một gương mặt bầm tím với râu tóc mọc dài yên nghỉ trong một chiếc quan tài. Tất cả những phần còn lại của con người yên nghỉ đó đều bị che lấp, không ai biết có vết tích gì trên những phần còn lại đó hay không.” Đó là hình ảnh sau cùng của Cố Hòa Thượng THÍCH THIỆN MINH mà chúng ta biết được qua lời kể của những vị đại diện Viện Hóa Đạo đi “nhìn mặt”, hai ngày sau khi cố Hòa Thượng đã nằm xuống trong chốn lao tù của Cộng Sản.
“Thượng Tọa Thích Thiện Minh, chiến lược gia của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, người đã từng ở tù trong cả ba chế độ, hôm 17 tháng 10 năm 1978 đã bỏ mình trong một nhà tù của Cộng Sản tại thành phố Hồ Chí Minh.” Đó là lời loan tin của đài BBC London mà chúng ta và cả thế giới bên ngoài đã nghe được, cũng chỉ mấy ngày sau khi Hòa Thượng nằm xuống.
“Ngày 13 tháng 4 năm 1978, Cộng sản bắt giam Thượng Tọa Thích Thiện Minh. Người bị giam trong hầm tối tại Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia cũ, bị lột bỏ áo quần, bị bí mật chuyển sang một nhà tù khác.” Đó là những chi tiết mà một vài tù nhân và người coi tù đã có cơ hội trông thấy chuyển đến cho chúng ta.
Trên đây gần như là tất cả những gì mà chúng ta có được một cách xác thực trong 6 tháng cuối cùng của cuộc đời Hòa Thượng. Những gì đó ngắn ngủi và hiếm hoi chẳng khác gì cái khoảnh khắc giữa sống và chết của một kiếp người. Nhưng chính những gì ngắn ngủi và hiếm hoi đó lại tô đậm và làm thành một hình ảnh to lớn và cao cả khác thường trong tâm hồn của tất cả chúng ta, tất cả những người Phật tử Việt Nam và tất cả những nhà nhân bản, tôn giáo, trí thức trên khắp thế giới đã từng biết đến cố Hòa Thượng. Đó chính là cái to lớn và cao cả, không phải của quyền uy bạo lực mà là của tinh thần và khí phách con người trước bạo lực quyền uy. Bởi vì, nếu khiếp nhược, nếu chịu cúi đầu trước quyền uy bạo lực thì cố Hòa Thượng đã không phải bị bắt, không phải bị hành hạ, bị đầu độc để rồi phải nằm xuống như thế.
Đó chính là cái to lớn và cao cả, không phải của chủ nghĩa, ý thức hệ mà là của tình thương và chân lý trong cơn hoành hành, tàn phá của chủ nghĩa, ý thức hệ trên mạng sống của dân tộc và của nhân loại ngày nay. Bởi vì, nếu chịu tôn thờ chủ nghĩa hơn là tôn thờ tình thương và sự sống thì cố Hòa Thượng đã không bị bắt, đã không bị hành hạ, bị tra khảo đánh đập để rồi phải nằm xuống như thế.
Nói cách khác, đó chính là cái to lớn và cao cả của Việt Nam – một Việt Nam tinh thần và khí phách, không bao giờ chịu khuất phục, không bao giờ chịu cúi đầu làm nô lệ cho bất cứ một thế lực thống trị bạo tàn nào dầu cho phải quằn quại đau thương đến bao nhiêu chăng nữa.
Cũng nói cách khác, đó chính là cái to lớn và cao cả cho đạo Phật – một đạo Phật không mang theo súng đạn, không mặc chiếc áo chủ nghĩa mà chỉ mang theo tình thương, chỉ mặc lấy chiếc áo nhẫn nhục để chịu đựng cái khổ cho con người và ngay cả, để chết cho đồng loại được sống, cho tiếng nói của trái tim con người cất lên.
Chính vì thế mà hình ảnh của cố Hòa Thượng từ cái chết ngày 17 tháng 10 năm 1978 đã trở thành một Biểu Tượng đấu tranh cho Hòa Bình, Độc Lập và Tự Do đích thực của Dân Tộc. Cũng chính vì thế mà tưởng niệm số Hòa Thượng THÍCH THIỆN MINH, chúng ta cũng tưởng niệm đến tất cả những người con của Dân Tộc và Đạo Pháp đã bỏ mình vì nghĩa cả, những vị Tăng, Ni đã tự thiêu, những chiến sĩ đã hy sinh và tất cả những đồng bào ruột thịt đã bị thảm sát dưới chế độ Cộng sản bạo tàn.
Cũng chính vì thế mà tưởng niệm cố Hòa Thượng THÍCH THIỆN MINH, chúng ta cũng hãy đem lòng cầu nguyện cho tất cả những người con của Dân Tộc và Đạo Pháp đang bước theo con đường mà cố Hòa Thượng đã đi, những vị lãnh đạo, Tăng, Ni và Phật tử của Giáo Hội, những chiến sĩ và đồng bào ở quê nhà đang bị cầm tù hay đang nổ lực hoạt động, đấu tranh cho một ngày mai tươi sáng của Dân Tộc và Đạo Pháp.
Cúi xin Đức Phật Từ Bi gia hộ cho Giác Linh Hòa Thượng THÍCH THIỆN MINH và liệt vị Thánh Tử Đạo, cho anh linh của những Chiến Sĩ và Đồng bào đã hy sinh sớm về cõi Phật và xin cho tất cả chúng ta mãi mãi giữ vững được niềm tin để không bao giờ làm kẻ phản bội với ước vọng của Dân Tộc và với những người đã nằm xuống cho chúng ta được sống.
Los Angeles, Chùa Việt Nam, 17–10–1982
THÍCH MÃN GIÁC
Friday, October 2, 2020
THÍCH MINH CHÂU (1918–2012): VƯỢT RA NGOÀI ĐỐI TƯỢNG VÀ NGÔN NGỮ
VƯỢT RA NGOÀI ĐỐI TƯỢNG VÀ NGÔN NGỮ
THÍCH MINH CHÂU (1918–2012)
Wednesday, September 30, 2020
Thích Phước An: Lời Giới Thiệu Thi Phẩm Khói Chiều Quê Ngoại
Tranh: Đinh Trường Chinh dành cho Bìa sách
Lời Giới Thiệu Thi Phẩm
Khói Chiều Quê Ngoại
Trong tác phẩm Thong dong khắp mọi nẻo đường xuất bản tại Mỹ (2018), tác giả Bạch Xuân Phẻ (Tâm Thường Định) có một đoạn ngắn viết về quê mẹ như thế này: “Mẹ sinh ra và lớn lên ở thôn Vĩnh Hội, xã Cát Hải, huyện Phù Cát, Tỉnh Bình Định. Nơi đó đẹp và thơ mộng. Nơi hương đồng cỏ nội, nắng cát với trăng thanh, bạt ngàn cánh đồng xanh, ở vùng quê ven biển miền trung”.
Đúng là như vậy, xã Cát Hải chẳng những đẹp mà còn hùng vĩ nữa nhất là khi vượt lên dốc cao nhìn vào rặng núi Bà phía tây thì thấy vách đá núi Bà đứng sừng sững, còn nhìn về phía đông là biển cả mênh mông.
Mỗi lần có dịp về thăm quê, tôi vẫn thích đi lên con dốc Cát Hải này, nhất là vào buổi chiều để nhìn nắng vàng còn đọng lại trên các tảng đá hay trên cánh đồng xanh dưới chân núi. Trong khói chiều quê ngoại, Bạch Xuân Phẻ có hai câu:
Em ơi sỏi đá bên đường
Có còn yêu mãi ánh dương chiều tà.
Đọc hai câu thơ trên, tôi cứ tưởng tượng rằng, chắc hồi nhỏ mỗi lần về thăm quê ngoại, anh cũng nhiều lần đứng nhìn những vạt nắng mênh mông ấy. Rồi lớn lên dù phiêu dạt nơi chân trời góc bể nào những vạt nắng thuở còn tuổi thơ nơi quê ngoại ấy vẫn còn đọng lại nơi sâu thẳm của lòng anh?
Trên đỉnh núi bà có ngôi chùa, dù chùa có tên là chùa Linh Phong, nhưng người dân sống bao đời nay dưới chân núi vẫn thường gọi là chùa Ông Núi. Đây cũng là ngôi chùa mà mẹ của Bạch Xuân Phẻ và cả bên ngoại của anh đã được Hòa thượng chùa Ông Núi trao truyền tam quy ngũ giới. Nhưng vì sao gọi là chùa Ông Núi?
Quách Tấn nhà thơ nổi tiếng của Bình Định có viết trong tác phẩm Nước non Bình Định của ông như thế này:
“Người địa phương gọi là Ông Núi vì thấy nhà sư ở tu trên núi suốt năm, truyền rằng, Ông Núi dùng vỏ cây làm y phục, và ít khi xuống đồng bằng. Thỉnh thoảng cần lương thực thì gánh một gánh củi xuống chân núi để nơi ngã ba đường rồi trở lên, người dân trong vùng đem muối gạo đến để đó rồi gánh củi đem về chụm. Hôm sau nhà sư ở trên núi xuống nhận gạo muối, nhiều ít không biết, mất còn không bận tâm. Nhưng khi trong vùng có bệnh dịch, thì nhà sư lập tức đem thuốc xuống cứu chữa, chữa xong là đi lên núi ngay, một cái vái chào cũng không nhận”.
Quách Tấn đến thăm chùa vào những năm đầu thập niên thế kỷ 20, nghĩa là khoảng 300 năm sau Ông Núi viên tịch. Thế nhưng, trong Nước non Bình Định ông viết lại rằng, lúc đến cũng như lúc về nhà thơ vẫn còn nghe các em mục đồng, các chàng ngư phủ, những người nông dân sống dưới chân núi Bà vẫn còn ngâm nga:
Ông Núi đi đâu
Bỏ bầu sơn thủy
Đủ nhân đủ trí
Thêm vĩ thêm kỳ
Chùa xưa nhạt bóng tà huy
Xui lòng non nước
Nặng vì nước non.
Sở dĩ tôi có hơi dài dòng về chuyện Ông Núi như vậy, vì tôi nhớ trong tự truyện của mình, thánh Gandhi có viết một câu đại khái như thế này: “Cái gì mà tuổi thơ chúng ta đã sống thì cái đó sẽ điều động ta suốt cả cuộc đời”.
Mẹ và cả phía ngoại của Bạch Xuân Phẻ đều là đệ tử của chùa Ông Núi, nên tôi nghĩ rằng, trong những lần về thăm ngoại, chắc chắn ông ngoại, bà ngoại của anh đều có kể cho anh nghe chuyện Ông Núi tu Thiền trong hang đá nhưng vẫn lắng nghe được tiếng kêu la thống khổ từ dưới chân núi vọng lên.
Trong tác phẩm Thong dong khắp mọi nẻo đường của Bạch Xuân Phẻ, ta nhận ra anh là một thanh niên trí thức, một phật tử thuần thành, đầy nhiệt huyết đã đề cập đến nhiều vấn đề, từ thiền định, chánh niệm, thi ca đến sinh hoạt Gia đình Phật tử, cả đến vấn đề hiếu thảo với cha mẹ, nghĩa là lĩnh vực nào anh cũng tỏ ra là người đã từng thực hành và trải nghiệm chứ không phải anh viết lý thuyết suông. Đúng như bốn câu thơ mà nhà nghiên cứu Nguyên Giác Phan Tấn Hải đã viết trong lời giới thiệu:
Miệt mài từng năm tháng
Tu trí tuệ, từ bi
Khắp trời tấm gương sáng
Vin chánh niệm mà đi.
Từ khi đọc và sau đó là được quen biết anh, tôi thường suy diễn một cách thi vị rằng, có lẽ hình bóng vị thiền sư chùa Ông Núi dù tu hành trên núi cao nhưng vẫn lắng nghe được tiếng kêu cứu đau khổ của con người dưới chân núi, mà mỗi lần về thăm quê ngoại anh vẫn thường nghe bà ngoại kể lại đã nuôi dưỡng tâm hồn tuổi thơ của anh, để ngày nay anh đã trở thành một phật tử hoạt động tích cực nhằm xoa dịu bớt sự đau khổ cho con người chăng?
Quê ngoại của Bạch Xuân Phẻ cũng là quê nội của bậc anh hùng đánh Pháp ở cuối thế kỷ 19. Wikipedia tiếng việt chép:
“Nguyên quán gốc Nguyễn Trung Trực ở xóm Lưới, thôn Vĩnh Hội, xã Cát Hải, tỉnh Bình Định. Ông nội là Nguyễn Văn Đạo, cha là Nguyễn Văn Phụng (tục danh là Thắng hoặc Trường), mẹ là bà Lê Kim Hồng”
Một nhà thơ trẻ ở xã Cát Hải là Khổng Vĩnh Nguyên đã lặn lội vào các tỉnh miền nam để nghiên cứu những nơi mà Nguyễn Trung Trực đã dựng cờ đánh Pháp, đặc biệt là dòng sông mà Nguyễn Trung Trực đã đốt cháy tàu Espérance (Hy vọng). Khi về lại quê, anh đã cho xuất bản tập thơ Lửa gầm Nhật Tảo với những câu thơ đầy hào khí:
Lửa gần ngàn lưỡi cọp, liếm ngang tàu giặc
Nhật Tảo gầm vang sóng mặt trời
Tàu “Hy vọng” xâm lăng lò quay bầy bạch quỷ
Trận cuồng phong truy kích lũ mã tà
Lửa thiêng! Lửa thiêng! Đem tình yêu về lại quê nhà.
Nếu người cháu nội của làng Vĩnh Hội ở Bình Định là Nguyễn Trung Trực vào cuối thế kỷ thứ 19 qua lời thơ của Khổng Vĩnh Nguyên, chỉ có một khát vọng duy nhất là độc lập và tự do cho Tổ quốc, thì ở cuối thế kỷ 20 và những năm đầu thế kỷ 21 không chỉ khát vọng riêng cho Tổ quốc mình thôi, mà còn khát vọng những giá trị có tính phổ quát cho toàn thể nhân loại nữa, Irwin Keller có một bài thơ mà Bạch Xuân Phẻ, người cháu ngoại của làng Vĩnh Hội đã dịch sang tiếng việt có đầu đề là người Do Thái bất trung.
Trước hết, tác giả cho biết vì sao mình bất trung, và bất trung về những vấn đề nào?
Tôi không trung thành với một Đảng chính trị
Tôi cũng không trung thành với những kẻ độc tài
hay những vị vua điên cuồng kỳ thị
Tôi không trung thành với những bức tường
hoặc những cái chuồng siết chặt
Còn trung thành?
Tôi trung thành với giấc mơ công lý cho bao thế hệ,
tôi trung thành với Trái Đất chịu nhiều khổ đau.
Tôi trung thành với tự do và cởi mở
Sự thánh thiện, tình yêu và hy vọng.
Sở dĩ, tôi trích bài thơ dịch này vì nghĩ rằng đó cũng là khát vọng của tác giả Khói chiều quê ngoại, nên anh mới ngồi cặm cụi mà dịch như vậy.
Mặc dù đây là tập thơ Bạch Xuân Phẻ viết về quê ngoại, nhưng trong tập thơ này còn có bài thơ anh viết về quê cha. Nếu đọc hai bài thơ ta sẽ nhận ra rằng, bài thơ anh viết về quê ngoại hết sức dịu dàng, lại còn lãng mạn nữa, ví dụ bốn câu sau đây:
Ngày về thăm ngỡ em còn trong mộng
Ngàn lung linh ánh mắt đợi chờ nhau
Gặp người xưa đến đi như cơn mộng
Thì tiếc gì lận đận một vần thơ.
Trong khi đó bài Nhơn Lý, tức là bài viết về quê cha thì anh đã trở về đúng vị trí của anh, một thầy giáo đứng trên bảng đen nhìn xuống học trò đầy nghiêm khắc:
Nên chúng ta phải luôn ý thức
Nhơn Lý này là nhịp sống chung
Quê hương ta thì phải chung lòng
Xây dựng, yêu thương cho đến khi nhắm mắt.
Cuối cùng xin được trích hai câu thơ nữa trong thi phẩm Khói chiều quê ngoại của Bạch Xuân Phẻ:
Núi Bà xưa kiên trung ngàn năm đợi
Chào bình minh chim hót lộng trời mây.
Vậy là Bạch Xuân Phẻ dù đang lưu lạc chân trời góc bể nào đi nữa, thì anh vẫn tự hứa với lòng mình là sẽ kiên trung như rặng núi Bà hùng vĩ, vẫn đứng sừng sững tự ngàn năm ở quê nhà.
Riêng tôi cũng đã sinh ra và lớn lên dưới chân núi Bà này, nên dĩ nhiên tôi rất lấy làm vinh hạnh khi được tác giả nhờ viết lời giới thiệu.
Những ngày tôi đọc bản thảo Khói chiều quê ngoại là những ngày tôi được dịp sống lại những nơi như chùa Ông Núi, Phù Cát, Vĩnh Hội, Cát Hải, Nhơn Lý…Những địa danh mà một thời tuổi thơ tôi đã từng đi qua.
Xin cảm ơn tác giả. Và xin được giới thiệu thi phẩm này đến tất cả bạn đọc, đặc biệt là những người yêu thi ca.
Nha Trang mùa hạ 2020
Thích Phước An
Thư gởi Chư Thiện tri thức trong và ngoài nước nhân Tết Nhi đồng Việt Nam ~ Suy tư hướng về các thế hệ tương lai
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
VIỆN TĂNG THỐNG
SỐ: 05/VTT/VP
Phật lịch: 2564
Thư gởi Chư Thiện tri thức trong và ngoài nước
nhân Tết Nhi đồng Việt Nam ~ Suy tư hướng về các thế hệ tương lai
Không ít những người trong chúng ta đã sinh ra và lớn lên sau những ngày thế giới đang hồi sinh trước một hiểm họa diệt vong toàn thế giới, nhưng lại đang dấy lên nỗi lo sợ của những nhà khoa học vĩ đại nhất của thế kỷ, sau khi chứng kiến kết quả sức hủy diệt của hai quả bom nguyên tử, sản phẩm trí tuệ, đã phải cùng nhau lên tiếng “Chúng ta, những nhà khoa học, đã phạm tội với nhân loại”. Nhiều thế hệ sau vẫn biết ơn họ, những gì mà họ đã đóng góp xoa dịu khổ đau thể chất của loài người; những người mà suốt đời vùi đầu trên những trang giấy, nguệch ngoạc với những con số, những hình thể vuông tròn, cong thẳng, không hề bận tâm đến mọi tranh chấp danh lợi của thế gian; tính toán trên những hạt vật chất cực kỳ bé nhỏ, những khám phá kỳ diệu mang đến cho loài người nguồn cảm hứng cùng với nguồn hy vọng về một thế giới an toàn được bảo vệ bằng các phân tử vật chất, đồng thời cũng ghi đậm ám ảnh bởi các vật thể cực kỳ bé nhỏ ấy, một ngày nào đó có thể làm nổ tung trái đất bởi tham vọng điên cuồng của con người.
Số lớn trong chúng ta được nuôi dưỡng, lớn lên trong một đất nước nhỏ bé, trải qua hơn nghìn năm nô lệ cho các thiên triều phương Bắc, hơn trăm năm phải cúi đầu chấp nhận một nước Pháp xa xôi làm đất mẹ để được là thành viên của một nền văn minh xa lạ. Cho đến ngày độc lập dân tộc được tuyên bố, niềm tin chủ quyền dân tộc, quyền tự quyết trước các thế lực siêu cường thế giới được khơi dậy. Thế rồi, một cuộc đấu tranh quyền lực mới, có vẻ ôn hòa nhưng khốc liệt, phân chia bản đồ thế giới bắt đầu với cuộc chiến tranh lạnh, chẳng mấy chốc đẩy đất nước Việt Nam leo thang vào một cuộc chiến tranh mới, huynh đệ tương tàn, như là nơi đọ sức của các siêu cường “ai thắng ai”.
Trước những hiểm họa liên tục đe dọa hòa bình vốn dĩ mong manh cho thế giới, và trực tiếp đe dọa sinh mệnh của dân tộc Việt Nam trong bối cảnh chia đôi không chỉ về mặt địa lý mà cả về mặt ý thức hệ, thế hệ sinh trưởng sau thời đại thế chiến tuy vẫn được nghe những mẫu chuyện xảy ra trên các chiến trường thế chiến từ cha anh, chứng kiến những cảnh thân thích phân ly Nam Bắc đau lòng, nhưng vẫn ngây thơ trong sự bảo bọc của gia đình, xã hội; những ngày tiết Trung thu vẫn vô tư thắp đèn dạo chơi khắp phố phường. Những thế hệ tiếp theo, tuổi thơ vẫn vô tư trong tiết Trung thu thắp đèn dạo chơi khắp phố phường; cùng lúc, tuổi thơ trong các vùng chiến sự đêm đêm nhìn ánh hỏa châu thay cho những chiếc lồng đèn và ánh trăng rằm, cũng vô tư trong sự bảo bọc của cha mẹ, những người thân thích.
Cho đến tuổi trưởng thành, một số trong chúng ta phải vội vã bước vào đời để tìm kế mưu sinh không chỉ dưới mưa nắng thất thường, mà còn qua những trận mưa bom đạn bất trắc, với vốn kiến thức non yếu và kinh nghiệm đơn sơ làm hành trang; số khác, may mắn hơn, tìm vào các cổng Đại học để chuẩn bị vào đời trước viễn tượng mơ hồ về một tương lai trong chiến tranh hay hòa bình. Những thế hệ trẻ thơ tiếp theo, vẫn lớn lên trong nụ cười và ánh mắt hồn nhiên, rồi ngã xuống hay tiếp tục đi tới tương lai bất định.
Cho đến ngày hòa bình và thống nhất được công bố, tuổi thơ vẫn hồn nhiên vác cờ chiến thắng đi khắp phố phường cho đến các ngõ ngách thôn xóm, đả đảo văn hóa đồi trụy, chối bỏ, thiêu hủy, những gì cha anh đã gầy dựng bằng máu và nước mắt cho con em mình với hy vọng một tương lai tươi sáng trong một đất nước hòa bình dân tộc. Sự nghiệp văn hóa, giáo dục của Phật giáo Việt Nam từ cấp Tiểu học cho đến Đại học trong 20 năm chiến tranh, đã đóng góp không ít cho sự tiến bộ của miền Nam trong tiến bộ chung của các dân tộc Đông Nam Á, cùng lúc bị xóa sạch. Các thế hệ sinh trưởng trong hòa bình phần lớn có thể nghe đến xã hội miền Nam với thủ đô Saigon hoa lệ, hòn ngọc Viễn đông, như nghe chuyện kể về một đất nước xa lạ.
Công đức của các Cư sỹ Phật tử đã đóng góp vào sự nghiệp văn hóa, giáo dục ấy không nhỏ, trong thời chiến cũng như thời bình.
Vị trí của hàng cư sỹ, được Đức Phật gọi là cận sự nam (upasoka) và cận sự nữ (upasikã), trong những ngày đầu hoằng pháp dường như chỉ giới hạn trong những công đức “tứ sự cúng dường” cho hàng xuất gia có đủ nhu yếu cho đời sống hằng ngày để tu tập. Tuy vậy, trong các Kinh điển nguyên thủy hay gần nguyên thủy, tương đối không ít những đoạn Đức Phật giáo giới người tại gia như bốn nhiếp sự, bốn vô lượng tâm sau này được phát triển trở thành căn bản tu đạo và hành đạo trong Bồ-tát đạo của Đại thừa. Cho đến khi ba nhân vật tại gia, nửa hư cấu nửa lịch sử xuất hiện trong văn học chính thống của Đại thừa – Vimalakĩrti (Duy-ma-cật), Srĩ-Mãlã-devĩ (Thắng Man Phu nhân) và Sudhana-kumãra (Thiện Tài đồng tử), đã xác nhận vị trí của hàng tại gia với ba thế hệ của một đại gia đình trong một xã hội Ấn-độ phát triển đa dạng với các hình thái tôn giáọ, các hệ tư tưởng triệt học, hoặc thuận hoặc nghịch, cùng với sự phát triển các kiến thức về ngôn ngừ học tinh tế, những phương pháp nội quan đi sâu vào các bí ẩn của hoạt động tâm lý, những quan sát có tính khoa học về thế giới vật lý và tồn tại vật chất. Trong bối cảnh xã hội đó, sự xuất hiện các Cư sỹ tương đối có đù thời gian nhàn hạ để đi sâu vào các nguồn mạch tư duy từ Thánh điên mà trước kia chi dành cho hàng xuất gia đã dứt bỏ mọi ràng buộc thế tục, chuyên tâm Thánh đạo.
Cư sỹ học đạo và hành đạo không chì vì lợi ích an lạc của riêng mình ưong đời này và đời sau. Họ học đạo, nhưng không thể dứt bỏ tất cả để chuyên tâm Thánh đạo chi vì ràng buộc bởi danh lợi thế gian, nhưng số lớn vi không thể dễ dàng dứt khoát gánh nặng gia đình, phận sự đối với quốc gia xã hội. Phận sự chính là giáo dường con cháu của chính mình trưởng thành với một nhân cách tốt không chi để tốt cho bản thân và gia đình, mà trong trình độ khả dì, tốt cho cá quốc gia xã hội. Nhân cách nữa huyền thoại như Vimalakĩrti, không chỉ giàu có đến mức chiếm một vị trí ưu việt trong xã hội, đủ uy tín để có thể giáo dục như là bậc thầy của các vương tôn công tử, chỉ dần họ rèn luyện phẩm chất đạo đức và kiến thức chính trị xã hội sẽ xứng đáng là bậc quân vương lãnh đạo một đất nước trật tự, thanh bình, an lạc. Có dư tài sản để chẩn tế những hạng bần hàn cùng khổ. Có dư phẩm chất đạo đức để có thể đi vào thanh lâu tửu điếm mà thức tỉnh những tâm hồn sa đọa. Đây không phải là những điều khoa trương không thực tế. Một Asoka Đại đế của Ấn-độ. Một Nhân Tôn Hoàng đế của Đại Việt. Một Thánh Đức Thái tử của Nhật Bản. Những bậc quân vương Phật tử ấy đã để lại dấu ấn không thể phai mờ trong lịch sử dân tộc của những nước này, mặc dù triều đại phế hưng có thay đổi, các thế hệ con cháu về sau của họ có thể uốn cong dòng chảy lệch hướng lịch sử nhưng vẫn không thể xóa nhòa niềm kiêu hãnh dân tộc của một thời.
Lướt qua nhừng dữ kiện hoặc lịch sử, hoặc huyền thoại hư cấu, vai trò của trí thức trong bất cứ xã hội nào, chính yếu vẫn là kế thừa và bảo tồn di sản của tiền nhân, đồng thời giáo dục các các thế hệ theo sau tiếp tục sự nghiệp kế thừa, bảo tồn và phát triển. Trí thức Phật tử, một bộ phận trong bốn chúng đệ tử, trong tư cách là con dân của đất nước, của xã hội, dự phần trong các sự nghiệp toàn dân, giáo dục các thế hệ trẻ trưởng thành xứng đáng tầm vóc góp phần lãnh đạo từ những thôn xóm nghèo nàn cho dến những đô thị phồn vinh trong một quốc gia hưng thịnh; và đồng thời, là gạch nối, là nhịp cầu để các hàng xuất gia từ thâm sơn cùng cốc, từ những Thiền thất, Tĩnh viện, qua đó mang ánh sáng của Chánh Pháp soi tỏ tận chốn cùng khổ nhân sinh. Đó là sứ mệnh, là phận sự, đối với quốc gia dân tộc, là tâm nguyện Bồ-đề hành, lý tưởng Bồ-tát đạo, trong lý tưởng phụng sự Dân tộc và Đạo pháp.
Nguyện ấy, và hành ấy, lý tưởng cao cả ấy, dù vậy, không thể vượt qua những giới hạn của lịch sử, trong tương quan duyên khởi giữa con người và thiên nhiên, từ đó, giữa phát minh kỹ thuật và tiến bộ xã hội. Trong xã hội chi phối bởi tập quán gia trưởng, giáo dục con cháu thuộc quyền tuyệt đối của cha ông; nhất là trong xã hội chịu ảnh hưởng nặng của Nho giáo, với nguyên tắc trung-hiếu “quân sử thần tử, thần bất tử bất trung; phụ sử tử vong, tử bất vong bất hiếu”, quyền định hướng tương lai cho các thế hệ kê thừa tuyệt đối thuộc về cha ông, con cháu không có quyền quyết định tương lai sự nghiệp của chính mình. Trong Phật giáo, những chú Sa-di nhỏ “cát ái từ thân” không phải hiếm thấy, nhưng chỉ được dự hàng Tăng-già khi nào thân và trí được xác định là phát triển đầy đủ, để có thể lãnh hội và thực hành những điều Phật dạy. Đạo Phật được gọi là đạo của trí tuệ, trẻ nhỏ chưa đủ trí năng để phân biệt thiện ác thì chưa đủ điều kiện để thọ trì Tam quy Ngũ giới, trừ những trường hợp được xem là muốn gieo mầm Bồ-đề, cầu phước báo; hoặc xem như bán khoán cho Phật để được bảo vệ không bị ma quỷ quấy rối, vì là “con của Phật”. Tất nhiên, với trẻ nhỏ thì không thể giảng giải cho hiểu thế nào Tam quy, thế nào là Ngũ giới; nhưng cũng hiếm thấy nơi nào giảng cho trẻ nhỏ biết thế nào là khổ đế, cho đến con đường dẫn đến diệt khổ là đạo đế. Lại càng khó giảng hơn, tuy chỉ là vấn đề kỹ thuật, thế nào an lạc của sự tĩnh lặng, tĩnh tâm. Trong suốt trên dưới hai nghìn năm lịch sử, Phật giáo Việt Nam hầu như chỉ dành cho người lớn, thậm chí chỉ là tôn giáo cho người chết, thịnh hành với các nghi thức cầu siêu, chẩn tế cô hồn. Vắng bóng tuổi thơ.
Tình trạng như thế đã bắt đầu thay đổi, từ khi linh cảm không chỉ nguy cơ đất nước có thể sẽ là một tỉnh lẻ của Pháp quốc bên tận trời Tây; nhưng cùng đồng thời đe dọa hủy diệt nguồn tín tâm đã đồng hành với dân tộc qua hai nghìn năm thăng trầm vinh nhục; các hội đoàn Phật giáo với cơ cấu mới của Tăng-già, đồng thời các hội đoàn cư sỹ cũng lần lượt xuất hiện, trong giai đoạn gọi là “Chấn hưng Phật giáo”. Một trong những bước tiến của giai đoạn đó là thành lập tổ chức thanh niên Phật tử, tiên khởi với Gia đình Phật hóa phổ, sau đó cải danh là Gia đình Phật tử Việt Nam, và sau đó nữa, là đích tử trung kiên của GHPGVNTN.
Tạm thời nhìn qua phương Tây. Phật giáo chỉ được biết đến, chính thức trong giới học thuật, cũng từ thế kỷ thứ 17; cho đến cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, một phần cũng chỉ giới hạn trong phạm vi nghiên cứu, tán dương cũng nhiều, mà phê bình chỉ trích cũng không ít. Thật khó cho quảng đại quần chủng phương Tây chấp nhận một hệ tư tưởng tôn giáo không tin vào một Thượng đế sáng tạo.
Cho đến vài thập niên hậu bán thế kỷ 20, và những năm đầu thế kỷ 21, Phật giáo như vết dầu loang, một cách chậm chạp, ôn hòa và khiêm nhượng, được các thế hệ quần chúng trong các xã hội phương Tây đón nhận như một nguồn cảm hứng bổ sung cho sinh hoạt tâm linh. Tuy tín tâm đối với Phật pháp ở đây chưa trải qua thời gian dài như Việt Nam, cũng chưa thể nói sâu hoặc cạn; nhưng giáo dục con em theo hướng Phật giáo đã trở thành ưu tư của những cha mẹ mới biết đến và mới tin Phật, và những con số sách dạy con trẻ về giáo lý Phật thì vượt quá xa Phật giáo Việt Nam vốn tự hào đã có trên dưới hai nghìn năm lịch sử. Những tập sách nhỏ bé, với số lượng cũng nhỏ bé, cũng không phải hiếm thấy về các đề tài ở đây, nhưng hiếm thấy ở Việt Nam: Buddhism for Kids, Meditation for Kids, cho đến Buddhism for Young Mothers… ; cũng có cố gắng giải thích cho thiếu nhi, mượn hoạt cảnh chú mèo, hiểu biết khổ đế là gì, cho đến đạo đế là gì; những điều mà ngay cả những bác đi chùa lớn tuổi ở Việt Nam cũng cảm thấy khó hiểu.
Theo thống kê không chính thức hiện tại, có rất nhiều nhóm lớn nhỏ được tổ chức sinh hoạt và tu học Phật pháp cho thanh thiếu niên và đồng niên trong cả ba miền Nam-Bắc-Trung; tổng số đoàn sinh, đoàn viên ước lượng khoảng 102,000, trực thuộc các Giáo hội, hoặc các hệ phái trong Giáo hội này hay Giáo hội khác. Mặt khác, con số thanh thiếu niên và đồng niên sinh hoạt các khóa tu học mùa hè mỗi năm vài lần trong các nhóm hay tự viện độc lập ước lượng khoảng 166,000. Đây là con số thật khích lệ cho những ai quan tâm đến giáo dục Phật giáo các thế hệ tương lai. Nhưng so với con số hơn 6 triệu đoàn viên đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, thì con số ấy chỉ như viên sỏi lăn lóc dưới khối đá lớn.
Nhìn vào bối cảnh sinh hoạt các tổ chức này, lớn nhỏ tự phát trực thuộc hoặc không thuộc Giáo hội nào hay hệ phái nào; những thuyết giảng giáo lý đa dạng, phong cách thuyết giảng hay căn bản giáo lý được nghe nhìn phổ biến trên các trang mạng truyền thông có khá nhiều điều ít tìm thấy trong các hệ Thánh điển được lưu truỵền cho đến nay. Đây quả thực không thể nói là hiện tượng trăm hoa đua nở trong vườn Thiền; nên nó là những dòng thác lũ có thể cuốn sập lâu đài Phật giáo Việt Nam được xây dựng cả nghìn năm lịch sử.
Ở đây chúng ta không nói đến sự cần thiết của một dòng phát triển chính thống, nhằm loại trừ các dòng phát triển được xem là không chính thống, mà là dòng hợp lưu của những phát triển tự phát và đa dạng, thích hợp cho nhiều căn cơ trong một xã hội phát triển đa dạng tương lai. Để thực hiện được điều này, không thể không cần đến các hoạt động của kiến thức hàn lâm từ các cơ sở Đại học theo đường hướng giáo dục nhân bản và khai phóng, như dịnh hướng giáo dục của Viện Đại học Vạn Hạnh trước đây, trong đó tụ hội các trí thức Phật tử hàng đầu không chỉ trong giới Phật giáo mà trong cả nước, từ đó không chỉ giáo dục đào tạo những nhân viên phục vụ trong các tập đoàn xí nghiệp lớn nhỏ, mà còn là những khả năng khả dĩ lãnh đạo quốc gia, kiến thiết xã hội, và khi cần thiết, trong một xã hội đang có nguy cơ thoái hóa, với số lượng sinh viên dù nhận thức để gây phong trào thúc đẩy xã hội tiến tới trong tinh thần bao dung, hòa hiệp. Một cơ cấu hàn lâm như vậy có thể là mối đe dọa đối với những chính khách tham quyền, do đó một Viện Đại học hoạt động giáo dục nhân bản và khai phóng theo nguyên tắc tự trị sẽ khó vượt qua chướng ngại của quyền lực chính trị. Vì vậy, cho đến nay, đất nước hòa bình gần nửa thế kỷ, một cơ chế Đại học chưa hề được chấp nhận cho Phật giáo. Các cơ sở giáo dục cấp cao mà Nhà Nước cho phép cũng chỉ là các trường Cao cấp Phật học dành riêng cho giới xuất gia, không được thừa nhận tương đương với hệ giáo dục Cao đẳng, nói gì đến Đại học chuyển tải các kiến thức Phật pháp cũng như thế gian pháp.
Theo thống kê dân số của Tổng Cục Thống Kê, “Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019”, công bố ngày 19/12/2019 vào lúc 2:33:35 PM, trên trang mạng truyền thông toàn cầu: tổng số dân của Việt Nam là 96.208.984. Trong số đó, đông nhất là tín đồ Công giáo, 5,9 triệu người. Tiếp theo, 4,6 triệu người theo Phật giáo, chiếm 4,8% tổng số dân cả nước. Nhìn vào số liệu này, con số được gọi là Trí thức Phật tử trong số 4,6 triệu người theo đạo Phật, quả là quá ít, so với hơn 5 triệu đảng viên và trên 6 triệu đoàn viên Thanh niên Cộng sản, nếu chúng ta thực hiện chỉ cần một phép tính đơn giản. Rõ ràng đây là những con số khống chế bằng áp lực chính trị và kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, số lượng ấy không đủ để lập thành một dòng chảy chính qui điều hòa dung hợp nhiều dòng chảy thành một hợp lưu, để không trở thành những mâu thuẫn xung đột gay gắt có thể dẫn đến những tổn hại cho xã hội, không chỉ về mặt tín ngưỡng tiêu cực, mà còn tác hại đến các định hướng giáo dục, văn hóa, kinh tế, xã hội cho các th hệ tương lai.
Ngày nay, trong những biến động từ thiên tai đến nhân họa, những đấu tranh quyền lực gay gắt nội bộ và xung đột quốc tế giữa các quyền lực, dấu hiệu hay dự báo một sự phân chia quyền lực quốc tế đang hay có thể sẽ diễn ra; những điều có thể ảnh hưởng không lớn đối với chúng xuất gia tịnh tu trong các tĩnh thất hay thiền viện, nhưng tác động không nhỏ đến các chúng tại gia, cơ bản là vấn đề an ninh xã hội, và điều kiện kinh tế, từ đó tác động đến các sinh hoạt giáo dục, văn hóa. Trong tình trạng có thể diễn ra ấy, trí thức Phật tử tự trang bị cho mình một căn bản giáo lý để có khả năng quan sát những biến động xã hội, tự mình định hướng và đồng thời y chỉ trên căn bản giáo lý được học và hành trợ duyên cho con em mình cũng đủ khả năng tự định hướng cho tương lai, góp phần định hướng cho sự phát triển của xã hội, của quốc gia dân tộc.
Tuy nhiên, hàng Phật tử tại gia thường trực sống trong xã hội đầy biến động, chỉ có thể bình tâm định hướng cho chính mình và trợ duyên cho các con em của mình tự định hướng cho tương lai, nếu có cơ sở vững chắc. Ngôi Tam bảo mà Đức Thế Tôn thiết lập cho thế gian, sở y cho bốn chúng hòa hiệp đồng tu, trong đó Tăng-già thanh tịnh hòa hiệp, là hiện thân trong lòng thế tục làm sở y vững chắc cho sự hòa hiệp của bốn chúng. Cơ chế Tăng-già tan vỡ sẽ kéo theo sự phân hóa, mâu thuẫn xung đột giữa bốn chúng, như thực tế đã diễn ra.
Nói tóm lại, uy đức của Tăng-già thanh tịnh và hòa hiệp là sở y cho sự hòa hiệp đồng tu của bôn chúng đệ tử. Sự tụ hội của bốn chúng trong hòa hiệp đồng tu là cơ sở để kiến thiết một Giáo hội, trong đó luật đạo và luật đời không mâu thuẫn, có đủ phẩm chất và năng lực góp phần trong các sự nghiệp giáo dục, văn hóa, xã hội, kinh tế, đưa đất nước tiến vào thời kỳ trật tự, thanh bình và an lạc. Đây cũng là lý tưởng Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành của bốn chúng đệ tử của Đức Thế Tôn, vì sự an lạc của tự thân, gia đình, và xã hội.
Tiết Trung thu, niềm vui của thiếu nhi, cũng là nguồn cảm hứng hy vọng hướng về tương lai của bốn chúng đệ tử Phật.
Phật lịch 2564,
Tiết Trung thu, năm Canh Tỷ Khâm thừa Uy thác,
Tỳ-kheo Thích Tuệ Sỹ
______________________________
*Bản sao kính gởi Chư Tôn đức đế kính tường