Showing posts with label Phan Tấn Hải. Show all posts
Showing posts with label Phan Tấn Hải. Show all posts

Wednesday, March 27, 2019

Nguyên Giác: Kinh Phật Nói Gì Về Vong Linh?

Một ngôi Chùa miền Bắc, Việt Nam.  Photo: Internet

Kinh Phật Nói Gì Về Vong Linh?
Nguyên Giác
Trong nước đang sôi nổi về chuyện thỉnh vong, giải trừ oan gia trái chủ tại ngôi Chùa Ba Vàng, tỉnh Quảng Ninh. Bài này không có ý trực tiếp góp tiếng thảo luận về những sự kiện người viết không theo dõi đầy đủ. Chủ đề bài này nêu ra là: Kinh Phật trong Tạng Pali nói gì về chuyện vong linh? Đây là một đề tài gây sôi nổi, được nhiều học giả tôn túc tìm hiểu, thảo luận. Bài này cũng tránh nói về các cuộc tranh luận về vong trong học giới Tây phương, nơi đây chủ yếu sẽ dẫn ra hai kinh trong Kinh Tiểu Bộ đã được Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt, và tiếp theo sau đó sẽ là các bản Việt dịch khác của Hòa Thượng Indacanda.
Kinh thứ 6 trong nhóm Kinh Tiểu Tụng (Khuddakapàtha) là Kinh Châu Báu (Ratana Sutta) – kinh này cũng có trong Kinh Tập (ký số Sn 2.1) hiện có nhiều bản Anh dịch.
Bhikkhu Thanissaro giới thiệu Kinh Châu Báu, xin dịch như sau:
      “Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố; kế tiếp là bệnh truyền nhiễm chết người. Vì gặp cả ba nỗi lo về đói, về vong dữ, và về dịch bệnh, cư dân tìm tới, xin Đức Phật, lúc đó ngài đang ở Rajagaha, cứu giúp.
Đi cùng nhiều vị tăng, trong đó có thị giả Ananda, Đức Phật vào thành Vesali. Khi Thế Tôn bước vào, mưa rào đổ xuống, quét sạch các xác chết đang phân hủy. Khi không khí trong sạch, thành phố thanh tịnh hơn.
Nơi đây, Đức Phật  đọc bài Kinh Châu Báu cho ngài Ananda, dạy ngài về cách nên hướng dẫn và cùng với cư dân Vesali đi quanh thành phố, tụng kinh này để dùng như oai lực bảo vệ cư dân Vesali. Ngài Ananda làm theo lời dạy, rải nước tịnh thủy từ bình bát riêng của Đức Phật. Do vậy, các ác vong được nhẹ nghiệp, nạn dịch bệnh giảm. Sau đó, ngài Ananda cùng dân Vesali trở về hội trường, nơi Đức Phật và chư tăng đang chờ. Kế tiếp, Đức Phật một lần nữa, đọc Kinh Châu Báu.” (hết trích dịch)
Nối kết bản Anh và Việt của Kinh Châu BáuKinh Ngoài Bức Tường (Tirokudda Sutta) sẽ nằm ở (1). Cũng cần ghi rằng có bản Việt dịch khác của Kinh Ngoài Bức Tường do Đại sư Indacanda thực hiện, và kinh này nằm trong Tiểu Bộ Kinh, phần Petavatthu (Chuyện Ngạ Quỹ).

Nơi đây, hai kinh do HT Thích Minh Châu dịch sẽ viết theo thể văn xuôi cho dễ nhìn, trích:
VI. Kinh Châu Báu (Ratana Sutta)
  1. Phàm ở tại đời này, Có sanh linh tụ hội, Hoặc trên cõi đất này, Hoặc chính giữa hư không, Mong rằng mọi sanh linh, Được đẹp ý vui lòng, Vậy, hãy nên cẩn thận, Lắng nghe lời dạy này.
2. Do vậy các sanh linh, Tất cả hãy chú tâm, Khởi lên lòng từ mẫn, Đối với thảy mọi loài, Ban ngày và ban đêm, Họ đem vật cúng dường, Do vậy không phóng dật, Hãy giúp hộ trì họ.
3. Phàm có tài sản gì, Đời này hay đời sau, Hay ở tại thiên giới, Có châu báu thù thắng, Không gì sánh bằng được, Với Như Lai Thiện Thệ, Như vậy, nơi Đức Phật, Là châu báu thù diệu, Mong với sự thật này, Được sống chơn hạnh phúc.
4. Đoạn diệt và ly tham, Bất tử và thù diệu. Phật Thích-ca Mâu-ni, Chứng Pháp ấy trong thiền, Không gì sánh bằng được, Với Pháp thù diệu ấy. Như vậy, nơi Chánh Pháp, Là châu báu thù diệu, Mong với sự thật này, Được sống chơn hạnh phúc.
5. Phật, Thế Tôn thù thắng, Nói lên lời tán thán, Pháp thù diệu trong sạch, Liên tục không gián đoạn, Không gì sánh bằng được, Pháp thiền vi diệu ấy. Như vậy, nơi Chánh Pháp, Là châu báu thù diệu, Mong với sự thật này, Được sống chơn hạnh phúc.
6. Tám vị bốn đôi này, Được bậc thiện tán thán. Chúng đệ tử Thiện Thệ, Xứng đáng được cúng dường. Bố thí các vị ấy, Được kết quả to lớn. Như vậy, nơi tăng chúng, Là châu báu thù diệu  Mong với sự thật này, Được sống chơn hạnh phúc.
7. Các vị lòng ít dục, Với ý thật kiên trì, Khéo liên hệ mật thiết, Lời dạy Gô-ta-ma! Họ đạt được quả vị, Họ thể nhập bất tử, Họ chứng đắc dễ dàng, Hưởng thọ sự tịch tịnh, Như vậy, nơi Tăng chúng, Là châu báu thù diệu, Mong với sự thật này, Được sống chơn hạnh phúc.
8. Như cây trụ cột đá, Khéo y tựa lòng đất. Dầu có gió bốn phương, Cũng không thể dao động. Ta nói bậc Chơn nhân, Giống như thí dụ này, Vị thể nhập với tuệ, Thấy được những Thánh đế, Như vậy, nơi Tăng chúng, Là châu báu thù diệu, Mong với sự thật này, Được sống chơn hạnh phúc.
9. Những vị khéo giải thích, Những sự thật Thánh đế, Những vị khéo thuyết giảng, Với trí tuệ thâm sâu. Dầu họ có hết sức, Phóng dật không chế ngự, Họ cũng không đến nỗi, Sanh hữu lần thứ tám, Như vậy, nơi Tăng chúng, Là châu báu thù diệu, Mong với sự thật này, Được sống chơn hạnh phúc.
10. Vị ấy nhờ đầy đủ, Với chánh kiến sáng suốt, Do vậy có ba pháp, Được hoàn toàn từ bỏ, Thân kiến và nghi hoặc, Giới cấm thủ cũng không, Đối với bốn đọa xứ, Hoàn toàn được giải thoát. Vị ấy không thể làm, Sáu điều ác căn bản, Như vậy, nơi Tăng chúng, Là châu báu thù diệu. Mong với sự thật này, Được sống chơn hạnh phúc.
11. Dầu vị ấy có làm, Điều gì ác đi nữa, Với thân hay với lời, Kể cả với tâm ý, Vị ấy không có thể, Che đậy việc làm ấy, Việc ấy được nói rằng, Không thể thấy ác đạo. Như vậy, nơi Tăng chúng, Là châu báu thù diệu. Mong với sự thật này, Được sống chơn hạnh phúc.
12. Đẹp là những cây rừng, Có bông hoa đầu ngọn, Trong tháng hạ nóng bức, Những ngày hạ đầu tiên, Pháp thù thắng thuyết giảng, Được ví dụ như vậy. Pháp đưa đến Niết Bàn, Pháp hạnh phúc tối thượng, Như vậy, nơi Đức Phật, Là châu báu thù diệu, Mong với sự thật này, Được sống chơn hạnh phúc.
13. Cao thượng biết cao thượng, Cho đem lại cao thượng, Bậc Vô thượng thuyết giảng, Pháp cao thượng thù thắng, Như vậy nơi đức Phật, Là châu báu thù diệu, Mong với sự thật này, Được sống chơn hạnh phúc.
14. Nghiệp cũ đã đoạn tận, Nghiệp mới không tạo nên, Với tâm tư từ bỏ, Trong sanh hữu tương lai, Các hột giống đoạn tận, Ước muốn không tăng trưởng Bậc trí chứng Niết Bàn, Ví như ngọn đèn này, Như vậy, nơi Tăng chúng, Là châu báu thù diệu. Mong với sự thật này, Được sống chơn hạnh phúc.
15. Phàm ở tại đời này, Có sanh linh tụ hội, Hoặc trên cõi đất này, Hoặc chính giữa hư không, Hãy đảnh lễ Đức Phật, Đã như thực đến đây, Được loài Trời, loài Người, Đảnh lễ và cúng dường, Mong rằng, với hạnh này, Mọi loài được hạnh phúc.
16. Phàm ở tại nơi này, Có sanh linh tụ hội, Hoặc trên cõi đất này, Hoặc chính giữa hư không, Hãy đảnh lễ Chánh pháp, Đã như thực đến đây, Được loài Trời, loài Người; Đảnh lễ và cúng dường, Mong rằng với hạnh này, Mọi loài được hạnh phúc.
17. Phàm ở tại đời này, Có sanh linh tụ hội Hoặc trên cõi đất này, Hoặc chính giữa hư không, Hãy đảnh lễ chúng Tăng, Đảnh lễ và cúng dường, Mong rằng với hạnh này, Mọi loài được hạnh phúc.
__()__
VII. Kinh Ngoài Bức Tường (Tirokudda Sutta)
                             1. Ở bên ngoài bức tường, Bọn họ đứng chờ đợi, Giao lộ, ngã ba đường, Trở về mái nhà xưa, Đợi chờ bên cạnh cổng.
2. Nhưng khi tiệc thịnh soạn, Được bày biện sẵn sàng, Đủ mọi thức uống ăn, Không một ai nhớ họ. Sự kiện này phát sinh Từ nghiệp xưa của họ.
3. Vậy ai có từ tâm, Nhớ cho các thân nhân, Thức uống ăn thanh tịnh, Tốt đẹp và đúng thời.
4. Món này cho bà con, Mong bà con an lạc, Đám ngạ quỷ thân bằng, Đã tề tựu chỗ đó.
5. Sẽ mong muốn chúc lành, Vì thực phẩm đầy đủ, Mong quyến thuộc sống lâu, Nhờ người, ta hưởng lợi.
6. Vì đã kính lễ ta, Thí chủ không thiếu quả Tại đó không cấy cày, Cũng không nuôi súc vật.
7. Cũng không có buôn bán, Không trao đổi tiền vàng, Các ngạ quỷ họ hàng, Chỉ sống nhờ bố thí.
8. Như nước đổ xuống đồi, Chảy xuống tận vực sâu, Bố thí tại chỗ này, Cung cấp loài ngạ quỷ.
9. Như lòng sông tràn đầy, Đưa nước đổ xuống biển, Bố thí tại chỗ này, Cung cấp loài ngạ quỷ.
10. Người ấy đã cho ta, Đã làm việc vì ta, Người ấy là quyến thuộc, Người ấy chính thân bằng. Hãy bố thí ngạ quỷ, Nhớ việc xưa chúng làm.
11. Không khóc than, sầu muộn, Không thương tiếc cách gì, Giúp ích loài ngạ quỷ, Quyến thuộc làm như vầy, Không lợi cho ngạ quỷ.
12. Nhưng khi vật cúng dường, Khéo đặt vào chư Tăng Ích lợi chúng lâu dài, Bây giờ, về sau nữa.
13 Chánh pháp được giảng bày, Như vậy cho quyến thuộc, Kính trọng biết chừng nào, Đối với người đã khuất, Chư Tăng được cúng dường, Cũng tăng thêm dõng mãnh, Người tích tụ công đức, Thật to lớn biết bao.
(GHI NHẬN: Kinh Ngoài Bức Tường, trong bản Anh dịch của ngài Ven. Kiribathgoda Gnanananda Thera có thêm câu đầu là, “Đức Phật đọc bài kinh này cho Vua Bimbisara sau khi vua thiết lễ trai tăng cúng dường cho tang đoàn.)
__()__

Nhóm chuyện Petavatthu bao gồm 51 bài, kể về các trường hợp khác nhau, cho thấy ác nghiệp sẽ dẫn tới tái sanh vào cõi “quỷ đói” (ngạ quỷ - peta).
Nơi đây, xin dẫn ra bản kinh ngài Xá Lợi Phất (Sariputta – có thế danh là Upatissa) thấy một quỷ đó hiện ra, và đó là người mẹ từ kiếp trước. Ngài đã hướng dẫn giải nghiệp cho mẹ. Kinh này ký số 2.2 trong Petavatthu.
Bản Việt dịch kinh này do ngài Indacanda thực hiện như sau:
                 “Này cô nàng lòi cả xương sườn, gầy guộc, nàng là ai mà đứng ở nơi đây, lõa lồ, có vóc dáng xấu xí, ốm o, nổi đầy gân?”
“Tôi là mẹ của ngài trong những kiếp sống khác trước đây, đã bị sanh vào cảnh giới ngạ quỷ, bị gánh chịu sự đói khát.
Bị tác động bởi cơn đói, tôi ăn vật thuộc về người nữ và người nam: vật bị ói ra, vật bị khạc nhổ, nước miếng, nước mũi, đờm dãi, mỡ béo của những thi thể đang bị đốt cháy, và máu của những phụ nữ đang sanh, máu của những vết thương và của những vết cắt ở lỗ mũi và ở đầu.
Tôi có thức ăn là mủ máu của những loài thú nuôi và của những con người, không chốn nương tựa, và không nơi cư trú, có chỗ nghỉ ngơi là chiếc giường xám xanh (dùng khiêng tử thi).
Này con trai, hãy cho tôi vật thí, sau khi bố thí xin ngài hãy chỉ định (việc ấy là) dành cho tôi; được như thế thì tôi có thể thoát khỏi việc thọ thực mủ và máu.”
Sau khi lắng nghe lời nói của người mẹ, vị Upatissa, bậc có lòng thương tưởng, đã thỉnh ý các vị Moggallāna, Anuruddha, và Kappina.
Sau khi thực hiện bốn liêu cốc, vị ấy đã dâng các liêu cốc và cơm ăn nước uống đến Hội Chúng bốn phương; vị ấy đã chỉ định sự cúng dường là dành cho người mẹ.
Khi được chỉ định thì quả thành tựu đã được sanh lên ngay lập tức: vật thực, nước uống, vải vóc; quả báo này là do sự cúng dường.
Do đó, nàng ấy (nữ ngạ quỷ) trở nên sạch sẽ, có y phục tinh khiết, có sự trang phục bằng vải hạng nhất của xứ Kāsī, có các đồ trang sức và các tấm vải nhiều màu sắc, đã đi đến gặp vị Kolita.
“Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
“Tôi là mẹ của Sāriputta trong những kiếp sống khác trước đây, đã bị sanh vào cảnh giới ngạ quỷ, bị gánh chịu sự đói khát.
Bị tác động bởi cơn đói, tôi ăn vật thuộc về người nữ và người nam: vật bị ói ra, vật bị khạc nhổ, nước miếng, nước mũi, đờm dãi, mỡ béo của những thi thể đang bị đốt cháy, và máu của những phụ nữ đang sanh, máu của những vết thương và của những vết cắt ở lỗ mũi và ở đầu.
Tôi có thức ăn là mủ máu của những loài thú nuôi và của những con người, không chốn nương tựa, và không nơi cư trú, có chỗ nghỉ ngơi là chiếc giường xám xanh (dùng khiêng tử thi).
Nhờ vào sự bố thí của Sāriputta, tôi vui sướng, không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu. Thưa ngài, tôi đi đến để đảnh lễ bậc hiền trí, đấng bi mẫn ở thế gian.”
Chuyện Ngạ Quỷ—Mẹ của Trưởng Lão Sāriputta là thứ nhì.”(hết trích) (2)
__()__
Tiếp theo nơi đây, xin trích ra truyện một quỷ đói hiện ra trước ngài Nandasena xin cứu, nói rằng cô khi sinh tiền là vợ của ngài trong cõi người, vì làm ác nghiệp nên rơi vào cõi ngạ quỷ. Truyện này, ký số 2.4 trong nhóm Petavatthu, cũng do Hòa Thượng Indacanda dịch ra tiếng Việt, như sau.
                         “Nàng đen đủi, có vóc dáng xấu xí, thô kệch, có dáng vẻ ghê rợn, có mắt đỏ ngầu, có răng hô, tôi nghĩ rằng nàng không phải loài người?”
“Này Nandasena, tôi là Nandā, trước đây tôi đã là vợ của ông. Sau khi làm nghiệp ác, từ nơi đây tôi đã đi đến thế giới ngạ quỷ.”
“Vậy ác hạnh gì đã được làm, bởi thân bởi khẩu bởi ý? Do quả thành tựu của nghiệp gì mà từ nơi đây nàng đã đi đến thế giới ngạ quỷ?”
Tôi đã là người nhẫn tâm, có lời nói thô lỗ, không tôn trọng ông. Sau khi nói lời tồi tệ với ông, tôi đã đi đến thế giới ngạ quỷ.”
“Này, tôi cho nàng tấm choàng. Nàng hãy quấn mảnh vải này vào. Sau khi quấn vào mảnh vải này, hãy đi đến, ta sẽ đưa nàng về nhà.
Khi nàng đã đi đến nhà, nàng sẽ nhận được y phục, cơm ăn và nước uống. Nàng sẽ trông thấy những đứa con trai của nàng, và nhìn xem những cô con dâu.”
“Vật thí của ông dầu tay trao tay vẫn không lợi ích cho tôi. Ông hãy làm toại ý các vị tỳ khưu đầy đủ giới hạnh, đã lìa luyến ái, có sự nghe nhiều (học rộng), với cơm ăn và nước uống, rồi chỉ định sự cúng dường là dành cho tôi. Khi ấy, tôi sẽ được hạnh phúc, có sự thành tựu tất cả các dục lạc.”
“Tốt lắm!” Sau khi thỏa thuận, vị ấy đã thực hiện dồi dào vật thí: cơm ăn, nước uống, vật thực cứng, vải vóc, chỗ trú ngụ, lọng che, vật thơm, tràng hoa, và nhiều loại giày dép. Sau khi làm toại ý các vị tỳ khưu đầy đủ giới hạnh, đã lìa luyến ái, có sự nghe nhiều (học rộng), với cơm ăn và nước uống, rồi đã chỉ định sự cúng dường là dành cho nữ ngạ quỷ ấy.
Khi được chỉ định thì quả thành tựu đã được sanh lên ngay lập tức: vật thực, y phục, nước uống; quả báo này là do sự cúng dường.
Do đó, nàng ấy (nữ ngạ quỷ) trở nên sạch sẽ, có y phục tinh khiết, có sự trang phục bằng vải hạng nhất của xứ Kāsī, có các đồ trang sức và các tấm vải nhiều màu sắc, đã đi đến gặp người chồng.
“Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
Hỡi nàng tiên có đại oai lực, tôi hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
“Này Nandasena, tôi là Nandā, trước đây tôi đã là vợ của chàng. Sau khi làm nghiệp ác, từ nơi đây tôi đã đi đến thế giới ngạ quỷ.
Nhờ vào vật thí đã được chàng dâng cúng, tôi vui sướng, không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu. Này gia chủ, mong rằng chàng sống thọ cùng với tất cả thân quyến.
Nơi chốn không sầu muộn, xa lìa luyến ái, là chỗ trú ngụ của các vị có quyền lực. Này gia chủ, ở đây sau khi thực hành Giáo Pháp, sau khi dâng cúng vật thí, sau khi loại trừ ô nhiễm của sự bỏn xẻn luôn cả gốc rễ, không bị chê trách, mong rằng chàng đi đến nơi chốn cõi Trời.”
Chuyện Ngạ Quỷ Nandā là thứ tư.” (hết trích) (3)

GHI CHÚ:
Kinh Tiểu Tụng bản Việt dịch: https://thuvienhoasen.org/p15a1271/kinh-tieu-tung-viet-anh
Chuyện Ngạ Quỹ, bản Việt dịch: https://suttacentral.net/pv5/vi/indacanda
(2) Chuyện Ngạ Quỷ—Mẹ của Trưởng Lão Sāriputta: https://suttacentral.net/pv14/vi/indacanda
(3) Chuyện Ngạ Quỷ Nandā: https://suttacentral.net/pv16/vi/indacanda





Monday, February 18, 2019

VIẾT TỪ PHƯƠNG XA - Phan Tấn Hải

Sách designed by Uyên Nguyên, Lotus Media Inc. 

PHAN TẤN HẢI: Có lần, khi học tới bài thơ Ngậm ngùi của Huy Cận, khi nghe đọc câu “Nắng chia nửa bãi chiều rồi…” tôi nhìn ra khung cửa sổ của lớp, và kinh ngạc nhìn thấy màu nắng chiều trải theo các vạt hắt lên những tường vách, và có cảm giác mình nằm chết soãi trên nắng chiều. Không biết tại sao như thế, nhưng cũng không rõ cảm giác đó có phải là cảm nghiệm văn chương hay không. Những cảm giác lạ lùng như thế không quên được, và đó là những bước đi tự nhiên vào văn học.


Hay như khi được cô giáo giảng về tác phẩm Anh phải sống của Khái Hưng viết chung với Nhất Linh, tôi nghe tiếng sóng vỗ bên tai, sóng vỗ chung quanh mình và tiếng cặp vợ chồng cố gắng bơi giữa dòng nước thủy triều vùi dập. Tôi nhớ, cô giáo đọc cho đoạn này, và rồi không quên nổi:
“– Không. Thôi đành chết cả đôi.

Bỗng Lạc run run khẽ nói:
– Thằng Bò! Cái Nhớn! Cái Bé!… Không!… Anh phải sống!
Thức bỗng nhẹ hẳn đi. Cái vật nặng không thấy bám vào mình nữa. Thì ra Lạc nghĩ đến con đã lẳng lặng buông tay ra để chìm xuống đáy sông, cho chồng đủ sức bơi vào bờ…”.

Nhìn về văn chương, đoạn trích trên không có gì gọi là xuất sắc hay tiêu biểu Tự Lực Văn Đoàn, hay “văn chương hào nhoáng” cả, nhưng cảm xúc thời thơ ấu thật là tuyệt vời. Tiếng sóng vỗ theo tôi, vọng bên tai cả khi rời lớp, phóng chiếc xe đạp về nhà. Ý thức về cái chết, về cái sống lần đầu tiên của tôi cũng là từ đoạn văn trên. Trí nhớ ám ảnh hoài về truyện này, như thế cũng không thuần túy vì văn chương. Tại sao thì không rõ.

Hay như khi nghe cô giáo giảng về tiểu thuyết Tiêu Sơn tráng sĩ, cũng của Khái Hưng. Hình ảnh người tráng sĩ trong thời Hậu Lê, với bối cảnh nội chiến của Tây Sơn và những kẻ phò vua – nghĩa là, những người đứng về phía người dân nổi dậy, theo lá cờ Tây Sơn, và những người trung quân. Truyện nói chung là có những hình ảnh không thích nghi, như khi tráng sĩ vào chùa đi tu, nhưng rồi mang áo nhà sư mà lại mê nhan sắc giai nhân. Nói chung, là hỏng kiểu. Nhưng một khi đã nghe kể, chứ chưa nói đã đọc xong, thì không thể nào quên được hình ảnh của chàng Phạm Thái và nàng Quỳnh Như. Khi nghe kể chuyện, tôi nghe quanh mình có tiếng vó ngựa nội chiến của thời Tây Sơn, có tiếng gươm giáo xông trận, và có tiếng than khóc của lương dân.

Sau này, cũng không ngờ rằng mình lại bước vào một cuộc nội chiến thời hiện đại của dân tộc. Nhưng ngẫm lại, lịch sử là thế: ngay cả cụ Nguyễn Du, tài năng là thế, trong gia đình cũng tan nát vì theo hai phía nghịch nhau trong cuộc nội chiến.

Thời đó có chuyện đôi bạn học thời thơ ấu – Ngô Thời Nhậm, ra cầm quân theo vua Nguyễn Huệ Tây Sơn; còn Đặng Trần Thường, theo phò Nguyễn Phúc Ánh, người sau này thống nhất đất nước, trở thành vua với hiệu là Gia Long.

Sau khi nhà Tây Sơn mất, Ngô Thời Nhậm và nhiều quan tướng Tây Sơn bị lôi ra Văn Miếu phạt đòn, đánh roi. Theo truyền thuyết thì Ngô Thời Nhậm chết vì roi tẩm thuốc độc. Người chủ trì trận đánh roi lại là bạn thời thơ ấu Đặng Trần Thường.

Trước khi đánh roi, Thường ra câu đối:
– Ai công hầu, ai khanh tướng, trong trần ai, ai dễ biết ai (Vế đối có 5 chữ ai, một chữ trần là tên đệm của Đặng Trần Thường).

Ngô Thời Nhậm đáp:
– Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế (Có 5 chữ thế, và chữ thời là tên đệm của Ngô Thời Nhậm).

Gia tộc cụ Nguyễn Du cũng chia đôi gay gắt. Đoàn Nguyễn Tuấn là người nuôi cụ Nguyễn Du ăn học, và sau đó cụ Nguyễn Du cưới em gái Đoàn Nguyễn Tuấn. Khi cụ Đoàn Nguyễn Tuấn theo nhà Tây Sơn, được Nguyễn Huệ giao chức quan lớn, thì cụ Nguyễn Du trốn về quê vợ, vì hầu hết gia tộc Nguyễn đều chống lại Tây Sơn.

Tôi mỗi lần nghĩ tới ngòi bút của Tự Lực Văn Đoàn, nghĩ tới Khái Hưng (người được tin là bị ám sát ở hậu phương), tới Nhất Linh, tới tất cả các nhà văn thời đó và sau này… đều bùi ngùi. Những cuộc nội chiến đã phá hoại tiềm lực dân tộc biết là bao nhiêu.

Khi các cụ Khái Hưng, Hoàng Đạo, Nguyễn Gia Trí… bị thực dân Pháp bắt giam rồi đày lên Sơn La… thì là chuyện bình thường. Nhưng khi Khái Hưng bị ám sát mới là chuyện để nói.

Thời Ngô Thời Nhậm và Phan Huy Ích… chỉ bị đánh roi vào giai đoạn hậu nội chiến. Nhưng còn khi quốc-cộng phân tranh, đẫm máu ác liệt biết là bao nhiêu...

(TỰ LỰC VĂN ĐOÀN VÀ MÀU NẮNG QUÊ NHÀ của Phan Tấn Hải, trong tuyển tập VIẾT TỪ PHƯƠNG XA, Bodhi Media sắp xuất bản, 2019)

Saturday, February 16, 2019

Đức Phật Dạy Pháp Niết Bàn Tức Khắc - Nguyên Giác

Đức Phật Dạy Pháp Niết Bàn Tức Khắc
Nguyên Giác

Phải là có cơ duyên nhiều đời mới được làm thị giả cho Đức Phật. Thị giả là nhà sư sống gần Đức Phật nhất, là vị đệ tử được tin cậy để chọn theo hầu bên Đức Phật, phải có nhiệt tâm tu học làm gương cho các tu sĩ khác, và do vậy được nghe Đức Phật thuyết giảng nhiều kinh nhất. Chúng ta có thể tin rằng nhà sư thị giả luôn ở bên Đức Phật trọn ngày hẳn là phải biết rất nhiều pháp, cả về thuyết lẫn hành.
Vị thị giả nổi tiếng của Đức Phật Thích Ca là ngài Anan. Tuy nhiên, trước đó đã có một vị thị giả khác: ngài Meghiya. Trường hợp ngài thị giả Meghiya được kể lại trong Kinh Ud 4.1 (Meghiya Sutta), bản Việt ngữ trong nhóm Kinh Tiểu Bộ của Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch là Kinh Phật Tự Thuyết, Chương Bốn – Phẩm Meghiya. Kinh này cũng là kinh sơ thời, khi ngài Anan chưa làm thị giả. Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
Có một số điểm đặc biệt trong Kinh Ud 4.1, có thể gọi là hy hữu. Ngài Meghiya ba lần cãi ý Đức Phật, thế rồi Đức Phật phải chiều ý nhà sư thị giả nhiệt tâm với thiền định này.
Kinh viết, trích:
Một thời Thế Tôn trú ở Càlikà, tại núi Càlikà lúc bấy giờ Tôn giả Meghiya là người thị giả Thế Tôn. Rồi Tôn giả Meghiya đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên Tôn giả Meghiya bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, con muốn vào làng Jantu để khất thực.
– Này Meghiya, hãy làm những gì Thầy nghĩ là hợp thời.
Rồi Tôn giả Meghiya, vào buổi sáng đắp y, cầm bát đi vào làng Jantu để khất thực. Khất thực ở làng Jantu xong, sau buổi ăn, khi khất thực trở về, đi đến bờ sông Kimikàkà, sau khi đến, bộ hành qua lại trên bờ sông Kimikàlà, thấy rừng xoài tươi đẹp, khả ái, thấy vậy Tôn giả Meghiya suy nghĩ: “Thật tươi đẹp thay, khả ái thay rừng xoài này. Rừng xoài này thật là vừa đủ để một thiện nam tử tinh cần, hành trì hạnh tinh cần. Nếu Thế Tôn cho phép ta, ta sẽ đến rừng xoài này để tinh cần hành trì”…”(ngưng trích)
Điều để suy nghĩ: Buổi sáng hôm đó, Đức Phật không đi khất thực. Nghĩa là, thỉnh thoảng Đức Phật nhịn đói? Và do vậy, ngài Meghiya đi khất thực một mình. Thế rồi, sau khi ngài Meghiya khất thực về, đã xin được vào rừng xoài ngồi thiền.
Kinh viết tiếp, theo bản dịch của Hòa Thượng Thích Minh Châu, trích:
Rồi Tôn giả Meghiya đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên, ngồi xuống một bên, Tôn giả Meghiya bạch Thế Tôn:
– Ở đây, bạch Thế Tôn, con vào buổi sáng đắp y, cầm bát đi vào làng Jantu để khất thực. Khất thực ở Jantu xong, sau buổi ăn, khi đi khất thực trở về, con đi đến bờ sông Kimikàlà, sau khi đến, con bộ hành qua lại trên bờ sông Kimikàlà, con thấy rừng xoài tươi đẹp, khả ái, thấy vậy, con suy nghĩ: “Thật tươi đẹp thay, khả ái thay là rừng xoài này. Rừng xoài này thật là vừa đủ để một thiện nam tử tinh cần, hành trì hạnh tinh cần”. Nếu Thế Tôn cho phép con, con sẽ đi đến rừng xoài ấy để tinh cần hành trì.
Ðược nói vậy, Thế Tôn nói với Tôn giả Meghiya:
– Hãy chờ đợi, này Meghiya. Chúng ta nay chỉ có một mình, chờ cho đến khi một Tỳ-kheo khác đến!”(ngưng trích)
Nghĩa là, thời kỳ này, tại góc núi Càlikà, chỉ có riêng Đức Phật và thị giả Meghiya. Không có nhà sư nào khác. Nghĩa là, thời kỳ này là thời kỳ rất sớm của Đạo Phật, vì chưa có ngài Anan làm thị giả, và không có nhiều nhà sư bên Đức Phật. Như thế, kinh này là một kinh Đức Phật nói trong những năm đầu hoằng pháp.
Thế rồi, kinh ghi rằng ngài Meghiya cãi Đức Phật, xin Thế Tôn cho ngài tới rừng xoài để ngồi thiền. Nghĩa là, ngài thị giả Meghiya muốn rời Đức Phật một mình, để riêng một mình ngài Meghiya tới rừng xoài ngồi thiền. Tâm thức tới nơi vắng để ngồi thiền, và “dám bỏ Đức Phật một mình” hiển nhiên là tâm thức của các vị sư sơ thời, khi Đức Phật khuyến khích các sư hãy tới nơi rừng vắng để ngồi thiền. Các nhà sư thời kỳ đầu không có tâm “ỷ thế thân cận Đức Phật” – mà chỉ muốn thiền tập để giải thoát.
Đức Phật không đồng ý, bảo ngài Meghiya hãy chờ… Kinh viết:
Lần thứ hai, Thế Tôn nói với Tôn giả Meghiya:
– Hãy chờ đợi này Meghiya! Chúng ta nay chỉ có một mình, chờ cho đến khi một Tỷ-kheo khác đến.”(ngưng trích)
Thế rồi, ngài Meghiya cãi, xin lần nữa. Tới lần xin thứ ba, ngài Meghiya được Đức Phật cho phép ra đi một mình: “Này Meghiya, khi Thầy nói tinh cần, thời Ta có thể nói gì được! Này Meghiya, nay Thầy hãy làm những gì Thầy nghĩ là hợp thời!
Thế rồi, ngài Meghiya tới rừng xoài, kinh viết: “… đi sâu vào rừng xoài và ngồi trú ban ngày dưới một gốc cây. Trong khi Tôn giả Meghiya trú trong rừng xoài ấy, phần lớn ba tâm ác, không thiện hiện hành, tức là dục tầm, sân tầm, hại tầm.”
Tức là, khi ngài Meghiya ngồi thiền, thấy tâm khởi lên nhiều niệm: dục (tham dục), sân (bực dọc, giận), hại (nguy hại, bạo lực).
Bản Anh dịch Anandajoti là: the thought of sensual pleasure, the thought of ill-will, the thought of harming.
Bản dịch Ireland: sensual thought, malevolent thought, and cruel thought.
Bản dịch Thanissaro: thoughts of sensuality, thoughts of ill will, and thoughts of doing harm.
Thế rồi ngài Meghiya trở về trình bày với Đức Phật chuyện ngồi thiền, thấy khởi lên các tâm sở bất thiện như thế.
Đức Phật dạy rằng: “Này Meghiya, khi tâm giải thoát chưa được thuần thục, năm pháp đưa đến sự thuần thục. Thế nào là năm?”
Đức Phật liệt kê ra 5 pháp cần có để tâm giải thoát thuần thục: (1) cần sống gần bạn thiện hữu tri thức, (2) cần giữ giới, (3) cần nghe kể các chuyện về ly tham và hướng tâm về giải thoát, (4) cần kiên trì rời tâm không lành và vun trồng tâm lành, (5) cần quán sát các sanh khởi và biến diệt để hướng tới xa lìa sầu khổ.
Điểm thứ nhất là ứng hợp với ngài Meghayi. Vì là thị giả, sống kế bên Đức Phật, là kế bên vị đệ nhất thiện tri thức trên đời này, có cơ duyên nghe rất nhiều kinh. Cũng là điều cảnh giác cho chúng ta: ngài Meghayi ngồi thiền còn khởi tâm linh tinh, huống gì chúng ta bây giờ.
Đức Phật dạy thêm, sau khi an trú trong 5 pháp đó, hãy tu thêm 4 pháp, kinh viết:
Lại nữa, này Meghiya, với vị Tỷ-kheo khéo an trú trong năm pháp này, bốn pháp cần phải tu tập thêm: Bất tịnh cần phải tu tập để đoạn tận tham; Từ cần phải tu tập để đoạn tận sân; Niệm hơi thở vô hơi thở ra cần phải tu tập để trừ khử tầm tư; Vô thường tưởng cần phải tu tập để nhổ lên kiêu mạn, tôi là. Này Meghiya, với ai có tưởng vô thường, tưởng vô ngã được an trú. Với ai có tưởng vô ngã, vị ấy đạt được sự nhổ lên kiêu mạn: tôi là, Niết-bàn ngay trong hiện tại.”(ngưng trích)
Nhóm 4 pháp này, tóm tắt là: (1) quán bất tịnh (thân người dơ bẩn, cõi này dơ bẩn) để không sinh tâm ái dục; (2) quán Từ Bi để không sân với bất kỳ ai hay chúng sinh nào; (3) niệm hơi thở vô và ra để ngưng niệm (Anandajoti dịch: cutting off of thoughts; Thanissaro dịch: cut off thinking; Ireland dịch: cutting off (discursive) thinking -- tức là cắt bỏ dòng niệm, hay là Vô Niệm); (4) quán vô thường để tâm an trú vô ngã.
Chúng ta có thể nhận ra một số điểm:
-- Đức Phật không dạy nhập định, thậm chí cũng không bảo ngài Meghayi phải vào sơ thiền.
-- Đức Phật dạy rằng theo thứ tự trước tiên là tâm phải ly tham, rồi phải ly sân, rồi phải tập hơi thở để ly niệm, và tận cùng là quán vô thường.
-- Kết quả là Niết bàn trong hiện tại (HT Minh Châu dịch), hiểu là đạt được Niết bàn tức khắc, ở đây và bây giờ. Ireland dịch là: Nibbana here and now. Thanissaro dịch là: unbinding right in the here-&-now. Anandajoti dịch là: in this very life reaches Emancipation.
Tuy kinh này nói riêng cho ngài thị giả Meghayi, nhưng sẽ thích nghi với nhiều người chúng ta. Rằng không nhất thiết phải tu tứ thiền bát định. Rằng niệm hơi thở không cần phức tạp, chỉ cần niệm hơi thở ra và vào để tới mức ly niệm (không nên hiểu là xóa sổ niệm, chỉ nên hiểu tương đối là khi thở, để tâm phẳng lặng như mặt hồ là đủ). Và quán vô thường là sẽ thấy vô ngã, là Niết bàn tức khắc.
Như thế nào để quán vô thường? Có thể cảm thọ vô thường qua các chuyển biến thân tâm như sau. Khi bạn từ ngoài nắng bước vào nhà, sẽ cảm thọ, nhận ra thân tâm chuyển biến. Tương tự, khi bạn từ trong nhà bước ra nắng. sẽ cảm thọ thân tâm chuyển biến. Bạn nhấp ngụm nước, sẽ cảm thọ chuyển biến khi nước lan vào người. Khi bạn ngồi thở, sẽ cảm thọ thân tâm chuyển biến theo từng hơi thở. Từng khoảnh khắc tới rồi biến mất tức khắc, đó là cơn gió vô thường trôi chảy nơi thân tâm bạn. Khi cảm thọ vô thường, bạn không níu được cái đã qua, cả ba thời quá-hiện-vị lai đều biến mất trên thân tâm bạn. Từng khoảnh khắc hãy thọ nhận vô thường trôi chảy trên thân tâm. Dó là kinh vô tự, vì chữ nghĩa là cái của quá khứ, mà bạn đã quăng bỏ quá khứ rồi.  Khi cảm thọ vô thường, bạn đang sống với cái Tâm Không Biết, với Cái Chưa Từng Biết, với cái The Unknown. Cảm thọ vô thường trên thân tâm hiện tiền như thế, Tổ Sư Thiền còn gọi là “không một pháp trao cho người.” Vì hễ nói có pháp nào để an tâm, đều là chữ nghĩa của quá khứ. Cũng gọi là Vô Tâm, vì hễ khởi tâm gì cũng là mất liền cái cảm thọ vô thường hiện tiền. Còn gọi là Vô Ngôn, vì hễ mở lời cũng là chuyện của quá khứ. Đức Phật nơi đây gọi cảm thọ dòng chảy vô thường là an trú vô ngã, là an trú Niết Bàn ở đây và bây giờ, tiếng Anh còn gọi là Nibbana here and now.
THAM KHẢO:
.