Showing posts with label Ngô Thế Vinh. Show all posts
Showing posts with label Ngô Thế Vinh. Show all posts

Saturday, March 14, 2020

Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng - Một Chút Riêng Tư

Ngô Thế Vinh: Thay Lời Dẫn Kỳ Tái Bản Lần 2 (CLCD-BĐDS), Một Chút Riêng Tư

Bác sĩ Ngô Thế Vinh (Ảnh: Uyên Nguyên)
Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng một dữ kiện tiểu thuyết do Văn Nghệ xuất bản lần đầu tiên năm 2000, tái bản năm 2001 và sau đó đã tuyệt bản. Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch một ký sự doVăn Nghệ Mới xuất bản tháng 03-2007 và sau 9 tháng sách được tái bản, cùng với một audiobook với giọng đọc thuần Nam Bộ của Ánh Nguyệt, nhạc đệm của Đoàn Văn nghệ Dân tộc Lạc Hồng, phần hòa âm do Tuấn Thảo phụ trách. Một bản tiếng Anh cũng đã hoàn tất, sẽ ra mắt trong một tương lai gần.
Đây là ấn bản thứ ba 2008 của cuốn CLCDBĐDS với nhiều hình ảnh mới và thông tin cập nhật. Tác phẩm tuy được viết từ trước năm 2000, nhưng vẫn còn nguyên vẹn tính thời sự.
Trung Quốc thì vẫn không ngừng xây những con đập bậc thềm khổng lồ Vân Nam trên một vùng địa chấn không ổn định. Với các trận động đất trên quy mô lớn nơi hai tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam vừa qua, không thể không gây lo ngại về thảm họa một cơn hồng thủy do vỡ đập đối với các quốc gia hạ nguồn.
Rồi lại một kế hoạch không kém táo bạo có tên “Dự án Cải thiện Thủy lộ Thượng nguồn sông Mekong” cũng của Trung Quốc qua việc dùng chất nổ/ dynamite phá vỡ những khối đá trên các khúc sông nhiều ghềnh thác rồi cho tàu vét / backhoe dồn xuống những hố sâu để mở rộng lòng sông từ Vân Nam xuống tới Lào để cho những con tàu trọng tải từ 500 tới 700 tấn chở đầy hàng hóa thặng dư của Trung Quốc dễ dàng di chuyển từ giang cảng Tư Mao xuống tới tận Chiang Khong Chang Sean Thái Lan và xa hơn nữa xuống tới Luang Prabang và thủ đô Vạn Tượng Lào và trên đường về sẽ chở những nguyên liệu và khoáng sản đáp ứng nhu cầu phát triển nhảy vọt của Trung Quốc. Và ngay những bước đầu triển khai kế hoạch đã giết hại vô số loài cá, gây ảnh hưởng nghiêm trọng trên sự cân bằng thủy học với dòng nước chảy nhanh và siết hơn gây xụp lở hai bên bờ sông hủy hoại các loại hoa màu trồng ven sông gây tác hại tức thời trên sinh cảnh và đời sống cư dân hạ nguồn.
Thế rồi chỉ hai ngày trước khi bước sang năm 2007, thêm một sự kiện đã gây chấn động cho các nhà hoạt động bảo vệ môi sinh khi Tân Hoa Xã loan tin, ngày 29-12-2006, lần đầu tiên Bắc Kinh đã hoàn tất hai chuyến tàu tải đường sông chở 300 tấn dầu thô xuất phát từ cảng Chiang Rai bắc Thái lên tới giang cảng Cảnh Hồng tỉnh Vân Nam.
Tiếp theo chuỗi những con đập thủy điện bậc thềm khổng lồ Vân Nam đã và đang gây tác hại trên đời sống của hơn 60 triệu cư dân hạ nguồn, thì sự kiện này được coi như thêm một đòn giáng chí tử trên sinh mệnh của con sông Mekong, khi dòng sông được khai thác sử dụng như một thủy lộ chiến lược vận chuyển dầu khí từ Trung Đông tiếp tế cho các tỉnh vùng kỹ nghệ tây nam Trung Quốc thay vì phải đi qua eo biển Malacca.
Và rồi chỉ mới đây thôi, Biển Đông lại có nguy cơ dậy sóng khi Quốc Vụ viện Trung Quốc ngày 03 tháng 12 năm 2007, đã phê chuẩn việc thành lập huyện Tam Sa trực thuộc tỉnh Hải Nam bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Bắc Kinh đã thực sự khống chế toàn vùng Biển Đông chỉ với lý lẽ của kẻ mạnh. Chính B.A.Hamzak giám đốc Viện Nghiên Cứu Hàng Hải Mã Lai đã là tác giả của một từ ngữ rất gợi hình: “Tây Tạng Hóa Biển Đông” được báo chí và giới ngoại giao sử dụng khi nói tới tình huống các nước Đông Nam Á một hôm thức dậy thấy Biển Đông đã nằm trong tay Hoa Lục giống như cảnh ngộ của quốc gia Tây Tạng vào thập niên 1950.
Với cái nhìn toàn cảnh trong mối tương quan toàn vùng, để thấy rằng cho dù là một dòng sông – sông Mekong, hay Biển Đông với các hải đảo hay là vùng biên giới trên đất liền, thì chủ đề nhất quán của tác phẩm vẫn là “mối đe dọa – như một ám ảnh lịch sử, do tham vọng bành trướng không ngưng nghỉ của nước lớn Trung Quốc”. Và nan đề của Việt Nam bước sang Thế kỷ 21 vẫn là Trung Quốc chứ không phải giữa những người Việt với nhau.
Thêm một chút riêng tư cho lời dẫn kỳ tái bản lần này. Trong chuyến trở lại thăm Đồng Bằng Sông Cửu Long tháng 09/ 2006, tôi có dịp được gặp nhà văn Sơn Nam. Sau lần bị tai nạn gãy xương đùi, tuy đã được phẫu thuật chỉnh hình nhưng sự đi lại của Bác vẫn khó khăn, sức khoẻ thể lực suy yếu nhưng trí tuệ của Bác thì rất minh mẫn. Tuy là lần đầu tiên được gặp, nhưng “văn kỳ thanh” do đã được đọc có thể nói gần toàn bộ những tác phẩm của “ông già người Việt trong xóm Miên – như ý nghĩa bút hiệu Sơn Nam” viết về Miền Tây Nam Bộ. Trong lần gặp ấy, tôi có đem về từ Mỹ bộ DVD phim “Mùa Len Trâu” của đạo diễn Nguyễn Võ Nghiêm Minh phỏng theo một truyện ngắn trong tác phẩm “Hương Rừng Cà Mau” để tặng bác. Bác rất vui và cho biết Bác cũng đã hơn một lần đọc cuốn CLCDBĐDS. Bác cầm trên tay cuốn sách ấn bản lần hai của Nhà Xuất Bản Văn Nghệ với bìa ngoài đã khá cũ. Bác nhắc lại một gợi ý trước đây là nên phổ biến cuốn sách ở Việt Nam và nếu có thể thì tới ở với Bác chừng ít ngày để cùng duyệt lại nội dung cuốn sách. Nhưng rồi đã không có cơ hội đó cho đến ngày bác mất ở tuổi 82 [13-08-2008], Con Chim Quyên Sơn Nam đã cất cánh bay cao và chẳng còn đâu một ông già Nam Bộ kề cà kể Chuyện Xưa Tích Cũ về một vùng đất thời khẩn hoang mà chắc còn nhiều điều chưa kịp viết ra, và các thế hệ sau cũng không bao giờ còn cơ hội được biết tới.
Về cuốn sách CLCDBĐDS, tôi và có lẽ cả nhà văn Sơn Nam cùng hiểu rất rõ rằng với một nội dung nguyên vẹn không cắt xén – như một nguyên tắc, lại đụng tới những vấn đề nhậy cảm nhất là với nước lớn Trung Quốc, tác phẩm ấy sẽ không thể nào xuất bản được ở Việt Nam trong một tương lai gần khi mà bối cảnh chánh trị vẫn không có ổn định và cả chưa có tự do ngôn luận như hiện tại.
Vẫn từ hải ngoại, những giòng chữ viết này cho ấn bản lần thứ ba xin gửi tới nhà văn Sơn Nam như một tỏ lòng tưỏng nhớ, nhớ tới những trang sách viết của Bác về một nền Văn Minh Miệt Vườn tuy với một lịch sử còn rất non trẻ nhưng lại đang có nguy cơ vĩnh viễn trở thành quá khứ.
NGÔ THẾ VINH
California 10 / 2008

Nguồn: Uyên Nguyên

Friday, March 13, 2020

Ngô Thế Vinh: Năm Nay 2015 Không Có Mùa Nước Nổi

Design by Uyên Nguyên of Lotus Media 


Năm Nay 2015 Không Có Mùa Nước Nổi

Ngô Thế Vinh



Cửu Long giang mở chín lần cửa rộng
Dòng sông dài dữ dội bản trường ca
Nguyên Sa
Gửi Nhóm Bạn Cửu Long
MÙA NƯỚC NỔI NƠI ĐBSCL
Như nhịp điệu ngàn năm của con sông Mekong, hệ sinh thái vùng châu thổ sông Cửu Long được cân bằng một cách tự nhiên với “mùa nước nổi” và “mùa nước giựt”. Theo anh Dohamide Đỗ Hải Minh, một học giả gốc người Chăm, một cây bút quen thuộc của báo Bách Khoa trước 1975, sinh ra và lớn lên ở miệt Hậu Giang Châu Đốc rất am tường về hệ sinh thái của Đồng Bằng Sông Cửu Long, thì trong bao thập niên qua, người dân Miền Tây đã quen sống với nạn ngập lụt hàng năm, hay còn gọi là mùa nước nổi, như là một hiện tượng thiên nhiên đến đều đặn theo chu kỳ. [2]
Ngày xưa, cũng chỉ cách đây hơn 300 năm thôi, các thế hệ tiền nhân thời kỳ Nam Tiến, khi mới đến khai phá vùng ĐBSCL thường chọn sống lập nghiệp trên các khu đất caohay còn gọi là “đất giồng”nên đến mùa nước nổi, cho dù những cánh đồng thẳng cánh cò bay biến thành biển nước mênh mông, nhưng các khu đất giồng này vẫn là vùng cư trú an toàn cho người dân và cả vô số các loài rắn. Sau này do dân số gia tăng, không còn đủ các khu “đất giồng” nên những di dân mới tới phải chọn định cư ngay trên những vùng đất mà họ có thể canh tác. Và để thích nghi, nhà cửa dọc hai bên sông rạch được cất theo kiểu nhà sàn, với chiều cao của các cây cột sàn được tính toán sao cho đến Mùa Nước Nổi, con nước đổ về không ngập lụt đến sàn nhà.
Mùa Nước Nổi hay còn gọi là Mùa Nước Lên thường rất hiền hoà khác hẳn với các mùa lũ lụt tàn phá dữ dội như ở miền Bắc hoặc miền Trung. Dấu hiệu “mùa nước nổi” tại vùng ĐBSCL chủ yếu là vào khoảng tháng tám Âm lịch [tháng 9 tháng 10 Dương lịch], thường được báo trước bằng những “giề” hay bè lục bình từ các cánh đồng trên đất Cam Bốt bị nước ngập, cuốn bật rễ nối đuôi nhau trôi theo dòng xuống đến phần đất Nam Việt Nam. [2]
Mực nước hai con sông Tiền sông Hậu trong “mùa nước nổi” có đặc tính dâng cao lên từ từ rồi tràn qua các bờ sông rạch, làm ngập các cánh đồng. Nước lũ có công dụng không chỉ rửa đất rửa phèn mà còn thêm lượng phù sa như một thứ phân bón thiên nhiên “trời cho” khiến đất đai thêm phần màu mỡ, biến ĐBSCL thành vựa lúa của cả nước và Việt Nam đã từng đứng thứ hai trên thế giới về xuất cảng lúa gạo chỉ đứng sau Thái Lan. Trước đây vùng ĐBSCL còn có một loại lúa thiên nhiên có tên là lúa mù/ lúa sạ hay người Pháp gọi là lúa nổi/ riz  flottant, có đặc tính “phóng ống” mọc rất nhanh theo mực nước dâng cao có khi đến 7, 8 mét, và khi đến mùa nước giựt thì thân cây lúa nằm rạp mình trên đất chờ gặt. Từ ngày có giống lúa Thần Nông/ HYV với năng xuất cao, lúa nổi không còn được nông dân quan tâm tới nữa.
Thông thường, đến “mùa nước nổi”, người dân Miền Tây vẫn phải canh chừng đo mực nước lên từng giờ để phản ứng kịp thời trong trường hợp con nước vượt cao quá mức bình thường hơn các năm trước. Khi áp lực nước từ thượng nguồn bớt đi, thì mực nước liền đứng lại và rồi hạ xuống rất nhanh và giới bình dân gọi là “nước giựt”. Người ta nói nước giựt, vì mực nước hạ xuống trông thấy rõ từng giờ.
Cũng vẫn theo anh Dohamide thì hiện tượng nước nổi và nước giựt không diễn ra đồng đều cùng một lúc trên toàn vùng sông nước Cửu Long. Trên dòng nước cuồn cuộn chảy ra các cửa biển, hễ ở vùng Tân Châu, Châu Đốc nước giựt xuống thì vùng Cần Thơ, Vĩnh Long ở hạ lưu nước lại bắt đầu dâng lên, ngập tràn bờ, tràn đồng, rồi cũng lại hạ xuống, giống như hiện tượng xảy ra trong bình thông nhau. [2]
Cùng với con nước đỏ ngầu mang đẫm phù sa, là các loại cá lội theo vào ruộng đồng đẻ trứng, cho đến thời kỳ nước giựt thì loại nước cỏ vàng xậm từ trong các đồng ruộng chảy ra, cùng với vô số cá lúc nhúc từng đàn, nhất là loại cá linh, ùa theo nhau tràn vào các kinh rạch để ra sông lớn. Cho nên đến mùa nước giựt, chưa bận mùa cấy trồng, người nông dân đóng đáy bắt cá suốt dọc theo các kinh rạch này, có thời điểm trong mấy thập niên trước đây cá nhiều tới mức lưới không chịu nổi phải giở lên thả cá cho đi bớt; bằng không thì sẽ bị rách lưới. [Hình I]
D67D99DB-6AAD-47BF-B345-A87B09C1B376_w640_r1_sSinh hoạt trong Mùa Nước Nổi 2000. (Photo: Ngô Thế Vinh)
Nhưng rồi hiện tượng cân bằng sinh thái tự nhiên đó hầu như không còn nữa. Và “mùa nước nổi” nếu chưa hoàn toàn biến mất thì cũng đã giảm rất nhiều cả về tần suất lẫn cường độ. Hiện tượng đó không phải do thiên tai mà là “nhân tai” một thứ thảm hoạ môi sinh/ ecological disaster do chính con người gây ra.
NĂM NAY KHÔNG CÓ MÙA NƯỚC NỔI
Mới đây thôi, từ eMail một người bạn gửi cho, khi anh ấy đọc thấy trên facebook của nhà văn Nguyễn Đình Bổn, ghi nhận năm nay không có “mùa nước nổi” khiến những ai từng theo dõi con sông Mekong không thể không quan tâm. Nguyễn Đình Bổn không phải gốc gác dân ĐBSCL mà sinh quán tại Quảng Nam, sau 1975 từ tuổi nhỏ 13 theo gia đình vào sống tại một vùng quê của Miền Tây ngót 20 năm và đã nảy sinh bao nhiêu tình cảm gắn bó với vùng đất mới này. Mới đây trên trang facebook cá nhân anh viết:
“Gần hết tháng 8 âm lịch, cậu em vợ lên chơi, hỏi nước có ngập không, lắc đầu. Vậy là năm nay miền Tây không có mùa nước nổi! Mưa giữa chiều. Nhớ một nơi không phải là quê hương nhưng thương như thương người thân thiết. Nhớ gần 40 năm trước, lần đầu biết mùa nước nổi là gì. Nước phù sa miệt Hậu Giang bỗng trong xanh, dòng chảy trên các kinh lững lờ, không có nước ròng. Và đủ loại cá tràn về, cá linh, cá thiểu, cá vồ… và đặc biệt là cá trê trắng, nấu canh chua bông súng hay bông so đũa ngon lạ lùng… Miền Tây còn đó nhưng môi trường đã quá nhiều thay đổi theo chiều hướng xấu. Hết Tàu đến Thái Lan, Lào, Miên thay nhau xây đập trên dòng Mekong. Và thực tế nghiệt ngã mất mùa nước nổi đã hiện tiền. Không có mùa nước nổi, miền Tây mất phân nửa bản sắc của mình, đáng sợ hơn không có lũ tràn về, ruộng đồng sẽ nhanh chóng bị nước biển xâm nhập, và vựa lúa sẽ còn không? ”  Hết trích dẫn.
Ngày hôm sau, người viết nhận được thêm một eMail của một bạn trẻ từ vùng Thất Sơn Châu Đốc cho biết: “mùa nước năm nay nhỏ đến thất thường”, rồi anh ấy tự hỏi: “phải chăng các con đập thượng nguồn sông Mekong đang tích nước?”
NHỮNG GỐC RỄ  “NHÂN TAI”
Từ Nạn Phá Rừng:
Những khu rừng mưa / rainforest từ xa xưa vẫn mang chức năng điều hợp, giữ lại trong lòng đất một lượng nước mưa quan trọng từ thượng nguồn thì nay không còn nữa, khi cơn mưa đổ xuống thì không những nước mưa sói mòn làm trơ đất và nước mưa thì cứ thẳng chảy ra ngoài dòng sông, tức thời làm tăng khối lượng nước và trong ngắn hạn mực nước sông đột ngột dâng cao khi có mưa nhiều ở thượng nguồn.
Những năm gần đây do ảnh hưởng nạn phá rừng tự sát –suicidal deforestation, của các quốc gia lưu vực sông Mekong: của người Tàu trên Vân Nam, của người Lào người Cam Bốt ở vùng Hạ Lưu Sông Mekong với hai đồng lõa dấu mặt là Thái Lan và Việt Nam, khiến cho người dân Việt nơi ĐBSCL càng thêm khốn khổ: tới mùa mưa lũ đổ về sớm hơn, nhanh hơn lại lớn hơn khiến nhà nông trở tay không kịp gây tổn hại nặng mùa màng và cả về nhân mạng. Và tiếp đến mùa khô do không còn những khu rừng mưa như những tấm bọt biển khổng lồ giữ nước nên hậu quả tất yếu là hạn hán.
Tin Reuters gửi đi từ Nam Vang, “Nhóm Môi Sinh Anh – Global Witness tố cáo các nhà lãnh đạo quân sự Việt Nam đã dính líu đến vụ đốn rừng lậu đại quy mô, đe dọa hủy hoại các khu rừng cấm của Cam Bốt. Những cây gỗ quý bị đốn bừa bãi ấy được đưa qua ngả Gia Lai, Sông Bé để chuyển xuống cảng Quy Nhơn hay Sài Gòn trước khi xuất cảng.” Bản tin ấy viết tiếp, “Một vụ làm ăn buôn bán lớn lao như thế, bất chấp luật pháp phải là kết quả của sự tham ô và đồng lõa ở cấp chánh quyền cao nhất của hai nước.” Một tình huống tương tự không kém nguy hại cũng đã diễn ra trong các khu rừng mưa trên đất nước Lào. [3]
Đồng lõa phá rừng mưa, nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam đã và đang trực tiếp “tự gây ra một thảm họa môi sinh – self-inflicted ecological disaster,” với hậu quả lâu dài không chỉ ở đồng bằng châu thổ mà trên khắp ngả sông rạch và nguồn nước của cả một quốc gia.
Đến Những Hồ Chứa Đập Thuỷ Điện:
Với những hồ chứa khổng lồ từ chuỗi các con đập bậc thềm Vân Nam / Mekong Cascades mà Tàu đã và đang xây trên thượng nguồn sông MK, cộng thêm những con đập Lào và Cam Bốt đang xây thì “mùa nước nổi” ở ĐBSCL có thể rồi ra sẽ hoàn toàn biến mất.
Chức năng của những hồ chứa thủy điện khổng lồ — trên lý thuyết là tích trữ nước trong mùa mưa lũ để xử dụng trong mùa khô. Nhưng khi các hồ chứa ở thượng lưu tích nước thì lưu lượng lũ đổ về hạ nguồn sẽ ít hơn. Không còn lũ đổ về có nghĩa là không còn “mùa nước nổi”. Với hậu quả là Biển Hồ Tonle Sap trên Cam Bốt sẽ không được làm đầy, và vào mùa khô nước từ Biển Hồ chảy về ĐBSCL ít đi và đồng thời với mực nước biển ngày một dâng cao/ Sea Level Rise thì nạn nhiễm mặn ngày càng gia tăng trầm trọng.
Untitled-1Hình II: Diện tích Biển Hồ Tonle Sap co giãn với hai mùa Mưa Nắng IIa (trái) Mùa Khô;
IIb(phải) Mùa Mưa [nguồn: Tom Fawthrop]
Để tự bào chữa cho các con đập thuỷ điện Vân Nam, các công trình sư thuỷ điện Tàu đã lý luận rằng các hồ chứa đập thuỷ điện ở thượng lưu mang chức năng điều hoà dòng chảy con sông Mekong: giữ nước trong Mùa Lũ làm giảm lũ lụt hạ nguồn và rồi trong mùa khô cũng vẫn những con đập ấy xả nước xuống hạ lưu nhiều hơn lưu lượng tự nhiên do có sẵn lượng nước ở những hồ chứa tích từ mùa lũ năm trước, nhưng hiện thực thì không đơn giản như vậy.
Bởi vì chính những con đập thuỷ điện thượng nguồn đã phá huỷ chu kỳ điều hợp thiên nhiên vô cùng kỳ diệu của con sông Mekong. Khi mà các hồ thuỷ điện ngăn chặn nguồn nước lũ trong Mùa Mưa từ thượng nguồn cũng chính là nguyên nhân triệt tiêu “mùa nước nổi” nơi ĐBSCL. Để rồi sang Mùa Khô, nguồn nước ấy lại bị chính Trung Quốc, Thái Lan, Lào và Cam Bốt cùng chuyển dòng/ diversion lấy nước từ con sông Mekong cho nhu cầu nông nghiệp nên Cửu Long càng thêm cạn dòng. Nhà nông học Võ Tòng Xuân đã từng ghi nhận:
“Chúng tôi đã chứng kiến những cánh đồng lúa lan rộng trong mùa khô trên khắp các vùng Đông Bắc Thái, Nam Lào và Cam Bốt, đã rút đi một lượng nước sông rất đáng kể trong vùng. Nhiều năm qua, nguồn nước cung cấp cho các vụ lúa mùa khô nơi ĐBSCL đã bị sút giảm nghiêm trọng, hậu quả là nạn nhiễm mặn tiến sâu vào đất liền xa tới 80 km và gây tổn hại cho mùa màng.” [26-10-2013]
Và như vậy, theo kỹ sư thuỷ học Đỗ Văn Tùng từ Canada thì ĐBSCL đã và đang chịu “tai họa kép” thiếu nước cả trong mùa lũ lẫn mùa khô! Cũng vẫn theo anh, thì bắt đầu từ giữa tháng 8/2015 mực nước ở Biển Hồ trụt khoảng 1.3 mét trong vòng 10 ngày là một điều bất thường. Đối với một Biển Hồ lớn như Tonle Sap thì ngay cả khi không có nước chảy vào hồ thì mực nước hồ cũng thay đổi rất ít vì chỉ bị mất nước do bốc hơi, nên phải kể thêm yếu tố chuyển dòng/ diversion, lấy nước ra khỏi hồ tiêu tưới cho những cánh đồng lúa lan rộng trong mùa khô trên Cam Bốt, như vậy đã rút đi một lượng nước sông rất đáng kể nơi cuối nguồn là ĐBSCL.
Theo KS Phạm Phan Long Viet Ecology Foundation, tình trạng mực nước Biển Hồ Tonle Sap, theo đồ biểu của Uỷ Hội Sông Mekong / MRC, thì hai tháng nay mực nước xuống thấp dưới cả mức thấp kỷ lục năm hạn hán 1992. Mưa ngày càng ít đi, mà hồ chứa đập thuỷ điện với trữ lượng ngày càng lớn hơn và nhiều thêm, hậu quả là Biển Hồ Tonle Sap tránh sao cho khỏi trơ đáy và ĐBSCL làm sao còn “mùa nước nổi”.  Tình trạng tai họa kép đã xảy ra vào cả hai Mùa Mưa lẫn Mùa Khô, và còn là “tai họa kép” của nhân tai lẫn thiên tai. [1] http://ffw.mrcmekong.org/stations/pre.htm
3Hình III: mực nước Biển Hồ Tonle Sap, theo đồ biểu của Uỷ Hội Sông Mekong thì hai tháng nay [9 & 10]
mực nước xuống thấp dưới cả mức thấp kỷ lục năm hạn hán 1992 [nguồn: MRC]
ĐBSCL VÀ HỘI CHỨNG LUỘC ẾCH
Trên báo chí truyền thông, người ta hay dùng “giai thoại luộc ếch” như một ẩn dụ/ metaphor. Đó là nếu ta bỏ một con ếch vào nồi nước nóng, thì con ếch sẽ có phản ứng và nhẩy ngay ra khỏi nồi nước. Nhưng nếu ta đặt ếch vào một nồi nước lạnh, để ếch ngồi trong đó, rồi từ từ nâng nhiệt độ lên, một cách rất chậm thì con ếch vẫn thoải mái ngồi trong đó và không nhúc nhích, cho đến khi con ếch bị luộc chín từ lúc nào mà chính nó cũng không biết.
Trên thực tế, thì con ếch sẽ nhẩy ra khi nước bắt đầu nóng. Nhưng không sao, “Hội chứng Luộc ếch/ Boiling Frog Syndrome” vẫn có một ý nghĩa ẩn dụ rất hữu ích khi muốn nói tới tình trạng con người bị “mất khả năng phản ứng” đối với những mối hiểm nguy đến rất từ từ / gradual threats.
Al Gore nguyên Phó Tổng Thống Mỹ, đồng chia giải Nobel Hoà Bình 2007 do nỗ lực phổ biến kiến thức về biến đổi khí hậu do con người gây ra/ man-made climate change và xây dựng nền móng cho những biện pháp chống lại sự biến đổi ấy. Trong cuốn phim An Inconvenient Truth (2006) Al Gore cũng đã dùng ẩn dụ “con ếch luộc” để nói tới sự “vô minh” của con người trước hiện tượng “hâm nóng toàn cầu/ global warming” nhưng trong cuốn phim ấy, con ếch đã được cứu sống. [4]
Cũng không phải là quá đáng nếu đem ví Đồng Bằng Sông Cửu Long đang trở thành một “con ếch luộc”, đang đi dần vào một “Cái Chết Tiệm Tiến của Thế Kỷ” với hơn 20 triệu cư dân thì vẫn cứ đang sống lặng lẽ trong đó, không có phản ứng gì trước một thảm hoạ đến rất từ từ và không thể thấy ngay một cách “nhãn tiền” cho đến khi tất cả một Vùng Châu Thổ cùng với một Nền Văn Minh Miệt Vườn đã bị chìm sâu trong một biển mặn.
NGÔ THẾ VINH
California, Oct 12, 2015
Tham Khảo:
1/ Prek Kdam (Tonle Sap), Water Level. Mekong River Commissionhttp://ffw.mrcmekong.org/stations/pre.htm
2/ Đọc tác phẩm Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng. Đỗ Hải Minh, Tập san Thế Kỷ 21, Số 139, 11/ 2000.
3/ Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng, Ngô Thế Vinh, Nxb Văn Nghệ 2000.
4/ An Inconvenient Truth: The Crisis of Global Warming. Al Gore. Viking Books, 1st Edition, April 2007.
* Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Nguồn: VOA