Wednesday, January 13, 2021

Pondering about ODYSSEY UNTO SELF - Tản mạn về Thiên Lý Độc Hành

Pondering about ODYSSEY UNTO SELF


One late autumn morning of 2011, I received the Teacher’s email while sitting in a coffee

bookstore with only the following verses:

I am following the clouds aimlessly, horizons unknown. Riversides, mountain caves, all are potential burial grounds. If there is a thread of predestiny, mayhaps we’ll meet again, this life or next.

   – At the Hermitage of no-abode –


The email was sent last evening, meaning last night he was already wandering to the bus station, searching for any departure, to any destination reachable, undetermined. An odyssey of a monk without temple, without disciples, no place of arrival. To make such an odyssey, aside from hidden ardor of self or of others, there must be an urge or a bind that is predestined. And the return is also a different urge or bind.

unburdened my love for stalks of forest grass

i returned to the city for the love of all

proffered my sweetness of life upon soul-baring rocks

unfathomable fogs layered my being


Odyssey unto Self, a string of 13 poems, written after that journey. It opened with a turn, and ended with an entreatment of another odyssey to begin. Stepping toward the end of the immeasurable road of life. The last two verses of this book of poetry brought us to a fitting close, but left unclosed our feelings of longing to be in harmony with the last ray of sunset or a fleeting starlight from far above. The tender entreatment was not a closing of the gate after the child returned, but an opening of the backyard gate leading to a path toward a horizon of infinite solitude.

wintry rain

on the high pass

to other worlds beyond


Under the nebulous horizon, with starlight as beacon, and with moonlight for a mat, he slept; only to begin his journey again the next morning, without knowing where he will be the next night, or if he will be ‘fortunate’ in finding a wind-screened shelter. It could be a shrine on a desolate hillside; maybe behind the base of the colossal stone lion at the front gate of a temple where there was just enough space for him to lie unnoticed, watching other travelers pass by.  A rest and a quick nap, rose at 3AM, collected his sparse belongings and continued on before the hurried city life returned again. 

life unto life, day onto day

into the lingering twilight, the forest leaves flew…


The whiff of the lonesome distance beguiled, like the scent of wild, ripened fruits along the roads when hunger, like the bags of roasted peanuts given by a generous young man for his climb up the hillside ‘because there is no one within a 6-mile radius’, the young man said.  Few bags of peanuts were enough for a day of ascending this lonesome hillside.


Afterward, sometimes he related his odyssey to me. I found it very challenging to write about these poems he wrote. They are of sun-scorched roads, dusty, of ominous sky laddered with dark clouds, of ravenous evening, of nights with immense longings of some homeland obscured. They are not of fanciful thoughts written on pristine white paper. This book of poetry, to me, is not for reading, understanding or writing about; only to be viewed, felt and conjuring.  I worry not about understanding the poems, but would be saddened if the reader cannot conjure the landscape in

since my tunic spread onto roads of dusty rain

upon the harbor of emptiness i envisioned my past lived


Rain, sun, wind, dust. All the assiduous steps through forests and cities. To what end, and for what pursuit? What did he seek from the stone baring its soul in the waning sunlight, from his leaning shadow upon the ledges of reeds fluttering with wistful yearnings? Where belonged a man, a stone, or the white, scattering reed flowers that blanketed the sky.


Rain, sun, wind, dust. The world is full of countless aromatic grasses*. In all directions, grasses abound. A child pressed a cake into his hand, pointing to a tattered hut on the roadside: Mom said to give this to you. Humanity is as natural as the endless green, young grass. Green grass and white reed flowers whitened the solitary traveler’s skylight with apprehension. In the midst of city bustle, or before the endless green high plains, there are always moments of waywardness, of time seemingly fleeting. We want to search for something different to measure the distance between dream and reality. Some walk-in blinding evening sunlight; some treads softly in dreams. Looking at the dust beneath our feet, we are uncertain if they are homeless or homeland.

then toppled into a creek oozing blood

my corpse became leaves of grass bobbling downstream

i unfurled the moonbeams for a mat as the rain stopped

millennium hence white flower dotted the hill


The moonlight appears on the grass after the rain, as if spreading a mat of glittering velvet.

Millennium hence, hearing stories of the Odyssey unto Self, some will ask directly: To make such a journey, to punish oneself, for what reason? Would all those aimless steps leave any trace upon the roadside pebbles?  Perhaps not. Was there a dream left under the awning of his temporary resting place last night? And where may the high-pain drizzles wash this dream to? Then what is Odyssey unto Self? It is not only a journey. A journey without a beginning, without a destination; then surely it would have no return.

starting the return journey, latched your nón**

wintry rain on the high pass to other worlds beyond…


Hanh Vien

Year of the Rat, Buddhist Calendar 2564

Translated by Nguyen Phuoc Nguyen


* Su Dongpo’s poem

**Conical Vietnamese hat made of weaved bamboo palm leaves




Tản mạn về Thiên Lý Độc Hành


Một buổi sáng cuối thu năm 2011, đang ngồi trong quán cà-phê sách ở Đà Lạt tôi nhận được mẫu tin của thầy gởi qua email, chỉ ngắn gọn mấy dòng:

. …

Tôi đi lang thang theo đám mây trôi, phương trời vô định. Bờ sông, hốc núi, đâu cũng là chỗ vùi thây. Một chút duyên còn ràng buộc thì còn có cơ hội ngộ, đời này hoặc đời sau.

Thị ngạn am vô trụ xứ.

Thư được gởi đi từ chiều hôm trước, nghĩa là tối đó ông đã lang thang đâu đó ngoài bến xe, tìm một chuyến xe nào bất cứ, đi đến một nơi nào khả dĩ, không hẹn trước. Chuyến đi của ông thầy tu không chùa, không đệ tử, không cần nơi đến. Ra đi như vậy, ngoài những ẩn tình riêng chung, nhưng kỳ cùng nó là một thôi thúc một bó buộc đã sẵn có tự bao giờ. Và trở về, cũng là một thôi thúc, bó buộc khác.

Gởi lại tình yêu ngọn cỏ rừng

Ta về phố thị bởi tình chung

Trao đời hương nhụy phơi hồn đá

Thăm thẳm mù khơi sương mấy tầng

Thiên lý độc hành, chuỗi thơ 13 bài, hình thành sau chuyến đi ấy. Nó mở đầu bằng sự trở về, và kết thúc bằng lời gởi gắm một bước chân khác lên đường. Đi cho hết con đường thăm thẳm nhân sinh trường mộng. Hai câu kết để ta đóng lại tập thơ mà không đóng lại được những tâm tình khắc khoải, tương điệu trước một vệt nắng chiều hay một ánh sao xa lay lất cuối trời. Lời nhắn nhủ ân cần không phải là sự êm đềm khép lại cánh cổng vườn nhà sau khi người con đã trở về, nó mở ra lối sau chỉ về một phương trời miên man cô tịch

Mưa lạnh

đèo cao

không cõi người.

Phương trời mờ ảo với ánh sao đêm làm đèn soi lối, lấy ánh trăng trên cỏ làm chiếu mà nằm, để sáng ra tiếp tục cuộc đi mà không biết đêm nay sẽ ở đâu, có ‘may mắn’ tìm được một chỗ ngủ kín gió không. Có khi chỗ đó là cái miếu cô hồn bên đèo vắng, có khi là phía sau cái bệ con sư tử đá khổng lồ trước cổng tam quan một ngôi chùa, nơi có một hốc nhỏ đủ cho một người nằm khuất tầm nhìn khách qua đường. Nghỉ chân và chợp mắt, để ba giờ sáng thức dậy thu vén đi tiếp trước khi nhịp sống đô thị trở lại nơi này cho một ngày mới. 

Thân tiếp theo thân ngày tiếp ngày

Mù trong dư ảnh lá rừng bay… 

Cái mùi hoang liêu dặm trường nó huyễn hoặc, hấp dẫn như mùi trái cây chín dại ven đường khi đói, như mấy gói lạc rang của một thanh niên tốt bụng đưa cho, để chiều lên đèo, “vì ở đó trong tầm bán kính mười cây số không có nhà ai”, anh ta nói. Mấy gói lạc rang, đủ cho một ngày đi qua cái đèo hoang vu này.

Sau này họa hoằng được nghe kể về chuyến đi, tôi thấy thật khó viết được gì chân xác về những bài thơ này; đó là những con đường nắng chát, bụi bặm, những bầu trời tối sầm trĩu nặng mây đen, những chiều bụng đói, những đêm hun hút ngó về một quê hương nào đã mất. Đó không phải là trang giấy trắng để ta cặm cụi ghi chú vài ý tưởng mộng mơ. Tập thơ này với tôi không phải để đọc, để hiểu hay để viết về; chỉ cần nhìn, cảm, và tưởng tượng. Tôi không lo khi đọc mà không hiểu thơ nói gì, nhưng đáng buồn nếu không tưởng tượng được khung trời nào trong những câu

Từ ta trải áo đường mưa bụi

Tưởng thấy tiền thân trên bến không

Mưa, nắng, gió, bụi, những bước chân miệt mài đi qua rừng, qua phố, để làm gì, để tìm gì? Tìm gì trong màu hoàng hôn phơi trên hồn đá, cái bóng người xiêu đổ bên bờ lau sậy phất phơ nỗi buồn viễn xứ? Xứ sở nào của người, của đá, của những bông lau theo gió bay trắng bốn phương ngàn … 

Nắng, bụi, gió, mưa. Thiên nhai hà xứ vô phương thảo(*).Cuối trời vạn nẻo nơi nào mà không có cỏ thơm. Một đứa bé chạy theo dúi vào tay ông một cái bánh ngọt, chỉ tay về ngôi nhà lụp xụp bên vệ đường: má con biểu đưa cho ông. Cái tình người nó tự nhiên như cỏ non xanh tận chân trời. Cỏ xanh và hoa lau trắng, màu trắng hoang mang cả trời cô lữ. Giữa dòng ngựa xe phố thị hay trước thảo nguyên xanh ngút ngàn, ở đâu cũng có lúc bất chợt cảm thấy lạc loài, thấy tháng ngày hư ảo, ta muốn đi tìm một cái gì đó khác, đo đếm xem khoảng cách bao xa giữa hai bờ mộng thực; có người đi trong chiều nắng quái, kẻ khác đi trong những giấc mộng khẽ khàng. Nhìn đám bụi mờ dưới bước chân đi, ta không biết đó là tha hương hay là cố quận.

Rồi ngã xuống nghe suối tràn ngập máu

Thân là thân cỏ lá gập ghềnh xuôi

Chờ mưa tạnh ta trải trăng làm chiếu

Nghìn năm sau hoa trắng trổ trên đồi

Ánh trăng sau cơn mưa hiện ra lấp lánh trên cỏ, như trải ra tấm chiếu hoa gấm ngọc ngà. 

Nghìn năm sau… kể chuyện Thiên lý độc hành, có người ngay thẳng và thực tế sẽ hỏi: Đi như vậy, tự đọa đày như vậy để làm gì? Những bước chân vô định kia có để lại chút dấu vết nào nơi đá cuội ven đường? Có lẽ không, hoặc có để lại một giấc mơ bên hiên nhà tạm trú đêm qua, không biết mưa lũ cao nguyên rồi sẽ cuốn phăng nó về đâu. Mà Thiên lý độc hành là gì? Đâu phải chỉ là một chuyến đi. Cuộc đi không có lúc khởi hành, không có nơi đến thì làm sao có sự kết thúc trở về.

Khi về anh nhớ cài quai nón

Mưa lạnh đèo cao không cõi người…

Hạnh Viên

Mùa hạ Canh tý, PL. 2564


Quý vị có thể mua sách trực tiếp ở đây, hoặc liên lạc với chúng tôi @PheBach - tamthuongdinh@gmail.com


Thien Ly Doc Hanh - Odyssey Unto Self - (English, French, Vietnamese, Japanese, Han-Nom). 


Paperback - price $17.70

Hardcover - price $25.50  







No comments:

Post a Comment