Showing posts with label Giới thiệu tác phẩm. Show all posts
Showing posts with label Giới thiệu tác phẩm. Show all posts

Tuesday, May 10, 2022

Cỡi Tâm Vào Cõi Lời của Huỳnh Kim Quang


Bia sach Coi Tam Vao Coi Loi_new

Cỡi Tâm Vào Cõi Lời của Huỳnh Kim Quang


Huỳnh Kim Quang, Pháp danh Tâm Huy, là một nhân sỹ Phật Giáo. Chúng tôi có nhân duyên quen biết anh qua những sinh hoạt Phật giáo tại Hoa Kỳ, Văn học Nghệ thuật và trong những tác phẩm của anh như: Những Mộng Đàm Về Phật Giáo Thiền Tông (Quốc sư MuSo, Nhật Bản, do Huỳnh Kim Quang dịch Việt, 1996); Đức Đạo Kinh – Tác giả: Lão Tử, Huỳnh Kim Quang dịch Việt và chú thích, (dựa trên bản mới phát hiện năm 1973, tại Tỉnh Hồ Nam, Trung Hoa, 1994); Từ Mảnh Đất Tâm do Lotus Media xuất bản  năm 2019 và Cỡi Tâm Vào Cõi Lời do Lotus Media xuất bản vào tháng 4, 2022.


Cỡi Tâm Vào Cõi Lời có tựa sách thật hay, đẹp, thơ mộng và đầy triết lý, như cái bút hiệu Ỷ Thu Am của tác giả vậy. Ỷ, theo cái hiểu của người trong tinh thần đạo Phật là như thị; Ỷ Thu Am là cái am đang hiện hữu “như là” giữa mùa Thu đẹp, lãng mạn, bình an và đang chuyển mùa trong cõi ta bà này. Nó như thật, như huyễn, như mộng, như có như không, như lời của Thiền Sư Thanh Từ viết vào năm 1980.

 

MỘNG

Gá thân mộng,

Dạo cảnh mộng.

Mộng tan rồi,

Cười vỡ mộng.

Ghi lời mộng,

Nhắn khách mộng.

Biết được mộng,

Tỉnh cơn mộng.  


Cuốn sách này cũng là một sự gọi ý, hú nhau: hãy cùng nhau tỉnh mộng. Cái rõ-ràng-thường-biết ngay ở đây và bây giờ, trong từng văn tự của tác giả đã để tâm huyết viết và chia sẻ. Tựa sách cũng nói lên bản lĩnh tu tập và văn học của tác giả rồi. Cỡi Tâm, y như trong Thập Mục Ngưu Đồ, 10 bức tranh chăn trâu, (nhà Thiền ví con trâu như tâm của con người), tác giả đã hẳn điều phục con trâu lòng từ lúc nó còn lung lạc hoang dã cho đến khi nó thuần thục trong việc đồng áng. Và hiểu xa hơn là tâm tác giả có thể thông suốt những thuốc độc trong đời “tham, sân, si, mạn, nghi” của bản tâm mình và chuyển hóa để đạt an vui và hạnh phúc. Còn cõi lời cũng có thể là vô biên, phức tạp, đầy mạo hiểm, thế mà tác giả chấp nhận sự hiểm nguy đã thong dong vào chợ. Chính tác giả cũng đã thừa nhận trong lời nói đầu:

 

Nhưng cỡi tâm đi vào cõi lời vừa có lắm thú vị mà cũng không ít hiểm nguy. Thú vị vì viết lách hay diễn thuyết là một thú vui tiêu khiển hay một đam mê của con người. Đặc biệt là trong cõi văn chương, người cầm bút có được cái môi trường tự do, ít nhất trong cõi tâm của riêng mình, để sáng tạo ra những điều hay ý lạ đôi khi là thật, đôi khi là ảo – hư cấu. Trong lúc sáng tác, người cầm bút sống trong thế giới như ảo như thật. Những ý tưởng từ trong tâm người cầm bút tuôn ra đôi khi vượt ngoài sự kiểm soát của chính tác giả mà là những điều chợt hiện, chợt biến, chợt trào ra trong khoảnh khắc bất ngờ. Đó chính là giây phút sáng tạo tuyệt vời và thú vị nhất mà người cầm bút kinh qua. Trong trạng thái bốc đồng sáng tạo tuyệt vời ấy, người cầm bút không phân biệt mình là tác giả và chữ nghĩa là tác phẩm của mình. Lúc đó chỉ có một, nhất thể. 

 

Hiểm nguy vì cỡi tâm đi vào cõi lời là cuộc hành trình mạo hiểm đầy thách thức đối với người cầm bút. Thách thức lớn nhất là tính sáng tạo. Người cầm bút nếu không có sáng tạo thì không viết ra được những điều mới lạ, hay đẹp khác với bao nhiêu người cầm bút khác. Ngoài tính sáng tạo người cầm bút còn phải có kinh nghiệm và nghệ thuật viết lách. Nhưng những điều vừa nêu chỉ là thách thức mà không phải là hiểm nguy đối với người cầm bút. Hiểm nguy đối với người cầm bút là bị cuốn hút hay bị quay cuồng trong cõi tâm thác loạn của vọng tưởng và cõi lời quấn chặt vào danh ngôn. Lúc ấy, cõi tâm và cõi lời như cặp bài trùng làm nhân làm duyên đưa đẩy nhau càng lúc càng lao vào cõi đảo điên của pháp sinh diệt, hư ngụy mà cứ tưởng là thật.” (Trang 9).


Người đọc cứ ngỡ như tác giả đang “văn dĩ tải đạo”, nhưng không, chính tác giả đã không trụ ở hai bờ đối đãi, tiêu cực-tích cực, có-không, còn-mất. Chính tác giả đã nhận chân:

Bản thể của ngôn ngữ là rỗng lặng, là không. Văn tự cũng như ngôn thuyết được cấu thành bởi nhiều yếu tố: chữ, lời, ý tưởng, người viết hay nói, người đọc hay nghe, v.v... Chữ hay lời cũng được cấu thành bởi nhiều yếu tố: từng chữ cái, từng phát âm, nhiều chữ hay nhiều lời nói thành câu. Khi một chữ được viết ra hay một lời được nói ra nó đi vào quá khứ, tức đã diệt, không còn tồn tại trong hiện tiền. Một câu được viết hay nói ra nếu không được liên kết lại bởi người đọc hay người nghe thì chúng biến mất vào quá khứ. Cho nên câu viết hay nói tồn tại đối với người đọc hay người nghe không phải là chân thân hiện tiền của câu của chữ mà là sản phẩm của tâm thức. Tâm trong tình trạng này cũng chỉ là tập hợp của những ý niệm, ký ức. Nhưng cái gì được cấu thành bởi nhiều yếu tố hay điều kiện mà nhà Phật gọi là duyên thì cái đó chỉ là một tập hợp giả danh, không có thật thể, không thật hữu, là không. Như vậy, tận cùng của ngôn ngữ là rỗng lặng, là giải thoát.” (Trang 10).

 

Vì thế, tác giả viết như một lối hành thiền–nhận chân vào cửa pháp, bất nhị - tánh không. Còn ta những người đọc có thể thấy được tinh thần nhập thể, đem Đạo vào đời của tác giả thật đáng trân trọng, yêu quý và tuyên dương.  Hãy đọc một số bài trong một 100 trang đầu như, Câu Chuyện Về Cuộc Đời Đức Phật, Bhikkhu Bodhi | Huỳnh Kim Quang Dịch Việt; Đọc Sách ‘thiền Định Phật Giáo, Khởi Nguyên Và Ảnh Hưởng’ Của Hòa Thượng Tuệ Sỹ; Thiền Sư Daisetsu Teitaro Suzuki, Người Đưa Thiền Vào Mỹ | Huỳnh Kim Quang Dịch Việt; Khái Luận Về Văn Học Phật Giáo; Ảnh Hưởng Của Phật Giáo Đối Với Nền Văn Học Mỹ; Đọc Vài Bài Thơ Về Mẹ Trong Mùa Vu Lan; 200 Năm Nguyễn Du Qua Đời, Đọc ‘Phân Kinh Thạch Đài’; Giới Thiệu Văn Học Của Người Mỹ Bản Xứ; Emily Dickinson, Nhà Thơ Ẩn Dật, Trong Cõi Thơ Vô Ngã; Đọc Bài Thơ ‘giấc Mơ Hoang Vu Về Một Bắt Đầu Mới’ Của Nhà Thơ Lawrence Ferlinghetti Vừa Qua Đời; Đầu Thu Đọc Truyện ‘chớm Thu’ Của Nhà Văn Louis Bromfield; Fyodor Dostoevsky, ‘Brothers Karamazov’ Và Chuyện Tiền Thân Đức Phật…

 

Ở đây, chúng ta thấy cái uyên thâm sâu việt của người viết. Anh quả là một người đọc sâu, hiểu rộng. Cái rộng và cái rỗng rang của nhà Phật anh điều nắm chắt để từ đó viết để chia sẻ như viết từ cõi tâm trong. Hãy đọc tiếp đi, rồi chúng ta sẽ tìm gặp…

 

“Ernest Hemingway Và Nỗi Cô Đơn Của Lão Ngư Ông; Harriet Beecher Stowe và ‘túp Lều Chú Tom’ Đang Cháy; Lễ Halloween Đọc Truyện Ma ‘the Shining’ Của Stephen King; Nobel Văn Chương 2019 Olga Tokarczuk, Người Kể Chuyện Tử Tế; Khôi Nguyên Nobel Văn Chương 2020, Louise Glück Sinh Ra Để Làm Thơ; Năm Mới 2021 Đọc Thơ Tân Niên Của Nhà Thơ William Stanley Merwin; Nhà Văn F. Scott Fitzgerald Và Cuốn Tiểu Thuyết Lớn Của Mỹ ‘the Great Gatsby’; Nhà Văn Larry Mcmurtry, Người Bảo Vệ Quyền Tự Do Ngôn Luận, Vừa Qua Đời Ở Tuổi 84; Nhà Văn Mỹ Gốc Phi Châu Alex Haley, Vinh Và Nhục Của ‘nguồn Cội’; Nhà Văn Eric Carle Và Truyện Tranh Thiếu Nhi Nổi Tiếng Thế Giới ‘the Very Hungry Caterpillar’; Nhà Văn Beverly Cleary, Người Tạo Ra Nhiều Nhân Vật Nổi Tiếng Trong Văn Học Thiếu Nhi Như Henry Huggins, Ramona Quimby; Lưu Hiểu Ba Và Tình Yêu Bên Trong Bức Tường Xám; Đọc ‘909 Bài Thơ Ba Dòng’ Của Nguyễn Hưng Quốc Như Vào Mật Thất Đọc Bí Kíp Thơ; Nhà Thơ Hoa Nguyen Và ‘một Ngàn Lần, Bạn Đã Mất Bảo Vật Của Mình’; Cười Với Milan Kundera Qua ‘Cái Cười & Sự Lãng Quên’ do Trịnh Y Thư Dịch; Eve Ensler, Đóa Sen Vươn Lên Từ Bùn; Henry David Thoreau Và Phong Trào Bất Tuân Dân Sự; Di Sản Âm Nhạc Của Người Mỹ Gốc Phi Châu.”


Sẽ tìm gặp một Tâm Huy-Huỳnh Kim Quang. Thôi, cứ đọc, cứ cảm nhận và lãnh thọ. Hãy đọc thật chậm, từng bài và đọc lại từng đoạn nếu có thể. Trong một cõi lòng cởi mở, sự tỉnh giác của tâm, bạn sẽ thấy được “nhi hưng đại bi tâm" của chính mình. 

 

Có thể nói tác phẩm này cũng là di sản trong văn học Phật giáo tại hải ngoại nói riêng và cho văn học Phật Giáo Việt Nam nói chung. Xin được trân trọng giới thiệu và trân quý đến tác giả và những ai có hữu duyên đọc tác phẩm này. Vậy nhé. Không bàn nữa. Hãy đọc từ từ bạn nhé. Cầu chúc cho mọi người và mọi loài đều an lành.


Tâm Thường Định

(Sacramento, CA)




Friday, April 15, 2022

Chân Văn - Đỗ Quý Toàn: CHÚ GÀ CON GIỮ CHÁNH NIỆM

 

Bản tiếng Anh mua ở đây, trên Amazon.

Bản tiếng song ngữ, Lotus Media đang chuẩn bị ra mắt.


CHÚ GÀ CON GIỮ CHÁNH NIỆM

Chân Văn


Cuốn sách nhỏ này có thể áp dụng được. Trẻ em có khả năng tập sống trong chánh niệm một cách tự nhiên, dễ dàng. Tôi đã thấy và đã học, từ một cháu bé.

Hồi ba, bốn tuổi, cháu Anica thường được gửi ông bà ngoại nhiều lần, có khi ở lâu mấy tháng. Buổi tối bà ngoại ngồi thiền, cháu hỏi bà làm gì, sao không chơi với cháu. Bà nói bà ngồi thở, tốt lắm. Bà rủ cháu cùng ngồi. Cháu vì thương bà nên đồng ý ngồi xuống, được mấy lần.

Khi cháu 6, 7 tuổi, ở xa ông bà đã mấy năm, một hôm mẹ cháu điện thoại kể ông bà nghe một bài cháu viết trong lớp. Cô giáo bảo các học sinh hãy kể lại về nơi nào mình thích nhất. Anica kể ở nhà ông bà. Cháu nhắc đến chuyện buổi tối bà rủ ngồi thở, viết “… có thể nói là chán lắm, nhưng cũng tốt. Vì bây giờ mỗi khi tôi bực tức (upset) chuyện gì, tôi thở một hơi từ từ, thấy hết upset.”

Cháu Anica theo bố mẹ qua sống ở Thái Lan lúc một tuổi. Nhà cháu ở trong khu Đại học Mahidol. Mỗi khi theo bố mẹ ra ngoài, cháu thấy các sinh viên đi tới góc đường thì đứng lại, ngưng trò chuyện, chắp tay vái pho tượng Phật trên ban thờ. Dân Thái Lan hay đặt bàn thờ Phật khắp nơi như vậy. Ngày ngày, Anica bắt chước vái theo. Cháu học được động từ “vái” trong tiếng Thái Lan.

Khi về thăm ông bà ở Mỹ, vào trong nhà thấy bàn thờ Phật cháu cũng dừng chân, chắp tay, vái. Ra vườn thấy pho tượng Quán Thế Âm, cháu cung kính vái. 

Một hôm hai ông cháu cùng ở vườn sau nhà, ông ngồi đọc sách, cháu tha thẩn với mấy món đồ chơi. Có lúc, ông ngoại ngẩng đầu lên khỏi cuốn sách để tìm cháu, thấy cháu đang đứng trước một bông hoa. Cháu đứng nhìn hoa, im lặng, khoảng một phút đồng hồ, rồi bỗng dưng cháu chắp hai bàn tay lại, vái bông hoa, cung kính như vái Phật. 

Ông ngoại ngạc nhiên hỏi: “Anica, tại sao  con vái bông hoa?” Tôi nói tiếng Anh, trừ động từ “vái.” Cháu trả lời: “Vì nó đẹp quá!” (Because, it’s beautiful!)

Đứa cháu ba bốn tuổi đã dậy ông một bài học. Nhìn một bông hoa đẹp, nhìn chăm chú, nhìn toàn thể, nhìn bằng mắt, nhìn bằng cả tâm, thân. Cả thế giới chỉ còn bông hoa và người đứng ngắm hoa. Người và hoa thở chung một bầu không khí, trao đổi với nhau trong im lặng. Không biết cháu thấy bông hoa đẹp thế nào đến nỗi trong lòng nổi lên một niềm mến yêu, cung kính, biết ơn, cháu chắp tay vái.

Từ đó, mỗi khi nhìn một bông hoa tôi lại thực tập bài học của Anica. Khi thấy một cảnh chiều tà mặt trời đỏ ối, tôi chăm chú định thần ngắm nghía. Gặp một tảng đá đẹp, một gốc cây già, một búp lá xanh, tôi chiêm ngưỡng, rồi cúi đầu vái. Thế giới chung quanh thay đổi.

Các em nhỏ có thể thực tập theo cuốn sách này của Bạch Xuân Khang và Bạch Xuân Phẻ. Tập thở chậm và đều. Dễ lắm. Tập khi ăn thì biết đang ăn gì, ăn thế nào, cảm thấy miệng mình tiếp xúc với từng miếng thức ăn. Khi đi, biết chân mình bước thế nào, mỗi hơi thở mình đi mấy bước. Như thế gọi là có chánh niệm. Khi trong lòng nổi lên một niềm vui hay một nỗi bực bội, bỗng nhiên mình nhận ra: Ah! Mình đang vui! Ah! Mình đang giận! Đó cũng là có chánh niệm.

Bất cứ người theo tôn giáo nào hay không có tôn giáo đều có thể thực tập chánh niệm. Sống chánh niệm quen dần dần, sẽ thấy mình sống bình an, hạnh phúc hơn. 

Xin mời quý vị thử đọc cuốn sách nhỏ này, đọc từ từ, từng dòng, từng chữ. Đọc một trang rồi gấp sách lại, thở một hơi dài chậm và đều. 

Xin chép tặng quý vị và hai tác giả một bài thơ viết ở Làng Cây Phong, Québec, Canada, là nơi chúng tôi vẫn về thực tập sống chánh niệm. 



HÂN HOAN NHƯ MỚI THỞ LẦN ĐẦU


Ở trên núi rất nhiều không khí

Người tới đó tha hồ được thở

Hít vô hai lá phổi đã đời

Máu chảy nhộn nhịp tim hớn hở

*

Không khí rất tốt cho sức khỏe

Phải nói, không khí là nguồn vui

Dù người hăm bốn giờ bận rộn

Cũng nên thỉnh thoảng thở vài hơi

*

Vì không khí quý báu như thế

Cho nên mình phải thở đàng hoàng

Như khi người bịnh cần tẩm bổ

Phải đọc kỹ cách dùng thuốc thang

*

Trước hết người thở phải hít vào

Hít vào đầy đủ rồi thở ra

Hít vào, thở ra, bụng nghe ngóng 

Cẩn thận như hồi tập lái xe

*

Dù mình biết thở không khó lắm

Nhưng thở vô ý là phí phạm

Trái đất, cỏ cây và mặt trời

Giữ bầu khí quyển mấy tỷ năm

Không biết, dùng sai, thật rất uổng

*

Cho nên vừa thở vừa chăm chú

Thở ra xong rồi là hít vào

Mỗi bận về Làng, lòng rộn rã

Hân hoan như mới thở lần đầu


Đỗ Quý Toàn


Tuesday, February 2, 2021

Nguyên Giác: Đọc “Phật Điển Phổ Thông: Dẫn Vào Tuệ Giác Phật”

 Đọc “Phật Điển Phổ Thông: Dẫn Vào Tuệ Giác Phật”

Nguyên Giác

Bìa sách “Dẫn Vào Tuệ Giác Phật” (Photo: sachhuongtich.com)


Ấn phẩm “Phật Điển Phổ Thông: Dẫn Vào Tuệ Giác Phật” (DVTGP) là tuyển tập Kinh và luận ghi từ 3 truyền thống: Thượng Tọa Bộ, Đại Thừa, Kim Cang Thừa. Sách dày 850 trang, chữ nhỏ. Do vậy, khi viết bài này, dù nói là “đọc sách” hay nói là “giới thiệu sách” cũng chỉ là mạo phạm. Cũng y hệt như vào một thư viện Phật học khổng lồ, và tự biết rằng sức người chỉ có thể đọc một phần rất nhỏ, nơi một góc các kệ sách thư viện. Người viết tự biết là không dễ để viết về ấn phẩm này, dù là với nhiệt tâm muốn mời gọi độc giả tìm đọc, để thỉnh ấn phẩm này. Đúng ra, những dòng chữ này xin là “vài suy nghĩ rời” về một ấn phẩm rất cần thiết cho người học Phật.

Phản ứng đầu tiên là giựt mình, khi nhìn thấy tác phẩm quý giá này chỉ “in 1000 cuốn, khổ 12X20 cm tại Xí nghiệp In Fahasa” – tại sao in quá ít như thế, đó là điều rất khó hiểu. Người viết ước mơ rằng sách này nên in vài chục triệu ấn bản, trao tặng tất cả Phật Tử và những người quan tâm về Phật học. Tuyển tập Phật Điển này để đọc một đời, không chỉ để đọc trong một tuần, một tháng hay một năm.

Một điểm nữa, nói “đọc” hay “giới thiệu” sách Phật Điển chỉ là nói theo kiểu ngôn ngữ phàm trần. Bản thân mình có tư cách gì mà làm như thế. Nơi đây, chỉ là lạm dụng ngôn ngữ thôi. Bởi vì Kinh là Lời của Phật, làm sao mình dám làm như khi gặp các tác phẩm truyện hay thơ trong đời thường. Tuy nhiên, nếu lặng lẽ chắp tay, đặt bộ Phật Điển này lên bàn thờ thì lại có lỗi khác, vì không quảng diễn một vài điểm có thể lợi ích cho một số độc giả.

Thêm nữa, đâu có phải chỉ đọc một tuần hay một tháng là xong. Kinh Phật đôi khi có những kinh rất ngắn, mà phải đọc trọn đời. Đó là chưa kể, có những kinh hướng dẫn tu tập, ngay cả các kinh quen thuộc, tu vẫn là cả một đời, như Từ và Bi nơi trang 486, như Chỉ và Quán nơi trang 527, như Bốn Niệm Trụ (thường dịch là Tứ Niệm Xứ) nơi trang 531, Niệm Hơi Thở nơi trang 538, hay Quán Vô Ngã nơi trang 660 là pháp tu trọn đời --- không chỉ để đọc hay để tụng, vì đọc tụng thì không vào sâu được. Nói chung, ấn phẩm DVTGP là cuốn sách với trang nào cũng cần đọc, với dòng chữ nào cũng cần trân trọng.

Sách “Phật Điển Phổ Thông: Dẫn Vào Tuệ Giác Phật” thực hiện với Chủ biên bản dịch Việt là Lê Mạnh Thát và Tuệ Sỹ, ấn hành do Hương Tích và NXB Hồng Đức. Sách này là một dự án của Hội Đồng Vesak Quốc Tế, đặt tại Đại Học MCU của Thái Lan. Kết tập và soạn tập sách này là nhiều Biên tập viên và dịch giả quốc tế. Trong đó, phía người Việt có Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, GS TS Lê Mạnh Thát, và GSTS Thích Nhật Từ. Biên tập viên và dịch giả tiếng Việt, với Tổng biên tập là Thầy Thích Tuệ Sỹ, và các vị phiên dịch là: Thích Hạnh Viên, Thích Nữ Khánh Năng, Thích Thanh Hòa, Pháp Hiền Cư sỹ, Nguyễn Quốc Bình.

Duyên khởi sách này là từ Hội nghị lần thứ nhất của Hội Đồng Tăng già Thế Giới tại Colombo năm 1967, một số khoảng 20 học giả Phật Giáo tuyển chọn từ ba truyền thống Phật Giáo đảm trách dự án này. Trưởng Biên tập là Hòa Thượng GS TS Phra Brahmapundit viết, “Trong suốt bảy năm, ủy ban biên soạn đã tổ chức không dưới 20 hội thảo chuyên đề tại MCU để phát huy nhận thức và triển khai phương án cụ thể. Khoảng 490 trích đoạn từ các kinh điển và các luận thư hậu kỳ cùng với các sở thích của ba truyền thống Phật giáo được tuyển dịch trong tác phẩm này hợp đồng giới thiệu những gì Đức Phật đã thuyết…” (DVTGP, trang 10)

Như thế, sách này có thể gọi là đầy đủ các cốt tủy của Phật Học. Độc giả có thể thỉnh sách này ở:

Thư Quán Hương Tích,

308/12 Nguyễn Thượng Hiền,

P.5, Quận Phú Nhuận, TP.HCM.

Phone: (28) 35500339 hay email: huongtichbooks@gmail.com

Cuốn sách này mênh mông như thế, biết làm sao viết một bài mà giới thiệu được? Do vậy, nơi đây sẽ chỉ nêu lên một truyền thuyết thường được nhắc tới trong Thiền Tông, và in lại trong sách DVTGP ở trang 749. Đề mục này trong sách là “M.165 Ca-diếp ngộ chỉ niêm hoa vi tiếu, thành Sơ tổ Thiền tông.”

Chữ M.165 là viết tắt chữ “Mahayana.165” tức là, “Kinh hay luận trong truyền thống Đại thừa, thứ tự mục số 165.” Tương tự, Th. là viết tắt Theravada, tức là Thượng Tọa Bộ, có khi quen gọi là Nam Tông. Trong sách này truyền thống Kim Cang Thừa viết tắt là V., nhiều Phật tử còn quen gọi là Phật Giáo Tây Tạng. 

Trong M.165 kể về một thiền thoại như sau:

Đức Thế Tôn niêm hoa: Một lần, trên đỉnh Linh Thứu, đức Thế Tôn đưa lên một cành hoa trước đại chúng. Mọi người bấy giờ đều im lặng, chỉ có tôn giả Ca-diếp mỉm cười. Đức Thế Tôn bảo: “Ta có pháp môn vi diệu, là kho tàng con mắt Chánh Pháp (Chánh Pháp nhãn tạng), tâm vi diệu Niết-bàn (Niết-bàn diệu tâm), vô tướng của thật tướng (thật tướng vô tướng), không lập văn tự, truyền riêng ngoài giáo, nay đem giao phó cho Đại Ca-diếp.” (DVTGP, trang 749) 

Đoạn văn trên cũng là trích dịch từ Vô Môn Quan, một tác phẩm của Thiền Tông Trung Hoa, được nhiều người dịch sang tiếng Việt.

Như vậy, Đức Phật truyền cái gì cho ngài Ca-diếp? Pháp môn vi diệu này là gì? Bông hoa đưa lên là có tướng bông hoa, sao gọi là vô tướng của thật tướng và sao lại liên hệ gì tới “Chánh pháp nhãn tạng, Niết-bàn diệu tâm”? Có ai thấy ngài Ca-diếp  thò tay ra để nhận pháp hay nhận y bát gì đâu, mà chỉ được kể là mỉm cười thôi?

Hình như (xin dè dặt nói là, hình như) thiền thoại này không được ghi lại trong Tạng Pali, và hình như cũng không ghi trong Tạng A Hàm. Như thế, nghĩa thực của thiền thoại “niêm hoa vi tiếu” là gì.

Trong cương vị của một người hoàn toàn không có thẩm quyền gì, nơi đây xin mạn phép trả lời rằng: ngay ở cái ngó thấy hoa đó, tự thân đã là Niết-bàn, đã lìa tham sân si. Ngay ở cái “thấy hoa” đã là cảnh giới mà Kinh Tứ Thập Nhị Chương gọi là “vô tu, vô chứng” --- nghĩa là, nếu ở cái thấy đó, mà còn tu hay còn mài giũa thì là hỏng, hay nơi cái thấy đó mà còn vin vào chỗ nào gọi là chứng thì cũng hỏng.  Bởi vì ngay ở cái thấy đó, tự thân là giải thoát rồi. Chính ngay khi đó, nói bằng ngôn ngữ khái quát hóa, thì ngài Ca-diếp đã “thấy cái vô tướng và nghe cái vô thanh.”   Bởi vì ngài “thấy cái vô tướng” nên “tướng hoa” mới hiện lên, và vì “nghe cái vô thanh” nên “lời Đức Phật” mới vọng tới. Chính ngay đó là giải thoát. Hễ làm gì khác cho cái thấy đó, cho cái nghe đó đều là hỏng.

Có rất nhiều nhân duyên để hình thành ra một cái “thấy hoa”  và “nghe lời Đức Phật” như thế. Có ngọn núi Linh Thứu, có Đức Phật đưa tay cầm hoa lên, có hội chúng vân tập trong đó ngài Ca-diếp tới nghe lời Đức Phật thuyết kinh, có cái được thấy và có cái được nghe, nhưng thực sự không có ai thấy và không có ai nghe, vì tìm hoài, tìm khắp cả ngoại xứ (khắp núi đồi cây cỏ chúng hội…) và nội xứ (khắp thân tâm, gan tim phèo phổi…) cũng  không tìm ra cái gì là chủ thể của cái thấy và nghe. Trong khi đó, ngọn gió vô thường chảy xiết, tất cả những hình ảnh (được thấy) và những âm thanh (được nghe) liên tục biến đổi. Trong những hình ảnh được thấy (như thấy hoa, thấy tay Đức Phật đưa hoa lên) và những âm thanh (như nghe giọng Đức Phật nói) hễ ngài Ca-diếp nghĩ là phải mài giũa, phải tu gì nữa, thì sẽ là hỏng, vì chỉ là “bám víu cái niệm của quá khứ” hay chỉ là “mơ tưởng cái niệm của tương lai” hay chỉ là “níu kéo cảm thọ khoan khoái khi nghe Đức Phật khen” đều là hỏng. Ngài nhận ra ngay trong “cái thấy, cái nghe” tự thân đã lìa thủ với xả, vì hễ cố ý thủ với xả là tức khắc không còn là “cái thấy, cái nghe” mà nó đã hiện ra “cái tôi muốn hay cái tôi không muốn” --  và là tham sân hiện ra.

Nghĩa là, khi pháp hiện lên rồi biến mất, tất cả những cái thấy (và cái được thấy) và tất cả những cái nghe (và cái được nghe) đều không hề có gì là “tôi” và “của tôi.” Đó là chỗ trong Thiền sử, khi một bà cụ hỏi sư Đức Sơn rằng: “Kinh Kim Cang nói quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc, xin hỏi Thượng tọa điểm tâm nào?” Thế là nhà sư trả lời không được. Thế nhưng, nụ cười của ngài Ca-diếp được Đức Phật khen ngợi, vì thấy được và sống được với “tâm không chỗ nào để trụ.”

Trong cái thấy, cái nghe đó, toàn bộ quá khứ, vị lai và hiện tại đều bất khả đắc. Hễ đắc gì đều là trật nhịp ra ngoài Niết-bàn diệu tâm. Vì trong Pháp tánh Duyên khởi, tất cả đều là rỗng rang, là Tánh không. Nơi đây, để lấy cái “thấy hoa” ra đối chiếu, trong mục “M.16 Pháp siêu việt ngôn ngữ” ở sách DVTGP trang 268, trích như sau: 

Pháp không dao động, vì không y chỉ sáu xứ. Pháp không đến, không đi, vì không sở trụ. Pháp thuận hợp Không, tùy hiện Vô tướng, ứng hợp Vô nguyện, vì viễn ly tăng giảm. Pháp không thủ xả vì viễn ly sanh diệt…”

Tương tự, có thể đối chiếu “cái thấy, cái nghe” của ngài Ca-diếp với mục “M.63 Duyên khởi và trung đạo II” nơi trang 423, trích: 

Này Vô Biên Trang Nghiêm, các ông, những bậc trí giả, nên biết như vầy, tướng chân thật của tất cả pháp là không đến, không đi, không phân chia, không gián đoạn, không đồng nhất tánh, không dị biệt tánh, đến bờ kia cao nhất của hết thảy pháp. Không có bất cứ pháp nào mà không đến bờ kia. Đến bờ kia chính là Niết-bàn. Chân thật tướng của các pháp là Niết-bàn. Vì vậy, nên biết, là bất khả thuyết.”

 Chúng ta cũng có thể níu áo ngài Ca-diếp bằng một số kinh khác. Thí dụ, như Kinh Bahiya, khi Đức Phật dạy rằng hãy để cái được thấy, được nghe, được tri giác… là cái được thấy, được nghe, được tri giác… thì ngay nơi đó, không còn sinh tử luân hồi nào trói buộc nửa.  Nghĩa là, tự thân, thấy nghe hay biết đã là giải thoát. 

Ngài Huệ Năng cũng dạy cho ngài Huệ Minh y hệt như thế: “Đừng nghĩ thiện, đừng nghĩ ác, chính khi ấy cái gì là Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?” Nghĩa là, khi bông hoa của Đức Phật đưa lên, nếu ngài Ca-diếp (và chúng ta) còn nghĩ ngợi bất cứ gì thì ngay khi đó, hoa không còn là hoa đang hiển lộ trong cái gương tâm tinh khôi của ngài Ca-diếp (và của chúng ta). Ngay khi hoa đưa lên, nếu chợt khởi tâm muốn hoa phải thế này, phải thế kia… thì không còn là “cái hoa đang là” mà là đã, đang và sẽ biến thành một “cái hoa trong ý chí ảo tưởng” của người đối diện.

Có thể dẫn một kinh khác để thấy hoa. Kinh ghi rằng một Thiên nữ hiện ra, hỏi Đức Phật rằng làm cách nào vượt khỏi bộc lưu. Ý là, làm sao thoát dòng sông của nghiệp lực. Chúng ta sống trên đời, sinh già bệnh chết, đi đứng nằm ngồi đều là do nghiệp thúc đẩy. Bấy giờ, Đức Phật trả lời: “Này Hiền giả, không đứng lại, không bước tới, Ta vượt khỏi bộc lưu. Này Hiền giả, khi Ta đứng lại, thời Ta chìm xuống. Này Hiền giả, khi Ta bước tới, thời Ta trôi giạt; do vậy, này Hiền giả, không đứng lại, không bước tới, Ta vượt khỏi bộc lưu.”

Hình ảnh trên dòng sông nghiệp có thể giải thích về cái nhìn “thấy hoa” của ngài Ca-diếp. Nếu khởi tâm “thấy không phải là thấy” hay khởi tâm “nghe không phải là nghe” mà là muốn bước tới,  tức là muốn nắm giữ hay muốn kình chống, tức là “thấy hoa phải là cái gì khác” thì sẽ chìm. Nhưng nếu nói rằng cứ đứng lại thì là sẽ bị dòng sông nghiệp kéo chìm (vì chúng ta luôn luôn bị nghiệp thúc đẩy, cho tới khi bức màn vô minh, tức là nghiệp si vén lên). Do vậy, “không đứng lại, không bước tới” là cái tỉnh thức của thấy nghe hay biết, và là xa lìa cả tâm ba thời quá khứ, vị lai, hiện tại, tức là cái nhìn của tâm vô tâm, hoàn toàn vô sở trụ, không trụ vào ba thời, không trụ vào năm uẩn… 

Đó mới đúng là cái “thấy hoa” của ngài Ca-diếp. Trong cái thấy đó, hiển lộ trong gương tâm không hơn và không kém, không tới và không lùi, một vị bình đẳng; hễ ai thấy và nghe mà cứ khởi dị tâm thì tức khắc gương tâm không còn “thấy hoa” mà chỉ là “thấy cái tâm mình muốn hoa phải là, hay thấy cái tâm mình muốn hoa không là” và thế là sẽ hiện ra sáu cõi mịt mù phiền não. Như vậy, chỉ trong một “cái thấy” và “cái nghe” là có thể thấy tận Khổ Tập Diệt Đạo.  

Sách DVTGP nơi mục M.66, trang 426 ghi: “…đối với thế gian vô thường bịnh hoạn mà chứng đắc thường trụ Niết-bàn; đối với thế gian không được che chở, không nương tựa mà che chở và làm nơi nương tựa. Vì sao? Vì pháp không có hơn kém mà chứng đắc Niết-bàn; vì trí tuệ bình đẳng mà chứng đắc Niết-bàn; vì giải thoát bình đẳng mà chứng đắc  Niết-bàn; vì thanh tịnh bình đẳng mà chứng đắc Niết-bàn. Cho nên Niết-bàn chỉ có một vị, vị bình đẳng, gọi là vị giải thoát.”

Khi đã hiểu đạo, sẽ thấy tất cả các tông phái xuyên suốt nhau, không ngăn ngại, dù là Nam Tông hay Bắc Tông, dù là Thiền Tông hay Bát Nhã, dù là Duy Thức hay Hoa Nghiêm, và vân vân. Cách nói khác nhau, nhưng đều chỉ về một vị giải thoát.

Thí dụ, nơi đây, chúng ta thử nói chuyện “thấy hoa” (như thiền thoại Đức Phật đưa hoa lên và ngài Ca Diếp mỉm cười) hay chuyện “nghe tiếng đàn” (như Kinh Lăng Nghiêm, nói về cội nguồn cái nghe) qua phân tích của Tông Hoa Nghiêm. Trong sách DVTGP, nơi mục “M.150 Kim sư tử chương” ở các trang 652-654) viết về luận này của ngài Pháp Tạng (643-7 12), nhìn thực tại như là pho tượng sư tử vàng hiện lên như “cái được thấy” và chất “vàng” là tánh của các pháp, tức là tướng (sư tử) dựa vào tánh (vàng) để hiển lộ. Không có “tánh vàng” thì không có “tướng sư tử” và  ngược lại. 

Như vậy, hình ảnh hoa là cái được thấy, tiếng đàn là cái được nghe. Do vậy, hoa và nhạc là “tướng” và dựa vào “tánh” là duyên khởi trùng trùng đưa tới “hoa ảnh” và “tiếng đàn.” 

Trong Tạng A Hàm, Kinh SA 1169, Đức Phật dạy về cội gốc của những gì được thấy nghe hay biết đều là do duyên khởi, là rỗng rang, là cạm bẫy sinh tử, chớ nên níu kéo gì hết. Như tiếng đàn, Kinh này viết:

"Này các Tỳ-kheo, thời quá khứ có ông vua nghe tiếng đàn hay chưa từng có được, nên sanh yêu thích, say mê, chìm đắm. Vua hỏi các vị đại thần rằng: ‘Đó là những âm thanh gì mà nghe khả ái quá vậy?’ Đại thần tâu: ‘Tâu bệ hạ, đó là những tiếng đàn.’ Vua nói với đại thần: ‘Khanh hãy đem những âm thanh đó đến đây.’ Đại thần vâng lời, liền đem cây đàn đến tâu: ‘Tâu đại vương, đây chính là cây đàn đã tạo ra âm thanh hay.’ Vua nói đại thần: ‘Ta không cần cây đàn, mà chỉ cần đem những âm thanh khả ái đã nghe lần trước đến.’ Đại thần tâu: ‘Cây đàn này cần phải có nhiều thứ, là phải có cán, có máng, có thùng, có dây, có da và người đàn giỏi. Cần phải hội đủ những nhân duyên này mới thành âm thanh. Nếu thiếu đi những dụng cụ này thì sẽ không có được âm thanh. Âm thanh mà bệ hạ đã nghe trước đây đã qua lâu rồi, chúng đã biến chuyển và cũng đã diệt mất rồi, không thể đem đến được.’..." (Kinh SA 1169. Bản dịch Tuệ Sỹ, Đức Thắng)

Trở lại chuyện sư tử và vàng của Hoa Nghiêm Tông. Như thế, ảnh hoa và tiếng đàn là ví như sư tử, tánh không là ví như vàng. 

Sách DVTGP, trang 653 viết về “1. Minh duyên khởi”: “Cái ta gọi là vàng vốn không có tự tánh, tùy theo duyên thợ công xảo, thời tướng sư tử hiện khởi. Khởi chỉ do duyên, nên nói là duyên khởi.” Như thế, chúng ta thấy, tiếng đàn và ảnh hoa không có tự tánh, tùy duyên khởi mới có tướng là cái được nghe và cái được thấy.

Phần “2. Biện sắc không” nơi cùng trang trên, viết: “Cái ta gọi là ‘sư tử’, tướng của nó là hư, vàng mới là thật. Sư tử không phải có, chất vàng không phải không, do đó nói là sắc (vàng) và không (sư tử). Lại nữa, Không không có tướng riêng, nhưng nó không chướng ngại (sắc) huyễn có. Đây gọi là sắc và không.” Như thế, tướng là hư, tức là ảnh hoa và tiếng đàn (cái được thấy và cái được nghe) là hư, vàng mới là thật, tức là Không tánh, hay Pháp Tánh Duyên khởi tánh mới là thực.

 Tương tự Hiển vô tướng nói, “ngoài vàng không có tướng nào của sư tử mà bắt nắm được. Do đó, nói là vô tướng.” Chúng ta cũng nói, ngoài hoa ảnh và tiếng đàn thì không có tướng nào của Không tánh hiện ra, nên có tướng nhưng thực tướng là vô tướng. 

Tương tự Thuyết vô sanh nói, “Ngay khi thấy sư tử sanh, đó chỉ là vãng sanh. Ngoài vàng, không có một vật gì. Sư tử tuy có sanh diệt, nhưng vàng không có tăng giảm. Đây gọi là vô sanh.” Do vậy, hoa ảnh được thấy, tiếng đàn được nghe, chính là Không tánh sanh khởi. Hoa ảnh và tiếng đàn có sanh diệt, nhưng Không tánh không tăng giảm, nên gọi là vô sanh.

Tận cùng là “10. Nhập Niết bàn” (DVTGP, trang 654) viết: “Khi thấy sư tử và vàng, cả hai tướng (sư tử và vàng) đều dứt hết, thì phiền não không sanh. Đẹp xấu hiện tiền nhưng tâm an bình như biển lặng. Vọng tưởng dứt sạch, không còn bức bách, thoát triền phược, lìa chướng ngại, vĩnh viễn bỏ xa nguồn khổ. Đây gọi là nhập Niết-bàn.” Tuyệt vời là như thế, thấy cả hai tướng “tiếng đàn và Pháp Tánh duyên khởi” đều dứt hết, tâm an bình như biển lặng… 

Không chỉ cái được thấy (hoa) và cái được nghe (tiếng đàn), độc giả cũng có thể mở sách “Phật Điển Phổ Thông: Dẫn Vào Tuệ Giác Phật” và nghiệm về cái được ngửi. Bạn thắp nhang lên, thấy mùi hương trầm, sẽ thấy “mùi hương” này là “sư tử” và hiển lộ ra với bạn qua Pháp tánh Duyên khởi tức là “Không” hay là “vàng” và bạn có thể tự xét nghiệm từng dòng kinh luận như thế. Tuyệt vời là hạnh phúc, khi sống được từng lời Đức Phật dạy. Trân trọng ghi lại vài suy nghĩ rời nơi đây, và chân thành mời gọi độc giả tìm đọc tuyển tập Kinh luận này.

PHOTO:

Hai vị Chủ biên Việt dịch sách DVTGP: Lê Mạnh Thát – Tuệ Sỹ 

GHI CHÚ: Cội Nguồn Tổ Việt, ấn tống được 500 cuốn (200 Anh; 300 Việt) và đã đem về Mỹ để tặng và nhường lại cho những ai hữu duyên. Nếu quý vị nào muốn ủng hộ cho thư viện thành phố địa phương, hoặc có nhu cầu thỉnh về đọc, xin liên lạc cư sĩ Tâm Thường Định Phe X. Bach: tamthuongdinh@gmail.com .

Wednesday, January 13, 2021

Pondering about ODYSSEY UNTO SELF - Tản mạn về Thiên Lý Độc Hành

Pondering about ODYSSEY UNTO SELF


One late autumn morning of 2011, I received the Teacher’s email while sitting in a coffee

bookstore with only the following verses:

I am following the clouds aimlessly, horizons unknown. Riversides, mountain caves, all are potential burial grounds. If there is a thread of predestiny, mayhaps we’ll meet again, this life or next.

   – At the Hermitage of no-abode –


The email was sent last evening, meaning last night he was already wandering to the bus station, searching for any departure, to any destination reachable, undetermined. An odyssey of a monk without temple, without disciples, no place of arrival. To make such an odyssey, aside from hidden ardor of self or of others, there must be an urge or a bind that is predestined. And the return is also a different urge or bind.

unburdened my love for stalks of forest grass

i returned to the city for the love of all

proffered my sweetness of life upon soul-baring rocks

unfathomable fogs layered my being


Odyssey unto Self, a string of 13 poems, written after that journey. It opened with a turn, and ended with an entreatment of another odyssey to begin. Stepping toward the end of the immeasurable road of life. The last two verses of this book of poetry brought us to a fitting close, but left unclosed our feelings of longing to be in harmony with the last ray of sunset or a fleeting starlight from far above. The tender entreatment was not a closing of the gate after the child returned, but an opening of the backyard gate leading to a path toward a horizon of infinite solitude.

wintry rain

on the high pass

to other worlds beyond


Under the nebulous horizon, with starlight as beacon, and with moonlight for a mat, he slept; only to begin his journey again the next morning, without knowing where he will be the next night, or if he will be ‘fortunate’ in finding a wind-screened shelter. It could be a shrine on a desolate hillside; maybe behind the base of the colossal stone lion at the front gate of a temple where there was just enough space for him to lie unnoticed, watching other travelers pass by.  A rest and a quick nap, rose at 3AM, collected his sparse belongings and continued on before the hurried city life returned again. 

life unto life, day onto day

into the lingering twilight, the forest leaves flew…


The whiff of the lonesome distance beguiled, like the scent of wild, ripened fruits along the roads when hunger, like the bags of roasted peanuts given by a generous young man for his climb up the hillside ‘because there is no one within a 6-mile radius’, the young man said.  Few bags of peanuts were enough for a day of ascending this lonesome hillside.


Afterward, sometimes he related his odyssey to me. I found it very challenging to write about these poems he wrote. They are of sun-scorched roads, dusty, of ominous sky laddered with dark clouds, of ravenous evening, of nights with immense longings of some homeland obscured. They are not of fanciful thoughts written on pristine white paper. This book of poetry, to me, is not for reading, understanding or writing about; only to be viewed, felt and conjuring.  I worry not about understanding the poems, but would be saddened if the reader cannot conjure the landscape in

since my tunic spread onto roads of dusty rain

upon the harbor of emptiness i envisioned my past lived


Rain, sun, wind, dust. All the assiduous steps through forests and cities. To what end, and for what pursuit? What did he seek from the stone baring its soul in the waning sunlight, from his leaning shadow upon the ledges of reeds fluttering with wistful yearnings? Where belonged a man, a stone, or the white, scattering reed flowers that blanketed the sky.


Rain, sun, wind, dust. The world is full of countless aromatic grasses*. In all directions, grasses abound. A child pressed a cake into his hand, pointing to a tattered hut on the roadside: Mom said to give this to you. Humanity is as natural as the endless green, young grass. Green grass and white reed flowers whitened the solitary traveler’s skylight with apprehension. In the midst of city bustle, or before the endless green high plains, there are always moments of waywardness, of time seemingly fleeting. We want to search for something different to measure the distance between dream and reality. Some walk-in blinding evening sunlight; some treads softly in dreams. Looking at the dust beneath our feet, we are uncertain if they are homeless or homeland.

then toppled into a creek oozing blood

my corpse became leaves of grass bobbling downstream

i unfurled the moonbeams for a mat as the rain stopped

millennium hence white flower dotted the hill


The moonlight appears on the grass after the rain, as if spreading a mat of glittering velvet.

Millennium hence, hearing stories of the Odyssey unto Self, some will ask directly: To make such a journey, to punish oneself, for what reason? Would all those aimless steps leave any trace upon the roadside pebbles?  Perhaps not. Was there a dream left under the awning of his temporary resting place last night? And where may the high-pain drizzles wash this dream to? Then what is Odyssey unto Self? It is not only a journey. A journey without a beginning, without a destination; then surely it would have no return.

starting the return journey, latched your nón**

wintry rain on the high pass to other worlds beyond…


Hanh Vien

Year of the Rat, Buddhist Calendar 2564

Translated by Nguyen Phuoc Nguyen


* Su Dongpo’s poem

**Conical Vietnamese hat made of weaved bamboo palm leaves




Tản mạn về Thiên Lý Độc Hành


Một buổi sáng cuối thu năm 2011, đang ngồi trong quán cà-phê sách ở Đà Lạt tôi nhận được mẫu tin của thầy gởi qua email, chỉ ngắn gọn mấy dòng:

. …

Tôi đi lang thang theo đám mây trôi, phương trời vô định. Bờ sông, hốc núi, đâu cũng là chỗ vùi thây. Một chút duyên còn ràng buộc thì còn có cơ hội ngộ, đời này hoặc đời sau.

Thị ngạn am vô trụ xứ.

Thư được gởi đi từ chiều hôm trước, nghĩa là tối đó ông đã lang thang đâu đó ngoài bến xe, tìm một chuyến xe nào bất cứ, đi đến một nơi nào khả dĩ, không hẹn trước. Chuyến đi của ông thầy tu không chùa, không đệ tử, không cần nơi đến. Ra đi như vậy, ngoài những ẩn tình riêng chung, nhưng kỳ cùng nó là một thôi thúc một bó buộc đã sẵn có tự bao giờ. Và trở về, cũng là một thôi thúc, bó buộc khác.

Gởi lại tình yêu ngọn cỏ rừng

Ta về phố thị bởi tình chung

Trao đời hương nhụy phơi hồn đá

Thăm thẳm mù khơi sương mấy tầng

Thiên lý độc hành, chuỗi thơ 13 bài, hình thành sau chuyến đi ấy. Nó mở đầu bằng sự trở về, và kết thúc bằng lời gởi gắm một bước chân khác lên đường. Đi cho hết con đường thăm thẳm nhân sinh trường mộng. Hai câu kết để ta đóng lại tập thơ mà không đóng lại được những tâm tình khắc khoải, tương điệu trước một vệt nắng chiều hay một ánh sao xa lay lất cuối trời. Lời nhắn nhủ ân cần không phải là sự êm đềm khép lại cánh cổng vườn nhà sau khi người con đã trở về, nó mở ra lối sau chỉ về một phương trời miên man cô tịch

Mưa lạnh

đèo cao

không cõi người.

Phương trời mờ ảo với ánh sao đêm làm đèn soi lối, lấy ánh trăng trên cỏ làm chiếu mà nằm, để sáng ra tiếp tục cuộc đi mà không biết đêm nay sẽ ở đâu, có ‘may mắn’ tìm được một chỗ ngủ kín gió không. Có khi chỗ đó là cái miếu cô hồn bên đèo vắng, có khi là phía sau cái bệ con sư tử đá khổng lồ trước cổng tam quan một ngôi chùa, nơi có một hốc nhỏ đủ cho một người nằm khuất tầm nhìn khách qua đường. Nghỉ chân và chợp mắt, để ba giờ sáng thức dậy thu vén đi tiếp trước khi nhịp sống đô thị trở lại nơi này cho một ngày mới. 

Thân tiếp theo thân ngày tiếp ngày

Mù trong dư ảnh lá rừng bay… 

Cái mùi hoang liêu dặm trường nó huyễn hoặc, hấp dẫn như mùi trái cây chín dại ven đường khi đói, như mấy gói lạc rang của một thanh niên tốt bụng đưa cho, để chiều lên đèo, “vì ở đó trong tầm bán kính mười cây số không có nhà ai”, anh ta nói. Mấy gói lạc rang, đủ cho một ngày đi qua cái đèo hoang vu này.

Sau này họa hoằng được nghe kể về chuyến đi, tôi thấy thật khó viết được gì chân xác về những bài thơ này; đó là những con đường nắng chát, bụi bặm, những bầu trời tối sầm trĩu nặng mây đen, những chiều bụng đói, những đêm hun hút ngó về một quê hương nào đã mất. Đó không phải là trang giấy trắng để ta cặm cụi ghi chú vài ý tưởng mộng mơ. Tập thơ này với tôi không phải để đọc, để hiểu hay để viết về; chỉ cần nhìn, cảm, và tưởng tượng. Tôi không lo khi đọc mà không hiểu thơ nói gì, nhưng đáng buồn nếu không tưởng tượng được khung trời nào trong những câu

Từ ta trải áo đường mưa bụi

Tưởng thấy tiền thân trên bến không

Mưa, nắng, gió, bụi, những bước chân miệt mài đi qua rừng, qua phố, để làm gì, để tìm gì? Tìm gì trong màu hoàng hôn phơi trên hồn đá, cái bóng người xiêu đổ bên bờ lau sậy phất phơ nỗi buồn viễn xứ? Xứ sở nào của người, của đá, của những bông lau theo gió bay trắng bốn phương ngàn … 

Nắng, bụi, gió, mưa. Thiên nhai hà xứ vô phương thảo(*).Cuối trời vạn nẻo nơi nào mà không có cỏ thơm. Một đứa bé chạy theo dúi vào tay ông một cái bánh ngọt, chỉ tay về ngôi nhà lụp xụp bên vệ đường: má con biểu đưa cho ông. Cái tình người nó tự nhiên như cỏ non xanh tận chân trời. Cỏ xanh và hoa lau trắng, màu trắng hoang mang cả trời cô lữ. Giữa dòng ngựa xe phố thị hay trước thảo nguyên xanh ngút ngàn, ở đâu cũng có lúc bất chợt cảm thấy lạc loài, thấy tháng ngày hư ảo, ta muốn đi tìm một cái gì đó khác, đo đếm xem khoảng cách bao xa giữa hai bờ mộng thực; có người đi trong chiều nắng quái, kẻ khác đi trong những giấc mộng khẽ khàng. Nhìn đám bụi mờ dưới bước chân đi, ta không biết đó là tha hương hay là cố quận.

Rồi ngã xuống nghe suối tràn ngập máu

Thân là thân cỏ lá gập ghềnh xuôi

Chờ mưa tạnh ta trải trăng làm chiếu

Nghìn năm sau hoa trắng trổ trên đồi

Ánh trăng sau cơn mưa hiện ra lấp lánh trên cỏ, như trải ra tấm chiếu hoa gấm ngọc ngà. 

Nghìn năm sau… kể chuyện Thiên lý độc hành, có người ngay thẳng và thực tế sẽ hỏi: Đi như vậy, tự đọa đày như vậy để làm gì? Những bước chân vô định kia có để lại chút dấu vết nào nơi đá cuội ven đường? Có lẽ không, hoặc có để lại một giấc mơ bên hiên nhà tạm trú đêm qua, không biết mưa lũ cao nguyên rồi sẽ cuốn phăng nó về đâu. Mà Thiên lý độc hành là gì? Đâu phải chỉ là một chuyến đi. Cuộc đi không có lúc khởi hành, không có nơi đến thì làm sao có sự kết thúc trở về.

Khi về anh nhớ cài quai nón

Mưa lạnh đèo cao không cõi người…

Hạnh Viên

Mùa hạ Canh tý, PL. 2564


Quý vị có thể mua sách trực tiếp ở đây, hoặc liên lạc với chúng tôi @PheBach - tamthuongdinh@gmail.com


Thien Ly Doc Hanh - Odyssey Unto Self - (English, French, Vietnamese, Japanese, Han-Nom). 


Paperback - price $17.70

Hardcover - price $25.50